Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Nghiên cứu khoa học: LÒNG YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA VỚI VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.73 KB, 55 trang )

Trờng đại học s phạm hà nội
Khoa giáo dục chính trị

----------------

Công trình dự thi
sinh viên nghiên cứu khoa học
năm 2013
Tên công trình:
Lòng yêu thơng con ngời trong t tởng đạo đức
Hồ Chí Minh và ý nghĩa với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
Trờng Đại học S phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay

Thuộc nhóm ngành: Lịch sử Đảng - T tởng Hồ Chí Minh

Sinh viên: Vơng Thị Diễn
Nguyễn Thị Hải
Năm thứ: 4/4

Giới tính: Nữ

Ngời hớng dẫn khoa học: TS. Trần Thanh Hơng

Dân tộc: Kinh


Hµ Néi - 2013

2

2




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
biểu tượng cao đẹp cho các thế hệ con người Việt Nam noi theo. Mặc dù Người đã
đi xa, nhưng tư tưởng và đặc biệt là tấm gương đạo đức của Người vẫn còn sống
mãi với mỗi người dân Việt Nam yêu nước.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) đánh đấu cột
mốc quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã
khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng của Người về đạo đức có vị
trí hết sức quan trọng. Người coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng. Người
viết: “cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây
phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo, người cách mạng phải có đạo đức, khơng có
đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [18, 252-253].
Như vậy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức là nội dung quan trọng, bồi dưỡng
đạo đức là cần thiết và suốt đời.
Những vấn đề đạo đức đã được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện,
trên mọi lĩnh vực hoạt động của con người, ở phạm vi từ hẹp đến rộng, trong mối
quan hệ chủ yếu của mỗi người: đối với mình, đối với người, đối với việc, như:
trung với nước, hiếu với dân, thương u con người, cần kiệm liêm chính, chí cơng
vơ tư, tinh thần quốc tế trong sáng. Trong nội dung tư tưởng đạo đức của Người,
thương yêu con người là nội dung được Người quan tâm và thể hiện trong suốt
cuộc đời mình.
3


3


Trong điều kiện hiện nay, trước những biến động nhiều mặt của đời sống xã
hội, dưới tác động của kinh tế thị trường, sự suy thối về đạo đức, thì việc tìm hiểu,
nghiên cứu và vận dụng tư tưởng đạo đức của Người là cần thiết. Đặc biệt là tìm
hiểu nội dung tư tưởng của Người về lòng yêu thương con người và ý nghĩa của
việc vận dụng tư tưởng đạo đức vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
Thực tiễn phát triển đất nước trong điều kiện mới đặt ra yêu cầu nâng cao
chất lượng của giáo dục đào tạo một cách toàn diện trong xu thế hội nhập. Vai trị,
vị trí của nhà giáo và sinh viên Sư phạm tiếp tục được khẳng định, những truyền
thống đạo đức cao đẹp của nhà giáo và sinh viên Sư phạm cần được gìn giữ, phát
huy, việc bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức, đặc biệt là bồi dưỡng lòng yêu
thương con người theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên Sư phạm lại
càng cần thiết và có ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Với lí do trên, chúng em quyết định lựa chọn đề tài “Lòng yêu thương con
người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và ý nghĩa với việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về đạo đức nói riêng,
từ trước tới nay đã có nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có khơng
ít cơng trình, bài viết của các nhà nghiên cứu viết về tư tưởng Hồ Chí Minh, tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Tiêu biểu như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức” của tác giả Thanh Duy, Nxb Chính trị Quốc gia, 1996; “Góp phần tìm hiểu tư
tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh” của Lê Sỹ Thắng, Nxb Khoa học xã hội, 1991;
“Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh truyền thống dân tộc và nhân loại ” của Vũ
Khiêu, Nxb Khoa học xã hội, 1993; “Hồ Chí Minh - Người là ngọn đuốc sáng mãi


4

4


trong lòng nhân dân Việt Nam” do Phương Thúy sưu tầm; “Sáng ngời đạo đức Hồ
Chí Minh” của tập thể các tác giả, Nxb Khoa học xã hội…
Các cơng trình nghiên cứu trên có những đóng góp nhất định vào việc tìm
hiểu, nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức. Tuy nhiên, nội dung “Lòng yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh và ý nghĩa với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay” thì chưa có một cơng trình nào tìm hiểu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ nội dung lòng yêu thương con người trong tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, ý nghĩa đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lòng yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, từ đó rút ra ý nghĩa của nó với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay
Để đạt được mục đích trên, đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
- Làm rõ nội dung lòng yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức.
- Rút ra ý nghĩa của lòng yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà
Nội trong điều kiện hiện nay
Nêu lên một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục lòng yêu thương
con người cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó sử dụng kết hợp một số phương
5

5


pháp như: phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phân tích, khái qt hóa, hệ
thống hóa.
6. Đóng góp của đề tài
Về lý luận: Đề tài góp phần nghiên cứu, làm sâu sắc hơn nội dung lòng yêu
thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó rút ra ý
nghĩa của tư tưởng đó đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện nay.
Về thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học
tập và giảng dạy các môn học như: tư tưởng Hồ Chí Minh, Đạo đức học…
7. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương và 5 tiết
Chương 1: Lòng yêu thương con người - một nội dung trong tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh
Chương 2: Ý nghĩa của giáo dục lòng yêu thương con người với việc giáo
dục đạo đức cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trong điều kiện hiện
nay.

