Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Chữ “hòa” của Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.84 KB, 119 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI, thế kỉ mà ranh giới giữa các quốc gia
dần bị xóa mờ, các nền văn hóa trên thế giới thâm nhập vào nhau, xu hướng toàn
cầu hóa đã lan rộng và trở thành yêu cầu bắt buộc với tất cả các quốc gia. Theo đó,
mâu thuẫn giữa các quốc gia, các dân tộc, các đảng phái chính trị đặt ra nhu cầu cần
được giải quyết trên phương diện hòa bình, đối thoại. Việc xây dựng nền hòa bình
bền vững vẫn là mong ước của toàn nhân loại. Nền hòa bình đó không chỉ ở chỗ
không có tiếng súng, mà còn là ở sự tự do trong cả đời sống xã hội và đời sống tinh
thần, ở đó, con người hòa hợp với chính bản thân mình và sống thân tình, bác ái với
cộng đồng trên tinh thần tự do, đoàn kết, khoan dung nhằm xây dựng một thế giới
hòa bình, ổn định, phát triển.
Trong những năm gần đây, thế giới dường như ngưỡng mộ và có xu hướng
quay trở lại nghiên cứu văn hóa phương Đông nói chung và triết học phương Đông
nói riêng bởi những nét đẹp văn hóa bền vững, văn minh và tính cấu kết cộng đồng
cao mà Nho giáo chính là hệ tư tưởng có sức ảnh hưởng lớn đến các nước phương
Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc, Việt Nam, Singapore…
Sức mạnh của bốn con rồng châu Á ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vị thế
của mình trên trường quốc tế mà những thành công rực rỡ về chính trị, kinh tế, xã
hội không thể thiếu vắng vai trò của các hệ tư tưởng. Nhật Bản cho rằng ba nội
dung văn hóa thúc đẩy rất lớn đến kinh tế Nhật Bản là “Nhân”, “Hòa” và “Trung”.
Đó cũng là những điểm gặp gỡ của các nền văn hóa phương Đông có cùng ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo, trong đó có Việt Nam.
Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng đã du nhập và trở thành yếu tố
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ảnh hưởng của nó trong lịch sử và lịch
sử tư tưởng dân tộc Việt Nam là một đề tài được các học giả quan tâm nghiên cứu


cùng với tiến trình phát triển của đất nước. Nho giáo đã và đang ngày càng khẳng
định được vị thế của mình trong công cuộc xây dựng, giữ gìn và phát huy truyền
thống văn hóa dân tộc. Đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, Đảng và Nhà nước ta xác định xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Nhưng cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước thì đạo đức
xã hội đang suy đồi, những di sản đạo đức truyền thống của cha ông đang ngày

1


càng mai một, nhất là quan hệ giữa người với người ngày càng cách xa, lý trí dần
thay cho tình cảm, thêm vào đó là sự mất cân bằng môi trường sinh thái mà nguyên
nhân trực tiếp là do con người không chú trọng giữ gìn tự nhiên. Những hệ lụy này
phải chăng là do chúng ta chưa đặt đạo đức lên đúng vị trí của nó? Hay do bản thân
con người đang mất đi sự cân bằng với chính bản thân mình, từ đó làm mất đi sự hài
hòa với tha nhân hay sự hòa hợp với thiên nhiên vạn vật. Những nội dung này đều
nằm trong quan niệm về chữ “hòa” của Nho giáo.
Cùng với tiến trình lịch sử của đất nước, Nho giáo đã để lại cho nền giáo dục
và đặc biệt là cho hệ thống tư tưởng những thế hệ nho sĩ có tác động mạnh mẽ đến
sự tồn tại và phồn thịnh của dân tộc, từ Nam giao học tổ Sĩ Nhiếp đến các vị vua
anh minh như Lê Thánh Tông…cho đến những “kẻ sĩ” xuất thân thuần túy từ “cửa
Khổng sân Trình” như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc
Khoan, Lê Quý Đôn…và nó vẫn ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng của các anh hùng
dân tộc thế kỉ XVIII với tên tuổi của các nho sĩ như Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh…
Điều đó khẳng định rằng, trong mỗi giai đoạn của lịch sử dân tộc, Nho giáo có
những đóng góp nhất định thông qua các nhân vật mà chính hệ thống học thuyết
này đào tạo nên; từ những vĩ nhân đó mà đất nước được giữ vững, nhân dân được
sống trong hòa bình và văn hóa dân tộc vẫn được giữ gìn. Ngày nay, tầng lớp nho sĩ
trong còn tồn tại trong xã hội, nhưng những dư âm của Nho giáo để lại trong đời
sống nhân dân cũng như trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam thì không thể lu

mờ. Hơn nữa, mục tiêu tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta
ngày nay lại có sự gặp gỡ với tư tưởng Nho học trong lịch sử ở tính đại đồng xã hội;
ở mục tiêu phát triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế, chính trị với môi trường; ở chủ
trương hòa nhập văn hóa mà không hòa tan… mà những nội dung đó cơ bản đều
nằm trong quan niệm của Nho giáo về chữ “hòa”. Vì vậy, tìm hiểu chữ “hòa” của
Nho giáo thông qua các nhân vật trong lịch sử để đi đến sự liên hệ với ngày nay,
nhằm chắt lọc những tinh túy của Nho giáo cũng như tinh hoa trong tư tưởng của
bậc tiền nhân để phục vụ cho đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục con
người, thiết nghĩ đó là việc làm thiết thực, khẳng định và làm sâu sắc hơn đường lối
của Đảng ta là “phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
Ở đây, trong giới hạn của luận văn, người nghiên cứu chọn Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông là ba đại diện cho giới nho sĩ trong lịch sử

2


tư tưởng Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu của mình. Bởi lẽ đây là ba học giả
điển hình, có tầm ảnh hưởng lớn đối với chính trị, xã hội, văn hóa và tư tưởng đối
với lịch sử dân tộc. Hơn nữa, mặc dù họ cùng sống trong một giai đoạn lịch sử nối
tiếp nhau nhưng đặc trưng xã hội của từng người lại khác nhau, đại diện đầy đủ cho
cả thời bình, thời trị; từ đó cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về ảnh hưởng
chữ “hòa” của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng dân tộc, đó là tiền đề quan trọng để
chúng ta liên hệ với ngày nay, nhằm phát huy tối đa những ưu điểm còn phù hợp và
hạn chế những mặt tiêu cực kìm hãm sự phát triển xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu lý luận và thực tiễn đang đặt ra, người nghiên
cứu lựa chọn đề tài “Chữ “hòa” của Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông” làm đề tài luận văn của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu


Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nho giáo đã từng giữ vai trò là quốc giáo
trong hệ thống kiến trúc thượng tầng và tác động sâu sắc vào mọi mặt đời sống
chính trị, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, phong tục tập quán hay tâm lý cộng đồng.
Vì vậy, vấn đề nghiên cứu Nho giáo cũng như ảnh hưởng của nó đến tư tưởng, đời
sống con người Việt Nam, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều khía cạnh,
quan điểm, nội dung với nhiều góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, tìm hiểu trực tiếp về
chữ “hòa” cũng như ảnh hưởng của nó trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông thì gần như chưa có công trình, tác phẩm nào. Vì
vậy, để nắm bắt được lịch sử nghiên cứu vấn đề này, người nghiên cứu khái quát
các công trình nghiên cứu thành các nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Các công trình đề cập đến chữ “hòa” của Nho giáo.
Tác phẩm “Nho giáo xưa và nay” (1991) – Vũ Khiêu, “Kinh lễ” (1999) –
Nguyễn Tôn Nhan, “Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa” (2002) của Dương
Lực,“Nho giáo Trung Quốc” (2004) – Nguyễn Tôn Nhan, “Cảm nhận mới về văn
hóa và văn học Trung Quốc” (2004) – Huy Tiêu… Ở đây, mặc dù nội dung chữ
“hòa” của Nho giáo không được tập trung một cách hệ thống, cụ thể trong một tác
phẩm nào nhưng nó được thể hiện rải rác và được nghiên cứu đan xen với các tư
tưởng, quan niệm khác của Nho giáo.
Trong tác phẩm “Kinh điển văn hóa 5000 năm Trung Hoa”, tác giả Dương
Lực đã đề cập đến chữ “hòa” trong mối quan hệ với chính trị, theo đó, quan điểm

3


chính trị của Chu dịch và của Nho gia đều tập trung vào mục đích đó là “giữ gìn sự
thái hòa, mọi nước đều yên ổn”.Ở đó, xã hội thái bình, cách mạng, đấu tranh và hòa
bình tồn tại thống nhất, hài hòa với nhau. Ngoài ý nghĩa chính trị, “hòa” trong tác
phẩm còn được đề cập đến với tư cách là bản tính của con người. Nho giáo cực kì
đề cao chữ “lễ”, nhưng khi thực hành “lễ”, một nguyên tắc phải nhất nhất tuân thủ

