Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (337.81 KB, 23 trang )

ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
VIỆN NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP

Thông tin chuyên đề:

HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ
(Tài liệu tham khảo phục vụ Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII)

Hà Nội, tháng 4 năm 2012


Luật Xuất bản số 30/2004/QH11 được Quốc hội
thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 7 năm 2005. Luật Xuất bản sửa đổi, bổ
sung đã được Quốc hội thông qua ngày 3 tháng 6 năm 2008
với việc chỉnh sửa nội dung của 8/46 điều. Tuy nhiên, có
thể nói, Luật Xuất bản vẫn còn bộc lộ những hạn chế, bất
cập, chưa theo kịp sự phát triển của hoạt động xuất bản
trong thực tiễn.
Để phục vụ việc Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung
Luật xuất bản tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII, Viện
Nghiên cứu lập pháp xin trân trọng giới thiệu tài liệu
chuyên đề “Hoạt động xuất bản-Thực trạng và kiến nghị”.
Trong phạm vi chuyên đề này, xin đề cập một số nét về hệ
thống pháp luật về xuất bản, thực trạng hoạt động xuất bản,
những khó khăn, bất cập trong quá trình thi hành luật và từ
đó đưa ra những kiến nghị sửa đổi luật.
Xin trân trọng gửi tới quý vị đại biểu Quốc hội.

2




MỤC LỤC
GIỚI THIỆU ..................................................................................................... 4
I- CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN........................................... 5
1. Các văn bản thể hiện chính sách của Đảng về hoạt động xuất bản .......... 5
2. Hệ thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động xuất bản ................... 5
3. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành .............................................. 7
II- THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN VÀ NHỮNG TỒN TẠI,
VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC THI HÀNH LUẬT......................................... 8
1.
Thực trạng hoạt động xuất bản............................................................ 8
1.1 Trong lĩnh vực xuất bản ...................................................................... 8
1.2 Trong lĩnh vực in xuất bản phẩm ........................................................ 9
1.3 Trong lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm ......................................... 10
2. Những tồn tại trong việc thi hành Luật Xuất bản ................................... 11
2.1. Trong lĩnh vực xuất bản ................................................................... 11
2.2 Trong lĩnh vực in .............................................................................. 11
2.3 Trong lĩnh vực phát hành.................................................................. 12
III- MỘT SỐ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT ................................ 14
1. Về tên gọi của dự án Luật ....................................................................... 14
2. Về nội dung của dự án Luật .................................................................... 14
3. Một số đề xuất khác ................................................................................ 19
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 21
Các nhà xuất bản trên cả nước .................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 23

3



GIỚI THIỆU
Xuất bản là hoạt động văn hóa, tư tưởng thông qua việc in và phát hành xuất
bản phẩm đến nhiều người. Hoạt động xuất bản bao gồm ba khâu: xuất bản - in ấn
- phát hành. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và quá
trình toàn cầu hóa, hoạt động xuất bản ngày càng trở nên phong phú và đa dạng.
Theo Đại từ điển tiếng Việt1, xuất bản là việc chuẩn bị bản thảo rồi in ra
thành sách, báo, tranh ảnh và phát hành.
Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội trong việc
sáng tạo tác phẩm, in nhân bản các tác phẩm, phổ biến đến nhiều người nhằm đạt
hiệu quả kinh tế, chính trị và xã hội.
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, tư tưởng, vừa là hoạt động
sản xuất kinh doanh. Thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến
nhiều người, xuất bản không phải là hoạt động đơn thuần kinh doanh. Về phương
diện văn hoá tư tưởng, sách và các xuất bản phẩm do hoạt động xuất bản mang lại
là sản phẩm tinh thần. Đó là kết quả lao động sáng tạo của con người, do con
người và vì con người. Các giá trị xã hội chứa đựng trong sách thể hiện và thoả
mãn nhu cầu đa dạng, phong phú về nhiều mặt của đời sống xã hội. Sách và các
xuất bản phẩm là một bộ phận rất quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt
văn hoá của mỗi dân tộc, ở mọi thời đại. Nội dung chính trị - xã hội, pháp luật, văn
học - nghệ thuật, khoa học - công nghệ chứa đựng trong sách là ý tưởng của tác
giả, nhà xuất bản nhằm truyền bá, bồi dưỡng và nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu
đời sống tinh thần của nhân dân, mở rộng giao lưu văn hoá với các nước. Giá trị cơ
bản của sách nói riêng, xuất bản phẩm nói chung là giá trị văn hoá tinh thần, do lao
động tinh thần của con người tạo ra.
Xuất bản là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Kinh doanh xuất bản phẩm
là hoạt động kinh doanh đặc thù, đòi hỏi phải thích ứng với cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng chính trị trong quá trình phát triển
xuất bản, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng ngày càng cao về xuất bản phẩm
của toàn xã hội, góp phần làm ổn định chính trị - xã hội, nâng cao dân trí, phát
triển kinh tế - xã hội, văn hoá của đất nước.

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ
rõ: “Rà soát, sắp xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng
tăng cường hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở
vật chất-kỹ thuật theo hướng hiện đại.”2 Tăng cường các biện pháp, cơ chế bảo
đảm tính thống nhất, công bằng, minh bạch và tạo điều kiện để hoạt động xuất
1

Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1999, trang 1874.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011,
trang 226.