6

6



NỘI DUNG
Chương 1
LÒNG YÊU THƯƠNG CON NGƯỜI - MỘT NỘI DUNG
TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.1. Q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời thơ ấu tên là Nguyễn Sinh Cung, sinh ngày 195-1890, tại q ngoại Hồng Trù (cịn gọi là làng Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm
Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An), trong một gia đình nhà Nho.
Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy), sinh năm 1862, mất
năm 1929, quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung Cự,
nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Sinh Sắc xuất
thân từ gia đình nơng dân, mồ cơi cha mẹ sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm việc và ham
học. Vì vậy, ơng được nhà Nho Hồng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù xin họ
Nguyễn Sinh đem về nuôi. Là người ham học và thông minh, lại được nhà Nho
Hồng Xn Đường hết lịng chăm sóc, dạy dỗ, ơng thi đỗ Phó bảng và sống bằng
nghề dạy học. Đối với các con, ông Sắc giáo dục ý thức lao động và học tập để
hiểu đạo lý làm người. Khi cịn trẻ, như nhiều người có chí đương thời, ơng dùi
mài kinh sử, quyết chí đi thi. Nhưng càng học, càng hiểu đời, ông nhận thấy:
“Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ”, nghĩa là “Quan trường là nô lệ
trong những người nô lệ, lại càng nơ lệ hơn”. Do đó, sau khi đỗ Phó bảng, được
trao một chức quan nhỏ, nhưng vốn có tinh thần yêu nước, khẳng khái, ông thường
chống đối lại bọn quan trên và thực dân Pháp. Vì vậy, sau một thời gian làm quan,
ơng bị chúng cách chức. Ơng vào Nam Bộ làm thầy thuốc, sống cuộc đời thanh
bạch cho đến lúc qua đời.
7

7



Mẹ của Người là bà Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868, mất năm 1901, là một
phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết
lòng thương yêu và chăm lo cho chồng con
Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh, cịn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên,
sinh năm 1884, mất năm 1954. Anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, cịn có tên
là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888, mất năm 1950. Em của Người là bé Xin, sinh
năm 1900, vì ốm yếu nên sớm qua đời. Các anh chị của Người lớn lên đều chịu
ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm làm việc và rất thương người, đều là những
người yêu nước, đã tham gia phong trào yêu nước và bị thực dân Pháp và triều
đình phong kiến bắt bớ tù đày.
Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Nguyễn Sinh Cung sống ở q nhà trong sự
chăm sóc đầy tình thương yêu của ông bà ngoại và cha mẹ, lớn lên trong truyền
thống tốt đẹp của quê hương, hiếu học, cần cù trong lao động, tình nghĩa trong
cuộc sống và bất khuất trước kẻ thù. Nguyễn Sinh Cung ham hiểu biết, thích nghe
chuyện và hay hỏi những điều mới lạ, từ các hiện tượng thiên nhiên đến những
chuyện cổ tích mà bà ngoại và mẹ thường kể.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với gia đình chuyển vào Huế lần thứ
nhất, khi ông Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội. Từ cuối năm 1895 đến đầu năm
1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại Huế, ở nhờ nhà một người quen ở
trong thành nội (nay là số nhà 112, đường Mai Thúc Loan). Đó là những năm
tháng gia đình ơng Sắc sống trong cảnh gieo neo, thiếu thốn. Bà Hoàng Thị Loan
làm nghề dệt vải, cịn ơng Sắc ngồi thời gian học, phải đi chép chữ thuê để kiếm
sống, để học và dự thi.
Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi hội lần thứ hai nhưng vẫn không
đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật khó khăn. Gần cuối năm 1898, theo lời
mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc về dạy học cho một số học sinh
ở làng Dương Nỗ, tại ngôi nhà của ông Nguyễn Sĩ Khuyến (em trai ông Nguyễn Sĩ
8

