Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận Vấn đề giới trong lĩnh vực lao động, việc làm ở vùng nông nghiệp huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.64 KB, 28 trang )

đặt vấn đề
Trải qua hàng ngàn năm dựng nớc và giữ nớc, phụ nữ Việt Nam có vai trò
to lớn trong lịch sử dân tộc. Họ đã đóng góp sức mình trong mọi lĩnh vực :
chiến đấu, lao động sản xuất, sáng tạo và phát triển văn hoá. Đặc biệt trong
lĩnh vực lao động sản xuất, lịch sử đã chứng minh phụ nữ Việt Nam không
những chiến đấu tài giỏi mà còn là lực lợng lao động to lớn của xã hội. Trong
điều kiện luôn có giặc ngoại xâm đe doạ và thiên tai khắc nghiệt đã hình
thành đức tính cần cù, chịu khó trong lao động, sản xuất của phụ nữ Việt
Nam. Khi đất nớc có chiến tranh, phụ nữ Việt Nam phải lao động để đảm bảo
cuộc sống cho toàn gia đình và đóng góp cho xã hội, phụ nữ giữ vai trò trụ cột
trong lao động một nắng hai sơng, trở thành ngời lao động chủ yếu trong gia
đình, đảm đang, tần tảo, chung thuỷ trong cuộc sống gia đình.
Phụ nữ Việt Nam còn tham gia công việc xã hội : tổ chức lao động các
ngành nghề thủ công, lo việc tiếp tế lơng thực, thực phẩm ra mặt trận. Lịch sử
thời kỳ phong kiến đã ghi nhận những tài năng tham gia quản lý xã hội tiêu
biểu nh Thái hậu Dơng Vân Nga (thời Đinh) ; Nhiếp chính ỷ Lan (thời Lý) ;
Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung (thời Trần)...
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ kéo dài
suốt 30 năm của dân tộc đã ghi công hàng nghìn, hàng triệu các bà, các mẹ,
các chị. Họ đã vững tay súng, chắc tay cày, trở thành những anh hùng lao
động, những phụ nữ tiêu biểu trong phong trào ba đảm đang. Luôn đảm bảo
thóc không thiếu một cân cùng quân dân cả nớc chiến thắng kẻ thù.
Hoà bình lập lại, phụ nữ Việt Nam sôi nổi trong phong trào Hai giỏi
cùng cả nớc hàn gắn vết thơng chiến tranh và xây dựng, phát triển đất nớc.
Trong hơn mời năm đổi mới vừa qua, vai trò và những đóng góp to lớn
của phụ nữ trong lao động, sản xuất, phát triển kinh tế đất nớc càng đợc khẳng
định. Chiếm 51% dân số cả nớc, 48% lực lợng lao động xã hội, phụ nữ Việt
Nam chính là lực lợng lao động hùng hậu, góp phần vào sự tăng trởng của đất
nớc. Ngày nay phụ nữ Việt Nam đang phấn đấu khẳng định vị trí của mình,
tham gia đóng góp ngày càng nhiều trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy nhiên trong khu vực nông nghiệp, phụ nữ so với nam giới gặp rất


nhiều khó khăn nh thời gian lao động nhiều gấp đôi nhng lao động của phụ nữ
phần lớn là không đợc trả công ; phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp thờng là
lao động chính nhng lại ít đợc tiếp cận với đào tạo, tập huấn, chuyển giao

1


KHKT hay kiểm soát, tiếp cận nguồn lực chủ yếu. Điều đó đòi hỏi cần tiếp tục
cải tiến chính sách việc làm và các chính sách hỗ trợ cần thiết cho lao động nữ
nhằm đảm bảo cho lao động nữ có cơ hội có việc làm, tiến tới có việc làm đầy
đủ, việc làm có hiệu quả và tự do lựa chọn việc làm.
Thực tế lao động nữ vùng nông nghiệp của huyện Thái Thụy Tỉnh
Thái Bình càng chứng minh rõ còn khoảng cách giữa lao động nữ và lao động
nam. Thái Thụy là một huyện thuần nông, phụ nữ chiếm 52% dân số, 51% lực
lợng lao động nông nghiệp. Vấn đề bất bình đẳng giới trong lao động, việc
làm đang nổi lên là một vấn đề bức xúc. Với giới hạn kiến thức của bản thân,
trong bài tiểu luận này tôi chỉ đề cập đến một vài khía cạnh nhỏ về Vấn đề
giới trong lĩnh vực lao động, việc làm ở vùng nông nghiệp huyện Thái Thụy,
tỉnh Thái Bình.
Thông qua nhận thức lý luận vừa học ở nhà trờng kết hợp với thực tiễn
công tác địa phơng, đặc biệt với sự hớng dẫn trực tiếp của Thạc sĩ Đới Thị Minh
Tình tôi xin mạnh dạn đề cập đến lĩnh vực này. Với mong muốn góp một phần
nhỏ vào công tác đề xuất, kiến nghị một số giải pháp với Đảng bộ, chính quyền
địa phơng nhằm giải quyết những bất bình đẳng giới đang tồn tại trong lao
động, việc làm ; góp phần nâng cao địa vị, vai trò của ngời phụ nữ.
Với sự hiểu biết có hạn nên trong quá trình thực hiện chắc chắn còn có
nhiều hạn chế. Kính mong các thấy cô đóng góp ý kiến cho bài viết có chất lợng hơn.
Nội dung
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
1. Cơ sở lý luận :

Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con ngời, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lợng và
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nớc.
Trong lịch sử dựng nớc và giữ nớc, phụ nữ Việt Nam có vai trò quan
trọng và có những cống hiến to lớn tạo nên truyền thống vẻ vang của dân tộc
đồng thời tạo nên truyền thống tốt đẹp của mình : anh hùng bất khuất trong
chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cần cù chịu khó trong lao động, sản xuất.
Những truyền thống tốt đẹp đó luôn đợc hun đúc qua các thế hệ, trong nhiều
thế kỷ vẫn tiếp tục đợc kế thừa, phát huy và thể hiện mạnh mẽ từ khi Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời. Trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê nin và t

2


tởng Hồ Chí Minh, Đảng ta coi trọng vai trò và những đóng góp to lớn của
phụ nữ. Ngay từ Luận cơng chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định "nam
nữ bình quyền".
Trải qua những giai đoạn phát triển của đất nớc, Đảng và Nhà nớc ta vẫn
nhất quán quan điểm bình đẳng nam nữ, nhất là trong lĩnh vực lao động, việc
làm. Quan điểm này đã đợc khẳng định khi Việt Nam chính thức phê chuẩn
công ớc CEDAW của Liên Hiệp Quốc về "Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử đối với phụ nữ" vào ngày 27/11/1981. Công ớc gồm có 6 phần 30 điều
trong đó có những quy định cơ bản về chống phân biệt đối xử, chống mua bán
bóc lột phụ nữ, phụ nữ với vấn đề giáo dục, phúc lợi kinh tế, xã hội và văn hoá
. Đặc biệt trong phần III Công ớc có Điều 11 quy định về vấn đề việc làm.
Các nớc tham gia Công ớc phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp để xoá
bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong lĩnh vực việt làm nhằm đảm bảo
những quyền nh nhau trên cơ sở bình đẳng nam nữ, đặc biệt là :
Quyền đợc làm việc một quyền không thể chối bỏ của con ngời ;
Quyền hởng các cơ hội có việc làm nh nhau, kể cả việc áp dụng những

tiêu chuẩn nh nhau khi chọn ngời làm việc;
Quyền tự do lựa chọn ngành nghề và việc làm, quyền đợc thăng chức,
bảo đảm việc làm và mọi phúc lợi và điều kiện làm việc và quyền đợc theo
học những chơng trình đào tạo và bổ túc nghiệp vụ, kể cả các lớp dạy nghề,
các lớp nghiệp vụ cao cấp và lớp đào tạo định kỳ;
Quyền đợc thù lao nh nhau, kể cả hởng các phúc lợi, và đợc đối xử nh
nhau khi làm những việc có giá trị ngang nhau, cũng nh đợc đối xử nhau trong
trong việc đánh giá chất lợng công việc;
Quyền đợc hởng bảo hiểm xã hội, đặc biệt trong các trờng hợp về hu, thất
nghiệp, đau ốm, tàn tật, tuổi già và các tình trạng mất khả năng lao động khác,
cũng nh quyền đợc nghỉ phép có hởng lơng;
Quyền đợc bảo vệ sức khoẻ và bảo đảm an toàn lao động, kể cả bảo vệ
chức năng sinh đẻ. [10 ; tr 21]
Ngoài việc tham gia ký Công ớc CEDAW Đảng và Nhà nớc ta đã cụ thể
hoá quan điểm này trong hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam, từ đó
tạo cơ sở pháp lý để phụ nữ vơn lên tự khẳng định mình, đóng góp cho công
cuộc phát triển đất nớc.

