Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

sáng kiến kinh nghiệm áp dụng hệ thức vi ét trong việc giải toán đối với học sinh khiếm thính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.25 KB, 13 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TRUNG TÂM NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
Mã số: ……….

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ÁP DỤNG HỆ THỨC VI-ÉT TRONG VIỆC GIẢI
TOÁN ĐỐI VỚI HỌC SINH KHIẾM THÍNH

Người thực hiện: Nguyễn Bính Thìn
Lĩnh vực/Môn nghiên cứu:
GDKT bộ môn: Toán

Sản phẩm đính kèm:
 Mô hình
 Phần mềm

 Phim ảnh

Năm học: 2012 – 2013

 Hiện vật khác

BM02-LLKHSKKN

SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC

1


I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Nguyễn Bính Thìn


2. Ngày tháng năm sinh: 20 – 04- 1978
3. Nam, nữ: Nam
4. Địa chỉ: Tổ 98 – Khu phố 13 – Phường Hố Nai – Biên Hòa – Đồng Nai
5. Điện thoại: 0613880239
6. Fax:

(NR); ĐTDĐ: 0917158258

E-mail:

7. Chức vụ: Giáo viên
8. Đơn vị công tác: Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai
I. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Đại học sư phạm
- Năm nhận bằng: 2002
- Chuyên ngành đào tạo: Toán
II. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Toán
Số năm có kinh nghiệm: 7 năm
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:

2


ÁP DỤNG HỆ THỨC VI-ÉT TRONG VIỆC GIẢI TOÁN ĐỐI VỚI
HỌC SINH KHIẾM THÍNH
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Năm học 2004-2005, Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai mở thêm các
lớp bậc THCS để đáp ứng nhu cầu thực tế tại Trung tâm. Từ những nền tảng ban
đầu ở bậc Tiểu học, làm thế nào để tiếp tục hoàn thiện việc hình thành và phát triển

toàn diện nhân cách cho học sinh khiếm thính, làm thế nào để củng cố và mở rộng
vốn kiến thức, rèn luyện kỹ năng sống, định hướng nghề nghiệp, giúp các em hội
nhập xã hội là nhiệm vụ quan trọng của giáo dục bậc THCS nơi đây.
Nhưng thực tế lại không hề giản đơn, bởi lẽ muốn giảng dạy có kết quả tốt với
học sinh khiếm thính chỉ bằng trình độ chuyên môn sư phạm, lòng yêu nghề không
thôi thì vẫn chưa đủ, mà đến với các em học sinh khiếm thính người giáo viên cần
phải có kiến thức chuyên sâu về ngành tật học. Yêu cầu này thì đội ngũ giáo viên
bậc THCS chưa thể kịp thời đáp ứng được vì Ngành Giáo dục vẫn chưa có trường
đào tạo giáo viên chuyên ngành tật học giảng dạy ở bậc THCS. Chính vì thế mà
Ban Giám đốc Trung tâm luôn tạo điều kiện cho các giáo viên bậc THCS được
tham dự các chương trình, các lớp tập huấn Giáo dục trẻ khuyết tật cũng như các
hoạt động chuyên môn khác tại Trung tâm nhằm hỗ trợ cho giáo viên thực hiện tốt
nhiệm vụ giảng dạy của mình. Bên cạnh đó, cùng với sự nhiệt tình giúp đỡ của các
đồng nghiệp chuyên ngành tật học Tiểu học trong Trung tâm, đội ngũ giáo viên ở
bậc THCS đã luôn không ngừng nỗ lực học hỏi, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.
Từ học kỳ hai năm học 2008 – 2009, tôi và các giáo viên trong tổ THCS đã cố
gắng hết khả năng của bản thân và đưa ra các biện pháp thử nghiệm để các em học
sinh khiếm thính từ trung bình, yếu có hứng thú trong việc học môn Toán, sao cho
các em tự vươn lên trong học tập. Qua đó, chúng tôi đã rút ra được một số kinh
nghiệm trong việc giảng dạy môn Toán lớp 9 cho HS khiếm thính.
Từ bài toán đơn giản không giải phương trình,tính tổng và tích hai nghiệm của
phương trinh bậc 2, học sinh có phương tiện là hệ thức Vi-ét để tính toán. Hệ thức
còn giúp học sinh xét dấu 2 nghiệm của phương trình mà không biết cụ thể mỗi
nghiệm là bao nhiêu.
Là một giáo viên giảng dạy môn Toán ở trường phổ thông bình thường, bản
thân chưa qua lớp đào tạo chuyên ngành tật học, tôi chưa thể đi sâu vào việc thể
hiện những biện pháp chung trong công tác giáo dục HS khiếm thính. Trong bài
viết này là sự trải nghiệm những gì tôi đã làm được cùng với những kết quả của nó,
tôi xin được trình bày vài suy nghĩ và những biện pháp về “Áp dụng hệ thức Vi-ét