8



Độ), xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách thành phố Huế 6 km.
Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về đây và bắt đầu học chữ Hán tại lớp học
của cha.
Cuối năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc được cử đi coi thi ở trường thi hương
Thanh Hoá. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về
sống với mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan sinh bé Xin trong hồn cảnh khó khăn
túng thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo
mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi đau mất mẹ và em.
Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế, Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều
mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện
uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở Huế có nhiều lớp người, những người
Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ
trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ cánh chuồn, nhưng khúm núm rụt rè;
cịn phần đơng người lao động thì chịu chung số phận đau khổ và tủi nhục. Đó là
những người nơng dân rách rưới mà người Pháp gọi là bọn nhà quê, những phu
khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những trẻ em nghèo khổ, lang thang trên
đường phố… Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký ức của Nguyễn Sinh Cung.
Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh Sắc vội trở lại Huế, đưa con về quê.
Sau khi thu xếp cuộc sống cho các con, được sự động viên của bà con trong họ
ngồi làng, ơng Nguyễn Sinh Sắc lại vào Huế dự kỳ thi hội năm Tân Sửu. Lần này
đi thi ông mang tên mới là Nguyễn Sinh Huy.
Tháng 5-1901, ông Nguyễn Sinh Huy đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu.
Khoảng tháng 9-1901, Nguyễn Sinh Cung cùng gia đình chuyển về sống ở quê nội.
Ông Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai con trai với tên mới là Nguyễn Tất
Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung).
Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo
Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và sau là thầy Trần Thân. Các thầy đều là
9


9


những người yêu nước. Nguyễn Tất Thành được nghe nhiều chuyện qua các buổi
bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần
dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất,
nhà tan. Trong những người mà ơng Sắc thường gặp gỡ có ơng Phan Bội Châu.
Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan Bội Châu cũng day dứt
trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc. Con người nhiệt huyết ấy trong
lúc rượu say vẫn thường ngâm hai câu thơ của Viên Mai:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”.
Nghĩa là:
“Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách,
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương”.
Câu thơ đã tác động nhiều đến Nguyễn Tất Thành và góp phần định hướng
cho người thiếu niên sớm có hoài bão lớn.
Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống của người dân địa phương, Nguyễn Tất
Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ của người dân mất nước. Đó là nạn thuế
khoá nặng nề cùng với việc nhân dân bị bắt làm phu xây dựng đường trong tỉnh,
làm đường từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng (Lào) nơi rừng thiêng nước độc. Những
cuộc ra đi khơng có ngày về, nhân dân lầm than, ai oán.
Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến xã Võ Liệt, huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán. Tại đây Nguyễn Tất Thành
có dịp nghe chuyện thời cuộc của các sĩ phu đến đàm đạo với cha mình.
Cuối năm 1904, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, khi ông Sắc đến đây dạy học. Ngoài thời gian học tập, Nguyễn
Tất Thành thường theo cha đến các vùng trong tỉnh như làng Đông Thái, q
hương của Phan Đình Phùng, thăm các di tích thành Lục niên, miếu thờ La Sơn

phu tử Nguyễn Thiếp, v.v…
10

10


Tháng 7-1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến Xương, Thái
Bình, trong dịp ơng Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các sĩ phu ở vùng đó. Khoảng tháng
9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin
cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố
Vinh. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với
khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái.
Những chuyến đi này giúp Nguyễn Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và
tầm suy nghĩ. Anh nhận thấy ở đâu người dân cũng lam lũ đói khổ, nên dường như
trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy bọn áp bức bóc lột thực dân
phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, anh đã sớm “có chí đuổi thực dân
Pháp, giải phóng đồng bào”.
Sau nhiều năm lần lữa việc đi làm quan, cuối tháng 5-1906, ông Nguyễn
Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất Thành và anh trai cùng đi theo cha.
Vào Huế, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai được cha cho đi học Trường tiểu
học Pháp – Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906); lớp
sơ đẳng (cours élémentaire, tháng 9-1907).
Ở Huế, lần này xảy ra một sự kiện đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Nguyễn
Tất Thành. Tháng 4-1908, anh tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân
tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu suốt đời Người vì quyền lợi của
nhân dân lao động. Vì những hoạt động yêu nước, tham gia cuộc đấu tranh của
nông dân, Nguyễn Tất Thành bị thực dân Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh
Huy cũng bị chúng khiển trách vì đã để cho con trai có những hoạt động bài Pháp.
Tuy nhiên, tháng 8-1908, Nguyễn Tất Thành, với tên gọi Nguyễn Sinh Côn,
vẫn được ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê (Chouquet) tiếp nhận vào học tại

trường. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp trung đẳng (lớp nhì) (cours
moyen) tại Trường Quốc học Huế.