3


Hiến pháp 1992 khẳng định lao động là quyền và nghĩa vụ của công
dân (Điều 55và Lao động nữ và nam việc làm nh nhau thì tiền lơng ngang
nhau ... (Điều 63).[11 ; tr 30, 32]
Năm 1994, Bộ luật lao động ra đời khẳng định trách nhiệm của các cơ
quan Nhà nớc trong việc mở rộng các loại hình đào tạo nghề, để việc sử dụng
lao động nữ đợc dễ dàng, phù hợp với đặc điểm về cơ thể sinh lý và chức năng
làm mẹ của phụ nữ. Điều 5 Bộ luật khẳng định "Mọi ngời đều có quyền làm
việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ
nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã

hội, tín ngỡng, tôn giáo". Đặc biệt Bộ luật lao động dành chơng X gồm 10
điều quy định riêng về lao động nữ. Nội dung chính : Nhà nớc đảm bảo quyền
làm việc cho phụ nữ bình đẳng về mọi mặt với nam giới, có chính sách và biện
pháp giúp lao động nữ phát huy năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà lao
động và cuộc sống gia đình.
Sau Bộ luật lao động đã có trên 10 văn bản hớng dẫn việc đảm bảo quyền
làm việc của phụ nữ :
Nghị định số 23/CP năm 1996 của Chính phủ quy định chi tiết và hớng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao động về những quy định riêng đối với
lao động nữ.
Nghị định 72/CP năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết và hớng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật lao động về việc làm của lao động nữ.
Nghị quyết 120/HĐBT ngày 1/4/1992 của Hội đồng Bộ trởng (nay là
Chính phủ về chủ trơng, phơng hớng và biện pháp giải quyết việc làm trong
những năm tới.
Nghị định 90/CP năm 1995 của Chính phủ quy định chi tiết về hớng dẫn
thi hành một số điều của Bộ luật lao động về học nghề.
Thông t 19/LĐTBXH/TT ngày 12/9/1996 của Bộ lao động - thơng binh
và xã hội hớng dẫn việc dạy nghề, đạo tạo nghề, bổ túc, bồi dỡng nghề và dạy
thêm nghề dự phòng cho lao động nữ làm việc trong doanh nghiệp.
Tất cả những điều đó nói lên quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nớc
về vấn đề đánh giá, nhận định, xem xét lực lợng lao động nữ ở Việt Nam có
nhiều tiến bộ.
2. Thực tiễn vấn đề giới trong lao động, việc làm ở Việt Nam.

4


2 .1 Khoảng cách giới còn tồn tại trong lao động, việc làm của lao
động nữ.

Có thể nói với hệ thống pháp luật tơng đối hoàn chỉnh và những quy định
xuất phát từ quan điểm bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực đã thực sự tạo
điều kiện cho phụ nữ vơn lên, tham gia ngày một đông đảo hơn vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và phát
triển đất nớc.
Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta thấy khoảng cách về giới trong lao động
và việc làm còn tồn tại rõ nét. Điều đó đang kéo lùi, kìm hãm sự phát triển của
phụ nữ và ảnh hởng không nhỏ đến sự phát triển đất nớc.
Mặc dù Hiến pháp 1992 tại Điều 63 đã có quy định "Lao động nữ và nam
việc làm nh nhau thì tiền lơng ngang nhau" nhng trên thực tế cùng một loại
công việc, lao động nữ luôn có thu nhập thấp hơn nam. Theo báo cáo thực
hiện Công ớc CEDAW lần thứ II, tỷ lệ lơng bình quân của lao động nữ trong
toàn quốc chỉ bằng 70% tiền lơng bình quân của lao động nam, bởi phụ nữ thờng chỉ đảm nhiệm các phần việc giản đơn với trình độ chuyên môn kỹ thuật
thấp hơn nam giới. Nhất là phụ nữ lao động trong khu vực phi chính quy và
sản xuất nông nghiệp thì thu nhập còn thấp và thiếu ổn định hơn.
Trong lĩnh vực đào tạo nghề, nâng cao trình độ và thăng tiến nghề nghiệp,
lao động nữ đã qua đào tạo nghề đạt 18% tổng số lao động (số liệu 1998). Khi
đất nớc bớc vào thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH, kinh tế thị trờng cạnh tranh
khốc liệt, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật thấp đang là vấn đề bức xúc
nhất đối với phụ nữ hiện nay, điều đó là cản trở cơ bản để phụ nữ tiếp cận với
việc làm và nâng cao thu nhập.
Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngời phụ nữ phải làm việc trong
điều kiện tiếp xúc với : sự thay đổi thất thờng của thời tiết, công cụ lao động
thủ công là chủ yếu, tiếp xúc với các loại hoá chất, thuốc trừ sâu gây ảnh hởng
lớn đến sức khoẻ và chức năng sinh sản, nuôi con của ngời phụ nữ.
2 .2 Yêu cầu của phong trào phụ nữ.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp phụ nữ với chức năng chính là" Đại diện quyền bình
đẳng, dân chủ, lợi ích chính đáng và hợp pháp của phụ nữ, tham gia quản lý
Nhà nớc, tham gia xây dựng Đảng. Hội đoàn kết vận động, tổ chức, hớng dẫn


5


phụ nữ thực hiện chủ trơng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nớc góp
phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa."
Thực hiện đờng lối đổi mới và chủ trơng giải quyết việc làm của Đảng và
Nhà nớc, trớc thực tế bức xúc về đời sống của phụ nữ, hội LHPN Việt Nam đã
phát huy vai trò của mình.Chủ động, sáng tạo trong việc đề ra các chơng trình
hành động thiết thực ; lãnh đạo, vận động phụ nữ cả nớc tham gia tích cực vào
các hoạt động sản xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ.
Xuất phát từ thực trạng đời sống việc làm liên quan đến phụ nữ : tỷ lệ đói
nghèo còn cao (17,2% năm 2002 tơng đơng 2,8 triệu hộ, tỷ lệ thuần nông còn
chiếm tới 62,22%, tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến ở khu vực nông
thôn, sử dụng thời gian lao động mới đạt 74%)[9 ; tr 57]... Vì vậy vấn đề đào
tạo nghề, giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho ngời lao động nói
chung, phụ nữ nói riêng là vấn đcần thiết. Trớc thực tế đó, Đại hội đại biểu
phụ nữ toàn quốc lần thứ IX đã nhất trí thông qua việc đề ra 6 chơng trình
trọng tâm, trong đó chơng trình "Hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế" trở thành
chơng trình mũi nhọn thúc đẩy việc thực hiện có kết quả chơng trình xoá đói
giảm nghèo, tạo việc làm tăng thu nhập cho phụ nữ.
Trong những năm qua, hội LHPN Việt Nam đã tác động, tạo điều kiện
cho phụ nữ phát huy tiềm năng, trí tuệ, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công
nghệ, lao động sáng tạo, tham gia bình đẳng vào các lĩnh vực phát triển kinh
tế. Các cấp Hội đã hỗ trợ nhiều hoạt động tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ
nữ đặc biệt là phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân, tàn tật, phụ nữ vùng cao, vùng
sâu có nhiều khó khăn nhằm xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho phụ
nữ. Đồng thời hội LHPN Việt Nam còn tạo nhiều cơ hội và điều kiện cho phụ
nữ lao động, nghiên cứu phát huy sáng kiến áp dụng khoa học công nghệ
trong sản xuất. Hớng dẫn các lớp dạy nghề, giới thiệu việc làm nhằm góp

phần giải quyết việc làm nh chủ trơng của Đảng và Nhà nớc. Tại hầu hết các
tỉnh thành Trung ơng Hội đều có kế hoạch giúp đỡ, tạo điều kiện để thành lập
các trung tâm dạy nghề, hỗ trợ khuyến khích phát triển các làng nghề, ngành
nghề truyền thống, vận động chị em phụ nữ địa phơng thành lập và phát triển
nhóm phụ nữ tín dụng tiết kiệm. Mặt khác Hội còn mở rộng khai thác các
nguồn vốn tín dụng cho phụ nữ từ nguồn vốn trong nớc và quốc tế. Hội đã kết
hợp chặt chẽ với Ngân hàng ngời nghèo, quỹ quốc gia về giải quyết việc làm

6


và hớng dẫn phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình dới mọi
hình thức.
Có thể nói trong những năm qua dới sự lãnh đạo của tổ chức Hội LHPN
Việt Nam, phong trào phụ nữ trong cả nớc đã lớn mạnh không ngừng, đặc biệt
là phong trào phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, đóng góp rất lớn vào công
cuộc xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế đất nớc. Trong nửa cuối nhiệm kỳ
này và những năm tiếp theo, Trung ơng Hội LHPN Việt Nam tiếp tục duy trì
và đẩy mạnh phong trào "Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình". Đồng
thời Hội phát động phong trào "Phụ nữ làm kinh tế giỏi", động viên phụ nữ
xoá đói giảm nghèo, vơn lên làm giàu chính đáng. Ngoài sự nỗ lực của bản
thân ngời phụ nữ, sự chỉ đạo sát sao của các cấp Hội thì sự bình đẳng thực sự
trong lao động và việc làm là nhân tố quyết định việc thực hiện thắng lợi các
mục tiêu mà Trung ơng Hội đã đề ra.
2 .3 Yêu cầu của bản thân ngời phụ nữ.
Đối với lao động nữ, việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng :
Việc làm đem lại nguồn thu nhập để nuôi sống cho bản thân ngời phụ nữ
và ngời thân trong gia đình, thoả mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của
họ trong cuộc sống. Việc làm là biểu hiện cụ thể về vị trí của ngời phụ nữ
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong một xã hội của

một thời kỳ nhất định.
Việc làm là cơ sở để ngời phụ nữ khẳng định vai trò và khả năng của
mình, giúp thúc đẩy nhanh sự nghiệp giải phóng phụ nữ, giảm định kiến giới,
khoảng cách giới và tiến tới bình đẳng giới ; giúp thúc đẩy nhanh quá trình
giảm nghèo của ngời phụ nữ ; giúp mỗi cá nhân ngời phụ nữ nâng cao vai trò,
vị trí của mình trong gia đình và ngoài xã hội, là điều kiện để mỗi cá nhân ngời phụ nữ phát triển một cách toàn diện nhất.
Việc làm của phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng trong tổng thu nhập của
gia đình, góp phần thực hiện tốt chủ trơng của Đảng, Nhà nớc với mục tiêu
"Dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
ý nghĩa của việc làm đối với phụ nữ đợc biểu hiện qua sơ đồ sau :