đó là “hòa vi quý”, trong khi vận dụng lễ phải lấy hòa là quý. Nhưng đỉnh cao của
“hòa” trong mối quan hệ giữa con người với con người thể hiện ở khái niệm “trung
hòa”. Tác phẩm nêu rõ “Trung hòa là bản tính của con người, cùng tồn tại với sự
sống, là trạng thái bản lai của thiên đạo nhân tính, hòa là chỉ tiết độ của việc thủ
trung. Duy trì đươc đạo trung hòa mới có thể phù hợp được với quy luật tự nhiên
của trời đất vạn vật.” Bên cạnh đó, tác giả đã tìm hiểu và nêu lên mối quan hệ giữa
“trung hòa” và “trung dung”. “Trung dung” là một phạm trù quan trọng, cơ bản của
học thuyết Nho giáo, vấn đề về mối quan hệ giữa “trung hòa” và “trung dung” vẫn
đang là vấn đề được bàn luận, tranh cãi. Trong tác phẩm này , tác giả cho rằng
“trung hòa” là một bước phát triển của đạo trung dung, là nguyên tắc phương pháp
luận của đạo trung dung.
Tìm hiểu một cách chi tiết, cụ thể hơn về “hòa” trong mối quan hệ với âm
dương, ngũ hành, bát quái, tác phẩm “Chu dịch vũ trụ quan” (1995), tác giả Lê Văn
Quán đã nêu lên tính chất cũng như sự tồn tại, vận hành của âm dương, ngũ hành là
xoay quanh chữ “hòa” thông qua khái niệm “hài hòa”. “Hài hòa” hay “đại hòa” là sự
hòa hợp đạt đến đỉnh cao, đó là trật tự tự nhiên của vũ trụ, là nguyên tắc con người phải
giữ với nhau và với trời thể hiện qua quan niệm “thiên nhân hợp nhất”. Ta bắt gặp một
quan điểm tiến bộ, sâu sắc và biện chứng trong tác phẩm khi cho rằng “hòa” là chỉ sự
điều hòa các thành phần, nhân tố, bộ phận khác nhau hay đối lập nhau, ví dụ như “âm”
và “dương”, “cương” và “nhu”, “lợi” và “nghĩa”… Tuy nhiên, đó không phải là sự
điều hòa vô nguyên tắc, theo chủ nghĩa chiết trung…mà là sự thống nhất hài hòa, là
“trung hòa”, giải quyết mọi mâu thuẫn trên yêu cầu và quyền lợi của cả hai bên.
Tìm hiểu một cách cụ thể triết lý chữ “hòa” trong các mối quan hệ xã hội,
tác giả Hoàng Tăng Cường thông qua tác phẩm “Triết lý Nho giáo về quan hệ cá
nhân – xã hội” (2006) đã nêu rõ mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là một
mối quan hệ thống nhất, hài hòa, trong đó con người là đầu, làm chủ vạn vật. Con
người có quyền sử dụng và khai thác thiên nhiên theo mục đích, nhu cầu của mình

4



nhưng phải xét đến sự cân bằng của môi trường sinh thái và tính tự nhiên hài hòa
của vạn vật, chớ sử dụng bừa bãi, khai thác quá độ mà mất đi cái tính “hòa” vốn có
của tự nhiên. Còn trong mối quan hệ giữa con người với con người, “hòa” là kết
quả của một xã hội lý tưởng, trong đó “nghĩa” và “lợi” là then chốt, bản thân hai
mặt đối lập này phải thống nhất, phải “hòa” thì xã hội mới yên ổn, con người mới
có thể sống với nhau hòa hợp, thân tình, phát triển bền vững.
Cũng đề cập tới lý tưởng về một xã hội “hòa”, trong cuốn “Nho giáo xưa và
nay”, tác giả Vũ Khiêu đã khái quát về lý tưởng xã hội đại đồng của Nho giáo và
cho rằng lý tưởng về một xã hội “hòa” mang phần ảo tưởng. Bởi lẽ đó là một xã
hội hòa mục, trật tự và ổn định. Con người sống từ ái, khiêm nhường, “lấy hòa làm
quý, lấy thuận làm tôn”… Đó là mục tiêu, là đích hướng tới của một hệ thống tư
tưởng chính trị - tôn giáo phục vụ cho giai cấp cầm quyền, bảo vệ cho chế độ chính
trị độc quyền của tập đoàn phong kiến Trung Hoa thời đó, nhằm ổn định trật tự xã
hội, trị yên thiên hạ và duy trì chế độ phong kiến phồn thịnh.
Nhìn chung, mặc dù chưa đi sâu vào tìm hiểu một cách cụ thể, hệ thống quan
điểm của Nho giáo về chữ “hòa”, nhưng các công trình đi trước đã cho ta cái nhìn
khái quát về nội dung chữ “hòa” cũng như cung cấp cơ sở lý luận để người nghiên
cứu đi sau có thể căn cứ bổ sung, hoàn thiện, phát triển.
Nhóm thứ 2: Là nhóm các công trình nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông.
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông đều là những vĩ nhân
trong lịch sử và lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, vì vậy nghiên cứu tư tưởng của
ba tác gia này đã có rất nhiều công trình tìm hiểu ở nhiều góc độ khác nhau.
Về Nguyễn Trãi: Ông được biết đến với tư cách là nhà thơ, nhà văn, nhà
chính trị, nhà văn hóa và nhà tư tưởng, vì vậy các công trình nghiên cứu về ông
cũng xoay quanh những giá trị ông để lại trong các lĩnh vực khác nhau. Ở đây
chúng ta khảo luận một số công trình nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Trãi và ảnh
hưởng của Nho giáo trong tư tưởng của ông. Các công trình nổi bật có thể kể đến
như “Nguyễn Trãi – nhà văn học và chính trị thiên tài” (Mai Hanh – Nguyễn Đổng

Chi – Lê Trọng Khánh đồng chủ biên), “Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch
sử Việt Nam, Nguyễn Trãi” – Trần Huy Liệu, “Nho giáo tại Việt Nam”, “Chủ
nghĩa nhân văn và văn hóa dân tộc”, “Lịch sử tư tưởng Việt Nam”, “Quân sư

5


Nguyễn Trãi”… Các tác phẩm này chủ yếu khai thác tư tưởng Nguyễn Trãi thông
qua các tác phẩm của ông, thông qua chiến lược đường lối đấu tranh ngoại giao mà
Nguyễn Trãi để lại, đồng thời đánh giá giá trị và ảnh hưởng của tư tưởng Nguyễn
Trãi trong tiến trình lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Về Nguyễn Bỉnh Khiêm: Cũng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là
một nhà thơ, nhà chính trị lỗi lạc. Tư tưởng của ông được thể hiện thông qua một số công
trình nghiên cứu như “Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hóa”, “người tri thức Việt
Nam qua các chặng đường lịch sử”, “Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý thế sự”,
“Nguồn suối nho học và thơ ca Bạch vân cư sĩ”, “Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm”,
“Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý”, “Quan niệm con người và giáo dục con người
của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Ngô Thị Nhậm” (LATSTH)… Qua các công
trình này, Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ được biết đến là nhà tư tưởng đơn thuần mà
ông còn được gọi là nhà lý học, nhà dịch học. Ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của “Kinh
dịch” và ứng dụng chúng vào cuộc sống thực tế một cách nhuần nhuyễn trong cả đời
sống cá nhân và cả đời sống chính trị xã hội.
Về Lê Thánh Tông: Khác với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh
Tông là một vị vua nắm quyền lãnh đạo, quản lý đất nước, vì vậy mà tư tưởng và
ảnh hưởng Nho học trên tư tưởng của ông có phần khác biệt. Lê Thánh Tông không
để lại một tác phẩm nào thuần túy thể hiện tư tưởng của ông, nhưng thông qua các
sách sử ghi chép thời ông, thông qua các tác phẩm ông để lại cho đời…đều thể hiện
những quan điểm nhất quán của ông về vũ trụ, vạn vật, con người, thế sự, vì vậy
ông vẫn được gọi là nhà tư tưởng. Một số công trình nghiên cứu tư tưởng của ông
đó là “Lê Thánh Tông – vị vua anh minh, nhà canh tân lỗi lạc”; “Kỷ yếu hội thảo

khoa học về hoàng đế Lê Thánh Tông”; “Lê Thánh Tông – về tác gia và tác phẩm”;
“Việt sử thông giám cương mục”…
Nhóm thứ 3: Là nhóm các công trình có đề cập đến ảnh hưởng chữ “hòa”
của Nho giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông.
Công trình “Tư tưởng nhân văn của Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong tư
tưởng Nguyễn Trãi”, tác giả Triệu Quang Minh cho chúng ta thấy học thuyết
Khổng – Mạnh đã ảnh hưởng sâu sắc đến Nguyễn Trãi – một đại thi hào dân tộc. Tư
tưởng nhân văn Nho giáo đã thấm nhuần trong tâm hồn Nguyễn Trãi làm nền tảng
hình thành tư tưởng thân dân, khoan dung và tư tưởng về “hòa”. Trong đó “hòa”

