Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC CÔNG DÂN: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS GIA HANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.64 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp
luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường
THCS GIA HANH

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Nguyễn Văn Thọ
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A


Hà Tĩnh, năm 2015
A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn
giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện
phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao
của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy
học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối
với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường
phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy
học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học


chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là môn
học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp
dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy
học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học
môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục
công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ,
hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG NHIÊN CỨU:
2


Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường trường
THCS Khánh Vĩnh.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Khánh Vĩnh
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài

- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Khánh Vĩnh.
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân
5.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Khánh Vĩnh
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra,
đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI :
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận cấu trúc của đề tài gồm các
chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu
3


Chương III. Thực nhiệm

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác
động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở
lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.

Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
4


hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc
tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong
phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.

Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
cao.
5


1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình
huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.

“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích
cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến
thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu

6


và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức
hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về

cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách
quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu
cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là
họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về
lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra
được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không

7



sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải

vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
8


năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm
phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng

nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có
thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
9


sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình
huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con

đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
10


1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống

1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của
giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng

các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
11


một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp
thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình

huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường THCS Khánh Vĩnh.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát:
a.Nhà trường:
12


-Quan tâm tới công tác dạy học và đời sống của giáo viên.
-Kịp thời chỉ đạo mọi hoạt động
b.Chính quyền địa phương:
- Quan tâm tới việc học tập của học sinh
c. Giáo viên:
- Tâm huyết với nghề nghiệp, đào tạo chuẩn về trình độ chuyên môn
- Yêu thương , chăm lo và quan tâm tới từng đối tượng học sinh.
d.Học sinh:
-Có ý thức, chăm chỉ học tập
-Tích cực, tự giác
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường THCS Khánh Vĩnh.
Mức độ vận dụng

Thường
Thỉnh
Không
xuyên

thoảng

bao giờ

(%)
60
50
40
60
50
70

(%)
40
40
50
40
40
30

(%)
0
10
10
0

10
0

40

50

10
10

1. PP thuyết trình
2. PP vấn đáp
3. PP trực quan
4. PP phân vai
5. PP hợp tác làm việc theo nhóm
6. PP dạy học tình huống (Nghiên cứu
tình huống)
7. PP project
8. Các phương pháp khác

40

50

1.2.3 Những thành công và hạn chế:
1.2.3.1 Những thành công:
-Ưng dụng có hiệu phương pháp vào giảng dạy
1.2.3.2 Những hạn chế
-Phương tiện, thiết dạy học còn thiếu
-Ý thức tự tìm hiểu pháp luật đang còn hạn chế

1.2.3.3 Nguyên nhân
-Thiểu tài liệu để tham khảo
-Học sinh xem nhẹ môn học, coi là môn học phụ.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam,
13


giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả đã trình bày
làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học như khái niệm, cấu
trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả năng vận dụng vào
giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ thông hiện nay.

CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THCS KHÁNH VĨNH.
2.1 Thực trạng chung về tình hình dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường
THCS Khánh Vĩnh:
- Là môn học thường xem là môn học phụ, vì vậy trong quá trình dạy học đòi hỏi
người giáo viên nổ lực nhiều trong việc ứng dụng phương pháp, phương tiện, các hình
thức tổ chức vào môn học.
- Thiếu các tài liệu, tư liệu, tranh ảnh.
- Việc tự tìm hiểu về pháp luật còn chưa cao.
2.2 Thực trạng sử dụng Phương pháp dạy học nói chung, Phương pháp dạy học
tình huống (hay nghiên cứu tình huống) nói riêng trong dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường THCS Khánh Vĩnh
- - Đặc điểm vùng dân cư Hà Tĩnh vốn là vùng thuần nông, kinh tế phụ thuọcc
vào nông nghiệp là chính, trình độ dân trí không đồng đều.
- Việc tiếp cận kiến thức môn học còn hạn chế, phần lớn học sinh còn coi Giáo
dục công dân là môn phụ nên chưa nhiệt tình với môn học.