2

4


bản, in, phát hành phát triển lành mạnh, đúng định hướng của Nhà nước trong thời
gian tới là những định hướng cơ bản của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về
xuất bản.
I- CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ XUẤT BẢN
1. Các văn bản thể hiện chính sách của Đảng về hoạt động xuất bản
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự quan tâm
sâu sắc đối với hoạt động xuất bản, thể hiện qua việc ban hành các văn bản định
hướng cho công tác xuất bản. Cụ thể là:
- Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản;
- Thông báo kết luận số 122-TB/TW của Ban Bí thư về sơ kết 3 năm thực
hiện Chỉ thị 42/CT-TW;
- Thông báo số 289-TB/TW ngày 04/12/2009 thông báo kết luận của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về xây dựng mô hình tổ chức của nhà xuất bản trước yêu

cầu mới;
- Quyết định số 281-QĐ/TW ngày 26/1/2010 của Ban Bí thư quy định về
việc chỉ đạo, định hướng tư tưởng đối với các vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy
cảm trong nội dung xuất bản phẩm;
- Quyết định số 282-QĐ/TW ngày 26/1/2010 của Ban Bí thư quy định trách
nhiệm, quyền hạn và việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng và kỷ luật cán bộ
lãnh đạo của nhà xuất bản;
- Quyết định số 283-QĐ/TW của Ban bí thư Đảng ngày 26/1/2010 ban hành
Quy định về sự phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ
Thông tin và Truyền thông với các cơ quan đảng, cấp ủy, tổ chức đảng các cơ
quan nhà nước, tổ chức đoàn thể trong công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất
bản.
2. Hệ thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động xuất bản
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về hoạt động xuất bản, các văn
bản pháp luật đã được ban hành, bao gồm:
- Luật xuất bản được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xuất bản do Quốc hội thông qua
ngày 03 tháng 6 năm 2008;
- Nghị định số 111/2005/NĐ-CP ngày 26/8/2005 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản;
- Nghị định 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực văn hoá – thông tin;
5


- Nghị định số 105/2007/NĐ-CP ngày 21/6/2007 của Chính phủ về hoạt
động in các sản phẩm không phải là xuất bản phẩm;
- Nghị định số 11/2009/NĐ-CP ngày 10/2/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 111/2005/NĐ-CP;
- Nghị định số 110/2010/NĐ-CP ngày 9/11/2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 111/2005/NĐ-CP;
- Nghị định số 02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản, sửa đổi, thay thế một số điều của
Nghị định 56/2006/NĐ-CP.
- Nghị định số 72/2011/NĐ-CP ngày 23/8/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 111/2005/NĐ-CP;
- Quyết định số 102-QĐ/2006/BVHTT ban hành ngày 29/12/2006 về việc
ban hành Quy chế lưu chiểu xuất bản phẩm;
- Quyết định số 38/2008/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2008 về việc ban hành Quy
chế liên kết trong hoạt động xuất bản;
- Quyết định số 20/2011/QĐ-TTg ngày 24/3/2011 ban hành Quy chế quản
lý hoạt động truyền hình trả tiền;
- Thông tư số 02/2010/TT-BTTTT ngày 11/01/2010 hướng dẫn một số điều
liên quan đến lĩnh vực xuất bản;
- Thông tư số 16/2010/TT-BTTTT ngày 19/7/2010 quy định chi tiết và
hướng dẫn việc cấp giấy phép hoạt động báo chí in, xuất bản số phụ, xuất bản phụ
trương, xuất bản đặc san;
- Thông tư số 12/2011/TT-BTTTT ngày 27/5/2011 sửa đổi, bổ sung, thay
thế một số quy định của Thông tư số 02/2010/TT-BTTTT ngày 11 tháng 01 năm
2010;
- Thông tư số 13/2011/TT-BTTTT ngày 6/6/2011 quy định về văn phòng
đại diện tại Việt Nam của nhà xuất bản nước ngoài, tổ chức phát hành xuất bản
phẩm nước ngoài;
- Thông tư số 21/2011/TT-BTTTT ngày 13/7/2011 sửa đổi, bổ sung một số
quy định của Thông tư số 13/2008/TT-BTTTT ngày 31 tháng 12 năm 2008 hướng
dẫn việc thành lập và hoạt động của cơ quan đại diện, phóng viên thường trú ở
trong nước của các cơ quan báo chí và Quyết định số 28/2002/QĐ-BVHTT ngày
21 tháng 11 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quy chế
xuất bản bản tin, tài liệu, tờ rơi; phát hành thông cáo báo chí; đăng, phát bản tin
trên màn hình điện tử của các cơ quan, tổ chức nước ngoài, pháp nhân có yếu tố

nước ngoài tại Việt Nam, và một số văn bản khác;
6


- Nghị quyết 71/NQ-CP ngày 27/12/2010 về đơn giản hóa thủ tục hành
chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông;
Các quy định về hoạt động xuất bản cũng được thể hiện trong các đạo luật
như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế.... và các văn bản pháp luật có
liên quan. Chẳng hạn, Nghị định số 122/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã quy định về chính sách ưu đãi thuế thu nhập
doanh nghiệp cho hoạt động xuất bản.
3. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành
Luật Xuất bản và các văn bản pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất bản phát triển nhanh, mạnh cả về số lượng và chất lượng, phục vụ tốt
các nhiệm vụ chính trị của đất nước và góp phần cải thiện, nâng cao nhu cầu đọc
của nhân dân.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, bên cạnh những mặt ưu điểm, tích cực
cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề mới trong thực tiễn. Một số quy định trong Luật
Xuất bản và các văn bản dưới luật còn thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ đối với một số
đạo luật có liên quan, một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động
xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm. Điều này gây ra những khó khăn, vướng
mắc trong công tác quản lý nhà nước cũng như việc chấp hành, thực thi pháp luật.
So với vị trí, vai trò và tính chất của hoạt động xuất bản, thì các chính sách
của Nhà nước đối với hoạt động này còn chưa tương xứng. Vẫn còn nhiều nội
dung trong các chủ trương của Đảng và trong quy định của Luật Xuất bản đối với
hoạt động xuất bản, in và phát hành chưa được cụ thể hóa bằng cơ chế, chính sách
của Nhà nước.
Các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ hoạt động xuất bản còn thiếu