6


thể hiện vai trò của mình trong việc tu dưỡng đạo đức, sửa điều hòa mục và lý
tưởng xây dựng một xã hội hòa bình, thịnh trị.
Tư tưởng “hòa” của Nguyễn Trãi không giới hạn trong đời sống chính trị, xã
hội mà nó còn thể hiện qua văn chương, nghệ thuật. Công trình “Nguyễn Trãi – nhà
văn học và chính trị thiên tài” đã đưa ra quan điểm của Nguyễn Trãi về nhạc đó là,
‘”hòa bình là gốc của nhạc”, đồng thời công trình cũng mở rộng với Nguyễn Trãi,
hòa bình là mục tiêu của chiến tranh, trong nghệ thuật ngoại giao thì luôn theo chủ
trương “hòa” nhưng “hòa” mà không “đồng”…
Cuốn “Triết lý chữ Hòa” (2001) của Lý Minh Tuấn, tác giả nêu khái quát
ảnh hưởng của Nho giáo cũng như quan niệm “hòa” của Nho giáo đối với tư tưởng
của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Xuất phát từ quan niệm “hòa”của Nho giáo, “ông nhàn”
đặt “hòa vi quý” trở thành nguyên tắc sống cơ bản và phương pháp điều hành chính
trị. Từ đó, mọi lĩnh vực Nguyễn Bỉnh Khiêm tham gia từ thơ ca tới chính trị đều
thấm nhuần quan niệm này. Bên cạnh đó, tác giả Lý Minh Tuấn cũng khái quát mối
quan hệ chữ “hòa” với chữ “nhân”, chữ “vương”, chữ “thành” trong quan điểm của
Nho giáo, tác giả cũng đã phần nào liên hệ chữ “hòa” ảnh hưởng đến một số lĩnh
vực trong đời sống văn hóa người phương Đông như trong âm nhạc, đó là sự hòa

hợp giữa các âm thanh; trong hội họa là cái “hòa” giữa con người với thiên nhiên
vạn vật; trong kiến trúc là sự đan xen, kết hợp cân đối giữa cái nhân tạo và cái thiên
nhiên, giữa nhà và cảnh vật.
Trong phần “Thế giới quan triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm” nằm trong
công trình “Lịch sử tư tưởng Việt Nam” tập 1, đã nêu lên tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm về “thiên nhân hợp nhất”, về sự hòa hợp giữa người và trời, giữa đạo người
và đạo trời, từ đó dẫn tới việc ông chủ trương sống theo “mệnh” và “dĩ hòa vi quý”
– khuyên răn người ta chớ tranh giành, đấu đá nhau làm chi vì mọi sự giàu, nghèo,
sang, hèn, được, mất…thì đều đã được quy định bởi mệnh trời. Đây là phần hạn chế
trong tư tưởng của ông.
Nhìn chung, tất cả các công trình đã nêu trên cho thấy chữ “hòa” trong hệ
thống học thuyết chính trị - đạo đức của Nho giáo chiếm một vị trí quan trọng, thậm
chí có nhà nghiên cứu đã cho rằng quan niệm về “hòa” chính là yếu tố then chốt, là
phạm trù trung tâm của Nho giáo. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu nó ở cả phạm vi
lý luận và liên hệ thực tiễn đều là những yêu cầu có ý nghĩa thiết thực.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7


Mục đích của luận văn là góp phần tìm hiểu một cách hệ thống nội dung cơ
bản của chữ “hòa” trong quan điểm của Nho giáo và nghiên cứu ảnh hưởng của chữ
“hòa” trong tư tưởng của ba đại biểu Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê
Thánh Tông, đồng thời bước đầu liên hệ với thực tiễn Việt Nam ngày nay về giá trị
và ý nghĩa của “hòa”.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích điều kiện kinh tế - xã hội và những tiền đề về văn hóa – tư
tưởng thời Xuân thu – Chiến Quốc ở Trung Hoa, đó là cơ sở cho sự ra đời của Nho
giáo cũng như quan niệm của Nho giáo về chữ “hòa”.
Hai là, khái quát và phân tích những nội dung cơ bản của chữ “hòa” trong

học thuyết chính trị - đạo đức Nho giáo.
Ba là, tìm hiểu sự tiếp nhận và phát triển của Nho giáo tại Việt Nam, điều
kiện kinh tế xã hội trong lịch sử Việt Nam giai đoạn XV – XVI, từ đó phân tích
những ảnh hưởng của chữ “hòa” trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thông qua ba đại
biểu tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông.
Bốn là, bước đầu liên hệ với thực tiễn Việt Nam ngày nay nhằm chắt lọc
những giá trị của “hòa” trong thời đại mới đồng thời nêu lên những hạn chế cần
khắc phục, tránh những sai lầm không đáng có khi vận dụng quan điểm “hòa”.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Chữ “hòa” của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối
với tư tưởng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh Tông.
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn chủ yếu nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về “hòa”, bên cạnh
đó có liên hệ chữ “hòa” của Nho giáo với một số quan điểm của các trường phái,
học thuyết khác.
- Luận văn tập trung tìm hiểu ảnh hưởng chữ “hòa” trong lịch sử tư tưởng
dân tộc thông qua ba đại biểu là Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Lê Thánh
Tông. Bên cạnh đó luận văn có liên hệ ảnh hưởng chữ “hòa” đối với tư tưởng của
Hồ Chí Minh và đường lối xây dựng xã hội – xã hội chủ nghĩa của Đảng ta trong
giai đoạn mới.
- Vấn đề liên hệ quan niệm “hòa” với Việt Nam ngày nay chỉ mang tín gợi
mở bước đầu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

8


Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng
ta về mục tiêu xây dựng xã hội - xã hội chủ nghĩa. Từ đó luận văn xác định sử dụng

các phương pháp: Logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, quy nạp – diễn dịch, đối
chiếu – so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
-

Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung chữ

“hòa” trong quan niệm của Nho giáo.
-

Luận văn góp phần tìm hiểu ảnh hưởng của Nho giáo trong lịch sử tư

tưởng dân tộc qua các đại biểu tiêu biểu, từ đó góp phần đa dạng hóa sự hiện diện
của đạo Nho trong lịch sử dân tộc.
-

Luận văn trình bày sự liên hệ giữa lý luận “hòa” với thực tiễn ngày nay mang

thế giới quan mới và những bài học đạo đức thiết thực cho cuộc sống con người.
-

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy triết học, đặc biệt là lịch sử triết học Trung Quốc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu chủ yếu gồm 2 chương, 5 tiết.

9



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ CHỮ “HÒA”
1.1.

Những điều kiện và tiền đề cơ bản cho sự ra đời quan niệm của

Nho giáo về chữ “hòa”
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc (720 -221 TCN) là thời kỳ lịch sử sôi động với
nhiều biến chuyển mạnh mẽ , sâu sắc, toàn diện về cả đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội... Đây cũng là thời kỳ nở rộ trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, nhiều học
thuyết triết học, chính trị ra đời; nhiều nhà tư tưởng tài ba lỗi lạc xuất hiện có ảnh
hưởng sâu sắc đến văn hóa và tư tưởng Trung Quốc sau này.
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về kinh tế: Bước phát triển quan trọng nhất ở thời kì này đó là sự ra đời của đồ
sắt. Nhờ đó, ruộng đất được khai hoang, thủy lợi được coi trọng làm cho năng suất lao
động ngày một tăng. Trong thời kì này, thủ công nghiệp cũng có những biến chuyển mới
như xuất hiện nhiều xưởng đồng, sắt, dệt, gốm, mộc... Thương nghiệp phát triển khá
mạnh, tiền được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở phát triển của lực
lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ với chế độ sở hữu tỉnh điền bóc lột
nhân dân lao động theo kiểu của thiên tử nhà Chu quy định trước đây không còn phù hợp
nữa, đòi hỏi phải thay thế bằng một hình thức sở hữu khác.
Về chính trị: Nhà Chu (1122 – 222TCN), sau khi Tây Bá Phát diệt vua Trụ
(nhà Ân) lên ngôi thiên tử, tức Vũ Vương (1122 – 1115 TCN) đóng đô ở đất Cảo,
mở ra một thời thịnh thế lâu dài, bốn phương yên định, nhân dân được an cư lạc
nghiệp. Nhưng kể từ thiên tử thứ 22 là Lệ Vương (878 – 827 TCN), Trung Quốc bắt
đầu bước vào thời kì nhiễu loạn, nông dân bắt đầu nổi dậy, chư hầu xâu xé lẫn nhau.
Rồi U Vương (781 – 770 TCN) bị Khuyển Nhung giết, Bình vương (770 – 719) nối
ngôi, dời đô sang phía đông nhưng tình hình vẫn không hơn gì. Đến đây, nhà Chu
chia làm hai thời kì là Xuân thu (720 – 481 TCN) và Chiến quốc (480 – 221 TCN).