- Phương tiện dạy học còn thô sơ, việc đầu tư mua sắm thiết bị còn ít, đội ngũ
giáo viên chưa thực sự đồng bộ, kiến thức bộ môn chưa thực sự sâu sắc, đặc biệt việc
nắm bắt các đơn vị kiến thức Pháp luật còn hạn chế.
- Học sinh khối lớp 6 thường có tư tưởng , tâm lý coi nhẹ bộ môn Giáo dục
Công dân.
2.3. Thiết kế giáo án vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
Thiết kế giáo án có vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong phần
công dân với đạo đức chúng tôi lựa chọn có hai bài với hai tiết:
Bài 2: Siêng năng, kiên trì (tiết 1).
Bài 12: Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em ( tiết 1 ).
* Thiết kế giáo án lớp đối chứng.
Giáo án lớp đối chứng chúng tôi dạy theo phương pháp thuyết trình và đàm thoại trên
cơ sở giáo án đã thiết kế sẵn.
* Thiết kế giáo án lớp thực nghiệm.
14


Trên cơ sở các bài học lựa chọn, chúng tôi thiết kế giáo án theo hướng vận dụng
phương pháp dạy học bằng tình huống để thực hiện.
Cụ thể như sau:
Thiết kế giáo án thực nghiệm số 1
BÀI 2: SIÊNG NĂNG, KIÊN TRÌ
I.Mục tiêu bài học
1.Về kiến thức
- Học sinh nắm được thế nào là siêng năng,kiên trì và các biểu hiện của siêng
năng, kiên trì.
- Ý nghĩa của siêng năng, kiên trì.
2. Thái độ
Quyết tâm rèn luyện tính siêng năng, kiên trong học tập, lao động và các hoạt
động khác.

3. Kĩ năng
- Có khả năng tự rèn luyện đức tính siêng năng.
- Phác thảo dược kế hoạch vượt khó, kiên trì, bền bỉ trong học tập, lao động và
các hoạt động khác... để trở thành người tốt.
II . Các kĩ năng sống cơ bản được giáo dục trong bài
- Kĩ năng xác định giá trị , kiên trì là một giá trị của con người
-Kĩ năng tư duy phê phán,đánh giá những hành vi ,việc làm thể hiện đức tính
siêng năng
III. Các phương pháp/Kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng
Thảo luận nhóm, , tổ chức trò chơi,nghiên cứu trường hợp điển hình,chúng em
biết 3,trình bày 1 phút
IV.Tài liệu, phương tiện
Bài tập trắc nghiệm, chuyện kể về các tấm gương danh nhân, bài tập tình
huống. Tranh ảnh bài 6 trong bộ tranh GDCD.
VI.Các hoạt động dạy học
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ:
- Hãy kể một việc làm chứng tỏ em biết tự chăm sóc sức khoẻ bản thân?
- Hãy trình bày kế hoạch tập luyện TDTT?
3. Bài mới.
Hoạt động 1: Giới thiệu bài. (Có thể sử dụng tranh hoặc một câu chuyện có nội
dung thể hiện đức tính siêng năng, kiên trì).

15


Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung cần đạt
Hoạt động 2: Tìm hiểu biểu hiện của đức tính 1. Tìm hiểu bài (truyện đọc)
siêng năng, kiên trì của Bác Hồ.

GV: Gọi 1 đến 2 đọc truyện “Bác Hồ tự học ngoại
ngữ” cho cả lớp cùng nghe và dùng bút gạch chân
những chi tiết cần lưu ý trong câu truyện (trước khi
giáo viên đặt câu hỏi)
GV:Yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi sau:
Câu 1: Bác Hồ của chúng ta biết mấy thứ tiếng?
HS: Trả lời theo phần gạch chân trong SGK.
GV bổ sung thêm: Bác còn biết tiếng Đức, ý, Nhật...
Khi đến nước nào Bác cũng học tiếng nước đó.
Câu 2: Bác đã tự học như thế nào?
HS: Bác học thêm vào 2 giờ nghỉ (ban đêm)
Bác nhờ thuỷ thủ giảng bài, viết 10 từ mới vào cánh
tay, vừa làm vừa học;...
GV: Nhận xét... cho điểm
Câu 3: Bác đã gặp khó khăn gì trong học tập?
HS: Bác không được học ở trường lớp, Bác làm phụ
bếp trên tàu, thời gian làm việc của Bác từ 17 – 18
tiếng đồng hồ, tuổi cao Bác vẫn học.