trong việc giải toán đối với học sinh khiếm thính” nhằm góp phần nâng cao chất
lượng dạy-học môn Toán cho học sinh khiếm thính tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ
khuyết tật Đồng Nai.
I.

TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI.

1/ Cơ sở lý luận:
Đặc điểm của học sinh khiếm thính:
3


- Trẻ khiếm thính: Là những trẻ em bị suy giảm sức nghe ở các mức độ khác
nhau, dẫn đến khó khăn trong giao tiếp và ảnh hưởng đến quá trình nhận thức của
trẻ, đặc biệt là trong quá trình lĩnh hội kiến thức nhất là bộ môn toán.
- Một số đặc điểm cơ bản của học sinh khiếm thính: Hầu hết trẻ khiếm thính, đặc
biệt là những trẻ điếc nặng, điếc sâu là những người học bằng mắt. Trẻ hiểu biết và
nhận thức tư duy cũng như giao tiếp với mọi người bằng đôi mắt, cử chỉ, điệu bộ,
nét mặt của mình.
Trẻ gặp nhiều khó khăn trong học Toán vì không thể tiếp thu kiến thức qua
đường thính giác, mà phải dựa vào năng lực nhìn của mình. Cho nên khi học toán,
trẻ không thể tư duy, suy luận lôgic chính xác, dẫn đến việc trẻ học toán bằng cách
thực hiện kỹ năng bắt chước theo giáo viên làm mẫu.
Nhìn chung, trẻ khiếm thính có chỉ số thông minh không thua kém trẻ nghe.
Tuy nhiên, do hạn chế khả năng nghe, không thể dùng nó để nhận thức thế giới
xung quanh. Cho nên, trẻ khiếm thính phải sử dụng phương tiện chính là nhìn và
ngôn ngữ ký hiệu – nghĩa là trẻ khiếm thính có cách học, cách hiểu khác với trẻ
bình thường.
2/ Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
2.1 Kiến thức cơ bản:

2.1.1.Nếu phương trình bậc hai ax2+bx+c = 0 ( a # 0) có hai nghiệm phân
biệt x1, x2 thì tổng và tích hai nghiệm đó là:
S = x 1 + x2 = -

b
c
và P = x1.x2 =
a
a

Đối với học sinh bình thường thì việc giải một phương trình đã khó, còn với
các em hs khiếm thính lại càng khó hơn rất nhiều.Vì vậy trong phần kiến thức cơ
bản chỉ hướng dẫn các em biết tính tổng và tích hai nghiệm của phương trình,
thông qua tổng và tích hai nghiệm của phương trình các em dễ dàng xác định được
dấu hai nghiệm của phương trình, đồng thời hướng dẫn các em biết tính nghiệm
của phương trình mà không cần giải nhưng vẫn cho ra nghiệm đúng.Thông qua
phép tính đơn giản từ các hệ số đã biết của phương trình, các em chỉ cần làm phép
tính cộng hệ số của phương trình là cho ra được nghiệm mà không cần phải
giải.Phương pháp này giúp các em học sinh khiếm thính thật sự giải bài toán đơn
giản và thuận tiện hơn rất nhiều. Việc giúp học sinh cách làm như trên gọi là dùng
phương pháp nhẩm nghiệm.
2.1.2. Tính nhẩm nghiệm:
a) Nếu a +b + c = 0 thì phương trình ax2+bx+c = 0 ( a  0) có các nghiệm số là
x1 = 1, x2 =