Uy phong của vương triều suy giảm rõ rệt, thiên tử chỉ còn là “thần tượng” để các
chư hầu nhân danh đàn áp lẫn nhau, cố giành ngôi bá chủ. Chiến tranh xảy ra liên
miên, cục diện xã hội hết sức rối ren. Chế độ phong kiến đã làm cho nhà Chu mất
dần đất đai, chỉ còn trông đợi vào sự cống hiến của các chư hầu, mà các chư hầu
thường cố tình lảng quên nhiệm vụ này. Các nước lăm le đạt được ngôi vị bá chủ
nên luôn rình rập thôn tính nhau, khiến nhân dân như “cá nằm trên thớt”. Các cuộc

10


trường chinh liên tục xảy ra khiến cho nhân dân lao động luôn phải sống trong nỗi
lo sợ chiến tranh và phải phục dịch cho “vương sự”.
Về xã hội: Trong xã hội, giai cấp bị phân hóa rõ rệt. Thời Xuân Thu, chế độ
tỉnh điền dần dần tan rã, đến thời Chiến Quốc, chế độ ruộng tư ngày càng phát triển
mạnh mẽ làm cho một bộ phận trong xã hội do có ruộng đất riêng đã trở thành
những địa chủ mới; khi đó không những quan lại nhà nước mà một số nhà buôn
giàu có cũng chiếm địa vị cao trong xã hội.
Sự tan rã của chế độ tỉnh điền cũng làm cho giai cấp nông dân bị phân hóa.
Một bộ phận nông dân vẫn giữ được đất như trước kia trở thành nông dân tự canh,
một bộ phận khác hoàn toàn “không có tấc đất cắm dùi”, buộc phải làm tá điền hoặc
đi cày thuê cho địa chủ.
Sự phân hóa giai cấp đó dẫn đến mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, đó là
mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến mới nổi lên với giai cấp quý tộc đang
nắm quyền chính trị nhưng yếu về kinh tế; mâu thuẫn giữa bộ phận quý tộc bảo thủ
với bộ phận quý tộc muốn đổi mới nhằm duy trì lợi ích của mình; mâu thuẫn giữa
nông dân, nông nô với giai cấp địa chủ quý tộc.
Sang thời Chiến Quốc, các mâu thuẫn ấy vẫn không ngừng phát triển, thêm nữa,
chiến tranh giữa các nước vẫn xảy ra liên miên và ngày càng khốc liệt hơn. Tình hình ấy
đã làm cho xã hội hết sức rối loạn, sản xuất bị đình trệ, ruộng vườn bị bỏ hoang, đời sống
nhân dân vô cùng cực khổ. Xã hội bị đảo lộn, đạo đức suy đồi, hiện tượng “bề tôi giết

vua, con giết cha, em giết anh” thường xuyên xảy ra. Sự mục ruỗng của xã hội đã làm
cho chế độ nhà Chu nhanh chóng suy tàn, những mâu thuẫn trong xã hội đạt đến đỉnh
cao làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ nhanh chóng tan rã.
Trong bối cảnh con người bất hòa, chiến tranh trong ngoài xảy ra liên miên,
bản thân con người cũng không còn giữ được thế “ôn hòa” cho mình mà bị cuốn
theo vòng xoáy của xã hội như thế, các nhà sáng lập Nho giáo manng tinh thần nhập
thế không mệt mỏi, mong muốn thiết lập lại một trật tự xã hội ổn định, an lạc, thái
hòa; ở đó không có chiến tranh, con người sống thân ái, nhân hòa. Khổng Tử và
Mạnh Tử, hai vị thánh của Nho giáo cho rằng nguồn gốc của loạn ly là tranh giành,
kiện tụng và chiến tranh, đẻ ra từ chỗ không ai chịu yên phận, yên mệnh, người
nghèo muốn giàu, người giàu muốn giàu thêm, tìm mọi cách giành thêm cho nhiều.
cho nên cách cứu đời theo họ là xác định phân vị, làm cho mọi người biết phận, yên
phận, nhường nhìn nhau. Như thế thì xã hội sẽ hòa mục, trật tự và ổn định.

11


1.1.2. Tiền đề văn hóa - tư tưởng
Những biến động phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội thời Xuân Thu – Chiến
Quốc như cuộc chiến tranh giành ngôi thiên tử khốc liệt kéo dài, mâu thuẫn xã hội ngày
càng rối ren, phức tạp làm cho dân tình đói khổ, loạn ly, kỷ cương xã hội đảo điên, đạo
đức suy vi, ... đã làm nảy sinh nhiều học thuyết của các học giả kiệt xuất nhằm mục đích
giải quyết các vấn nạn xã hội, tìm con đường giải thoát cho con người và tìm cơ sở lý
luận cho việc thiết lập một trật tự xã hội mới. Nhiều học thuyết ra đời như vậy nên người
ta gọi thời kì này là “Bách gia chư tử” (trăm nhà nhiều thầy), “Bách hoa tề phóng”,
“bách gia tranh minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng). Tuy nhiên, theo Sử ký của
Tư Mã Thiên, chỉ có 9 phái cơ bản, trong đó nổi bật và có ảnh lớn nhất đến đời sống
chính trị xã hội đương thời là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia.
Trong hệ thống học thuyết chính trị xã hội – đạo đức đồ sộ của mình, không phải
ngẫu nhiên Nho giáo đề cập đến chữ “hòa” cùng những nội hàm sâu sắc của nó, mà bởi

lẽ xuất phát từ tồn tại xã hội đương thời mà ý thức xã hội được xây dựng với mục tiêu
phục vụ thực tiễn và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Tuy nhiên, Khổng Tử - người sáng
lập ra Nho giáo chủ trương “thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ” (phát huy mà không sáng
tác, tin tưởng mà ham thích đạo xưa) , cho nên tiền đề văn hóa – tư tưởng cho sự ra đời
quan niệm của Nho giáo về “hòa” có nguồn gốc từ trong nội tại văn hóa Trung Quốc và
trong những học thuyết tư tưởng trước và cùng thời với Nho gia. Cụ thể:
Xuất phát từ nguồn gốc của tín ngưỡng Thượng đế:
Dân tộc Trung Hoa cổ đại cũng giống như bất cứ dân tộc nào khác trên thế giới,
đều thờ phụng một hoặc nhiều vị thần linh. Quốc gia Trung Quốc cổ đại tin thờ thần tối
cao được gọi là “Đế” hoặc Thượng đế hay Trời. Chương “Cao Dao mô” sách Thượng
thư nói rằng: “Trời sai công việc những người có đức tốt, thì năm thứ phẩm phục nên rõ
rệt ra. Trời đánh kẻ có tội, thì năm tội hình nên dùng để trừng giới họ” (13, NGTQ). Và ở
chương “Ích tắc”, vua Thuấn nhân làm câu hát rằng: “Kính theo mệnh trời luôn luôn cho
đến cả việc nhỏ mọn”. Chương “Cam thệ” có viết: “Ý trời định tiêu diệt vận mệnh của
họ ấy. Nay, ta kính theo mệnh trời phạt kẻ có tội” (13, Nho giáo TQ). Sách Thượng thư
còn cho biết, thời đại Ân Thương cũng đã coi Trời là Thần tối thượng. Vua Thang nói
rằng: “...Nhà Hạ tội lỗi nhiều, theo mệnh trời là phải giết” và “các ngươi giúp ta theo
lòng trời đã định phạt” (14, NGTQ)

12


“Đế” dùng để gọi vị thần tối cao nhưng cũng dùng để gọi bậc vua chúa trên
trời. Như vậy cũng có thể nói, bậc vua chúa ở dưới đất này cùng với bậc thần trên
trời cùng được gọi chung một tên và có thể kết luận bậc thần tối cao chính là xuất
thân từ bậc vua chúa dưới đất hoặc vua chúa dưới đất đã mượn tên gọi của Thần tối
cao. Còn theo sách “Luận ngữ” thì vua Nghiêu đã coi Trời là vị thần tối cao. Khổng
Tử nói rằng: “Lớn lao thay công đức của vua Nghiêu lúc làm vua! Cao vòi vọi! chỉ
có trời là lớn lao, chỉ có vua Nghiêu sánh kịp!” (14, NGTQ)
Xuất phát từ lịch sử văn hóa và tư tưởng “hòa” của Trung Quốc:

Trong lịch sử văn hóa: Từ rất lâu, Trung Quốc đã sử dụng khái niệm chữ
“hòa”. Trên văn tự khắc xương, khắc đồng thời nhà Chu, nhà Thương đã xuất hiện
chữ ‘hòa’. ‘Hòa” vốn tượng trưng cho thanh âm. Về sau biến hóa thành hòa bình,
hòa thiện, hòa mục, hòa nhã, chan hòa, dung hòa. Khái niệm về chữ ‘hòa’ thật rộng
lớn. Với mọi vật, mọi hoàn cảnh cùng tổng thể các mối quan hệ, ‘hòa’ dung hợp
thành một thể thống nhất.
Xét về căn bản mà nói, “hòa” là linh hồn của dân tộc Trung Hoa. Lịch sử
phát triển của dân tộc Trung Hoa là lịch sử không ngừng dung hòa, không ngừng đa
dạng hóa. Nó có tô –tem của ‘hòa’, dân tộc của ‘hòa’, văn hóa của ‘hòa’.
Tô – tem của ‘hòa’ chính là tô – tem tổng hợp. Rồng, phượng hoàng và kỳ
lân đều là những biểu tượng của “hòa”. Hình thù của phượng hoàng là đầu gà, cổ
rắn, ức yến, lưng thỏ, đuôi cá, có 5 màu, cao hơn 6 thước. Phượng hoàng chính là
sự tổng hợp một loại tô – tem hòa của gà, rắn, yến, thỏ và cá đó. Kỳ lân có hình thù
giống con hươu, một sừng, toàn thân có vảy, đuôi giống đuôi trâu, cũng là một sản
vật của ‘hòa’ mà trong giới tự nhiên không có. Dân tộc Trung Hoa là một dân tộc
ưa ‘hòa’, họ không những tôn sùng ‘hòa’ mà bản thân nó cũng là một dân tộc do
không ngừng hòa nhập mà hình thành nên.
Văn hóa “hòa” còn thể hiện ở tinh thần “hòa”. Kể từ triều Hán, Trung Quốc
bắt đầu giao lưu với thế giới. Ngoài mối liên hệ với các nước xung quanh như Triều
Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, My-an-ma, quan hệ qua lại với các nước thuộc quần đảo
Indonexia, bán đảo Mã Lai cũng ngày càng nhiều. “Con đường tơ lụa” nổi tiếng
cũng chính là được khai thông trong thời kì này.
Trong lịch sử tư tưởng: Có quan niệm cho rằng, tư tưởng Trung Hoa có hai
đặc điểm cá biệt đó là hòa hợp và trọng truyền thống.