đồng bộ, một số quy định không phù hợp với thực tiễn hoạt động phát hành xuất
bản phẩm, gây khó khăn khi triển khai thực hiện. Việc thực hiện chính sách, pháp
luật về xuất bản còn nhiều tồn tại, thiếu sót, một số nội dung chưa được triển khai
thực hiện. Có chính sách đã được quy định trong Luật Xuất bản, nhưng đến nay
vẫn chưa được thực hiện do chưa có văn bản hướng dẫn. Hoặc có những chính
sách đã được ban hành nhưng mức độ hỗ trợ quá ít không tương xứng với vị trí,
vai trò của công tác xuất bản và yêu cầu hưởng thụ của nhân dân đặc biệt là tại các
địa bàn vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới và hải đảo.
Đã có những điểm bất cập giữa Luật Xuất bản với một số quy định của Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Cán bộ, công chức,…
dẫn đến công tác điều hành, quản lý hoạt động xuất bản và thực thi Luật Xuất bản
gặp không ít khó khăn,vướng mắc.
7


II- THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN VÀ NHỮNG TỒN TẠI,
VƯỚNG MẮC TRONG VIỆC THI HÀNH LUẬT
1. Thực trạng hoạt động xuất bản
1.1 Trong lĩnh vực xuất bản
Trong những năm qua, với sự mở rộng đối tượng được thành lập nhà xuất
bản, số lượng nhà xuất bản của nước ta đã tăng lên nhanh chóng (xem Phụ lục).
Năm 2011, cả nước có 64 nhà xuất bản, trong đó có 52 nhà xuất bản trung ương và
12 nhà xuất bản địa phương.3 Các nhà xuất bản chủ yếu tập trung ở hai thành phố
lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh,4 tuy nhiên cũng đã xuất hiện một số
nhà xuất bản ở các địa phương như Hải Phòng, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Nghệ
An, Đồng Nai… Số lượng sách và văn hóa phẩm không ngừng tăng lên. Theo số
liệu thống kê không chính thức, năm 2011 cả nước đã xuất bản 29.300 cuốn sách
với 330.500 triệu bản, tăng 13% số cuốn, 15% về số bản so với năm 2010. Sản
lượng ngành in tăng 10%, đạt hơn 755 tỷ trang in 13x19 (cm); phát hành trên 350
triệu bản sách.5

Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng sách ngày càng được nâng
cao, nhiều bộ sách có giá trị được xuất bản và nhận được sự quan tâm chú ý của dư
luận. Hoạt động xuất bản của cả nước tiếp tục giữ được mức tăng trưởng, không
chỉ về số lượng đầu sách, bản sách mà còn có bước phát triển nhất định về chất
lượng, với sự xuất hiện của nhiều bộ sách, đầu sách có giá trị, phục vụ kịp thời các
nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ ngày càng
cao của xã hội. Một số nhà xuất bản có tốc độ tăng trưởng khá như: Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Kim Đồng, Nhà Xuất bản Thời đại… Một số
nhà xuất bản đã được cơ quan chủ quản vận dụng cơ chế linh hoạt, trực tiếp bổ
sung về vốn, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và tạo điều kiện cho đơn vị tái đầu tư.
Trong 2 năm 2010 và 2011, tổng vốn kinh doanh của toàn ngành xuất bản tăng
trên 300% trong đó vốn cố định tăng 541,6%.6
Có thể nói, nhờ những quy định thông thoáng trong Luật Xuất bản 2004 và
Luật sửa đổi bổ sung Luật xuất bản 2008 về việc nhà xuất bản được liên kết với
tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, cá nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh về
in hoặc phát hành xuất bản phẩm và tổ chức có tư cách pháp nhân để tổ chức bản
thảo, in và phát hành từng xuất bản phẩm, diện mạo của ngành xuất bản đã có
những thay đổi đáng kể trong nhiều năm qua. Một số công ty phát hành7 với năng
3
Trích Báo cáo kết quả giám sát tình hình thi hành Luật xuất bản của Ủy ban VHGDTTNNĐ của Quốc hội., số 415
ngày 10/5/2012.
4
Có 45/64 nhà xuất bản của cả nước tập trung tại Thủ đô Hà Nội; có 07 nhà xuất bản và 29 chi nhánh, văn phòng
đại diện các nhà xuất bản tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh.
5
Theo Báo cáo số 2753 ngày 14/9/2011 của Bộ thông tin và truyền thông về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm
2011 và dự kiến chương trình công tác 2012 đối với lĩnh vực thông tin.
6
Nguồn: Tài liệu đã dẫn.
7

Như các công ty Đông A, Nhã Nam, Thái Hà, Trí Việt,...