11

11


Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp
xúc nhiều với sách báo Pháp. Các thầy giáo của Trường Quốc học Huế có người
Pháp và cả người Việt Nam, cũng có những người yêu nước như thầy Hồng
Thơng, thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnh hưởng của các thầy giáo yêu nước và
sách báo tiến bộ mà anh được tiếp xúc, ý muốn đi sang phương Tây tìm hiểu tình
hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh nhân loại từng bước lớn
dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Cùng thời gian đó, Nguyễn Tất Thành
cịn được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành
Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu
nước.
Khoảng tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành rời Trường Quốc học Huế theo
cha vào Bình Định, khi ơng được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê. Trong thời
gian ở Bình Khê, Nguyễn Tất Thành thường được cha dẫn đi thăm các sĩ phu trong
vùng và thăm di tích lịch sử vùng Tây Sơn.
Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi học tiếp chương trình lớp
cao đẳng (lớp nhất - cours supérieur), tại Trường tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn.
Ông Nguyễn Sinh Sắc hiểu khả năng và chí hướng người con trai thứ của mình nên
đã tạo điều kiện cho anh được tiếp tục học lên.
Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành hồn thành chương trình tiểu học. Sau khi
nghe tin cha bị cách chức Tri huyện Bình Khê, bị triệu hồi về Kinh, anh khơng theo
cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam. Trên đường từ Quy Nhơn
vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết. Ở đây anh xin vào làm

trợ giáo (moniteur), được giao dậy một số môn, đồng thời phụ trách các hoạt động
ngoại khoá của Trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng
Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành
lập năm 1907. Ngoài giờ lên lớp, Nguyễn Tất Thành tìm những cuốn sách quý
trong tủ sách của cụ Nguyễn Thông để đọc. Lần đầu tiên anh được tiếp cận với
12

12


những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp như Rútxô (Rousseau), Vônte
(Voltair), Môngtétxkiơ (Montesquieu). Sự tiếp cận với những tư tưởng mới đó
càng thơi thúc anh tìm đường đi ra nước ngoài. Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành
rời Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của Liên Thành
công ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường
Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội. Ở Sài Gòn một thời gian ngắn, anh
thường đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi. Ở
đâu anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành
cũng hay đến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là quần áo
cho các thủy thủ trên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước mơ
có những chuyến đi xa. Đến ngày mùng 5 tháng 6 năm 1911 khi mới 21 tuổi với
hai bàn tay trắng và trí tuệ mẫn tiệp Người đã rời Bến Nhà Rồng ra đi tìm đường
cứu nước. Để rồi trải qua một hành trình khắp năm châu bốn biển Người đã đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã hiểu, đã tin và đưa chủ nghĩa Mác - Lênin về
Việt Nam để đưa đất nước khỏi cảnh nơ lệ lầm than.
Hành trình tuổi thơ mà Người đã đi qua suốt những năm tháng bôn ba tìm
đường cứu nước, những gì Người thấy, Người cảm nhận, Người thấu hiểu đã góp
phần hình thành những tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mà đặc biệt trong đó là lòng
yêu thương con người.
1.1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam, hình thành cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng nền
văn hóa mới, nền đạo đức mới ở Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức chủ nghĩa Mác Lênin, Người đã cổ vũ, động viên những tiềm năng tinh thần truyền thống Việt
Nam để tạo ra một xã hội nhân cách mới. Xã hội nhân cách đó được tạo dựng trên
cơ sở chủ nghĩa yêu nước của dân tộc kết hợp chủ nghĩa quốc tế của giai cấp cơng
nhân, từ đó đã sản sinh ra hàng triệu, hàng triệu người con anh hùng của đất nước 13

13


những chiến sĩ cách mạng kiểu mới của thời đại Hồ Chí Minh: trung với nước,
hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh
phúc của nhân dân, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư...
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta một di sản vĩ đại, đó là tấm gương
sáng ngời về phẩm chất đạo đức, tượng trưng cho những gì cao đẹp nhất trong tâm
hồn, ý chí, nhân cách của dân tộc Việt Nam. Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
một tấm gương đạo đức của một vĩ nhân - một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người
cộng sản, đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình dị. Vấn đề lý
tưởng, lẽ sống: Sống cho ai? Sống vì cái gì? "Khơng có gì q hơn độc lập, tự do",
là lý tưởng, là lẽ sống, đạo đức của Hồ Chí Minh và của dân tộc Việt Nam. Ham
muốn tột bậc của Người là làm sao cho đất nước được hoàn toàn độc lập, nhân dân
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Chính ham muốn mãnh liệt ấy đã tạo cho Người một ý chí, một nghị lực phi
thường để "giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy vũ
không thể khuất phục". Cho đến khi từ biệt thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất
của Người vẫn là không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Đạo
đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một bậc đại trí, đại dũng, hy sinh chẳng quản,
gian nguy không sờn. Ở những thời điểm then chốt của lịch sử, với tầm nhìn xa
trơng rộng của một "phượng hồng đại ngàn", Hồ Chí Minh đã sáng suốt và dũng
cảm đi tới những phán quyết lịch sử. Năm 1945, khi thời cơ cách mạng đã đến,