13


Trong sách “Lã thị Xuân Thu” có viết: “Trời đất hòa hợp là con đường của
sự sống”. Trong Hoài Nam Tử cũng nói: “Vạn vật sống nhờ có âm dương hòa hợp”,

đó phải chăng là sự thống nhất hài hòa trong giới tự nhiên? Trong “Chu ngữ” có ghi
việc Bá Dương Phụ bàn về địa chấn, nói về âm dương bất hòa. Bá Dương Phụ cho
rằng có hai loại khí âm, dương tồn tại trong trời đất. Hai sức mạnh vật chất đó “giữ
nguyên trật tự thì tự nhiên và xã hội được bằng yên”. Địa chấn không phải là mệnh
lệnh của trời mà là do “khí dương không phát ra được, khí âm không giữ lại được”
mà nên. Hai khí âm dương không điều chỉnh được, căn nguyên không thông suốt
mới sinh ra địa chấn. (332, đàm đạo với KT)
Cùng thời với Nho gia, Đạo gia cũng đề cập đến khái niệm “hòa”. Cả Nho
giáo và Đạo giáo đều cho rằng con người là tinh hoa của trời đất, vì vậy trời và
người phải hợp nhất, tức là sự thống nhất hài hòa giữa người và trời đất, sự hòa hợp
với tự nhiên cùng tính tương liên với mọi sự vật. Đạo giáo chủ trương sống “vô vi”,
kêu gọi con người quay trở về với bản nhiên nguyên thủy, sống hòa hợp thân tình
với tự nhiên. Lão tử: “Trời đất hòa hợp, móc ngọt rơi xuống, dân chẳng phải bởi
lệnh, mà tự phục tùng” (409, chu dịch). Lão tử cảm nhận sâu sắc xã hội loài người
đang làm trái đạo. Ông công kích xã hội bất công phá hoại trạng thái tự nhiên hài
hòa làm ảnh hưởng đến sự vận hành chuyển hóa của đạo lớn. Lão Tử lại nói: “Đất
là phép của người. Trời là phép của đất. Đạo là phép của trời”. Đã vậy thì trời và
người phải hợp nhất. (333, đàm đạo)
Ngoài ra ông còn nêu ra các khái niệm “hòa” là “hoà khí” và “hoà hợp tứ tượng”.
Sau Khổng Tử và Lão Tử, Mặc Tử cũng chỉ rõ, thiên hạ bất an vì “trong thì
cha con, anh em oán thù, người người ly tâm, không thể hòa hợp”. Ông cho rằng
Việt Vương Câu Tiễn nằm gai nếm mật, phục quốc thành công vì “biết dạy dỗ thần
dân hòa hợp”.
Sau thời Đông Hán, các Nho gia, Đạo gia, Phật gia đã dùng nhiều khái niệm
“hòa hợp”. “Hòa hợp” trở thành khái niệm có tính tổng hợp, khái quát thành tôn
chỉ của Nho, Thích và Đạo. Từ đó về sau, văn hóa “hòa” được Nho, Thích, Đạo và
các nhà tư tưởng của các dòng văn hóa khác tiếp thu và sử dụng rộng rãi, trở thành
một quan niệm có tính tổng hợp quán xuyến trong lĩnh vực văn hóa tư tưởng.
Quan niệm về “hòa” và “đồng” trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc:


14


Trong quan niệm về “hòa”, Khổng Tử nêu ra và phân biệt hai khái niệm
“hòa” và “đồng”, trong đó “hòa” trở thành phương châm sống của người quân tử,
người quân tử “hòa nhi bất đồng”. Tuy nhiên, hai khái niệm này đã có tiền đề trong lịch
sử tư tưởng Trung Quốc. Làm rõ tiền đề của hai khái niệm này để ta thấy được cái nhìn
tổng quát, toàn diện về nội dung “hòa” và “đồng”, đồng thời thấy được những tinh
hoa mà Khổng Tử đã gạn lọc, tiếp nhận và sự bổ sung, phát triển của ông.
Trong ‘Quốc ngữ’, Trịnh Ngư có ghi chép một đoạn về sự khác biệt giữa
‘hòa’ với ‘đồng’ của Sử Bá năm cuối thời Tây Chu. Trịnh Hoàn Công từng hỏi Sử
Bá: “Nguyên nhân vì sao triều Chu suy yếu?”, Sử Bá cho rằng đó là do Chu vương
bỏ ‘hòa’ lấy ‘đồng’. Ý nói rằng Chu vương chỉ nghe những ý kiến tương đồng, bài
bác ý kiến khác nhau, cho nên nhất định sẽ dẫn tới suy yếu và diệt vong. Sử Bá còn
đề xuất phương pháp “lấy nó bình nó”, tức là lấy những cái khác nhau kết hợp hữu
cơ với nhau, có thể sinh ra sự vật mới. Nếu lấy những cái tương đồng thêm vào
nhau thì sẽ đơn điệu mà không phát triển, như vậy là đã phạm vào sai lầm “lấy đồng
phò đồng”. Tiếp đó ông nói, “hòa sinh vật mới, đồng không kế thừa. Lấy nó bình nó
gọi là hòa, nên có thể sinh trưởng và vật quy tụ. Nếu lấy đồng phụ tá đồng, vẫn chỉ
là bỏ đi.” (54, KT vs tư tưởng quản lí và kinh doanh hiện đại). Ở đây, “nó” là
những thứ khác nhau, bao gồm ý nghĩa chênh lệch, đối lập. “ Bình” là chỉ cân bằng,
bao gồm ý nghĩa hài hòa, thống nhất. “Lấy nó bình nó” là chỉ những sự vật khác
nhau tụ hợp cùng nhau để có được sự hài hòa, cân đối. Trạng thái này gọi là ‘hòa’,
hiển nhiên “hòa” là chỉ sự kết hợp các sự vật khác nhau lại với nhau, đạt tới cân
bằng, hài hòa, thống nhất. Sử Bá cho rằng như vậy thì có thể sinh ra sự vật mới.
Cho nên ông nói “hòa sinh vật mới”. Đồng là chỉ tuyệt đối như nhau, không có gì
sai khác; “lấy đồng phụ tá đồng” chính là lặp lại thêm vào những sự vật giống
nhau. Nếu như chỉ là chồng thêm những sự vật giống nhau, vậy thì sự vật vẫn là
nguyên dạng, chẳng qua là tăng thêm số lượng và không thể sinh ra sự vật mới. Do
vậy Sử Bá nói: “đồng không kế thừa”.

Trong “Tả truyện: Chiến công năm 20” có ghi chép đoạn đối thoại về ‘hòa’
và ‘đồng’ của Tề Cảnh Công vua nước Tề với Yến Anh tướng quốc. Tề Cảnh Công
hỏi Yến Tử: “Lương Khâu Cứ (đại phu của nước Tề) có ‘hòa’ với ta không?” Vì
sao Tề Cảnh Công lại hỏi như vậy? Vì rằng Lương Khâu Cứ đối với Tề Cảnh Công
hầu như bảo sao nghe vậy, vô cùng thuần phục, Tề Công cho rằng đây là ‘hòa’. Đối

15


với việc này,Yến Tử trả lời: Đây không phải là ‘hòa’, mà là ‘đồng’. Tề Cảnh Công
không hiểu câu trả lời đó nên đã liền hỏi tiếp: “Hòa” và “đồng” khác nhau ư? Yến
Tử đã trả lời hết sức tỉ mỉ và thú vị. Yến Tử nói: “Khác nhau. “Hòa” như là canh
vậy, nước, lửa, dấm, mắm, muối, mỡ để nấu hầm thịt cá. Nấu nó bằng củi, người
nấu bếp hòa chúng trộn chúng để lấy vị, bổ sung cái thiếu, vứt bỏ cái thừa. Quân tử
ăn để lòng cân bằng. Vua tôi cũng vậy, vua nói là được, mà có cái không được, tôi
hiến cái không được để thành cái được. Vua nói là không được mà có cái được, tôi
hiến cái được để loại bỏ cái không được, là để chính trị cân bằng và không tiến
hành, lòng dân yên ổn… Nay Lương Khâu Cứ không như thế. Vua nói là được, Cứ
cũng nói được. Vua nói là không được, Cứ cũng nói là không được. Nếu như lấy
nước bổ sung cho nước ai ăn được? Nếu đàn sáo chỉ có một loại, ai nghe được?
Đồng không được cũng như vậy thôi”. (55, KT vs tu tuong…)
Từ sự trình bày và phân tích quan điểm của Sử Bá và Yến Tử, chúng ta có
thể thấy, “đồng” là chồng chất thêm những sự vật giống nhau, nó che đậy sự khác
biệt giữa các sự vật. Loại “đồng” này, thể hiện trong xử lý mối quan hệ giữa người
với người, là vâng vâng dạ dạ, cầu đồng vô nguyên tắc, hoặc thông đồng làm bậy.
Thể hiện trong quan hệ cấp bậc là quan dưới luôn phục tùng tuyệt đối cấp trên từ đó
tạo ra “trên bảo sao làm vậy”. Còn ‘hòa’, là sự phối hợp hỗ trợ những sự vật khác
nhau, là sự thống nhất đa dạng. Nó thừa nhận mâu thuẫn, là sự điều hòa thống nhất
của phát triển mâu thuẫn. Thể hiện trong xử lý mối quan hệ giữa người với người là
việc chung sống hòa thuận, có nguyên tắc. Cũng tức là nói, phàm những việc nhỏ