c
a

b) Nếu a - b + c = 0 thì phương trình ax2+bx+c = 0 ( a  0) có các nghiệm số là
x1 = -1, x2 =-


c
a

4


2.2 Bài tập áp dụng:
2.2.1 Loại toán xét dấu nghiệmcủa phương trình mà không giải phương trình:
Bài tập 1: Không giải phương trình cho biết dấu của các nghiệm.
a) x2 – 13x + 40 = 0
b) 5x2 + 7x + 1 = 0
c) 3x2 + 5x – 1 = 0
giải:
a) Theo hệ thức Vi-ét có

S = x 1 + x2 =
P = x1.x2 =

b
=13
a

c
= 40
a

Vì P > 0 nên 2 nghiệm x1 và x2 cùng dấu
S > 0 nên 2 nghiệm cùng dương
b) Theo hệ thức vi-ét có P = x1.x2 =

S = x1 + x2 =
c) P = x1.x2 =

c 1
= >0 nên 2 nghiệm cung dấu.
a 5

b 7
= < 0 nên 2 nghiệm cùng âm.
a
5

c 1
=
nên hai nghiệm trái dấu.
a 3

S = x1 + x 2 =

b 5
=
3
a

Với học sinh bình thường việc học toán đã là khó, còn với học sinh khuyết tật
như các em ở Trung tâm lại càng khó hơn rất nhiều. Vì vậy trong quá trình giảng
dạy thầy giáo đóng vai trò rất quan trọng trong việc truyền thụ cho học sinh lĩnh
hội kiến thức. Các em học toán bằng cách làm theo chứ không có tư duy logic, cho
nên yêu cầu đưa ra với các em là làm được những bài đơn giản và chỉ áp dụng
công thức cơ bản một cách nhuần nhuyễn. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy một

thời gian, trải qua nhiều đối tượng thì bên cạnh cũng có một vài em có tư duy khá
tốt, (ví dụ em Long tốt nghiệp năm 2009, em Hòa tốt nghiệp 2010) nên mạnh dạn
đưa vào những bài toán nhằm phát triển thêm tư duy của các em, như bài tập sau:
Bài tập 2: Cho phương trình x2 – 10x – m2 = 0 (1)
Chứng minh rằng phương trình luôn có hai nghiệm trái dấu với mọi giá trị của
m 0

5


giải:
Ta có a = 1>0 , c = - m2 <0 với mọi m  0
Vì a, c trái dấu nên phương trình (1)luôn luôn có hai nghiệm phân biệt. Theo hệ
thức Vi –ét: P = x1.x2 = - m2 < 0. Do đó x1, x2 trái dấu.
Bài tập 3:
Cho phương trình x2 – (m -1) – m2 + m -2 = 0 (1) với m tham số
a) giải phương trình trên với m = 2.
b) Chứng minh rằng phương trình đã cho có hai nghiệm trái dấu với mọi m.
a) Thay m = 2 vào phương trình ta được: x2 – x – 4 = 0 ,   1  4.(4)  17  0