8


lực và kinh nghiệm trong tổ chức bản thảo, nhạy bén với thị trường đã tham gia
tích cực vào việc liên kết với các nhà xuất bản, cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị
về mặt nội dung, hình thức đẹp và được xuất bản với số lượng lớn8.
Tuy nhiên, số lượng các loại tổ chức được phép thành lập nhà xuất bản
nhiều, dẫn đến việc hình thành quá nhiều các nhà xuất bản. Cơ chế thị trường đối
với hoạt động xuất bản có những mặt tích cực là thúc đẩy sự phát triển để cạnh
tranh, phá bỏ độc quyền, tạo nguồn sản phẩm xuất bản dồi dào cho xã hội mà đối
tượng hưởng lợi chính là người đọc. Mặc dù vậy, các nhà xuất bản luôn gặp nhiều
khó khăn để xuất bản phẩm đưa ra thị trường vừa đảm bảo được nhiệm vụ tuyên
truyền tư tưởng đúng định hướng, lại vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu người đọc để
đạt mục tiêu lợi nhuận để tồn tại và duy trì hoạt động. Nhưng trên thực tế, nhiều
nhà xuất bản thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực nên chưa đáp ứng được yêu cầu của
công việc. Công tác quản lý nhà nước về xuất bản chưa theo kịp với yêu cầu của
thực tiễn hoạt động xuất bản.
1.2 Trong lĩnh vực in xuất bản phẩm
Từ khi Chính phủ chủ trương bãi bỏ một số giấy phép và chuyển một số giấy
phép thành điều kiện kinh doanh, hoạt động in và phát hành có môi trường pháp lý
minh bạch và thông thoáng hơn. Nhiều cơ sở in hiện đại được thành lập, hệ thống
siêu thị, cửa hàng, bán sách qua mạng đã xuất hiện và ngày càng phổ biến giải
quyết được nhiều công ăn việc làm cho người lao động...;
Việc in ấn tiếp tục được đầu tư chiều sâu, áp dụng công nghệ in mới ở tất cả
các giai đoạn trước in, in và sau in. Chất lượng sản phẩm in được nâng cao, đặc
biết là các ấn phẩm in cao cấp. Năng lực sản xuất của ngành in đáp ứng được nhu
cầu in của khách hàng trong nước và đang vươn ra in gia công cho nước ngoài.
Do được cởi mở hơn về hành lang pháp lý theo Luật Xuất bản 2004 và Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản năm 2008, số lượng cơ sở in được
thành lập mới rất nhanh. Các doanh nghiệp in nhà nước cùng được cổ phần hóa
mạnh để huy động nguồn vốn. Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay cả nước có
khoảng 1.500 cơ sở in, trong đó có khoảng trên 400 cơ sở in thuộc diện được cấp
phép hoạt động. Còn lại khoảng 1100 cơ sở in thuộc diện không phải cấp phép mà
chỉ cần có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là được hoạt động in.
Tuy nhiên, trong số 1.100 cơ sở in không phải cấp phép hoạt động in thì gần
như 100% đều có khả năng in được xuất bản phẩm và đây là một trong những đầu
mối tiếp tay cho hoạt động in lậu sách, gây thiệt hại về kinh tế rất lớn cho các nhà
xuất bản làm ăn chân chính, đúng pháp luật, cản trở sức sáng tạo của tác giả và các
cơ quan chức năng chưa có cơ chế ngặn chặn hiệu quả.
8

Nguồn: Báo cáo số 2753 ngày 14/9/2011 của Bộ thông tin và truyền thông về tình hình thực hiện nhiệm vụ năm
2011 và dự kiến chương trình công tác 2012 đối với lĩnh vực thông tin.

9


Hơn nữa, trước nguy cơ cao đối với vấn đề an ninh, trật tự xã hội, các cơ sở
in không được cấp phép còn là nơi dung túng cho việc sản xuất các loại giấy tờ
quản lý nhà nước giả, bao bì, nhãn mác hàng hóa giả… tiếp tay cho các hoạt động
lừa đảo và sản xuất hàng giả gây thiệt hại về chính trị, tài chính, kinh tế cho các cá
nhân, tổ chức và các doanh nghiệp bị xâm phạm bao bì, nhãn mác hàng hóa, ảnh
hưởng đến quyền lợi và sức khỏe của người tiêu dùng.
1.3 Trong lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm
Phát hành là khâu cuối cùng của hoạt động xuất bản nhằm đưa tri thức, văn
hóa đến người đọc, do đó cần được tổ chức chuyên nghiệp. Trong thời gian qua,
hệ thống phát hành sách tiếp tục được mở rộng, số bản sách phát hành tăng, sách
đã đi tới được những vùng sâu, vùng xa của đất nước. Hoạt động kinh doanh phát