không quan hệ tới nguyên tắc thì phải chú ý điều hòa, coi trọng hòa thuận, không
nên việc bé xé ra to, gây mất đoàn kết. Phàm những việc lớn thuộc về nguyên tắc,
thì phải giữ nguyên tắc, không nên thống nhất tùy tiện. Thể hiện trong quan hệ cấp
trên cấp dưới là vua tôi bổ sung cho nhau, tạo ra “gia đình dân chủ”.
Tiếp thu những tinh hoa trong văn hóa và tư tưởng trong lịch sử, Khổng Tử
kế thừa, bổ sung và phát triển quan niệm “hòa” lên một bước cao hơn về chất, làm
cho nội hàm của nó trở nên phong phú, sâu sắc và mang tính biện chứng chất phác.
Với Nho giáo, “hòa” không những hạn định trong lĩnh vực xã hội để nhấn mạnh
quan hệ giữa con người mà nó còn mở rộng đến bản thể luận, đó là sự hòa hợp giữa
âm và dương, nhấn mạnh sự thống nhất ở mức độ cao giữa con người với trời, đất,
tự nhiên, đồng thời cũng đảm bảo sự thống nhất riêng của con người.

16


1.1.3. Khái quát về Nho giáo
Khổng Tử húy là Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, sinh năm thứ 21 (551
TCN) đời Chu Linh vương (571 – 544 TCN) và mất năm 4 (479 TCN) đời Chu
Kính vương (519 – 475 TCN), đã từng làm quan tư không, rồi tư khấu ở nước Lỗ.
Sau ông bỏ chức đi chu du các nước trong 13 năm để tìm cơ hội “hành đạo”, thi thố
chính trị, nhưng không có kết quả. Năm 68 tuổi, ông trở về quê hương, chuyên việc
giáo dục cho đến khi mất. Công lao lớn nhất của ông chính là đã hệ thống hóa tư
tưởng của nhà nho từ thời thượng cổ đến khoảng sơ điệp nhà Chu chứ không chú
trọng phát minh thêm những điều mới lạ, đúng như đời sau nhận xét trong sách
Trung dung: “Trọng Ni phát huy đạo đức của Nghiêu Thuấn, làm rạng rỡ phép tắc
của Văn Vũ, trên thuận theo thời tiết, dưới dựa vào đất đai” (19, nguồn suối nho học
và thơ ca Bạch Vân) . Vì vậy, Khổng Tử được biết đến không chỉ bởi ông là người
đặt nền móng lý luận cho học phái Nho gia mà còn được biết đến với tư cách là một
người thầy vĩ đại, một nhân cách lớn.
Nho học của ông trao truyền cho môn đệ, mỗi vị phát huy một phương diện

tùy theo sở năng, sở thụ, rồi lại trao truyền tiếp cho môn đệ của mình, tạo nên
những ngành biến thiên tư tưởng rất phong phú.
Nho giáo đã để lại cho thế hệ sau một hệ thống kinh điển đồ sộ, có giá trị
nhân văn sâu sắc và có ảnh hưởng thâm sâu tới nhiều nền văn hóa quốc gia khác
nhau. Hệ thống đó được gọi tắt là “Tứ thư ngũ kinh”. Trong đó “Tứ thư” bao gồm
Luận ngữ, Đại học, Trung dung và Mạnh Tử. “Ngũ kinh” bao gồm Kinh thi, Kinh
Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc và Kinh Dịch. Hầu hết các tác phẩm này đều có nguồn
gốc từ trước thời Khổng Tử, nhưng đã được ông tiếp nhận, cải biến và vận dụng vào
xã hội đương thời, sau đó lại được các học trò của ông phát triển theo nhiều hướng
khác nhau. Tương truyền chỉ có Luận ngữ là sách được coi là tác phẩm chính thức
thuần túy cho Khổng Tử, nhưng cũng không phải do ông viết mà do học trò của ông
sưu tầm những bài giảng, lời nói của thầy mình mà tập hợp lại. Vì vậy, tìm hiểu tư
tưởng, quan niệm của Nho giáo buộc chúng ta phải tìm hiểu thông qua các tác phẩm
kinh điển này, việc nghiên cứu chữ “hòa” cũng không ngoại lệ.
Ngày nay, giới học giả nghiên cứu Nho giáo ngày càng gia tăng cả về số
lượng và chất lượng, cả về phương diện tiếp cận và cả về tính ứng dụng của nó
trong đời sống chính trị, xã hội, đạo đức. Đa số giới nghiên cứu vẫn nhận định rằng

17


trong Nho giáo, Nhân là tư tưởng cốt lõi, Lễ là nội hàm quan trọng và Trung dung
là thước đo của tư tưởng Nho học. Nhưng bên cạnh đó cũng có một số ít học giả
cho rằng Khổng tử đề xướng Trung dung, chủ trương “hòa vi quý”, “doãn chấp kì
trung” đều phản ánh coi trọng hài hòa. Thậm chí có người cho rằng “hòa” là tư
tưởng cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ thống học thuyết Nho giáo. Coi trọng hài hòa
đã là nguyên tắc chỉ đạo xử sự làm người lại là một phần nhận thức mang tính căn
bản về bản chất thế giới muôn vật. Vì vậy, việc tiếp cận và nghiên cứu khái niệm
‘hòa” là một nhu cầu cần thiết cho cả lý luận và thực tiễn.
1.2. Nội dung chữ “hòa” trong quan niệm của Nho giáo

1.2.1. Khái niệm “hòa”
- Hòa theo lẽ thường: Trong ấn tượng của mọi ngưởi, ‘hòa’ là một sự dàn
xếp, một sự điều hòa vô nguyên tắc. Có thể tóm tắt chữ “hòa” ở những nghĩa sau:
+ Ăn nhịp với nhau

+ Bằng nhau, cùng nhau, đều nhau

+ Không trái với ai

+ Yên vui

+ Không tranh giành
- “Hòa” theo chiết tự: Trong Hán học, chữ hòa được viết như sau: ( )
Chữ “hoà” được kết tinh bởi hai chữ: Chữ bên trái: ( ) Hòa: cây lúa
Chữ bên phải: ( ) Khẩu : cái miệng
Với người phương Đông, đặc biệt là với người Trung Quốc và Việt Nam, cây
lúa có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Nó không chỉ là cây lương
thực chính cung cấp thức ăn nuôi sống con người mà nó còn là cơ sở cho sự hình thành
tính cấu kết cộng đồng trong các cuộc đắp đê, canh tác, xây dựng thủy lợi... Cây lúa là
một loại cây ở miền nhiệt đới, có độ số kết hợp đồng đều nhất giữa hai năng lực âm và
dương. Đặc điểm của cây lúa là ưa nước ngâm chân, đây là điều kiện để cây tiếp thu
khí âm ở đất và nước. Cây lúa lại đón khí dương và ánh nắng mặt trời để trổ bông và
kết hạt, là điều kiện tiếp thu dương khí trong không trung. Như vậy, cả hai khí âm và
dương cùng giao hòa trên cây lúa. Vì vậy, hạt lúa là thức ăn tốt nhất cho con người do
việc hấp thụ sự giao hòa của âm dương. Căn bản của chữ hòa cũng được đặt ở đây. Hai
khí âm dương tuy đối nghịch nhau nhưng lại “hòa” với nhau để tạo nên hạt lúa. Các
loại cây khác, không loài nào đạt được chỉ số giao hòa lý tưởng như thế. Có cây thì
dương nhiều âm ít, có cây thì dương ít âm nhiều. Những cây như xoài, mít, chôm
chôm, nhãn, na, vải, sầu riêng...đều mọc trên mặt đất, tiếp thu ánh sáng nhiều lại không