7


Phụ nữ có việc làm

Có thu nhập

Có điều kiện phát triển cá nhân

Trí tuệ

Thể chất

Phát triển phụ nữ

Phát triển kinh tế

Phát triển con ngời


Hơn 10 năm trở lại đây, khi nền kinh tế đất nớc chuyển sang cơ chế thị trTăng trởng kinh tế quốc gia
ờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng Xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ hoàn
toàn chế độ hạch toán tập trung quan liêu bao cấp thì các giai cấp, thành phần
kinh tế trong xã hội đều chịu tác động không nhỏ. Phụ nữ là ngời chịu ảnh hởng lớn nhất từ sự chuyển đổi này. Sau những năm khủng hoảng, đợc sự quan
tâm của Đảng, Nhà nớc, các ban ngành đoàn thể, của các cấp Hội Phụ nữ, với
bản tính cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, dễ thích nghi với cái mới, phụ
nữ cả nớc đã từng bớc vợt qua khó khăn, vơn lên hoà mình vào công cuộc xây
dựng và phát triển đất nớc. Họ đã thực sự nỗ lực và gặt hái thành công trong
lĩnh vực tạo ra nhiều việc làm mới từ việc khôi phục, củng cố làng nghề truyền
thống ; phát triển trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ ; hỗ trợ lẫn nhau xoá đói
giảm nghèo ; phát triển kinh tế địa phơng. Phụ nữ từng bớc tham gia vào mọi

8


lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù có những đóng góp to lớn trong xã hội,
song vai trò và vị trí của ngời phụ nữ Việt Nam dờng nh cha đợc đánh giá
đúng mức. Thách thức đầu tiên phải kể đến là t tởng "trọng nam khinh nữ" vốn
đã tồn tại lâu đời trong xã hội Việt Nam. Đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
hàng loạt những định kiến khắt khe về việc làm của ngời phụ nữ, đang cản trở
khiến họ ít có cơ hội khi tìm việc làm và hởng lợi bình đẳng từ việc làm. Thực
tế đó đòi hỏi cần phải xoá bỏ khoảng cách về giới trong tất cả các lĩnh vực
nhất là trong việc làm để phụ nữ thực sự đợc tạo điều kiện để vơn lên, khẳng
định vị trí của mình trong gia đình, xã hội, đóng góp vào sự nghiệp phát triển
đất nớc.
II. thực trạng vấn đề giới trong lao động, việc
làm ở vùng nông nghiệp của huyện Thái Thụy :
1. Tình hình lao động, việc làm của lao động nữ ở khu vực nông
nghiệp Việt Nam :
ở nông thôn Việt Nam, tỷ lệ lao động tham gia hoạt động kinh tế đạt

93%, riêng nữ chỉ đạt 92%. Tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế ở nông thôn
cũng có sự khác nhau giữa các vùng. Vùng có tỷ lệ nữ tham gia hoạt động
kinh tế cao là Trung du miền núi phía Bắc đạt 95,87% ; đồng bằng sông Hồng
94,2%, thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ đạt 84,91%. Điều đó cho thấy phụ nữ
đã chủ động tham gia lao động tích cực không kém gì nam giới. Về mặt định
lợng, số liệu này thể hiện sự tơng đối bình đẳng về quyền lao động theo giới
tính.
Về mặt cơ cấu có 81,98% lao động động nữ ở nông thôn làm việc trong
ngành sản xuất nông - lâm - ng nghiệp, 30,67% lao động nữ tham gia làm
nghề phụ (tỷ lệ chung là 37%), 75% công việc nhà nông do phụ nữ đảm nhận.
Cùng với sự phát triển của KHKT, hoạt động sản xuất nông nghiệp dần đợc cơ khí hoá giảm bớt thời gian lao động cho ngời phụ nữ nông thôn. Tuy
nhiên do sự phát triển của các khu công nghiệp, khu dân c đất canh tác dần bị
thu hẹp nên thời gian nông nhàn còn nhiều. Thực tế 1/3 thời gian lao động cha
đợc sử dụng. Nạn thiếu việc làm của lao động nói chung và lao động nữ nói
riêng hiện nay đang là vấn đề bức xúc. Bên cạnh các khu công nghiệp, khu
khai thác nguyên liệu và các thành phố mới ra đời là làn sóng lao động nữ
nông thôn tràn ra các thành phố ồ ạt để kiếm sống. Họ làm đủ mọi nghề từ
giúp việc gia đình, chăm sóc trẻ nhỏ, phục vụ tại các hàng ăn, bán báo, mua ve

9


chai, bán hàng rong thậm chí cả các nghề mà pháp luật nghiêm cấm nh mại
dâm, buôn lậu Số lao động nữ còn lại ở nông thôn có việc làm thì năng suất
và hiệu quả thấp, thu nhập kém. Một bộ phận không nhỏ rơi vào tình trạng đói
nghèo mà trong đó 29% chủ hộ đói nghèo là nữ. Theo số liệu điều tra kinh tế xã hội của Viện kinh tế học năm 1996 trên 4.000 hộ của 25 xã của các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ thì mỗi xã trung bình có từ 170 - 200 lao động cha có việc
làm và khoảng 650 - 700 lao động cha có việc làm thờng xuyên.
Yêu cầu đặt ra, để có việc làm ổn định, có thu nhập để đảm bảo cuộc
sống, số đông phụ nữ nông thôn có nguyện vọng đợc đào tạo nghề, tạo thêm

nghề mới, vay vốn để sản xuất kinh doanh, xoá đói giảm nghèo và vơn lên làm
giàu.
2 .Tình hình lao động việc làm của lao động nữ ở vùng nông nghiệp
huyện Thái Thụy
2 .1 Khái quát chung về tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của
huyện Thái Thụy, Thái Bình.
. Điều kiện tự nhiên :
Thái Thụy là một huyện ven biển của tỉnh Thái Bình với 29 km bờ biển,
nằm ở phía Đông, cách thành phố Thái Bình 32 km. Huyện có điều kiện tự
nhiên thuận lợi để phát triển nhiều ngành nghề, đặc biệt có cảng thơng mại
Diêm Điền giao lu buôn bán với các nớc Đông Nam á.
Thái Thụy có diện tích tự nhiên là 240 km 2 với tổng dân số hơn 28 vạn
ngời phân bổ ở 47 xã và 1 thị trấn, có 6 xã ven biển. Toàn huyện có hơn
120.000 lao động với tiềm năng đất đai, bãi biển, vùng biển thuận lợi cho việc
sản xuất nông nghiệp, ng nghiệp, vận tải biển. Huyện có nhà máy chế biến hải
sản đông lạnh xuất khẩu, xí nghiệp cơ khí đóng tàu, cơ khí nông nghiệp, 3
Hợp tác xã và 28 công ty vận tải biển với hàng trăm tàu biển.
. Tình hình phát triển kinh tế :
Sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển theo hớng toàn diện, có
chuyển biến rõ nét về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Đang dần hình
thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung và cánh đồng đạt giá trị kinh tế
trên 50 triệu/ha/năm. Tốc độ tăng trởng bình quân hàng năm 8,46%, giá trị thu
trên 1 ha canh tác năm 2002 đạt 34 triệu đồng. Năng suất lúa bình quân trên
11 tấn/ha/năm, năm 2002 đạt 11,9 tấn/ha. Bình quân lơng thực đầu ngời đạt
630kg/ngời.