hành sách đã có hiệu quả, phục vụ tốt công tác tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ
chính trị và nâng cao dân trí. Đến nay, cả nước có 119 công ty phát hành sách cấp
tỉnh thuộc ngành thông tin, văn hóa và giáo dục đào tạo, hơn 14.000 trung tâm
sách, siêu thị sách, nhà sách, hiệu sách, đại lý sách… Bên cạnh các cơ sở phát
hành sách quốc doanh, lực lượng phát hành sách tư nhân cũng đã, đang đóng góp
đáng kể vào việc phát triển thị trường kinh doanh xuất bản phẩm, góp phần đáp
ứng nhu cầu về văn hóa đọc ngày càng đa dạng của xã hội. Một số doanh nghiệp
cũng đã áp dụng hình thức bán xuất bản phẩm trên mạng, kinh doanh ebook như
thiết thực và hiệu quả.9
Ngành xuất bản Việt Nam đã bước đầu hội nhập với nền xuất bản thế giới,
góp phần quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới và thực hiện đường lối đối
ngoại của Đảng và Nhà nước, thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, tham gia hội
chợ trong nước và quốc tế của các cơ sở phát hành sách.
Tuy nhiên, do còn thiếu các quy định đối với hoạt động phát hành, dân
đến thực trạng các cơ sở phát hành hình thành tự phát, manh mún. Chủ các cơ sở
phát hành không nhất thiết phải có kiến thức và những điều kiện tối thiểu do đó
dẫn đến tình trạng bất cứ chỗ nào có thể cũng được bày ra để bán sách, người chủ
thiếu kiến thức nên tiếp tay cho việc phát hành đến người tiêu dùng những tác
phẩm kém chất lượng, tác phẩm xuất bản chui như sách đồi bại, sách mê tín dị
đoan… và nguy hiểm hơn là vì lợi nhuận các cơ sở phát hành nhỏ lẻ sẵn sàng tiếp
tay cho việc tiêu thụ sách lậu. Các cơ quan quản lý nhà nước khi muốn can thiệp
thì rất khó vì thiếu các quy định quản lý cần thiết.
Ngoài ra, do thiếu vốn hoạt động nên nhiều nhà xuất bản phải liên kết với
các thành phần kinh tế khác, hay gọi là “bán giấy phép” cho đối tác và bỏ qua các
nguyên tắc quản lý để các đối tác liên kết thao túng, chi phối sâu vào hoạt động
xuất bản.
9

Như các công ty Vinabook, Trí Việt, Lạc Việt… (Nguồn: Bộ Thông tin-truyền thông)


10


2. Những tồn tại trong việc thi hành Luật Xuất bản
2.1. Trong lĩnh vực xuất bản
Sau khi Luật Xuất bản được ban hành, vai trò của tư nhân trong liên kết xuất
bản được thừa nhận về mặt pháp lý. Vai trò của tư nhân ngày càng mạnh lên
không chỉ ở sự chi phối bằng vốn mà bằng cả sự năng động trong việc tìm kiếm
bản thảo, mua bản quyền và tổ chức phát hành. Chính vì vậy, diện mạo thị trường
xuất bản phẩm khởi sắc cả về số lượng và chất lượng. Nội dung và thể loại xuất
bản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
Tuy nhiên, Luật Xuất bản đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu chặt chẽ, chưa phù
hợp nhằm ổn định và thúc đẩy hoạt động xuất bản phát triển. Vì vậy việc thực thi,
chấp hành Luật cũng chưa thật hiệu quả. Từ đó dẫn đến nhiều hạn chế, tồn tại có
thể coi là kìm hãm sự phát triển của các nhà xuất bản:
- Các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách còn thiếu và chưa
đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát triển.
- Quy định một số tổ chức được thành lập nhà xuất bản như các hiệp hội
nghề nghiệp với vai trò là cơ quan chủ quản cấp vốn hoạt động cho nhà xuất bản
mâu thuẫn với quy định nhà xuất bản phải do nhà nước nắm giữ 100% vốn.
- Theo quy định của Luật Xuất bản, các nhà xuất bản được tổ chức và hoạt
động theo hai loại hình: doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện hoặc đơn vị sự
nghiệp có thu. Việc xác định loại hình của nhà xuất bản không thống nhất dẫn đến
cơ chế, chính sách dành cho ngành xuất bản chưa được đồng bộ, hạn chế đến sự
phát triển của từng nhà xuất bản và của toàn ngành. Trong mô hình hoạt động của
các nhà xuất bản còn bất cập. Doanh nghiệp vừa làm nhiệm vụ chính trị tư tưởng,
vừa hoạt động sản xuất kinh doanh, hệ thống cơ chế chính sách cho nhà xuất bản
chưa đồng bộ, chưa tạo điều kiện cho họ phát triển ngang tầm với nhiệm vụ mà
Đảng và Nhà nước giao.
2.2 Trong lĩnh vực in

Luật Xuất bản đã làm thay đổi căn bản hoạt động in, từ những tư duy phụ
thuộc nhiều về chính trị, tư tưởng, văn hóa chuyển sang một nhận thức mới mẻ và
thông thoáng hơn, cân bằng hài hòa giữa hai nhiệm vụ quan trọng là vừa phục vụ
nhiệm vụ chính trị, vừa sản xuất kinh doanh để tái đầu tư, phù hợp với quy luật
phát triển của từng thời kỳ. Nhà nước thay đổi phương thức quản lý, tạo điều kiện
cho mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động in, nhằm thu hút nguồn lực đầu tư
của xã hội để phát triển ngành in, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tuy có nhiều cơ chế cởi mở thông thoáng hơn, nhưng hoạt động in
vẫn được coi là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, bởi nó vẫn là công cụ,
phương tiện để sản xuất những sản phẩm có nội dung văn hóa, tư tưởng.
11