18


có nước ngâm chân, giỏi chịu khô hạn thì dương tính cao. Những cây mọc sâu trong
nước hoặc bò sát mặt đất ẩm thì âm tính lại cực cao như củ sen. Như vậy, cây lúa là sự
lý tưởng của sự giao hòa giữa âm và dương.
Cái miệng (chữ khẩu) là cơ quan đặc biệt của con người dùng để phát ngôn.
Cái miệng có thể phát biểu điều tốt điều xấu, nó là cái loa phát ra tâm tư con người.
Nhiều người cho rằng tội vạ do miệng mà ra, mà những điều lành, những tâm tư
tình cảm cao cả làm cho cuộc sống con người trở nên hài hòa tốt đẹp cũng là do
miệng. Vì vậy, chữ “khẩu” nếu đứng một mình thì không thể rõ tính hòa giải hay
tình thương yêu, sự tha thứ, sự khoan dung...được. Nhưng nếu chữ “khẩu” ghép với
chữ “hòa” (là cây lúa, kết hợp quân bình hai khí âm dương) tạo thành chữ “hòa” ắt
hẳn phải thể hiện sự giao hòa tốt đẹp giữa người với người. Lời nói từ miệng thoát
ra mà có sự quân bình tự nội tâm, không thiên lệch sẽ là những lời tốt đẹp, dễ nghe,
tạo nên hòa khí.
Như vậy, qua phép chiết tự, ta thấy bản thân chữ ‘hòa” đã mang nhiều nội
dung sâu sắc. “Hòa” chỉ sự hòa hợp, dung hòa giữa hai yếu tố đối lập để hình thành
nên một thể thống nhất có giá trị. “Hòa” là hòa bình, nhân hòa, nó làm cho mọi
người nhận ra giá trị của nhau để hòa nhịp sống với nhau, cư xử với nhau một cách
phải chăng, có tình có lý, không thái quá, không bất cập, không giành lấy cho mình
những quyền lợi hơn người. Từ đó chữ “hòa” được tôn lên thành một nhân đức
quan trọng: “Đức hòa” làm cho mọi người cùng bình đẳng, cùng nhau chân thành
hợp tác để xây dựng một xã hội chung (cộng hòa), một thế giới yên vui.
- Phân biệt “Trung hòa” và “Trung dung”:
Từ trước tới nay, Trung dung luôn được biết đến là một phạm trù quan trọng
của Nho giáo. Nó là phương pháp luận, là lý luận sâu sắc và căn bản của học thuyết
Nho học. Tuy nhiên, giữa Trung dung và Trung hòa lại có một mối quan hệ đặc biệt
gần gũi mà không mấy người để ý đến, gây nên sự nhầm lẫn không đáng có trong
nhận thức. Cũng chính vì vậy, khi xét mối quan hệ này, có nhiều luồng ý kiến khác

nhau, có quan niệm cho rằng Trung dung chính là trung hòa; có quan niệm lại nhìn
nhận trung hòa là một bước phát triển của đạo trung dung hay quan niệm khác lại
thấy trung hòa là phương pháp luận của trung dung.
Tử Tư đã giải thích hai chữ “trung dung” đại để như sau:“ Trung nghĩa là ở
giữa, không quá nghiêng lệch về bên này hay bên kia. Dung nghĩa là thường.” Ý

19


nói đại đạo luôn chính trực, không thay đổi. Trung dung là chuẩn mực đạo đức quan
trọng, là thước đo phương pháp luận của triết học Nho gia. Đạo Trung dung của
Khổng Tử bao gồm hai phương diện. Về tư tưởng, Khổng Tử đề xướng: trung dung
là trung hành như sau: “Thái quá cũng giống như bất cập”. Trên cơ sở phương pháp
luận Khổng Tử còn nhấn mạnh ý nghĩa đạo đức của Trung dung. Ông nói: “Trung
dung là đức hạnh cao nhất”.
“Trung hòa”: (82) Trong sách “Trung dung” của Tử Tư cho rằng trung hòa
là bản tính của con người, cùng tồn tại với sự sống. “Hỷ, nộ, ai, lạc chưa phát ra thì
gọi là trung, phát ra nhưng đều đúng mức gọi là hòa. Trung là gốc lớn của thiên hạ,
hòa là đạt đạo của thiên hạ.” Như vậy trung là trạng thái bản lai của thiên đạo nhân
tính, hòa là chỉ tiết độ của việc thủ trung. Chỉ có duy trì được đạo trung hòa thì mới
có thể phù hợp được với quy luật phát triển của trời đất vạn vật. Như “trung dung”
nói: “Đạt đến trung hòa thì trời đất yên định, muôn vật sinh sôi”. Đúng như Chu Hy
nói: “Hỷ nộ ai lạc là tình cảm. Lúc chưa phát gọi là tính. Không có chỗ nghiêng
lệch nên gọi là trung. Phát ra nhưng đều đúng mức thì tình cảm chính đính. Không
có chỗ rơi lệ nên gọi là hòa” (Chu Hy, Tứ thư chương cú, Trung dung).
Dựa vào khái niệm căn bản về “trung dung” và “trung hòa” nêu trên, các
học giả nghiên cứu Nho học đưa ra các hướng nhìn nhận khác nhau:
-

Trung hòa là nguyên tắc phương pháp luận của đạo Trung dung. Cái


gọi là “chấp lưỡng dụng trung” có mục đích lấy hòa là độ. Trung dung bao gồm thái
độ đối với sự vật, cũng bao gồm “thời trung”. Thời trung là chỉ theo thời mà dừng
lại, đồng thời cũng thuộc vấn đề phương pháp, như “Trung dung” nói: “Trung dung
của quân tử là lựa theo thời mà giữ Trung dung”.
Những điều đã nói trên chứng tỏ đạo Trung dung qua sự phát triển của Dịch
truyện và Trung dung đã trở thành một thể thống nhất của hai nội hàm song trùng
nhau, là nhận thức luận và phương pháp luận, trở thành một trong những (83) cốt
lõi quan trọng của hệ tư tưởng Nho gia. Tóm lại, Trung dung gồm ba nội hàm đã
nói trên, “chấp lưỡng dụng trung”, “chí trung hòa” và “trung đạo thường hành”. Nói
cách khác, quan điểm của Trung dung là trung hòa, trì trung (giữ cái ở giữa), thích
trung (vừa phải, hài hòa). Nó chủ trương dù sự tình nào cũng đều phải có mức độ
thích hợp nhất định, vừa vặn thì dừng lại, không nghiêng không lệch, không thái
quá cũng không bất cập. Mức độ thích hợp này (hay chính là trung dung) cũng bao
gồm hành vi xử thế của con người.

20


- Tư tưởng Trung dung là sự phát triển một bước từ tư tưởng trung hòa. Tư
tưởng trung dung có nguồn gốc sâu xa ở “Kinh dịch”, nghĩa là trung dung là sự
phát triển từ trung hòa. Tư tưởng trung hòa trong “Dịch truyện” và “Luận ngữ”
được phát triển rất mạnh mẽ: Trung, trung chính, trung hòa, trung đạo, trì trung, hài
hòa, điều trung. Trong “Kinh dịch”, quan niệm trung dung được thể hiện chủ yếu
trong hào, trong quẻ, trong hào từ. Đặc biệt qua sự sắp xếp 8 quẻ cân bằng, vị trí các
hào cao thấp vừa phải, chẵn lẻ đối ứng, âm dương tương hợp, cương nhu tương
ứng…đều phản ánh lấy “trung” làm độ, lấy “hòa” làm quý, cũng có nghĩa là nhấn
mạnh hai mặt âm dương đối lập nhau nhưng lại cần phải thống nhất, đó là tư tưởng
hợp hai làm một.
- Trung dung lấy trung hòa làm đạo thường (không thay đổi): Trung hòa là

lẽ tự nhiên của trời đất, còn như trung dung, là đức phải có của con người. Trung
hòa chỉ mức độ vừa phải, “tình cảm phát tiết ra ngoài đúng độ gọi là hòa”. Đứng
giữa là giới hạn tốt đẹp nhất của sự vật, là hạn độ về lượng. Quan hệ giữa Trung
dung và độ là vừa phải. Độ là chỉ giới hạn về lượng để sự vật duy trì được tính ổn
định về chất của chính nó, là sự quy định về chất, về phạm vi hoạt động của lượng.
- Trung dung và trung hòa là một: Bên cạnh một số quan điểm phân biệt
trung hòa và trung dung thì lại có các quan điểm đồng nhất hai khái niệm này.
Từ điển Nho – Phật – Lão giải thích khái niệm “trung hòa” như sau: “Thuật
ngữ Nho gia. Chỉ nhân tố khác nhau hoặc hai phía đối lập phối hợp vừa phải làm
cho nó phù hợp với tiêu chuẩn, pháp độ đúng đắn. “Đạt được trung hòa” thì tất cả sẽ
đạt đến cảnh giới hài hòa. Trung hòa tức là đạo trung dung. Ngoài ra, “nó còn chỉ
con đường nuôi dưỡng hình thần, duy trì sự ổn định, chỉ hoạt động ý thức không
thiên lệch, không thiên về trái không lệch về phải, không quá cao không quá thấp,
không quá về phía trước không quá về phía sau. (1663).
Trong “Cảm nhận mới về văn hóa và văn học Trung Quốc”, tác giả cũng cho
rằng Khổng Tử giải thích trung dung là trung hòa, không thái quá cũng không bất
cập. Từ đó, tác giả nhận định “trung dung chỉ thích hợp với thời bình, nó giúp cho
việc xử lí quan hệ giữa người và người được hài hòa ổn định. Còn trong trường hợp
đấu tranh chính trị, quân sự...gay gắt thì tư tưởng trung dung e không còn thích hợp
nữa”.(458, ca nhan moi ve vh va vh tq)