- Bác Hồ của chúng ta đã có lòng quyết

GV: Bổ sung: Bác học ngoại ngữ trong lúc Bác vừa tâm và sự kiên trì.
lao động kiếm sống vừa tìm hiểu cuộc sống các
nước, tìm hiểu đường lối cách mạng...

- Đức tính siêng năng đã giúp Bác thành

Câu 4: Cách học của Bác thể hiện đức tính gì?

công trong sự nghiệp.


HS: Cách học của Bác thể hiện đức tính siêng năng,
kiên trì.

2. Nội dung bài học.

GV: Nhận xét và cho học sinh ghi

a. Thế nào là siêng năng, kiên trì.

Hoạt động 3: Tìm hiểu khái niệm siêng năng,
kiên trì.
GV: Em hãy kể tên những danh nhân mà em biết
nhờ có đức tính siêng năng, kiên trì đã thành công
xuất sắc trong sự nghiệp của mình.
HS: Nhà bác học Lê Quý Đôn, GS – bác sĩ Tôn
Thất Tùng, nhà nông học Lương Đình Của, nhà bác
học Niutơn...
16


Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung cần đạt
GV: Hỏi trong lớp học sinh nào có đức tính siêng
năng, kiên trì trong học tập?
HS: Liên hệ những học sinh có kết quả học tập cao
trong lớp.
GV: Ngày nay có rất nhiều những doanh nhân,
thương binh, thanh niên...thành công trong sự
nghiệp của mình nhờ đức tính siêng năng, kiên trì.

HS: Làm bài tập ttrắc nghiệm sau: (đánh du x vào
ý kiến mà em đồng ý):
Người siêng năng:
- Là người yêu lao động.
- Miệt mài trong công việc.
- Là người chỉ mong hoàn thành nhiệm vụ.
- Làm việc thường xuyên, đều đặn.
- Làm tốt công việc không cần khen thưởng.
- Làm theo ý thích, gian khổ không làm.
- Lấy cần cù để bù cho khả năng của mình.
- Học bài quá nửa đêm.

- Siêng năng là phẩm chất đạo đức của

GV: Sau khi học sinh trả lời, giáo viên phân tích và con người. Là sự cần cù, tự giác, miệt
lấy ví dụ cho học sinh hiểu.

mài, thường xuyên, đều đặn.

HS: Lắng nghe và phát biểu thế nào là siêng năng, - Kiên trì là sự quyết tâm làm đến cùng
kiên trì.

dù có gặp khó khăn, gian khổ

GV: Nhận xét và kết luận:
4. Cũng cố bài.
GV: Yêu cầu học sinh nhắc lại phần nội dung bài học.
Bài tập: Những việc làm dưới đây biểu hiện của tính siêng năn, kiên trì hay không
siêng năng, kiên trì (đánh dấu nhân vào ô tương ứng)
Việc làm


a.Học bài xong mới đi chơi
b.Cứ thay phim hay trên ti vi là xem dù chưa làm xong
bài tập
c.Gặp bài toán khó quyết tâm làm bằng được
d.Vừa chăm làm việc nhà vừa chăm học bài
5.Dặn dò :
17

Siêng

Không

năng,

siêng năng,

kiên trì

kiên trì


-Học sinh về nhà làm bài tập a, b
-Xem qua phần còn lại trong SGK
Thiết kế giáo án thực nghiệm số 2
BÀI 12 : CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỂN TRẺ EM
<Tiết 1>
I.Mục tiêu bài học
1.Về kiến thức
- Hiểu các quyền cơ bản của trẻ em theo công ước của Liên Hợp Quốc.