10


Kinh tế biển phát triển nhanh và khá toàn diện, nhất là vùng nuôi trồng

thuỷ sản. Năm 2002 giá trị kinh tế biển đạt 203,3 tỷ đồng chiếm tỷ trọng
19,18% giá trị sản xuất toàn huyện. Nhịp độ tăng trởng hàng năm là 16%.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản đạt tốc
độ tăng trởng cao, bình quân hàng năm 15 - 16% góp phần thúc đẩy mạnh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của huyện. Năm 2002 giá
trị công nghiệp - TTCN và xây dựng cơ bản đạt 255,4 tỷ đồng.
Thơng mại và dịch vụ phát triển với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Tốc độ tăng trởng bình quân 15,4% năm.
Về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn có tiến bộ
nhanh về nhiều mặt. Các công trình điện, đờng, trờng, trạm, thông tin, nớc
sạch đợc triển khai đồng bộ. 100% số xã, 98% số hộ dân đều có điện sinh
hoạt. Toàn huyện đã có 300 km đờng đá láng nhựa, các tuyến đờng liên xã,
liên xóm đều đợc nhựa hoá, bê tông hoá.
. Tình hình văn hoá - xã hội :
100% xã có hệ thống truyền thanh, điện thoại về các thôn xóm. Toàn
huyện có 4 trờng PTTH, 2 Trung tâm giáo dục thờng xuyên, 1 Trung tâm hớng
nghiệp dạy nghề, 48 trờng THCS, 48 trờng tiểu học và hệ thống giáo dục mầm
non hoàn chỉnh. Công tác dân số, gia đình, trẻ em thờng xuyên đợc chăm lo.
Tỷ lệ sinh 2002 1,2%, tỷ lệ trẻ suy dinh dỡng 28,2%. Phong trào xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở phát triển mạnh. Đến nay có 90 làng đăng ký xây dựng
làng văn hóa, 37 làng khai trơng, 24 làng đợc công nhận làng văn hoá, 73,3%
số hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, có 73,3% số gia đình đăng ký đạt
tiêu chuẩn gia đình văn hoá.
Việc thực hiện chính sách xã hội đợc giải quyết kịp thời. Các đối tợng
chính sách đợc quan tâm, chăm sóc. Hoạt động nhân đạo, từ thiện, đền ơn đáp
nghĩa đợc các cấp, các ngành và nhân dân hởng ứng. Trong 3 năm qua đã xây
dựng đợc trên 100 nhà tình thơng cho hộ nghèo (kế hoạch năm 2004 xây dựng
96 nhà tình thơng). Đã lập đợc 8.316 sổ Bảo hiểm y tế cho ngời nghèo, 32 bà
mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đợc các cơ quan, đoàn thể phụng dỡng,
những đối tợng nghèo đói đợc khám chữa bệnh miễn phí.

Thái Thụy là mảnh đất giàu truyền thống yêu nớc, có nhiều đóng góp cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, nhân dân cần cù
sáng tạo trong lao động. Đảng bộ, nhân dân Thái Thụy đã đạt nhiều thành tích

11


to lớn đợc Đảng, Nhà nớc phong tặng là huyện Anh hùng lực lợng vũ trang.
Toàn huyện có 4 xã đợc phong Anh hùng.
Song bên cạnh những u điểm và thuận lợi trên Thái Thụy cũng còn gặp
nhiều khó khăn trong bớc đờng đi lên, đó là : đất chật, ngời đông, lao động d
thừa nhiều, thu nhập chính vẫn dựa vào nông nghiệp.
2 .2 Tình hình lao động nữ trong nông nghiệp ở huyện Thái Thụy Thái Bình
. Những đóng góp to lớn của phụ nữ trong phát triển kinh tế địa phơng :
Sản xuất nông nghiệp những năm qua của huyện liên tục đợc mùa, năng
suất lúa của năm sau cao hơn năm trớc. Năm 2002 đạt 119,94 tạ/ha. Việc xây
dựng cánh đồng 50 triệu/ha/năm theo nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ đợc triển
khai tích cực. Năm 2003 có 44 xã, thị trấn đăng ký với diện tích 1.486 ha.
Toàn huyện có 4.962 hội viên phụ nữ có diện tích trên cánh đồng 50 triệu của
44 xã. Qua khảo sát bớc 1 năm 2004, đã có 25 xã có 25 xã có cánh đồng đạt
giá trị 50 triệu/ha/năm. Những năm qua, lao động nữ tích cực tham gia vào chơng trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Chuyển 1.016 ha diện tích
cấy lúa năng suất thấp sang trồng cói, dâu, hoè, nuôi trồng hải sản. Chăn nuôi
tiếp tục phát triển về số lợng và chất lợng, hình thành một số vùng chăn nuôi
theo hớng gia trại, trang trại. Trong phong trào "Phụ nữ làm kinh tế giỏi" do
hội Phụ nữ phát động đã xuất hiện nhiều tấm gơng điển hình, nhiều chị đã vơn
lên trở thành các nữ chủ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Đến nay, toàn
huyện có 58 chị là chủ doanh nghiệp, thu hút từ 1 - 300 lao động.
Những kết quả đó càng khẳng định vai trò to lớn của lực lợng lao động nữ
nông dân. Không chỉ vì số lợng lao động nữ làm nông nghiệp trên 60% tổng
số lao động nông nghiệp mà còn là nhiều khâu công việc do phụ nữ đảm trách

: chăm sóc lúa, hoa màu, chăn nuôi, chăm sóc gia đình, sơ chế, bảo quản nông
sản và đặc biệt là duy trì, phát triển các nghề thủ công truyền thống của
huyện.
. Những tồn tại :
Về cơ hội tìm kiếm việc làm :
Trong vòng 10 năm trở lại đây, trên địa bàn huyện cơ sở hạ tầng đợc cải
thiện rõ rệt. Hàng loạt đờng xá, cầu cống, kênh mơng, trờng học, trạm xá đợc
nâng cấp, xây mới đã giúp ngời dân tăng vụ, tăng diện tích cây trồng, làm dịch
vụ, mở các ngành nghề phi nông nghiệp và khai thác việc theo mùa vụ. Điều

12


này đã tạo ra rất nhiều việc làm mới cho cả nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên,
việc làm có thu nhập cao tại các công trờng xây dựng chủ yếu dành cho nam
giới. Đôi khi các công trình thi công vào giai đoạn nớc rút, cần nhiều lao
động. Các chủ thầu phải lấy ngời từ địa phơng khác nhng lao động nữ không
đợc lựa chọn. Các dịch vụ khác nh cày bừa, máy xay xát, chuyên chở vật liệu
chủ yếu do nam giới đảm nhận.
Phụ nữ không đợc tiếp cận với công việc này trớc hết do sức khoẻ không
đảm nhận nổi các công việc nặng nhọc. Mặt khác do định kin ngay từ nhỏ họ
đã không đợc gia đình hớng cho học các nghề thuộc về kỹ thuật nh xây dựng,
nghề mộc trong khi 80 % nam giới ở nông thôn đều biết làm các nghề này.
Một nguyên nhân không kém phần quan trọng do trình độ học vấn thấp họ
cũng rất khó khăn khi tiếp cận với các máy móc, kỹ thuật mới nh sử dụng máy
cày, bừa, máy tuốt lúa, máy xay xát
Về vấn đề di c và đi làm thuê :
ở nông thôn Thái Thụy hiện nay, bình quân ruộng đất thấp (550 m 2/1 ngời) thời gian nông nhàn nhiều, bình quân 1 năm ngời lao động nông thôn chỉ
sử dụng 5 - 6 tháng cho công việc sản xuất nông nghiệp. Nh vậy trong 1 năm
ngoài khoảng thời gian sản xuất nông nghiệp, ngời lao động nông thôn còn rất

nhiều thời gian nông nhàn, do đó họ đã lựa chọn di c và đi làm thuê.
Tại địa phơng số lao động đi làm ăn nơi xa là 25.587 [3 ; tr 8] ngời trong
đó 80% là nam giới. Họ không đi làm ăn theo mùa vụ mà đi làm cả năm, một
năm chỉ về 1 - 2 lần. Hiện nay, tại nông thôn nhiều gia đình chồng đi làm xa
có xu hớng tăng lên, nhất là các gia đình vợ chồng ở độ tuổi 30 - 40 nên việc
đồng áng, trông nom con cái, chăm sóc ngời già chủ yếu do ngời phụ nữ ở nhà
đảm nhận. Nam giới đi làm ăn ở tỉnh ngoài bên cạnh việc gửi tiền về cho gia
đình nhng cũng có không ít ngời mang theo về cả những tệ nạn xã hội nh
nghiện hút, cờ bạc, bệnh tật. Hậu quả là ngời phụ nữ trong gia đình phải gánh
chịu nặng nề cả về kinh tế, sức khoẻ và tinh thần.
Nếu nam giới đi làm ăn xa nhà quanh năm thì ngời phụ nữ vào lúc nông
nhàn cũng di dân ra thành phố tìm việc nhng theo thời vụ, lúc đến vụ thu
hoạch lúa, hoa màu họ lại trở về để sản xuất. Đặc điểm lao động nữ ở nông
thôn Thái Thụy là lao động giản đơn, hầu hết không có chuyên môn kỹ thuật
nên khi ra Thành phố họ khó kiếm đợc một việc làm tốt với thu nhập cao. Họ
chấp nhận làm tất cả mọi nghề từ giúp việc gia đình, chăm sóc trẻ nhỏ, ngời

13


già ốm với mức lơng từ 200 - 300.000 đ/tháng đến việc bán hàng rong, lợm ve
chai với thu nhập từ 10 - 15 ngàn đồng/ngày.
Bên cạnh những ngời phụ nữ có gia đình di c ra thành phố tìm việc làm
theo thời vụ là một bộ phận không nhỏ nữ thanh niên trong độ tuổi từ 17 - 25
di c đến các khu công nghiệp làm nghề may, da dày xuất khẩu. Tại địa phơng
có xã có tới trên 200 lao động nữ đi làm may và da dày ở Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng. Sau 5 - 7 năm họ thờng lại trở về địa phơng, họ tiếp tục làm
nghề nông do sức khoẻ không đảm bảo để tiếp tục làm việc trong môi trờng có
cờng độ cao, thu nhập lại bấp bênh và chủ yếu là họ khó có thể lập gia đình ở
nơi làm việc.