Phương trình có 2 nghiệm phân biệt. x1 =

1  17
,
2

x2 =

1  17
2



1
1
3
1
3
b) Xét ac = -m2 + m -2 =-(m2 –m +2) = - (m2 - 2 m   1 ) =-  m  2  1 
2

4

4



2

4

1
1
3
3
c) Có  m  2  0   m  2  1  1  P  0m


2




2

4

4

Vậy phương trình (1) có hai nghiệm trái dấu với mọi m.
2.2.2 Loại toán không cần giải, tính nhẩm nghiệm:
Trong quá trình dạy học toán tại Trung tâm, đặc biệt với các em học sinh
khiếm thính, tôi luôn trăn trở một điều là phải làm sao hướng dẫn các em học bộ
môn toán phù hợp với khả năng nhận thức và tư duy của các em, mà vẫn đảm bảo
được yêu cầu về kiến thức kỹ năng. Vì vậy trong quá trình học các em gặp những
bài toán với những số liệu rất lớn, hoặc là để tránh dùng công thức nghiệm một
cách máy móc tôi đã hướng dẫn các em giải phương trình bằng cách dựa vào các
hệ số đã biết và làm phép tính bình thường cũng đưa ra được nghiệm. Đó là các
dạng bài tập sau đây:
Bài tập 4: Không cần giải cho biết các nghiệm của phương trình.
a. x2 – 3x + 2 = 0
b. 5x2 + x – 6 = 0
c. 3x2 + 2x -5 = 0
d. – x2 + 3x – 2 = 0
e. 3x2 + 5x + 2 =0
f. 2012x2 + 2013x + 1=0
giải:
a ) Ta có a + b + c = 1 + (-3) + 2 = 0  x1 = 1 , x2 =

c
=2
a


6


b ) Ta có a + b + c = 5 + 1+ (-6) = 0  x1 = 1 , x2 =
c) Ta có a + b + c = 3 + 2 +( -5) = 0  x1 = 1 , x2 =

c
6
=
a
5

c
5
=
a
3

d) Ta có a + b + c = (-1) + 3 + (-2) = 0  x1 = 1 , x2 =
e ) Ta có a - b + c = 3 - 5 + 2 = 0  x1 =- 1 , x2 = -

c
=2
a

c
2
=
a

3

f) Ta có a - b + c = 2012 - 2013 + 1 = 0  x1 = -1 , x2 = -

c
1
=
a
2012

Khi giảng dạy với học sinh bình thường, tôi luôn ý thức là hạn chế các em sử
dụng máy tính, nhằm giúp các em rèn luyện kỹ năng tính toán. Tuy nhiên đối với
các em khiếm thính, tôi cho phép các em sử dụng máy tính casio để làm toán. Bên
cạnh việc hỗ trợ các em trong việc tính toán, tôi còn hướng dẫn các em biết giải
toán trên máy nhằm giúp các em kiểm tra lại kết quả sau khi làm. Ví dụ như bài f ),
nếu dùng công thức nghiệm thì không thể tính được vì hệ số vô cùng lớn, nên ta áp
dụng phương pháp nhẩm nghiệm rất đơn giản mà vẫn cho ra nghiệm đúng.
Vì các em lĩnh hội kiến thức bằng cách làm theo bắt chước, cho nên giáo viên
phải thật sự kiên trì khi giảng dạy bộ môn toán cho các em, phải làm rất nhiều lần
và lặp đi lặp lại một dạng toán để hình thành được kỹ năng cho các em. Khi các em
đã quen dần những dạng bài tập áp dụng kiến thức cơ bản, ta sẽ nâng dần độ khó
của bài tập. Chính vì vậy mà ta cần đưa thêm những dạng toán nâng cao nhằm phát
triển tối đa được tư duy của các đối tượng học sinh khá giỏi trong những năm vừa
qua. (Ví dụ như em Diệu Anh, em Liễu My tốt nghiệp năm 2011 nay đang theo
học tiếp bậc THPT). Dạng toán như sau:
Bài tập 5: Tìm tham số m để phương trình x2 + 3x + 2m = 0
a.Có một nghiệm x1=1
b.Tìm nghiệm còn lại:
giải:
a.Vì phương trình có một nghiệm x1 = 1 nên ta có. 12 +3.1 +2m =0

4 +2m = 0
m = -2
2
b. Với m = -2 phương trình đã cho trở thành x + 3x - 4 = 0, Vì phương trình có
nghiệm x1 = 1 nên x2 =

c
= -4.
a

Bài tập 6: Tìm m để phương trình 2010x2 + 2011x + m = 0
a.Có một nghiệm x1 = -1
b.Tìm nghiệm còn lại
7


giải:
a.Vì phương trình có một nghiệm x1= -1 nên ta có. 2010.(-1)2 + 2011.(-1) + m =0
2010 – 2011 + m = 0
-1 + m = 0
m=1
b. Với m = 1 phương trình đã cho trở thành 2010x2 + 2011x + 1 = 0, vì phương
trình nghiệm x1=-1 nên x2=