21


Từ những quan điểm nêu trên, ta thấy trung dung và trung hòa có mối quan
hệ đặc biệt, có nhiều điểm tương đồng, nhưng về bản chất thì chúng khác nhau,
phân biệt với nhau. Cả trung dung và trung hòa đều nhấn mạnh mức độ, ở chính
giữa, không thái quá, không bất cập, đều chủ trương “chấp lưỡng dụng trung”. Tuy
nhiên, trung hòa nghiêng về nhân đức phát độ đúng tiết, đúng mức, hợp thời của
con người, trong đó có đủ các tình cảm mừng, giận, buồn, vui...bao quát hầu hết các

mối quan hệ với trời, đất và người. Còn Trung dung lại nghiêng về phương thức đạt
đạo, về tâm thế, cách thức con người nên giữ và rèn luyện để giữ thái độ “trì trung”,
thường hằng bất biến, giữ cho cái tâm không bị xô lệch nghiêng ngả sang bất kì
đường lối nào.
Qua khái niệm “trung hòa”, ta cũng rút ra nội dung về “hòa” trong quan
niệm của Nho giáo, đó là ‘Hòa’ chỉ mức độ. Sách “Trung dung” nói: “Cái trời phó
cho gọi cho gọi là tính, noi theo tính gọi là đạo, sửa cho hợp đạo gọi là giáo. Đạo là
cái chẳng nên dời ra giây phút nào, hễ dời ra được thì chẳng phải là đạo nữa rồi.
Vậy nên người quân tử răn rổ và cẩn thận về những điều mình chưa thấy rõ, e sợ
những điều mình chưa nghe chắc. Chẳng có gì tỏ hơn những chỗ mờ tối, chẳng có
gì rõ hơn những điều nhỏ nhen. Vì vậy người quân tử giữ gìn cẩn thận trong khi chỉ
có một mình. Mừng, giận, thương, vui khi chưa phát ra ngoài gọi là trung ( cân
bằng); khi đã phát ra mà được đúng mực gọi là hòa (êm ái). Cân bằng là cái gốc lớn
của mọi lẽ trong thiên hạ, êm ái là đường lối thông thường của thiên hạ vẫn noi
theo”. (14, Trung dung chú giải)
Như vậy, mừng, giận, thương, vui, về bản nguyên, đó là bản tính trời sinh ra
cho con người. Những cảm xúc đó khi chưa phát ra ứng vào lúc con người còn ở trong
tình trạng bản nhiên, như vậy “trung” chỉ thị tình trạng tính chưa phát động, là bản
nguyên tính trời ban. Khi phát động ứng vào lúc con người bộc lộ cảm xúc, thì tính tiếp
xúc với ngoại cảnh thông qua các giác quan mà phát sinh ra những tình cảm khác nhau
(mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn). Hiện tượng phát sinh tình cảm là hiện
tượng tự nhiên của con người. Con người không chỉ có “mừng, vui, thương, yêu” mà
còn có “giận, ghét, muốn”. Con người sống đạo đức không phải là cố gắng dẹp bỏ
những “giận, ghét, muôn”, cho đó là xấu mà hủy diệt. Mà theo Nho giáo, mọi tình cảm
đều trở nên đúng đắn, tốt đẹp khi nó phát ra đúng mức, đúng cảnh ngộ (trúng tiết).
Nghĩa là khi con người gặp hoàn cảnh đáng mừng thì mừng, đáng giận thì giận, đáng

22



buồn thì buồn....miễn là những tình cảm đó không phát tiết thái quá đến nỗi làm cho
tinh thần bị xô lệch, nghiêng ngả, không còn đúng đắn, trungchính. Khi tình cảm phát
ra đúng mực như vậy thì gọi là “hòa”. Vậy “hòa” là mức độ phát tiết cần có mà mỗi
người phải rèn luyện và thực hành theo.
Khổng Tử cũng mở rộng quan niệm “hòa” là đúng độ, nó là biểu hiện của
người quân tử:
“Người quân tử hiện tại của mình ngồi mà làm. Chẳng mong ở chỗ ấy
ngoài”. Nghĩa là người quân tử tùy cái địa vị của mình mà hành động, không muốn
điều gì ở ngoài cái địa vị của mình, chỉ nhân lúc phương thế phận sự hiện tại của
mình nên làm, tùy thời mà liệu, không nên mơ tưởng những việc xa xôi hão huyền
mà không phải là phận sự của mình phải làm. (32, trung dung)
“Người quân tử khi ở ngồi trên chẳng lấn bức người dưới, khi ở ngôi dưới
chẳng trèo lên trên, chỉ sửa mình cho ngay thẳng, chẳng trách oán ai,thì không ai
oán trách, trên chẳng oán trời, dưới chẳng trách người”. (37, trung dung)
“Hiện tại được giàu sang thì làm theo lối giàu sang, hiện tại phải nghèo hèn
thì làm theo lối nghèo hèn, hiện tại ở vào nơi mường mán thì xử trí với mường mán,
hiện tại mắc phải hoạn nạn thì xử trí lúc hoạn nạn. suy xét bốn điều ấy mà ăn ở tùy
nghi, như thế thời quân tử dẫu gặp vào cảnh ngộ nào, cũng tùy nơi tùy lúc yên lòng
theo đạo lý cả”. (34 trung dung)
“Cho nên người quân tử ăn ở vừa phải, có nghĩa lý êm đềm, để tùy theo vận
mạng của trời phú cho”. (38, trung dung)
1.2.2. Hòa là nguyên lý của trời đất
Một trong những điểm đặc sắc trong quan niệm của Nho giáo về “hòa”
đó là “hòa” không dừng lại ở giá trị về mặt nhân văn, về tính cấu kết cộng
đồng như lẽ thường hiểu hay như lịch sử chữ “hòa” trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc. Mà với Nho giáo, “hòa” thể hiện giá trị riêng biệt, tính cách triết
lý sâu sắc, cao siêu và có phần mang tính biện chứng chất phác thể hiện qua
quan điểm nguồn gốc của vũ trụ, qua thuyết Tam tài và vị trí của từng bộ phận
trong vũ trụ thể hiện một trật tự “hòa”. Từ đó, “hòa” không đơn thuần là hòa
trong mối quan hệ giữa con người với con người mà nó là nguồn gốc, là nguyên

lý và là trật tự chung cho toàn vũ trụ.

23


1.2.2.1. Nguồn gốc của vũ trụ có tính “hòa”
Nho giáo cho rằng bản nguyên của thế giới là 2 yếu tố âm và dương, chúng
là nguồn gốc sinh ra vạn vật trong vũ trụ. Quan niệm này được thể hiện rõ ràng và
sâu sắc trong “Kinh dịch” – một trong những kinh điển Nho gia được lưu giữ và
nghiên cứu. Cũng như những tác phẩm còn lại trong “Tứ thư ngũ kinh”, “Kinh
dịch” không phải là tác phẩm được sáng tác nguyên vẹn bởi các nhà triết học Nho
gia, Khổng Tử chủ trương “thuật nhi bất tác” (thuật lại mà không sáng tác). Cũng
vậy, “Kinh dịch” tương truyền do Phục Hy, một ông vua thời huyền sử Trung Quốc
cổ là người vạch ra đầu tiên, sau gọi là “Chu dịch”. Đến Khổng Tử, ông bổ sung
thêm phần dịch (dịch truyện) và gọi là “Kinh dịch” (bao gồm phần kinh và phần
dịch) nhưng nội dung nguyên bản của “Chu dịch” thì vẫn không thay đổi.
Nho gia quan niệm rằng, âm và dương là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Nhưng
bởi đâu mà hai yếu tố này có thể sinh ra muôn loài muôn vật? Bởi chúng có tính
“hòa”, âm dương hòa hợp chính là nguyên nhân căn bản của sự sinh thành vũ trụ.
Vì vậy có thể khẳng định, nguồn gốc của vũ trụ có tính “hòa”.
“Kinh dịch” nói: “Nhất âm nhất dương chi vị đạo” (một âm một dương gọi là
đạo). Âm dương là hai yếu tố đối lập nhau đã sinh ra muôn vật, thúc đẩy thế giới
biến đổi, cho nên tác dụng lẫn nhau giữa một âm một dương là điều căn bản của hết
thảy sinh vật và biến đổi, điều đó gọi là đạo. Âm dương hợp với nhau sinh ra muôn
vật, mọi vật đều có cương nhu (mềm cứng). “Trời đất giao cảm, muôn vật đều hóa
thuần, giống đực giống cái kết tinh thì muôn vật hòa sinh” (309, chu dịch). Đây là
nói đến sự sinh thành của muôn vật. Trời là dương, đất là âm, giống đực là dương,
giống cái là âm; trời đất giao cảm, giống đực giống cái kết tinh đều là nói đến âm
dương giao hòa sinh hóa ra muôn vật.
Cũng vậy, Nho giáo cho rằng con người là sản phẩm cao nhất của giới tự

nhiên cho nên bản thân con người cũng là sản phẩm của tính “hòa” . Nguồn gốc
biến hóa của vũ trụ và vạn vật là khí âm và khí dương, khí dương nhẹ nổi lên trong
sáng là trời, khí âm nặng đục chìm xuống thành đất, khí hòa (tức kết hợp giữa âm
và dương) ở giữa tạo thành vạn vật, trong đó tinh khí trung hòa tạo ra con người.”
(34, Kinh dịch, k rõ ràng).
Cần nhấn mạnh rằng tính “hòa” của âm dương không đơn thuần là sự kết hợp
một cách ngẫu nhiên, vô nguyên tắc hai yếu tố tạo thành bản thể luận, mà nó là sự kết

24


×