Nguyên nhân dẫn đến điều đó là do công nghiệp địa phơng chậm phát
triển, các khu thơng mại, dịch vụ tập trung chủ yếu ở thành phố, thị trấn.
Ngoài ra do đất canh tác bị thu hẹp, ngày công lao động ở nông thôn quá thấp.
Về thời gian làm việc của phụ nữ lớn hơn nam giới :
ở khu vực nông thôn thời gian lao động tạo thu nhập của phụ nữ và nam
giới xấp xỉ nh nhau. Phụ nữ tham gia vào tất cả các phần việc của nhà nông
nh cày bừa, chăm sóc, thu hoạch hoa màu, kể cả công việc nặng nhọc, độc hại
nh bơm thuốc trừ sâu. Tuy nhiên phụ nữ dành thời gian nhiều gấp đôi nam giới
cho công việc gia đình : 14h/1 ngày (gồm các công việc sản xuất, nội trợ, nuôi
dạy con), trong khi đó nam giới chỉ làm 7h /ngày. Đó là cha kể vào những
ngày thời vụ chị em phải làm quần quật 16 - 17h/ngày. Nh vậy về thời gian lao
động nữ làm việc gấp đôi so với nam giới. Tuy nhiên thời gian làm việc nhiều
hơn của phụ nữ lại là loại công việc không tạo ra thu nhập hoặc thu nhập rất
thấp chỉ nhằm duy trì cuộc sống gia đình. Nói tới ngời phụ nữ l nói đến thiên
chức làm mẹ, làm vợ. Từ bao đời nay, định kiến của xã hội luôn gắn chặt họ
với chức năng làm các công việc nội trợ, chăm sóc gia đình và cho rằng họ
làm công việc này là phù hợp và tốt nhất. Bản thân ngời phụ nữ tỏ ra hết sức
tài giỏi trong công việc này. Chính nhờ sự đảm đang đó mà nam giới có thêm
thời gian và điều kiện để lao động, sản xuất tốt hơn tạo ra của cải vật chất cho
xã hội. Nói cách khác, trong giá trị ngày công của nam giới có sự đóng góp
đáng kể của phụ nữ, tuy nhiên rất ít ngời muốn chia sẻ gánh nặng đó với họ.
Lao động chăm sóc gia đình, nội trợ của phụ nữ đợc nam giới gọi là việc vặt,
họ thờng không đợc trả công và cũng chẳng ai tính là sẽ trả công cho những
công việc này. Nhng chính thời gian lao động dài gấp đôi nam giới này đã làm

14


ảnh hởng rất lớn đến sức khoẻ và gia đình của họ. Họ thiếu thời gian nghỉ ngơi
(phụ nữ nông thôn có thời gian nghỉ ngơi là 4% trong khi nam giới là 23%)

giải trí và tham gia các hoạt động cộng đồng. Họ ít có thời gian chăm chút cho
bản thân nên sức khoẻ giảm sút nhanh. Họ hầu nh không tham gia vào các
công việc cộng đồng nh họp xóm, làng, phổ biến chỉ thị, Nghị quyết hay quy
định của địa phơng. 90% các gia đình ở nông thôn nam giới đảm nhận công
việc này. Do đó ngời phụ nữ nông thôn ít đợc tiếp cận với thông tin, ít có cơ
hội học tập, giao lu nên trình độ thấp, kém hiểu biết nên rất ngại va chạm, tiếp
xúc.
Nguyên nhân sâu xa nhất dẫn đến tình trạng này do đó cả xã hội cho
rằng: định kiến về giới cho rằng việc nhà (nội trợ, chăm sóc con cái) là công
việc của phụ nữ, là chức năng của họ nên ngời nam giới ngay từ nhỏ đã không
đợc giáo dục, đợc dạy dỗ những công việc đó và bản thân họ không muốn chia
sẻ công việc này với phụ nữ.
Về tiếp cận dịch vụ khuyến nông :
Phụ nữ tham gia vào hầu hết các khâu của quá trình trồng trọt cây lơng
thực, hoa màu (gieo mạ, cấy lúa, chăm sóc, làm cỏ, bón phân, phòng trừ sâu
bệnh) và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Có thể nói họ đảm nhận vai trò chính
trong khi nam giới chủ yếu tham gia vào khâu làm đất (cày bừa), gặt hái, phun
thuốc trừ sâu. Nhng một nghịch lý ở nông thôn hiện nay là phụ nữ ít tiếp cận
với các dịch vụ khuyến nông. Đa số chị em phụ nữ mới chỉ đợc tham gia vào
các hoạt động khuyến nông do hội Phụ nữ tổ chức. Trong những năm qua, để
thực hiện tốt chơng trình "hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế gia đình" Hội Phụ
nữ huyện đã tổ chức tốt nhiều hoạt động phối hợp với các ban ngành nhằm
trang bị những kiến thức nhất định cho phụ nữ về khuyến nông. Theo báo cáo
giữa nhiệm kỳ của hội Phụ nữ huyện trong 2 năm vừa qua, hội Phụ nữ huyện
đã phối hợp với ngành Nông nghiệp và Trung tâm khuyến nông tỉnh mở các
lớp IPM, chuyển giao KHKT thu hút 383.000 lợt cán bộ, hội viên phụ nữ về
học. Riêng năm 2003, đã mở đợc 518 lớp cho 67.954 lợt cán bộ hội viên [5 ; tr
6]. Nhiu cán bộ khuyến nông là ngời trực tiếp làm báo cáo viên ở các lớp tập
huấn cho rằng ở lớp học có phụ nữ tham gia họ phát biểu, trao đổi rất sôi nổi,
có chị còn ở lại sau buổi học và hỏi rất tỷ mỉ, cặn kẽ. Các cán bộ này cho rằng

trên thực tế phụ nữ tiếp thu và ứng dụng trong sản xuất, chăn nuôi tốt hơn nam
giới vì họ là ngời trực tiếp làm nhiều hơn. Tuy nhiên, kinh phí cho hoạt động

15


của hội Phụ nữ còn hạn chế nên không thể tổ chức đợc nhiều lớp tập huấn cho
phụ nữ.
Đối với các lớp tập huấn do ban ngành chuyên môn hay chính quyền tổ
chức, thì ngời tổ chức chỉ chú ý đến số lợng ngời tham dự, ít chú ý đến đối tợng tham dự. Thông thờng các lớp do HTX tổ chức thì ngời nghe chủ yếu là
nam giới vì thành phần lớp học là cán bộ thôn, xóm, ban ngành ở xã, ngoài ra
mỗi xóm chọn một số nông dân còn phụ nữ rất ít. Theo thống kê các lớp tập
huấn về chăn nuôi có khoảng 20 % phụ nữ tham gia, lớp tập huấn về trồng trọt
có khoảng 10% phụ nữ tham gia. Mặt khác, đa số cán bộ cung cấp dịch vụ
khuyến nông ở cơ sở là nam giới và họ cũng thờng coi các nông dân nam (chủ
hộ gia đình) là đối tợng, mục tiêu của các hoạt động khuyến nông.
Nh vậy, nếu nhìn dới góc độ giới, phụ nữ Thái Thụy chiếm 52% dân số,
phụ nữ làm nông nghiệp chiếm trên 60%. Phụ nữ tham gia hầu hết các khâu
của quá trình sản xuất, đồng thời với bản tính tự nhiên cần cù, cởi mở thì tác
dụng truyền thông sẽ mạnh hơn nam giới. Nếu lao động nữ đợc tham gia đông
đảo trong công tác khuyến nông thì chắc chắn hiệu quả mang lại sẽ cao hơn.
Vấn đề tiếp cận vốn vay và tín dụng để phát triển đối với nông nghiệp.
Số liệu thống kê trong những năm gần đây cho thấy, phụ nữ đã có mặt
hầu nh trong tất cả các ngành nghề sản xuất nông nghiệp hiện có ở nông thôn.
Tỷ lệ trong chăn nuôi 82%, trồng trọt 75%. Việc ngời nông dân vay vốn của
ngân hàng, tổ chức tín dụng, đặc biệt là thông qua tổ chức hội Phụ nữ giúp
phụ nữ vay vốn đầu t cho sản xuất, chăn nuôi, giảm tình trạng cho vay nặng
lãi, bán lúa non ở nông thôn, góp phần nâng cao vị thế của ngời phụ nữ trong
gia đình. Theo báo cáo sơ kết giữa nhiệm kỳ của hội Phụ nữ huyện, trong
những năm qua Hội phụ nữ các cấp đã bằng nhiều hình thức để huy động vốn

giúp hội viên phát triển sản xuất nh vay vốn 120, vốn ngân hàng ngời nghèo,
ngân hàng chính sách, huy động vốn nhàn rỗi trong hội viên. Số d vốn toàn
huyện đến nay là 18 tỷ đồng cho 6.700 hội viên vay, so với đầu năm 2002 tăng
5 tỷ đồng.
Mặc dù tỷ lệ tiếp cận vốn vay của phụ nữ nhìn chung tăng lên so với trớc
nhng điều đáng chú ý là phụ nữ tiếp cận nhiều hơn với các quỹ tín dụng và
nguồn vốn của các tổ chức xã hội mà chủ yếu là thông qua tín chấp của hội
Phụ nữ, trong khi nam giới đợc vay vốn cao hơn ở các ngân hàng chính sách,
ngân hàng nông nghiệp, ngân hàng công thơng. Phụ nữ nghèo còn gặp rất