2. Thái độ
- Học sinh tự hào là tương lai của dân tộc, của đất nước.
- Biết ơn những người chăm sóc, dạy dỗ, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho
mình.
3. Kĩ năng
- Phân biệt được những việc làm vi phạm quyền trẻ em và việc làm tôn trọng
quyền trẻ em.
- Học sinh thực hiện tốt quyền và bổn phận của mình; tham gia ngăn ngừa, phát
hiện những hành vi vi phạm quyền trẻ em.
II.Các kĩ năng cơ bản được giáo dục trong bài
-Kĩ năng thể hiện sự cảm thông
-Kĩ năng tư duy phê phán
-Kĩ năng giao tiếp ứng xử
III.Phương pháp
Thảo luận nhóm, giải quyết tình huống, đàm thoại.
IV.Tài liệu, phương tiện
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em, tranh trong bộ tranh GDCD 6, phiếu
học tập...
V.Các hoạt động dạy học
1. Ôn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ:
GV: Mục đích học tập của em là gì? Em có kế hoạch gì để thực hiện mục đích
đó?
3. Bài mới.
Hoạt động 1: Giới thiệu bài.

18


Hoạt động của giáo viên và học

sinh
Hoạt động 2: Khai thác truyện

Nội dung cần đạt
1. Truyện đọc

đọc.
HS: Đọc truyện “Tết ở làng trẻ em
SOS Hà Nội”

- Gợi ý: Trẻ em mồ côi trong làng trẻ SOS Hà
Nội sống hạnh phúc.

GV: - Tết ở làng trẻ em SOS Hà Nội
diễn ra như thế nào?
- Em có nhận xét gì về cuộc
sống của trẻ em ở làng SOS Hà Nội?

- Năm 1989 Công ước Liên Hợp quốc về quyền

HS: Trả lời....

trẻ em ra đời.

Hoạt động 3: Giới thiệu khái quát
về công ước.
GV: Giới thiệu điều 20 Công ước

- Năm 1991 Việt Nam ban hành Luật bảo vệ ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.


Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Bằng cách chiếu lên màn hình.
HS: Ghi chép....
GV: Giải thích: - Công ước Liên

2. Nội dung bài học

hợp quốc... là luật quốc tế về quền

a. Nhóm quyền sống còn:

trẻ em.

Là những quyền được sống và được đáp ứng

- Việt Nam là nước đầu tiên ở châu

các nhu cầu cơ bản để tồn tại, như dược nuôi

á và thứ hai thế giới tham gia Công

dưỡng, được chăm sóc sức khoẻ...

ước liên hợp quốc về quyền trẻ em,

b. Nhóm quyền bảo vệ:

đồng thời ban hành luật về đảm bảo


Là những quyền nhằm bảo vệ trẻ em khỏi mọi

việc thực hiện quyền trẻ em ở Việt

hình thức phân bịêt đối xử, bị bỏ rơi, bị bóc lột và

Nam.

xâm hại.

Hoạt động 4: Xây dựng nội dung

c. Nhóm quyền phát triển:

bài học:

Là những quyền được đáp ứng các nhu cầu cho

GV: Đặt câu hỏi để dẫn dắt học sinh

sự phát triển một cách toàn diện như: được học

trả lời nội dung bài học:

tập, vui chơi giải trí, được tham gia hoạt động
văn hoá, nghệ thuật...
d. Nhóm quyền tham gia:
Là những quyền được tham gia vào những công
việc có ảnh hưởng đến cuộc sống của trẻ em,
như được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng của mình.


19


4. Cũng cố, dặn dò:
GV: - Yêu cầu học sinh nêu khái quát Công ước ....
- Mục đích của việc ban hành Công ước ....
- Học sinh về nhà làm bài tập
Bài tập: Mai là học sinh lớp 6, vì kinh tế gia đình khó khăn nên cứ đến hè là Mai xin
mẹ lên thành phố xim giúp việc trong gia đình để kiếm thêm tiền iups bố mẹ và trang
trải việc học hành của bản thân trong năm học mới. Gia đình cô Lành mà Mai ở đối xử
với Mai rất tốt, coi Mai như con cháu trong nhà, vì thấy Mai ngoan ngoãn, chịu khó,
cô Lành lại sắp sinh em bé nên cô đã gạ gẫm Mai bỏ học ở lại làm giúp cô, cô sẻ trả
thêm tiền và sau này lo việc cho Mai. Tuy vậy, nhưng Mai vẫn quyết định trở về quê
đi học.
Em thấy việc làm của cô Lành có đúng không? Vì sao? Bạn Mai là một bạn nhr như
thế nào, có gì để chúng ta học tập.
5. Dặn dò
Tìm hiểu bài tiếp theo.
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM
2.1. KẾ HOẠCH THỰC NGHIỆM
2.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học phần công dân với đạo đức trong chương trình Giáo dục công dân lớp 6
tại trường THCS Khánh Vĩnh nhằm xác định sự đúng đắn và hiệu quả của phương
pháp dạy học bằng tình huống trong việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học
tập phần công dân với đạo đức trong chương trình Giáo dục công dân lớp 6.
2.1.2. Phương pháp thực nghiệm
Trong quá trình thực nghiệm để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả sử dụng phương pháp điều tra số liệu