Người chỉ thị: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được
độc lập". Vào giữa những nǎm 60, lợi dụng khó khăn của ta, khi phong trào cộng
sản quốc tế có xung đột và chia rẽ nghiêm trọng, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đổ hơn nửa
triệu quân vào miền Nam Việt Nam và tăng cường cho không quân, hải quân ném
bom, bắn phá dữ dội miền bắc, hòng đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá. Trước tình
thế đó, Người vẫn thể hiện quyết tâm và khí phách của tồn Đảng, tồn dân: Dù nó
14

14


ném hóa biển cũng phải giải phóng miền nam cho kỳ được!. Thật hiếm có một nhà
lãnh đạo nào, trong những giờ phút thử thách, lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan
dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của tinh thần, thắng khơng kiêu, khó
khơng nản. Cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vơ cùng gian
khổ, có giai đoạn hoạt động sơi nổi, được đánh giá cao, có giai đoạn bị hiểu lầm,
ngộ nhận, lâm vào cảnh "như là sống ở bên lề, ở bên ngoài Đảng. Vượt qua được
thử thách khổ ải, tù đày đã rất khó, nhưng vượt qua được thử thách do bị hiểu lầm,
nghi kỵ cịn khó khăn hơn nhiều. Để kiên trì chân lý, giữ vững quan điểm độc lập,
tự chủ, Người đã bình tĩnh, chủ động vượt qua những năm tháng khó khăn đó.
Lênin từng nói: khơng sợ đói, khơng sợ chết, chỉ sợ khơng chiến thắng được phút
yếu đuối của bản thân. Trong khó khăn, Người vẫn ln ln "tự khun mình",
“muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao!” Dù có lúc phải "hịa lệ thành
thơ" thì điều đó cũng chỉ vì nhân dân, vì Tổ quốc chứ khơng phải vì cảnh ngộ cá
nhân.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một lãnh tụ hết lòng thương yêu, quý
trọng đối với nhân dân, ln ln tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân,
cho nên mọi chủ trương, chính sách đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chính đáng
của nhân dân, ln ln dựa vào dân, "lấy dân làm gốc". Người giáo dục cán bộ

phải nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, phải chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bởi nếu nước được độc lập mà dân
khơng được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng khơng có nghĩa lý gì.
Để làm trịn trách nhiệm là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Người
dạy cán bộ phải gần dân, hiểu tâm lý, nguyện vọng của dân, lắng nghe ý kiến của
dân, của "những người không quan trọng", không được lên mặt "quan cách mạng",
cậy quyền cậy thế, đè đầu cưỡi cổ dân. Mặc dù uy tín cao, sức hấp dẫn rất lớn,
được tồn dân suy tôn là "Cha già của dân tộc", nhưng không bao giờ Người xem
15

15


mình đứng cao hơn nhân dân. Người coi việc phải gánh chức Chủ tịch cũng như
việc "người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận". Nhận được thư, quà chúc
mừng của nhân dân, dù bận trǎm cơng nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời,
cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, khiêm
nhường và kính trọng đối với nhân dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết
mực. Người là "mn vàn tình thân u" đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình
u thương đó, có chỗ cho mọi người, khơng qn, khơng bỏ sót một ai. Trái tim
mênh mơng của Người ôm trọn mọi nỗi đau khổ của nhân dân. Người nói một cách
cảm động: "Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng; gộp những nỗi
đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tơi". Tình
thương u đó được mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Đối với
những người lầm lạc, ngay cả đối với những người chống đối hay kẻ thù, Người
cũng thể hiện một lịng khoan dung, độ lượng hiếm có. Kẻ thù xâm lược đã gây
nên bao tội ác man rợ đối với nhân dân ta, nhưng khi chúng đã thất thế, đầu hàng,
Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải đối xử với chúng một cách khoan hồng,
phải làm "cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi

giết người, cướp nước".
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức chí cơng vơ tư, đời riêng trong sáng,
nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cần, kiệm, giản dị, không ham
muốn về vật chất, đó là "tư cách của người cách mạng". Người đề ra và tự mình
gương mẫu thực hiện. Cũng như V.I.Lênin, Người coi khinh mọi sự xa hoa,
không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Cuộc đời của Người, từ một thợ
ảnh bình thường ở ngõ hẻm Compoint ở Paris đến khi làm Chủ tịch nước, sống
giữa thủ đô Hà Nội, vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã. Khách
nước ngoài vào thăm nhà sàn của Người đã rất xúc động khi được biết Người