16


nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vay chính thức, nhất là phụ nữ nghèo là chủ
hộ gia đình.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là : Các ngân hàng
thờng cho ngời đứng tên chủ hộ gia đình vay vốn mà tỷ lệ nam giới là chủ hộ
gia đình chiếm trên 80%. Thủ tục vay vốn làm hồ sơ, khế ớc yêu cầu tài sản
thế chấp của ngân hàng còn phiền hà, cồng kềnh. Phụ nữ không đáp ứng đợc
các điều kiện của ngân hàng, họ hầu nh phụ nữ không đứng tên sở hữu trong
các tài sản có giá trị của gia đình nh quyền sử dụng đất, nhà ở, xe máy Mặt
khác do ít tiếp xúc với các hoạt động cộng đồng nên chị em e ngại khi giao
tiếp làm các thủ tục hành chính. Đôi khi không đủ trình độ để khai báo hoàn
chỉnh 1 bộ hồ sơ vay vốn. Số phụ nữ nghèo thực sự đợc vay vốn hiện nay còn
ở mức hạn chế do ràng buộc bởi quy định ngời vay có điều kiện hoàn trả nợ
cho ngân hàng. Khi bình bầu cho vay, những ngời quá nghèo không có khả
năng hoàn trả nợ thì không đợc vay vốn.
Tìm hiểu sâu hơn nữa về kiểm soát đất đai chúng ta thấy :
ở địa phơng diện tích đất canh tác bình quân đầu ngời thấp (550 m2/ngời) ruộng đất chia cho ngời dân bị phân tán manh mún ở nhiều xứ đồng cao
thấp, xa gần khác nhau nên việc đầu t phát triển sản xuất không thuận lợi. Từ

sau khi thực hiện chủ trơng dồn điền đổi thửa của UBND tỉnh mới chấm dứt đợc tình trạng đất canh tác phân tán, manh mún. Việc giao đất ổn định lâu dài
20 năm nên những ngời mới sinh ra sau năm 1993 không có ruộng cũng gây
ra thắc mắc trong nhân dân. Mặt khác việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho nông dân theo hộ gia đình đã nảy sinh vấn đề thực hiện một số
quyền giữa chủ hộ (nam giới) và các thành viên trong hộ gia đình.
Cụ thể là :
Việc xác định chủ hộ nông dân là sự ngẫu nhiên nhng hầu nh những gia
đình có cả vợ và chồng có trên 80% chủ hộ là nam giới, chủ hộ là nữ khoảng
16%. Giấy chứng nhận cấp quyền sử dụng đất ghi tên chủ hộ là văn bản pháp
lý duy nhất có giá trị đối với đất đai. Văn bản này không chỉ đợc các cơ quan
Nhà nớc công nhận và bảo hộ mà còn đợc sử dụng trong chuyển nhợng, thế
chấp, đi vay vốn theo điều 728 Bộ luật dân sự (Quốc hội thông qua ngày
28/10/1995) quy định : "Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đợc cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền cấp theo quy định của
pháp luật về đất đai thì có quyền thế chấp quyền sử dụng đất theo quy định

17


của Bộ luật này và pháp luật về đất đai" [8 ; tr 320]; còn Điều 729 quy định :
"Hộ gia đình cá nhân sử đụng dất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng
đợc thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng Việt Nam, tại các tổ chức tín
dụng Việt Nam do Nhà nớc cho phép thành lập để vay vốn sản xuất" [8 ; tr
321].
Với quy định pháp lý nh trên, cha nói tới bình đẳng giới mà ở đây giữa
việc phân chia ruộng đất trên cơ sở lao động và nhân khẩu với việc giấy tờ hợp
pháp về ruộng đất chỉ đứng tên 1 ngời rõ ràng là cha hợp pháp.
Thực ra đối với các gia đình hoà thuận vấn đề này không có gì đáng bàn
nhng khi gia đình có bất hoà thì sẽ là điều bất lợi cho các thành viên trong gia
đình, thờng thì quyền sử dụng ruộng đất của phụ nữ bị vi phạm. Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất không mang tên mình nên phụ nữ không có gì để thế
chấp khi vay vốn ngân hàng. Theo số liệu điều tra có tới 95% phụ nữ không đợc đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nh vậy quyền lợi mà
phụ nữ đơng nhiên đợc hởng đã có thể bị bỏ qua.
Theo luật đất đai mới đợc Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu
lực từ 1/7/2004 tại Điều 48 khoản 3 quy định về việc ghi tên cả vợ và chồng
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nh sau : "Trờng hợp quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
phải ghi rõ cả họ, tên vợ và họ, tên chồng" [16 ; tr 155]. Điều này khắc phục
đợc những tồn tại đảm bảo cho cả phụ nữ và nam giới đợc tham gia bình đẳng
trong sử dụng đất đai. Quy định này góp phần làm giảm bớt những bất hoà
trong gia đình, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần vào ổn định xã hội.
Hiện nay tại địa phơng bắt đầu triển khai việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp có ghi tên cả hai vợ chồng nhng tiến độ thực
hiện còn chậm. Đến nay mới hoàn thành ở 6/48 xã thị trấn.
Một vấn đề nữa cũng liên quan đến việc kiểm soát đất đai của phụ nữ là
việc phụ nữ kết hôn với những ngời ngoài làng, xã. Nếu kết hôn trớc khi giao
đất thì đơng nhiên ngời phụ nữ có đất ở nhà chồng. Nhng trờng hợp kết hôn
sau khi chia đất họ không thể mang theo cũng nh không thể canh tác trên
mảnh đất họ đợc chia. Nh vậy đơng nhiên ngời phụ nữ khi lấy chồng khác
làng, xã vẫn làm nông nghiệp nhng không có đất canh tác, rơi vào tình trạng
phụ thuộc gia đình nhà chồng.

18


Bên cạnh đó chúng ta cũng thấy việc chia đất khi ly hôn. Tại luật Hôn
nhân và gia đình đợc Quốc hội khoá X thông qua ngày 9/6/2000 đã quy định 2
điều liên quan đến quyền sử dụng đất của vợ chồng. Điều 27 quy định "
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có đợc sau khi kết hôn là tài sản chung của
vợ chồng, quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có đợc trớc khi kết hôn đợc

thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận"[15 ; tr 23] ;
Điều 97 quy định việc chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng : "1. Quyền sử
dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó" [15 ;tr 57].
Song ở nông thôn phụ nữ khi ly hôn trở về nhà mẹ đẻ nên việc tính giá trị
quyền sử dụng mà họ đợc hởng theo thực tế thật khó và phức tạp. Do vậy họ
vẫn là ngời bị thiệt thòi, gặp rất nhiều khó khăn sau khi ly hôn.
Hiện nay ở nông thôn Thái Thụy do ảnh hởng của truyền thống, tập quán,
phong tục, việc thừa kế quyền sử dụng đất đai, tài sản thờng cho con trai trởng
vì theo quan niệm "con gái là con ngời ta". Số tài sản cha mẹ để lại không
đáng là bao, chủ yếu là ngôi nhà trên mảnh đất ở, do đó h thờng giao cho con
trai để làm nơi cúng giỗ, hơng khói cho ông bà, cha mẹ. Vấn đề chỉ thực sự
phức tạp khi các địa phơng tiến hành quy hoạch thị trấn, thị tứ, khu dân c, đất
đai trở nên có giá trị. Nhiều ngời nhờ bán mảnh đất đợc thừa kế đã trở nên
giàu có và đã không ít xảy ra trờng hợp đánh, chửi nhau để tranh giành đất và
ngời chịu thiệt thòi vẫn là phụ nữ.
Điều đó có nguyên nhân từ định kiến giới : đàn ông là trụ cột gia đình, là
ngời ra quyết định do đó họ là ngời kiểm soát đất đai, khi chia thừa kế, đất đai
đơng nhiên thuộc về họ. Mặt khác ở nông thôn, t tởng thuyền theo lái, gái theo
chồng, ngời phụ nữ quan niệm khi đã lấy chồng thì không còn thuộc về gia
đình bố mẹ đẻ nữa. Đôi khi họ cảm thấy thiệt thòi vì không đợc đối xử công
bằng khi chia đất đai, tài sản nhng bản tính nhờng nhịn, hy sinh họ lại cam
chịu cho yên ấm cửa nhà.
Về đề bảo vệ sức khoẻ, bảo hộ lao động cho lao động nữ nông nghiệp.
ở địa phơng 70 - 80% phụ nữ thờng xuyên phải làm những công việc
nặng nhọc nh gánh gồng, cuốc đất, phun thuốc trừ sâu, trừ cỏ cha kể họ phải
làm việc trong điều kiện ngoài trời tiếp xúc trực tiếp với sự thay đổi thất thờng
của thời tiết khi nắng, khi ma Nhiều chị em có thai đến tháng thứ 5 thứ 6
vẫn đi phun thuốc sâu, có thai đến tháng thứ 6, 7 vấn đi cấy, gặt vì gia đình
neo ngời hoặc chồng đi làm ăn xa. Chế độ nghỉ ngơi sau khi sinh đối với phụ