c
1
=
a
2010


Với hai bài toán 5 và 6 trên đây, đối với học sinh bình thường thì đề bài cho
dưới dạng tổng quát là phương trình có một nghiệm bằng 1 hoặc -1. Riêng học sinh
khiếm thính khi cho bài tập cần nêu rõ là nghiệm x1=1, hoặc x1=-1 nhằm giúp các
em dễ nhận ra bài toán và áp dụng công thức Vi-ét một cách dễ dàng hơn.
2.2.3 Việc giảng dạy phần luyện tập:
Giáo viên cần nói rõ cho học sinh về những nhiệm vụ mà học sinh cần làm.
+ Cần giảm bớt lượng bài tập, chỉ để lại một số bài tập dạng cơ bản, chủ yếu là các
bài tập củng cố kiến thức, các bài tập vừa sức học sinh, từ dễ - trung bình - khó;
chú ý tăng các bài tập với những con số đơn giản dễ tính và áp dụng công thức một
cách nhuần nhuyễn.
+ Nếu các em vẫn chưa thể hoàn thành bài tập, có thể cho thêm thời gian, sao cho
các em có cảm giác học tập thoải mái.
+ Cần kiên trì nhắc và ôn lại những kiến thức cũ mà học sinh đã quên. Tạo cho
học sinh tính chủ động trong giải bài tập, không can thiệp vào quá trình giải bài
của học sinh cho dù là học sinh làm sai. Sau khi kết thúc bài giải nên hướng dẫn
học sinh tìm thấy được chỗ sai của mình để tự sửa chữa. Việc này sẽ giúp học sinh
nhớ lâu và dần hình thành nơi học sinh kỹ năng giải bài tập.
+ Trong giờ luyện tập, giáo viên tổ chức thi đua có thưởng giữa các nhóm sẽ gây
được không khí sôi nổi, hào hứng và hiệu quả đạt được sẽ cao.
+ Giáo viên luôn nhận xét mang tính tích cực về một câu trả lời của học sinh dù là
sai; động viên, khích lệ sự cố gắng học tập của học sinh bằng việc khen thưởng cho
học sinh có điểm kiểm tra từ 7 điểm trở lên trước tập thể lớp.
+ Giáo viên theo dõi các học sinh yếu, ghi nhận một cách tổng quát về các kiến
thức còn thiếu sót của học sinh, nắm bắt nguyên nhân về thái độ không hứng thú
trong việc học môn Toán. Dựa vào đó vạch ra những kế hoạch và phương pháp
giảng dạy, trao đổi với tổ chuyên môn.
Tóm lại quá trình lựa chọn, điều chỉnh, thiết kế và tiến hành cung cấp kiến thức
cho học sinh khiếm thính đều dựa trên cơ sở sự tiến bộ của học sinh. Để thực hành
tốt công việc tổ chức lớp học, giáo viên cần cân nhắc để có thể soạn bài giảng dựa
vào mục tiêu của bài học, dựa vào các hoạt động, dựa vào khả năng của học sinh,

dựa vào đặc điểm tư duy của các em, làm cho các em được lôi cuốn và tham gia
một cách tích cực vào hoạt động học tập, tự khám phá và bổ sung kiến thức cho
mình.
8


II. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI.
1/ Hiệu quả:
 Tự nhận xét kết quả:
Sau một thời gian kiên trì thực hiện các biện pháp nêu trên, hoạt động giảng dạy
và học tập môn Toán đã đi vào nề nếp và tạo được kết quả:
- 79,5 % học sinh có kỹ năng tính toán và áp dụng những công thức để làm bài
tập: kỹ năng tiếp nhận thông tin bài toán mà giáo viên đưa ra.
- 91,6 % học sinh không cảm thấy môn Toán là quá khó, dần có được sự hứng
thú trong giờ học môn Toán.
- Các học sinh yếu môn Toán ở các lớp 7,8 trước đây, giờ đã thật sự có được
những nền móng cơ bản để theo được chương trình Toán lớp 9.
2/ Đánh giá:
a) Ưu điểm:
Học sinh hứng thú, chủ động hơn trong giờ học, hiểu đầy đủ nội dung kiến thức
bài học được giáo viên cung cấp, hiểu và có kỹ năng ghi nhớ các công thức được
lĩnh hội, tích cực tham gia hoạt động xây dựng bài, tự tin giải bài tập Toán cơ bản
cũng như có nhiều tiến bộ hơn trong các bài toán nâng cao. Các em dần dần yêu
thích và hứng thú với giờ toán, ý thức được tầm quan trọng của môn Toán.
b) Khuyết điểm:
Với các biện pháp trên, giáo viên vẫn chưa thể khắc phục triệt để tình trạng diễn
đạt ngôn ngữ ký hiệu toán một cách nhuần nhuyễn trong quá trình giảng dạy cho
các em. Điều này đòi hỏi rất nhiều thời gian cho quá trình rèn luyện lâu dài mà cả
thầy và trò cần phải hết sức nỗ lực, kiên trì cùng thực hiện.
3/ Bài học kinh nghiệm:


-

-

-

a) Đối với giáo viên:
 Cần đầu tư giáo án, phương pháp, phương tiện dạy học:
Điều chỉnh chương trình dạy học, mục tiêu bài học, phương pháp giảng dạy phù
hợp với khả năng và nhu cầu của học sinh khiếm thính.
Giáo án của giáo viên dạy học sinh khiếm thính là giáo án mở, khi gặp những
bài toán có thông số không phù hợp với các em, người GV có thể lập tức thay
đổi thông số cho phù hợp.
Thiết bị, đồ dùng dạy học cho HS khiếm thính rất cần thiết để minh họa cho HS
hiểu đầy đủ nội dung kiến thức của bài mới; có vật sẵn có ở nhà trường, có vật
GV phải tự sưu tầm cho phù hợp với nội dung và phương pháp dạy học (Điều
này tùy thuộc vào điều kiện của trường và khả năng của giáo viên).
Giáo viên cần phải biết sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, ngôn ngữ cử chỉ điệu bộ,
chữ cái ngón tay phối hợp với ngôn ngữ nói một cách đồng bộ, nhuần nhuyễn.
Biết lúc nào sử dụng cách nào, lúc nào cần phối hợp nhiều cách để học sinh có
thể tiếp thu được tốt nhất. Điều quan trọng nhất là GV là người hiểu được mức
độ nhận thức và quá trình lĩnh hội kiến thức của các em nên phải điều chỉnh
chương trình cho phù hợp. Tuyệt đối không tham kiến thức cũng như nhồi nhét
9


kiến thức, tuy nhiên phải luôn đảm bảo được yêu cầu cơ bản về chuẩn kiến thức
và kỹ năng.
-


-

 Khi lên lớp:
Bố trí chỗ ngồi phù hợp cho học sinh sao cho khoảng cách giữa học sinh và
giáo viên không quá 2m.
Khi giao tiếp với học sinh khiếm thính, giáo viên và học sinh ở vị trí đối diện.
Chú ý rèn luyện phong cách giảng dạy để nâng cao khả năng thích ứng giữa
cách học của học sinh khiếm thính với cách giảng dạy của giáo viên (Phong
cách giảng dạy của giáo viên như: lời nói, cử chỉ điệu bộ, gợi mở, kiểm tra sự
hiểu của học sinh, cách đặt câu hỏi, chỉ bảo, cách đi lại của giáo viên…có ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả giảng dạy).
Ngoài việc nắm vững kiến thức chuyên môn, biết vận dụng sáng tạo các
phương pháp giảng dạy, giáo viên cần lưu ý kết hợp khéo léo phương pháp đặc
thù như: Căn cứ vào khả năng, nhu cầu khác nhau của học sinh khiếm thính để
có sự điều chỉnh kịp thời và phù hợp, cụ thể:
+ Điều chỉnh về tốc độ: Sử dụng điệu bộ, cử chỉ một cách tự nhiên, giọng nói to,