16

16


khơng hề có một chút của riêng. Đó là một cuộc đời trong sạch, suốt đời thực
hành cần, kiệm, liêm, chính.
Nét nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh là sự khiêm tốn phi thường. Người
không để ai sùng bái cá nhân mình, mà ln ln nêu cao sự nghiệp anh hùng của
tồn Đảng, tồn dân, tồn qn. Người nói: Quần chúng mới là người làm nên lịch
sử và lịch sử là lịch sử của chính họ chứ khơng phải của một cá nhân anh hùng
nào.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã viết nhiều về tấm gương đạo đức của V.I.Lênin.
Rèn luyện theo tấm gương đó, Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc và nhân loại một
tấm gương trọn vẹn. Ở Hồ Chí Minh, đạo đức đã đạt tới một sự thống nhất chặt chẽ
giữa nói và làm, giữa đời công và đời tư, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời
thường. Do đó, Người đã trở thành "tinh hoa và khí phách, lương tâm và vinh dự",
thành biểu tượng của đạo đức và văn minh, không phải chỉ của Đảng, dân tộc, mà
còn là biểu tượng của đạo đức và văn minh nhân loại. Đúng như bạn bè quốc tế đã
đánh giá: "Giữa lúc vàng thau lẫn lộn, đồng chí Hồ Chí Minh trở thành trung tâm

và tượng trưng cho cuộc xung đột lớn lao đang diễn ra giữa cái cũ và cái mới,
giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội... Sở dĩ bản anh hùng ca Việt Nam thu
hút được lòng yêu mến của hàng trăm triệu người trên thế giới, chính là vì nó
được tiêu biểu bởi nhân vật phi thường đó [35,26]
Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, những tư tưởng đạo
đức dân tộc, dạy ta sống có tình, có nghĩa, thủy chung, u thương đùm bọc lẫn
nhau, đã trở thành những chuẩn mực đi vào lối sống và hành vi ứng xử của mỗi
con người Việt Nam. Người Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, nhân ái u thương lẫn
nhau, chính nếp sống chan hịa trong cộng đồng, gia đình, làng xã đã tạo nên chất
keo sơn gắn bó, trước sau như một, từ đó hình thành nên nét đẹp trong đạo đức của
dân tộc Việt Nam.

17

17


Cha ơng ta xưa có câu:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
“Lá lành đùm lá rách
Lá rách ít đùm lá rách nhiều”
“Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”
Dân tộc Việt Nam là dân tộc mang đạo lí làm người sâu sắc, những đứa trẻ
khi mới chào đời bên cánh võng đưa nôi bằng những câu ca, những lời ru ngọt
ngào đằm thắm của bà, của mẹ đã truyền cho con mình tình cảm và linh hồn người
Việt, dạy cho con biết đạo lý làm người, biết thờ phụng cha mẹ, yêu thương anh
em, có hiếu, có nghĩa tình, phải chăng những tình cảm đạo đức trong sáng ấy đã ăn

sâu vào tiềm thức người Việt ngay từ khi cịn bé. Chính những tư tưởng tình cảm
đó tạo nên nét đẹp văn hóa, đạo đức cao đẹp của con người Việt Nam. Cũng những
tinh hoa, những giá trị văn hóa ấy được chắt lọc, kết tinh và hội tụ trong con người
Hồ Chí Minh, Người chính là tấm gương đạo đức cao đẹp, một tấm gương trong
sáng tuyệt vời về sự phấn đấu cho lý tưởng đạo đức cao cả nhất của con người.
Tư tưởng đạo đức của Người được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam, đồng thời kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh
hoa văn hóa nhân loại và đặc biệt là tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen, Lênin.
Con người Việt Nam hiền hịa, đơn hậu, mang bản chất của cư dân nông
nghiệp, trồng lúa nước. Người được sinh ra và lớn lên trên quê hương Nam Đàn –
Nghệ An, mảnh đất anh hùng sâu nặng tình nghĩa, được thừa hưởng truyền thống
của một gia đình Nho học. Với phẩm chất đạo đức cao quý của người cha đầy khí
phách, giàu nghị lực, ý chí mẫu mực và hết lịng u thương vợ con. Bên cạnh đó,
đạo đức người mẹ giàu lịng nhân ái, đôn hậu, tần tảo và dịu hiền. Cuộc sống của
18

18


Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc cịn thơ ấu với tình u thương đùm bọc của gia đình,
của làng xóm quê hương đã ăn sâu vào tâm hồn Người. Vì vậy, thật dễ dàng nhận
thấy tư tưởng đạo đức của Người chẳng phải bắt nguồn từ những điều cao sang, mà
nó được bắt nguồn từ những điều giản dị thân thương, gần gũi trong cuộc sống.
Không những chỉ kế thừa những truyền thống đạo dức của dân tộc, mà Hồ
Chí Minh còn tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại, Nho giáo, Phật giáo, Lão
giáo, đạo đức phương Tây. Người đã từng sử dụng nhiều phạm trù, khái niệm tư
tưởng đạo đức như: trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính,... Song khi
tiếp thu vận dụng, Hồ Chí Minh đã đưa vào đó nội dung mới, bổ sung nội dung tư
tưởng đạo đức. Chính vì vậy, những giá trị đạo đức mới đã hòa nhập với những giá
trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khiến cho mỗi người Việt Nam đều cảm nhận