19


nữ làm nông nghiệp không đợc quan tâm chu đáo. Nếu nh nữ công nhân viên
chức đợc nghỉ sinh con 4 tháng theo Bộ luật lao động thì lao động nữ làm
nông nghiệp, tuỳ theo điều kiện của từng gia đình nhng bình quân thời gian
nghỉ lao động của họ khoảng 2 tháng. Nhiều chị sinh con mới đợc 1 tháng đã
phải đi làm cho kịp thời vụ và còn vì một lý do khác (đây là lý do cơ bản) :
cán bộ nghỉ còn có lơng do nhà nớc trả còn các chị nghỉ làm là nghỉ ăn.
Điều này đã ảnh hởng không nhỏ đến sức khoẻ phụ nữ, đến chức năng sinh
sản và nuôi con của họ. Bản thân họ sức khoẻ bị giảm sút, thiếu máu, gầy yếu,
rất nhiều chị bị mắc bệnh phụ khoa. Năm 2003 trong số 76.508 lợt chị về
khám bệnh tại các cơ sở đã có 26.902 chị bị mắc bệnh phụ khoa chiếm
35,16%. Trẻ em không đợc quan tâm chăm sóc chu đáo do mẹ mải làm ăn nên
tỷ lệ suy dinh dỡng vẫn ở mức cao 28% [6 ; tr7].
Hiện nay nữ lao động nông nghiệp rất mong muốn có một chế độ chăm
sóc, bảo hộ. Trong những năm qua hội Phụ nữ các cấp đã hết sức quan tâm
đến vấn đề này. Các cấp Hội thờng xuyên phối hợp với Trung tâm y tế, Uỷ ban
dân số - gia đình - trẻ em tuyên truyền về chăm sóc sức khoẻ phụ nữ, trẻ em.
Trong năm 2003, hội Phụ nữ huyện đã phối hợp với đội Bảo vệ bà mẹ, trẻ em
huyện mở các lớp học truyền thông kiến thức chăm sóc sức khoẻ sinh sản,
phòng chống viêm nhiễm đờng sinh dục ở 12 xã cho 1.836 chị về học. Ngoài
ra còn thờng xuyên phối hợp, tổ chức tốt việc khám sức khoẻ, khám phụ khoa
cho phụ nữ. Hội Phụ nữ đã tham mu với chính quyền trích kinh phí mua thuốc
hỗ trợ chị em với tổng số tiền là 5.489.000 đ (năm 2003). Một trong những
hình thức bảo hiểm đợc chị em nhiệt tình hởng ứng trong những năm qua là
mua Bảo hiểm thân thể. Hội Phụ nữ đã phối hợp với Bảo việt tổ chức bán bảo
hiểm cho chị em. Chỉ với 10.000 đ/1 năm nhng khi chẳng may gặp rủi ro chị
em đợc nhận một khoản chi phí nhất định, cao nhất là 500.000 đ/1 ngời cho 1
ca tử vong, từ 30 - 100.000 đ cho ốm đau, phẫu thuật Trong năm 2003 đã có

9.082 chị tham gia mua loại hình bảo hiểm này.
2.3 Vai trò của hội Phụ nữ trong việc giải quyết việc làm cho lao
động nữ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX, Đại
hội Phụ nữ toàn tỉnh lần thứ XII và Đại hội Phụ nữ toàn huyện lần thứ XI Hội
LHPN huyện Thái Thụy đã phát huy tốt vai trò của mình, xứng đáng là ngời
đại diện cho quyền lợi hợp pháp và chính đáng của phụ nữ.

20


Trong những năm qua, BCH hội Phụ nữ Thái Thụy đã bám sát 3 mục tiêu
của chơng trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế là : Đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả hoạt động hỗ trợ phụ nữ xoá đói giảm nghèo ; Hỗ trợ phụ nữ phát
triển kinh tế gia đình, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ phụ nữ phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần tạo thêm việc làm cho phụ nữ ; đồng thời
phát triển mạng lới, nâng cao chất lợng đào tạo nghề, dịch vụ việc làm cho
phụ nữ.
Trên cơ sở những mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ các cấp đề ra, hội Phụ nữ đã phối hợp với ngành Nông nghiệp, Trung tâm
khuyến nông tỉnh mở các lớp tập huấn về chuyển giao KHKT, IPM cho cán
bộ, hội viên. Kết quả trong 2 năm (2002 - 2003) đã thu hút 383.000 lợt cán bộ,
hội viên về học. Qua tập huấn giúp chị em có kiến thức khoa học áp dụng
trong sản xuất, chăn nuôi, nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ sức lao
động cho phụ nữ, góp phần tích cực thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện
về xây dựng cánh đồng 50 triệu/ha/năm.
Hội Phụ nữ các cấp đã tích cực vận động chị em hởng ứng phong trào
"Phụ nữ làm kinh tế giỏi". Trong phong trào đã xuất hiện nhiều tấm gơng điển
hình, nhiều chị đã vơn lên trở thành những chủ doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả. Toàn huyện đến nay có 58 chị là chủ doanh nghiệp, thu hút từ 1 - 300 lao

động, điển hình nh chị Hồi - Thụy Chính, chị Thiết - Thuỵ Sơn. Hội Phụ nữ
huyện còn chú trọng công tác huấn luyện kỹ năng quản lý cho các nữ chủ
doanh nghiệp. Trong nửa nhiệm kỳ qua, hội Phụ nữ huyện tranh thủ sự hỗ trợ
của tỉnh Hội mở lớp tập huấn cho 66 chị nữ chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo báo cáo giữa nhiệm kỳ, hội Phụ nữ các cấp đã phối hợp với các
ngành mở nhiều lớp dạy nghề cho hội viên, làm tốt công tác dịch vụ, giới
thiệu việc làm. Toàn huyện đã mở 636 lớp, thu hút 6.215 chị về học. Đến nay
4.918 chị có nghề, thu nhập từ 200 - 500.000 đ/tháng. Toàn huyện giới thiệu
1.179 cháu đi học máy may công nghiệp, dân dụng tại tỉnh và huyện, giới
thiệu việc làm cho 842 cháu. Nét mới là trong hơn hai năm qua toàn huyện đã
giới thiệu 430 chị đi lao động ở Đài Loan.
Một trong những hoạt động nổi bật của hội Phụ nữ huyện trong công tác
giải quyết việc làm cho phụ nữ là bằng nhiều hình thức các cấp Hội đã huy
động vốn cho hội viên vay nh : lấy tín chấp vay vốn ngân hàng nông nghiệp,

21


ngân hàng chính sách, vốn quốc gia giải quyết việc làm, huy động vốn nhàn
rỗi trong hội viên để giúp chị em sản xuất. Đến nay số d vốn của toàn huyện là
18 tỷ đồng cho 6.700 hội viên vay.
Với tinh thần tơng thân tơng ái, hội Phụ nữ các cấp còn tiếp tục duy trì,
đẩy mạnh phong trào "phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình" đồng thời
phát động phong trào "Phụ nữ làm kinh tế giỏi" để động viên phụ nữ thực
hiện xoá đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng. Trong nửa nhiệm kỳ qua, toàn
huyện đã vận động phụ nữ giúp nhau xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế
gia đình bằng hình thức cho vay không lấy lãi với tổng giá trị là 2 tỷ 327 triệu
đồng, đã giúp cho 640/2157 hội viên phụ nữ nghèo xoá đợc nghèo. [5 ; tr 8].
Các hoạt động trên thực sự đã đem lại hiệu quả về mặt kinh tế, đã giải
quyết việc làm cho hàng ngàn lao động lúc nông nhàn, đặc biệt là lao động nữ.

Góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo của huyện, xoá hẳn
hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 9,2% ; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho ngời dân lao động trong toàn huyện.
iii. một số đề xuất, kiến nghị về giải pháp
1. Đối với Đảng bộ, chính quyền địa phơng.
Cần lồng ghép vấn đề giới trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn và xây dựng quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của huyện. Trong các báo cáo thống kê hàng năm về kinh
tế - xã hội cần có số liệu về sự tham gia đóng góp của mỗi giới.
Có chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong kế hoạch đào tạo
nghề hàng năm. Tăng cờng sự tiếp cận của phụ nữ với các công nghệ phù hợp
với hộ gia đình kể cả công nghiệp nhẹ chế biến sau thu hoạch nhằm giúp họ
có cơ hội có việc làm, tăng thu nhập cải thiện cuộc sống.
Có biện pháp cụ thể hỗ trợ ngời nghèo đặc biệt là phụ nữ nghèo tạo cho
họ tiếp cận các cơ hội việc làm bằng cách đợc hỗ trợ, tạo điều kiện để họ đợc
học hành, trang bị kiến thức, tập huấn KHKT. Chính quyền địa phơng cần phát
triển hệ thống dịch vụ đào tạo nghề, t vấn, giới thiệu việc làm tới các xã, thôn
nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, cập nhật cùng với việc t vấn cho ngời lao
động nữ có nhu cầu tìm việc làm.
Cần thiết có chính sách u đãi đặc biệt với đối tợng phụ nữ nghèo để họ đợc tiếp cận vốn vay nh cải tiến thủ tục vay vốn, tạo cơ hội cho họ vơn lên thoát

22


nghèo. Đối với các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ, chính quyền địa phơng
tạo điều kiện trong các khâu kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm, vay vốn vì các doanh
nghiệp này là nơi thu hút rất lớn nguồn lao động nữ ở địa phơng.
Để phụ nữ đợc tham gia bình đẳng nh nam giới trong sử dụng đất đai
chính quyền địa phơng đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất ghi tên cả vợ và chồng.

Có biện pháp đầu t khuyến khích ngời dân thay thế công cụ lao động thủ
công bằng máy móc để giảm nặng nhọc cho lao động nữ.
Mở rộng các hoạt động dịch vụ nông thôn, góp phần tạo ra sự phân công
lại lao động, chuyển dịch cơ cấu trong nông thôn.
Hàng năm phòng Nông nghiệp nên có chơng trình khuyến nông riêng cho
phụ nữ, kinh phí đầu t u tiên cho xã nghèo, khó khăn, giao cho hội Phụ nữ và
hội Nông dân quản lý.
Kiện toàn mạng lới khuyến nông viên cấp xã và nên bố trí nhiều nữ tham
gia để tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận khuyến nông hiệu quả hơn.
Tăng cờng sự tham gia của phụ nữ vào đào tạo khuyến nông. Phòng Nông
nghiệp phát triển nông thôn, hội Nông dân Việt Nam và các tổ chức khuyến
nông cần có những biện pháp tích cực hớng dẫn, vận động nông dân sử dụng
an toàn hoá chất, thuốc trừ sâu, mở rộng các biện pháp phòng trừ dịch bệnh
tổng hợp ; góp phần hạn chế ảnh hởng tới sức khoẻ nông dân nói chung và phụ
nữ nói riêng.
2. Đối với hội Phụ nữ :
Để đạt đợc bình đẳng giới, đồng thời với sự quan tâm của Đảng và Nhà nớc bằng các chính sách và cơ cấu thể chế hỗ trợ là sự nỗ lực của các cấp Hội
phụ nữ - tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích của phụ nữ.
Hội Phụ nữ huyện trong thời gian tới cần tích cực triển khai chiến lợc
quốc gia và kế hoạch hành động quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ, thực hiện
tốt Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết Đại
hội Phụ nữ tỉnh lần thứ XII góp phần thực hiện mục tiêu tổng quát của chiến
lợc là : " Nâng cao chất lợng đời sống vật chất và tinh thần của phụ nữ, tạo
mọi điều kiện để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò
của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị- kinh tế - xã hội.
Hội Phụ nữ huyện cần :

23



Tiếp tục vận động phụ nữ thực hiện Nghị quyết Đảng bộ huyện về phát
triển kinh tế - xã hội, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi và
xây dựng thành công cánh đồng đạt giá trị 50 triệu/ha/năm, nâng cao rõ rệt
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong huyện.
Hội Phụ nữ huyện cần phối hợp với các ban ngành mở các lớp tập huấn
trang bị kiến thức về giới cho cán bộ Hội cơ sở, từng bớc thay đổi định kiến
giới trong nhân dân, góp phần tạo sự bình đẳng cho phụ nữ ngay từ trong gia
đình. Bằng cách mở các lớp tập huấn trang bị kiến thức cho phụ nữ về tổ chức
cuộc sống gia đình, nuôi dạy con cái, hớng cho con cái lao động bình đẳng
ngay từ khi còn nhỏ. Bằng mọi hình thức động viên nam giới chia sẻ gánh
nặng công việc gia đình với phụ nữ, tạo điều kiện cho chị em có thời gian nghỉ
ngơi, tham gia các hoạt động đoàn thể, tham gia học tập nâng cao trình độ mọi
mặt.
Tăng cờng chỉ đạo việc thực hiện phong trào thi đua "Phụ nữ tích cực học
tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc" và chỉ đạo thực hiện 6
chơng trình công tác trọng tâm.
Tăng cờng tuyên truyền nâng cao hiểu biết về KHKT trồng trọt, chăn
nuôi, kiến thức sản xuất kinh doanh bằng cách phối hợp với phòng Nông
nghiệp, Trung tâm khuyến nông mở các lớp IPM, chuyển giao KHKT, tích cực
vận động thành lập các câu lạc bộ IPM, câu lạc bộ khuyến nông.
Phát động phong trào phụ nữ làm kinh tế giỏi, phụ nữ giúp nhau phát
triển kinh tế gia đình. Tổ chức các hoạt động giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ ở
từng chi hội, tham gia tích cực vào phong trào xoá nhà dột nát cho hộ nghèo
theo tinh thần Nghị quyết 09 của Tỉnh uỷ.
Mở rộng xây dựng nhóm phụ nữ lồng ghép tín dụng tiết kiệm, tiết kiệm
tín dụng nhằm xây dựng nguồn vốn tự có trong hội viên phụ nữ.
Tích cực khai thác các nguồn vốn giúp phụ nữ phát triển sản xuất bằng
tín chấp với các ngân hàng. Coi trọng đầu t đi đôi với trang bị kiến thức quản
lý vốn, kiến thức kinh doanh phát triển sản xuất để các hộ vay vốn sử dụng
đúng mục đích, có hiệu quả, chống thất thoát, khê đọng vốn. Có biện pháp

tích cực hỗ trợ giúp các doanh nghiệp do nữ làm chủ đợc vay thêm vốn phát
triển sản xuất, trang bị kiến thức quản lý doanh nghiệp.

24


Tiếp tục phối hợp với phòng Công thơng mở các lớp dạy nghề, tạo việc
làm cho phụ nữ ở các xã, thị trấn. Thực hiện đa dạng hoá các loại hình dạy
nghề truyền thống, nghề mới ở từng địa phơng. Quan tâm đẩy mạnh 3 nghề
đang có u thế là mây tre đan xuất khẩu, ơm tơ và xe tơ tằm ; khai thác và chế
biến hải sản nhằm thu hút tối đa lao động nữ học nghề, có việc làm ổn định.
Tích cực vận động nông dân đi khai hoang các vùng kinh tế mới, đi xuất
khẩu lao động.
Quan tâm đến công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Phối
hợp với Bảo Việt tổ chức vận động chị em mua Bảo hiểm thân thể.
kết luận
Ngày nay, nói đến phát triển ngời ta đề cập đến 2 yếu tố : đó là tăng trởng
kinh tế và phát triển con ngời. Phát triển con ngời phụ thuộc trớc tiên vào tình
hình sức khoẻ và giáo dục của ngời dân. Một lực lợng lao động có giáo dục,
khoẻ mạnh sẽ có khả năng đóng góp nhiều hơn cho phát triển kinh tế của đất
nớc. Đầu t cho cả phụ nữ và nam giới sẽ đạt hiệu quả cao cho gia đình và xã
hội, là yếu tố đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Phụ nữ có đóng góp to lớn vào sự phát triển của mỗi quốc gia và toàn
cầu. Phụ nữ chiếm 70% lực lợng lao động nông nghiệp và làm ra 1/2 sản lợng
nông nghiệp của thế giới. ở Việt Nam phụ nữ đang đóng góp 48% lực lợng lao
động trực tiếp của nền kinh tế quốc dân, 75% lực lợng lao động nông nghiệp.
Đầu t phát triển cho phụ nữ là đầu t một cách hiệu quả.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nớc trong nhiu năm
qua đã tạo môi trờng và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trởng thành của
các tầng lớp phụ nữ, tạo ra những chuyển biến tiến bộ trong họ. Đa số phụ nữ

đã thích ứng với sự đổi mới về phân công lao động, chủ động tiếp cận đào tạo
ngành nghề mới, bồi dỡng kỹ năng lao động, kiến thức sản xuất, năng lực
quản lý, áp dụng tiến bộ KHKT, công nghệ tiên tiếp vào sản xuất. Vì vậy lực lợng lao động nữ có mặt ở hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề kể cả những
lĩnh vực, ngành nghề vốn trớc kia đợc xem là độc quyền của nam giới. Mặt
khác, chất lợng lao động nữ đợc tăng lên thể hiện qua trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn đợc đào tạo. Họ đã và đang vợt qua những khó khăn của cuộc
sống, những mặc cảm tâm lý, bền bỉ sáng tạo vơn lên khẳng định vị trí của
mình trong gia đình và ngoài xã hội. Bên cạnh sự nỗ lực của bản thân ngời phụ

25


×