rõ ràng để học sinh có thể đọc hình miệng (Tuy nhiên không cường điệu hóa);
lời nói nên ngắn gọn thường xuyên kiểm tra làm mẫu xem học sinh khiếm thính
có hiểu hay không, kiên trì lặp lại khi cần thiết.
+ Điều chỉnh về mức độ yêu cầu của kiến thức: Giáo viên có thể cụ thể hóa, đơn
giản hóa kiến thức bài học, đưa ra nhiều ví dụ đơn giản cho các em dễ hiểu.
Lưu ý: Giới thiệu các khái niệm chính, bước củng cố bài và làm rõ các điểm
còn chưa rõ.
+ Điều chỉnh về mức độ vận dụng kiến thức: hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước
bài ở nhà như: Đọc và tìm hiểu trước các kiến thức liên quan đến bài học mới
trong sách giáo khoa, tìm hiểu nghĩa từ mới, khái niệm mới.
Ngoài ra, giáo viên nên gần gũi thân ái với các em để tạo không khí học tập
nghiêm túc mà nhẹ nhàng, thoải mái. Hơn nữa, trong việc giáo dục học sinh khuyết

tật, người thầy phải tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của mình. Vì ở độ tuổi học
sinh THCS, tuy bản thân bị khiếm khuyết nhưng các em đã có những suy nghĩ độc
lập, biết phán xét những hiện tượng tư cách, phẩm giá của những người xung
quanh (Tuy nhiên, cái nhìn của các em chỉ là phiến diện và chủ quan). Học sinh
khiếm thính ở độ tuổi này rất nhạy cảm và dễ dàng hấp thu cái mới lạ - kể cả cái
tích cực lẫn tiêu cực. Cho nên người thầy chỉ có thể phát huy ảnh hưởng tốt đến
với học sinh khi chính bản thân mình là một nhân cách tốt. Đây là điều đặc biệt
quan trọng. Bởi học sinh khiếm thính chỉ thực sự nể phục, vâng lời giáo viên khi
thầy thực sự là thầy.
 Nâng cao kiến thức:
- Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp về những vấn đề còn vướng mắc để tìm
cách tháo gỡ, rút kinh nghiệm.
- Dự giờ, sinh hoạt tổ chuyên môn, mở các chuyên đề để nâng cao nghiệp vụ.
- Thường xuyên đọc báo, xem đài, truy cập mạng Internet, nghiên cứu tài liệu
dạy học chuyên ngành để bổ sung và kịp thời cập nhật kiến thức.
10


- Tìm cơ hội để được tham quan, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy học sinh khuyết
tật ở các đơn vị bạn.
b) Đối với học sinh:
 Ở nhà:
- Đọc bài, tìm hiểu bài và làm bài đầy đủ.
- Sưu tầm tài liệu cho bài học theo yêu cầu của giáo viên.
- Có sổ tay ghi chép công thức cơ bản để làm phong phú thêm vốn kiến thức cho
mình.
 Ở lớp:
- Chăm chú theo dõi bài giảng, ghi chép bài đầy đủ, kịp thời, chính xác.
- Tích cực tham gia xây dựng bài, tích cực phát biểu, chủ động hỏi lại giáo viên
những phần bài chưa hiểu.