Do được cởi mở hơn về hành lang pháp lý nên số lượng cơ sở in được thành
lập mới tăng rất nhanh. Đến năm 2010 đã có gần 1.500 cơ sở in (thuộc mọi thành
phần kinh tế), giải quyết việc làm cho hơn 4 vạn lao động trong ngành. Về công
nghệ in được chuyển đổi từ in typo lạc hậu sang in offset hiện đại hơn, in ra các
sản phẩm có chất lượng hoàn hảo hơn, giá trị gia tăng nhiều hơn, đáp ứng thời gian
nhanh gấp nhiều lần. Sản lượng trang in tiêu chuẩn hàng năm tăng nhanh, đáp ứng
hầu hết nhu cầu in trong nước và bước đầu tiếp cận thị trường thế giới, nhận in gia
công cho nước ngoài với chất lượng kỹ thuật in đa dạng, phức tạp ở trình độ cao.
Đặc biệt, đã đầu tư những công nghệ, thiết bị, kỹ thuật cao, được phân bố phù hợp
theo vùng, lãnh thổ, có khả năng đáp ứng nhanh nên các địa phương trong cả
nước, kể cả một số vùng sâu, vùng xa nhiều nơi đã có được báo in trong ngày.
Trước đây, Nhà nước quản lý toàn diện hoạt động in, tạo hành lang pháp lý
đồng bộ, toàn diện giúp cho việc quản lý hoạt động in đạt hiệu quả, hạn chế thấp
nhất việc in lậu, in giấy tờ giả, bao bì, nhãn hàng hóa giả, văn bằng giả... Đến năm
2004, Luật xuất bản ra đời chỉ điều chỉnh hoạt động in xuất bản phẩm, không điều
chỉnh các hoạt động in các sản phẩm khác, sẽ dễ dàng tạo điều kiện cho hoạt động
in lậu, in giả.

Các quy định pháp luật về thành lập cơ sở in thông thoáng, dễ dàng nên số
lượng cơ sở in tăng nhanh, dẫn đến cung vượt cầu, thị trường cạnh tranh gay gắt,
Nhà nước chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, nạn in lậu gia tăng. Nhiều cơ sở in
nhập khẩu thiết bị quá cũ, không đảm bảo chất lượng sản phẩm in và làm ảnh
hưởng đến môi trường. Một số hoạt động in bị buông lỏng quản lý do thiếu cơ chế
hành chính, dẫn đến khó kiểm soát, vi phạm pháp luật gia tăng. Nguyên nhân là do
nóng vội thu hút đầu tư để hiện đại hóa ngành in, bãi bỏ nhiều thủ tục hành chính.
Các cơ sở in không thuộc diện cấp phép hoạt động in, khi thành lập và hoạt động,
cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động in không biết, đặc biệt không nắm được
địa chỉ nơi sản xuất.
Hơn nữa, các quy định về hồ sơ và thủ tục cấp phép thành lập cơ sở in quá
đơn giản, dễ dãi, không thu phí dẫn đến nhiều cá nhân thành lập cơ sở in ảo. Chưa
có tiêu chuẩn kỹ thuật về thiết bị in nên việc nhập khẩu thiết bị cũ là không thể kiểm
soát, vì vậy không tránh khỏi thiết bị quá cũ của nước ngoài được nhập khẩu vào
Việt Nam làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền công nghiệp nước nhà.
2.3 Trong lĩnh vực phát hành
Việc ban hành Luật Xuất bản năm 2004 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Xuất bản đã tạo điều kiện cho lực lượng phát hành sách thuộc các
thành phần kinh tế tiếp tục phát triển. Hiện nay cả nước có khoảng 13.700 nhà
sách, hiệu sách, trung tâm sách...; 75 công ty trách nhiệm hữu hạn kinh doanh xuất
bản phẩm. Lực lượng phát hành sách ngoài nhà nước đóng góp đáng kể vào việc
12


phát triển thị trường xuất bản phẩm nước ta, góp phần đáp ứng nhu cầu về văn hóa
đọc ngày càng đa dạng của xã hội.
Theo Luật Xuất bản năm 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2008, quy định
về việc cấp giấy phép kinh doanh xuất bản phẩm nhập khẩu cũng đã có nhiều tiến
bộ, từ chỗ cả nước trước đây chỉ có một đơn vị được cấp giấy phép thì đến nay đã
có 8 đơn vị được cấp giấy phép kinh doanh xuất bản phẩm nhập khẩu tạo điều kiện

cho hoạt động nhập khẩu xuất bản phẩm để kinh doanh ngày càng phát triển. Nhập
khẩu xuất bản phẩm không nhằm mục đích kinh doanh đã có những quy định cụ
thể, rõ ràng và tương đối đầy đủ. Đặc biệt Luật Xuất bản năm 2004 có quy định
không phải xin phép cơ quan quản lý nhà nước khi xuất khẩu ra nước ngoài các
xuất bản phẩm lưu hành hợp pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp,
tổ chức và cá nhân xuất khẩu xuất bản phẩm ra nước ngoài.
Các đơn vị phát hành sách đã từng bước đưa sách tham gia thị trường sách
quốc tế, góp phần quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới; giúp cho kiều bào
ta ở nước ngoài có dịp tiếp xúc với các xuất bản phẩm từ đất nước, quê hương.
Đồng thời, các đơn vị phát hành sách đã mở rộng bạn hàng, đối tác, chủ động lựa
chọn những xuất bản phẩm có giá trị của các tác giả nước ngoài, thương thảo bản
quyền để đưa về dịch và xuất bản phục vụ bạn đọc trong nước... bước đầu hội
nhập với nền xuất bản thế giới.
Chủ trương xã hội hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế, trong đó có tư
nhân tham gia vào phát hành xuất bản phẩm đã tạo điều kiện mở rộng mạng lưới
phát hành, phục vụ tốt nhu cầu về xuất bản phẩm của xã hội. Song, thực tế các
thành phần kinh tế khác chỉ kinh doanh các loại xuất bản phẩm thu được nhiều lợi
nhuận và chủ yếu phân bố tập trung ở các trung tâm thành phố, thị xã, không tham
gia đưa xuất bản phẩm đến vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo; một số tư nhân
tăng giá bìa để trừ chiết khấu cao, thậm chí thực hiện in lậu, in nối bản… tạo ra sự
cạnh tranh trái pháp luật, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, nhưng chưa có các quy
định và chế tài xử lý triệt để.
Một số công ty cổ phần phát hành sách hoạt động khó khăn sau khi cổ phần
hóa. Ở một số địa phương, khi bán đấu giá phần vốn nhà nước tại các công ty cổ
phần phát hành sách đã không có cơ chế phù hợp bảo đảm tính đặc thù của ngành
hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, nên nhiều đơn vị bán xong phần vốn
nhà nước trong doanh nghiệp theo phương thức đấu giá cho các cá nhân hay doanh
nghiệp khác đã thu hẹp kinh doanh sách, dành diện tích và vốn đầu tư kinh doanh
mặt hàng hoặc dịch vụ khác đem lại lợi nhuận cao hơn. Do khó khăn và hậu quả
của việc bán phần vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp cổ phần phát hành sách