sự gần gũi, bởi Người đã kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, để nâng
giá trị đạo đức truyền thống lên một tầm cao mới. Trong nhiều vấn đề, Người đều
khai thác yếu tố tích cực, tìm kiếm những “hạt nhân hợp lý” để phục vụ cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và xây dựng xã hội mới. Đây cũng chính là đặc
trưng nổi bật của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Ngoài kế thừa những giá trị đạo đức cao đẹp của dân tộc, chắt lọc những tinh
hoa đạo đức nhân loại, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cịn bắt nguồn từ tư tưởng
đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người đã từng viết những dòng đầy xúc động khi Lênin mất:
Lênin là người: “Đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng về sự giản dị vĩ
đại và sự khiêm tốn cao độ” “không phải chỉ thiên tài của Người mà chính là tính
coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị,
tóm lại đó chính là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn
lao tới các dân tộc Châu Á và đã khiến trái tim của họ hướng về Người khơng gì
ngăn cản nổi ” [15, 295]

19

19


Điều quan trọng đối với Hồ Chí Minh là ở chỗ, không chỉ bàn tới đạo đức
mà phải thực hiện, phải nêu gương. Người cho rằng “Một tấm gương sống còn giá
trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người coi tấm gương đạo đức cao cả
của Lênin là ‘hiện thân của tình anh em bốn bể”, những phẩm chất cao đẹp của
Lênin đã cuốn hút Hồ Chí Minh, là một trong những yếu tố cơ sở hình thành nên tư
tưởng đạo đức.
Như vậy, có thể thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức chính là sự kết hợp
hài hòa giữa đạo đức truyền thống, tinh hoa đạo đức nhân loại và tư tưởng đạo đức
Mác - Lênin. Bàn tới vấn đề đạo đức trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ta dễ

dàng nhận thấy Người ln đặt vấn đề đạo đức, xem xét với mọi đối tượng, trên
nhiều lĩnh vực hoạt động của con người, từ lao động sản xuất, học tập, chiến đấu,
ai ai cũng cần phải rèn luyện phẩm chất đạo đức. Vấn đề đạo đức ấy khơng chỉ bó
hẹp trong phạm vi nhỏ là gia đình, mà được bàn đến trong phạm vi xã hội, từ giai
cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Đạo đức một con người luôn được Hồ
Chí Minh xem xét một cách tồn diện, sâu sắc trong các mối quan hệ: đối với
mình, đối với người và đối với việc. Người coi đạo đức là nền tảng của mỗi con
người, đặc biệt là với người cách mạng. Người đã dùng cách nói bình dị mà ví rằng
đạo đức như gốc của cây, như ngọn nguồn của sơng suối “Sơng thì có nguồn mới
có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn, cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo].
Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
khơng lãnh đạo được nhân dân”.[18,252-253]
Luôn luôn coi trọng phẩm chất đạo đức của người cách mạng, chính vì thế
Hồ Chí Minh mong muốn Đảng ta cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho các thành viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đạo đức chính là gốc, là nguồn cội, là
nền tảng của mỗi người cách mạng, bởi muốn làm cách mạng trước hết con người
phải có cái tâm trong sáng, đạo đức cao đẹp, đạo đức chính là yếu tố đánh giá một
20

20


người cách mạng thực thụ, song cũng không thể coi nhẹ tài năng bởi tài và đức,
“hồng” và “chuyên”, phẩm chất và năng lực phải đi đôi không thể thiếu mặt nào.
Theo Hồ Chí Minh, nếu có đức mà khơng có tài thì chẳng khác gì ơng bụt gỗ ngồi
trên tịa sen tuy khơng làm hại ai nhưng cũng chẳng có ích. Cịn nếu có tài mà
khơng có đức cũng chỉ hại dân hại nước.
Đối với di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, bất cứ người Việt Nam nào
cũng có thể tìm thấy những vấn đề đạo đức gần gũi, những phẩm chất cần tu dưỡng

để vươn tới Chân - Thiện - Mĩ. Đó chính là những vấn đề đạo đức được Người rút
ra từ cuộc đời thực của mỗi con người trong xã hội Việt Nam, khái quát thành tư
tưởng lý luận đạo đức. Vậy những phẩm chất đạo đức đó là gì?
Đó là trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Đây cũng chính là những giá
trị, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Ngay từ thời trẻ, Hồ Chí Minh đã chọn cho mình con đường đấu tranh suốt
đời cho cách mạng, tất cả vì giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. “Trung với nước, hiếu với dân” là mục tiêu Người kiên định theo đuổi, không
quản gian khổ, hy sinh, bất chấp thách thức nguy hiểm sáng suốt và dũng cảm đi
theo con đường cách mạng. Những năm trước cách mạng, trước thời cơ Tổng khởi
nghĩa; mặc dù đang bị sốt nặng, nhưng Người vẫn căn dặn đồng chí của mình: “Dù
có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải dành cho được độc lập!”.
Tấm gương “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, tấm gương của ý chí và
nghị lực phi thường của Hồ Chí Minh, chính là bài học quý báu cho những người
cộng sản. Người dạy thanh niên:
“Khơng có việc gì khó
Chỉ sợ lịng khơng bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
21