- Có ý thức tự giác, chủ động trong việc học nhóm, thảo luận.
- Thuộc và sử dụng tốt ngôn ngữ ký hiệu, công thức, định lý cơ bản.
III. ĐỀ XUẤT, KHUYÊN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.
 Với gia đình và cộng đồng:
- Phát hiện tật điếc kịp thời ở con em mình và cho tham gia chương trình Can
thiệp sớm đúng độ tuổi.
- Quan tâm, chăm sóc và hỗ trợ đúng mức về mọi mặt cho sự tiến bộ của học
sinh khiếm thính.
 Với các cấp quản lí:
- Đầu tư thêm về cơ sở vật chất, trang bị các phòng hỗ trợ phục hồi chức năng,
tăng cường phương tiện dạy học cho học sinh khiếm thính.
- Trang bị tủ tài liệu về lý luận giáo dục và dạy học chuyên ngành.
- Tiếp tục tạo điều kiện cho giáo viên được dự những lớp tập huấn, chương trình
hội thảo về Giáo dục trẻ khuyết tật.
- Tăng cường tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh được đi tham quan thực tế,
học tập kinh nghiệm, giao lưu ở các đơn vị bạn.
Thực hiện giáo dục trẻ khiếm thính trước hết là tạo cơ hội và môi trường thuận
lợi cho sự phát triển của các em nhằm đạt được mục tiêu sau cùng đó là sự hội
nhập xã hội. Để đạt đến mục tiêu này phải cần rất nhiều sự nỗ lực của cả nhà
trường, gia đình và cộng đồng, trong đó vai trò người thầy là hết sức quan trọng.
Quá trình thực hiện đề tài, tuy chiếm rất nhiều thời gian, công sức, đòi hỏi
nhiều sự kiên trì của giáo viên, nhưng rất dễ thực hiện và có thể áp dụng giảng dạy
không chỉ với đối tượng HS khiếm thính bậc THCS ở phạm vi trường chuyên biệt
mà còn áp dụng được ở các lớp hòa nhập. Với lòng yêu nghề và một chữ “Tâm”,
tôi tin rằng tất cả chúng ta - những GV dạy trẻ khiếm thính - sẽ làm được và làm
tốt. Có như vậy, những em học sinh khiếm thính của chúng ta sẽ càng gắn bó và có
11


niềm yêu thích, sự đam mê học tập hơn. Để từ nhà trường, các em tự tin, bước vào

xã hội thành một công dân hữu ích cho đất nước.
Trên đây là một số kinh nghiệm, biện pháp mà tôi và các đồng nghiệp trong
Trung tâm đã áp dụng hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn
Toán cho học sinh khiếm thính tại Trung tâm Nuôi dạy trẻ khuyết tật Đồng Nai.
Do bản thân còn hạn chế về kiến thức chuyên môn dạy trẻ khuyết tật, nên đề tài
“Áp dụng hệ thức Vi-ét để giải toán đối với học sinh khiếm thính” chắc chắn còn
nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của Hội đồng khoa học các cấp cùng
quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp để hoạt động dạy học cho trẻ khiếm thính ngày
càng hiệu quả.
Xin chân thành cảm ơn!
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Tài liệu tập huấn Giáo dục hòa nhập học sinh khuyết tật 2005 - Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
2. Bài giảng Giáo dục trẻ khuyết tật – Lớp Bồi Dưỡng Chuyên Môn Giáo Viên
Dạy Hòa Nhập Tỉnh Đồng Nai 14/7 - 1/8/2008 – Trung tâm Hỗ Trợ Phát Triển
Giáo Dục Hòa Nhập Cho Người Khuyết Tật TP. Hồ Chí Minh.
3. Sách giáo khoa môn toán lớp 9 tập 2 hiện hành – Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Các bài toán áp dụng hệ thức vi–ét cơ bản và nâng cao – tác giả Võ Đại Mau.
Biên Hòa, ngày 06 tháng 3 năm 2013
Người thực hiện
Nguyễn Bính Thìn

12


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI
TT NUÔI DẠY TRẺ KHUYẾT TẬT
––––––––––––

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––
Biên Hoà, ngày 06 tháng 05 năm 2013

PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2012– 2013
Tên sáng kiến kinh nghiệm:

ÁP DỤNG HỆ THỨC VI-ÉT TRONG VIỆC GIẢI TOÁN ĐỐI

VỚI HỌC SINH KHIẾM THÍNH.

Họ và tên tác giả: Nguyễn Bính Thìn Tổ: THCS
Lĩnh vực:
GDKT Bộ môn Toán
1. Tính mới
- Có giải pháp hoàn toàn mới 
- Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có 
2. Hiệu quả
- Hoàn toàn mới và triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và triển khai áp dụng
trong toàn ngành có hiệu quả cao 
- Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao 
- Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng
tại đơn vị có hiệu quả 
3. Khả năng áp dụng
- Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc vạch định đường lối, chính sách:
Tốt 
Khá  Đạt 
- Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện

và dễ đi vào cuộc sống:
Tốt 
Khá  Đạt 
- Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu
quả trong phạm vi rộng:
Tốt 
Khá  Đạt 
XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN

THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

13



×