tỉnh nhất là các tỉnh có địa bàn khó khăn vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo, thì
công tác phát hành sách đã gần như không được triển khai đầy đủ.
13


Xuất bản phẩm Việt Nam xuất khẩu đi các nước còn thiếu các cuốn sách, bộ
sách có giá trị cả về nội dung và hình thức, đặc biệt là các cuốn sách dịch ra tiếng
nước ngoài rất ít; đồng thời việc quảng bá giới thiệu sách Việt Nam ra nước ngoài
không được đầu tư nên rất hạn chế.
Một trong các nguyên nhân là do các quy định về phát hành trong Luật Xuất
bản còn mang nặng tính nguyên tắc, quy định chung, trong khi đó, việc cấp giấy phép
kinh doanh chuyên ngành xuất bản phẩm lại bị bãi bỏ nên số lượng các cửa hàng
sách, đại lý “bung” ra trong cả nước không thể kiểm soát nổi (đặc biệt là các thành
phố lớn trong cả nước). Do vậy, không thể điều chỉnh hết các hoạt động đa dạng
phong phú của lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm trong cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế hiện nay. Kinh phí trợ cước vận chuyển sách báo xuất khẩu ra nước ngoài
hiện nay còn thấp so với thực tế, vì vậy ảnh hưởng đến việc phục vụ công tác thông
tin đối ngoại của Nhà nước cũng như việc thực hiện hợp đồng với khách hàng nước
ngoài.
III- MỘT SỐ ĐỀ XUẤT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT
1. Về tên gọi của dự án Luật
Theo một số quan điểm, từ “xuất bản” đã bao hàm cả nội dung xuất bản, in
và phát hành. Bởi vậy, việc thay đổi tên gọi của luật cũng không quá cần thiết. Nội
dung dự thảo tại Điều 3 và Khoản 1 Điều 4 cũng đã thể hiện tinh thần này: xuất
bản bao hàm cả hoạt động xuất bản, in và phát hành.
2. Về nội dung của dự án Luật
a/ Qui định về việc thành lập nhà xuất bản, mô hình nhà xuất bản
- Điều kiện cho phép việc thành lập nhà xuất bản phải xuất phát từ yêu cầu
nhiệm vụ chính trị, nhu cầu, đối tượng phục vụ, năng lực của đơn vị. Trước đây,
khi tỉnh thành nào, ngành nào cũng muốn có một nhà xuất bản riêng cho mình,

nhưng thực tế vai trò, năng lực quản lý của cơ quan chủ quản cũng như năng lực
nghiệp vụ chuyên môn của nhà xuất bản không đủ sức đáp ứng nên đã có khá
nhiều sai sót và tiêu cực xảy ra.
- Hiện nay tuy cả nước có hơn 60 nhà xuất bản nhưng chỉ có một số ít nhà
xuất bản có đủ điều kiện, năng lực và tầm ảnh hưởng đến đời sống văn hóa đọc và
thị trường xuất bản. Bên cạnh những qui định được luật hóa về tiêu chuẩn, điều
kiện thành lập và cấp phép cho các nhà xuất bản mới, cơ quan quản lý nhà nước
cần tiến hành thẩm định, rà soát và làm việc với các cơ quan chủ quản trước khi tái
cấp phép hoạt động. Sự “suy dinh dưỡng“ hiện nay của nhiều nhà xuất bản chính
là sự đầu tư chưa tương xứng, hoặc “có sinh mà không có dưỡng” của cơ quan chủ
quản dành cho các nhà xuất bản trực thuộc từ cơ sở vật chất, vốn hoạt động, nguồn
nhân lực… Cùng với việc qui định chặt chẽ về nhân sự lãnh đạo và đội ngũ biên
tập nhà xuất bản, cần thiết phải quy định trong các văn bản pháp luật về nguồn vốn
14


cần thiết cho hoạt động của nhà xuất bản. Thực tế cho thấy, với vốn liếng vài ba tỷ
đồng hoạt động thì một năm nhà xuất bản chỉ có thể xuất bản được vài ba chục đầu
sách là đã cạn vốn. Hiện nay, một số công ty tư nhân kinh doanh sách có thương
hiệu, vốn liếng đầu tư cho việc khai thác tổ chức bản thảo không dưới 10 tỷ. Do
vậy, nên quy định một trong những điều kiện để các nhà xuất bản có thể tồn tại, có
đủ vốn để chủ động đầu tư, khai thác bản thảo phục vụ yêu cầu nhiệm vụ xuất bản,
chính là việc qui định định mức cấp vốn hoạt động cho các nhà xuất bản tối thiểu
từ 8-10 tỷ.
- Xuất bản là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. Do vậy, điều kiện cấp phép
hoạt động càng qui định chặt chẽ càng hạn chế những tiêu cực xảy ra khi thai
nghén và cho ra đời một đơn vị xuất bản mới. Việc ra đời của một nhà xuất bản
phải dựa trên chiến lược phát triển ngành, yêu cầu, năng lực thực tế của đơn vị.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã không loại trừ sự núp bóng, sự biến tướng,
đội lốt nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội của cá nhân, hoặc