21


Chúng ta học ở đạo đức Hồ Chí Minh sự tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh
đoàn kết dân tộc, vào sự tơn trọng dân, hết lịng vì dân, dựa vào dân, lấy dân làm
gốc là phương châm công tác dân vận của Người. Bởi Người hiểu rõ: “Chèo
thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân” Người tình nguyện là “Người lính vâng
mệnh quốc dân trước mặt trận”.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc trong việc xây dựng con
người, xây dựng cuộc sống mới. Người ln nhắc nhở “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” Hai tiếng “trồng người” đã làm sáng tỏ tấm
lòng nhân hậu, vị tha và tình yêu thương bao la của Người đối với mọi tầng lớp
nhân dân. Người nói “mỗi con người ta đều có cái thiện và cái ác ở trong lịng. Ta
phải biết làm cho phần tốt ở trong con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần
xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Hồ Chí Minh biết cách
dùng người và cảm hóa con người. Người căn dặn chúng ta: ngón tay cũng có
ngón dài ngón ngắn. Nhưng ngắn dài đều hợp lại trên nơi bàn tay... vậy nên phải
khoan hồng độ lượng đùm bọc. Ta phải nhận rằng ta là con Lạc cháu Hồng thì ai
cũng có ít nhiều lịng ái quốc.
Ngay từ khi giành được chính quyền, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi mọi
người xây dựng đời sống mới. Đó là cần - kiệm - liêm - chính, chí cơng vơ tư, nếp
sống giản dị trong sáng, trung thực, khiêm tốn. Phải nâng cao đạo đức cách mạng
thường xuyên như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Người nhấn mạnh “Tham ơ, lãng phí tài sản của nhà nước, của tập thể, của
người dân là hành động trộm cắp mà ai cũng phải thù ghét, phải trừ bỏ”. Người
coi trọng công tác xây dựng Đảng là rất quan trọng. Bởi vì: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
người đầy tớ trung thành của nhân dân”

22

22


Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức chí cơng vô tư, đời riêng trong sáng, nếp
sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cần, kiệm, giản dị, không ham muốn về
vật chất, đó là tư cách của người cách mạng.
1.2. Lòng yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh
1.2.1. Nội dung lịng u thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh
Điều cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người là vấn đề
lớn, được đặt lên hàng đầu và là nội dung trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ
nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức
mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực của dân
(ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh
vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc
lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá
nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: Con
người theo nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả lồi người. Người chưa bao giờ nhìn nhận con
người một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về con người ở mọi nơi, mọi
lúc, trong mọi hồn cảnh, Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích chính đáng
của con người. Đem lại lợi ích cho con người, chính là tạo ra động lực lớn cho
sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của mỗi cá nhân khơng
được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không phát huy. Trong khi
phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân, Người viết: "Đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân". Mỗi
23

23


người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và
của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ

nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, khơng hình thức, khơng
cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và
nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật.
Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với loài người trên toàn
thế giới. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái qt hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể, đó là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ
bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc. Lơgíc phát triển
tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lơgíc phát triển tư tưởng ấy,
khái niệm "con người" theo Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai cấp vô
sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống nhất
về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác (đặc
biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách
mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và tồn thể nhân loại khỏi mọi sự nơ dịch, áp bức.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu của sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp đó.
Tư tưởng đó được thể hiện cụ thể trong lý luận cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, cần xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề
24

24


cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, cần phải

thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: Đây là cuộc chiến đấu
khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ,
tốt tươi. Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu khơng "dựa vào lực
lượng của tồn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khơng bao giờ quan
niệm hình thái xã hội đó như một mơ hình hồn chỉnh, một cơng thức bất biến.
Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa
khách quan. Người đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội với những bước đi thiết thực và nội dung cơ bản nhất. Theo Người: "Nói
một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao
động thốt khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no
và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân" xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân
dân ta có một đời sống thật sung sướng, tốt đẹp. Theo Người, xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với điều kiện khách quan, phải nắm được
quy luật và phải biết vận dụng quy luật một cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững
tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khn máy móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương
đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen: Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng
sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà
hiện thực phải luôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào
hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Vì vậy, khơng chỉ trong lý luận về đấu
tranh giành độc lập dân tộc mà trong lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội, khi
định ra mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết, "cần có con người xã hội chủ
nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan điểm về con người, con người
là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải
phóng chính bản thân con người.

25

25



×