thông qua phát phiếu thăm dò để khảo sát trình độ lớp đối chứng và lớp thực nghiệm,
tiến hành giảng dạy các lớp đã lựa chọn, kiểm tra đánh giá kết quả lớp dạy, tác giả
phân tích, tổng hợp số liệu thu thập được sau khi giảng dạy. Trên cơ sở phân tích số
liệu đó tác giả rút ra kết luận về hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống.
2.1.3. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả lựa chọn học sinh của
các lớp 6A, 6B và lớp 6C trường THCS Khánh Vĩnh, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Trong các lớp được lựa chọn thì lớp 6C là lớp thực nghiệm còn lớp 6B là lớp đối
chứng.
20


Thời gian tiến hành thực nghiệm là từ tháng 1 đến cuối tháng 3 năm 2015.
2.1.4. Nội dung thực nghiệm
Nội dung được lựa chọn để tiến hành thực nghiệm là phần công dân với đạo
đức thuộc chương trình Giáo dục công dân lớp 6, phần này bắt đầu từ bài số 1 đến bài
số 11. Trong phần công dân với đạo đức tác giả lựa chọn 2 bài để tiến hành thiết kế
giáo án thực nghiệm bao gồm các bài:
-

Bài 2: Siêng năng, kiên trì (tiết 1)

-

Bài 12: Công liên quốc về quyền trẻ em (tiết 1)

2.2. TIẾN TRÌNH THỰC NGHIỆM
2.2.1. Khảo sát khối lớp đối chứng với khối lớp thực nghiệm:
Khối lớp dự kiến dạy đối chứng là lớp 6C và khối lớp dự kiến dạy thực nghiệm
là lớp 6 của trường THCS KhánhVĩnh, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh..

Lớp 6C: sĩ số lớp là 30 có 17 nữ và 13 nam. Học lực giỏi 4 chiếm 13%, khá 15
chiếm 15%, trung bình là 11 chiếm 37%.
Lớp 6B: sĩ số lớp là 30 có 15 nữ và 15 nam. Học lực loại giỏi 2 chiếm 6%, khá
10 chiếm 33%, trung bình 18 chiếm 61%.
Qua khảo sát lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ta thấy sức học của hai lớp này tương
đối đồng đều, đây là điều kiện thuận lợi để thực nghiệm sư phạm.
2.2.1. Kết quả thực nghiệm:

21


C. KẾT LUẬN
PPNCTH là một phương pháp đặc thù của dạy học giải quyết vấn đề theo tình
huống, ở đó, các tình huống là đối tượng chính của quá trình dạy học. Như đã nói ở
trên, trường hợp được nêu ra trong dạy học là những tình huống dạy học điển hình và
quá trình người học nghiên cứu trường hợp cũng chính là quá trình hiểu và vận dụng
tri thức. Theo Nguyễn Hữu Lam (2003), “phương pháp tình huống là một kỹ thuật
giảng dạy trong đó các thành tố chủ yếu của nghiên cứu tình huống được trình bày với
những người học với các mục đích minh họa hoặc các kinh nghiệm giải quyết vấn
đề”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa GDCD 6, nhà xuất bản giáo dục
2. Sách giáo viên GDCD 6, nhà xuất bản giáo dục
3. Đặng Thúy Anh (chủ biên ), Luyện tập và tự kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.
4. Nguyễn Hữu Châu, Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD, nhà
xuất bản giáo dục.

22




×