nhóm người mà mục đích thành lập nhà xuất bản chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích cục
bộ. Càng qui định chặt chẽ và minh bạch các tiêu chuẩn, điều kiện thành lập của
nhà xuất bản càng hạn chế những tiêu cực xảy ra trong quá trình hoạt động, đồng
thời giúp các nhà xuất bản hoạt động một cách khỏe mạnh, đủ sức cạnh tranh bằng
nội lực của chính mình mà không lệ thuộc hoàn toàn vào sự liên kết với các doanh
nghiệp sách tư nhân.
- Về mô hình nhà xuất bản:
Thực tế, chúng ta không thể phủ nhận vai trò tư nhân trong hoạt động xuất
bản: Thị trường xuất thị trường xuất bản phẩm ngày một sôi động, khởi sắc cả về
số lượng, chất lượng, nội dung và thể loại xuất bản phẩm phong phú, đa dạng, hình
thức đẹp, đáp ứng nhu cầu đông đảo độc giả trong và ngoài nước thuộc mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Có được như vậy chính là nhờ vào lực lượng tư nhân bởi
họ luôn năng động, sáng tạo và nắm bắt nhanh nhạy nhu cầu của độc giả. Nhiều
nhà sách tư nhân rất chú trọng đến nội dung, hình thức và gây dựng thương hiệu,
uy tín cho mình, thể hiện qua con số 70%-80% xuất bản phẩm xuất bản hàng năm
(trừ sách giáo khoa) là xuất bản phẩm liên kết.
Từ thực tế trên, cho thấy sự cần thiết nên cổ phần hóa nhà xuất bản, cho
phép tư nhân tham gia vào hoạt động này nhằm phát huy thế mạnh của họ với điều
kiện Nhà nước giữ cổ phần chi phối. Chỉ nên giữ lại một hai nhà xuất bản thuộc sở
hữu 100% Nhà nước để xuất bản những xuất bản phẩm về lý luận, chính trị, xuất
bản phẩm phục vụ thiếu niên, nhi đồng, đồng bào dân tộc thiểu số, người khiếm
thị, xuất bản phẩm cần phổ biến rộng rãi nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội
trọng yếu, thông tin đối ngoại, xuất bản phẩm có giá trị cần lưu giữ, xuất bản phẩm
trong và ngoài nước có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội...
15


Phương án cổ phần hóa nhà xuất bản Nhà nước giữ cổ phần chi phối vẫn giữ
được định hướng của ngành, một mặt tháo gỡ khó khăn cho các nhà xuất bản, tạo
thế chủ động cho nhà xuất bản, nhà xuất bản không phải trông chờ vào nhà nước,

mặt khác huy động được khả năng xã hội hóa, phát huy được thế mạnh của lực
lượng tư nhân cho lĩnh vực này.
Ngoài ra, thực trạng hiện nay cho thấy, mặc dù nhà xuất bản hoạt động theo
đúng tôn chỉ, mục đích, nhưng trên thực tế nhiều tôn chỉ, mục đích của nhiều nhà
xuất bản không được phân định rõ ràng dẫn đến chồng chéo (như tôn chỉ mục đích
giữa các nhà xuất bản Văn học, Thông tin và Truyền thông, Hội nhà văn, Văn hóa
dân tộc, Thanh niên, Trẻ, Thanh niên, Kim đồng,... giữa các nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Lý luận chính trị, Tư pháp,...). Có những nhà xuất bản tổng hợp thì tôn
chỉ, mục đích quá rộng, không những chồng chéo tôn chỉ mục đích với các nhà
xuất bản chuyên ngành mà còn dẫn đến sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa các
nhà xuất bản. Từ đó cho thấy nên xóa bỏ tôn chỉ mục đích của các nhà xuất bản
(trừ mảng xuất bản phẩm nêu trên giữ lại thuộc sở hữu Nhà nước). Các nhà xuất
bản muốn tồn tại và phát triển buộc phải cạnh tranh, tự vươn lên khẳng định mình,
xây dựng uy tín và thương hiệu của mình và hãy để cho độc giả và xã hội sự tồn
tại hay không tồn tại của nhà xuất bản.
Việc cổ phần hóa nhà xuất bản để Nhà nước nắm cổ phần chi phối thì không
khác gì liên kết như hiện nay, bởi Tổng Giám đốc, Tổng Biên tập vẫn là người
chịu trách nhiệm trước Nhà xuất bản, trước cổ đông và trước pháp luật, được Đại
hội đồng cổ đông tại công ty cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối bầu thay
vì được Nhà nước bổ nhiệm trực tiếp như hiện nay.
Phương án cổ phần hóa nhà xuất bản Nhà nước giữ cổ phần chi phối vẫn giữ
được định hướng hoạt động của ngành, một mặt tháo gỡ khó khăn cho các nhà
xuất bản, tạo thế chủ động cho nhà xuất bản, nhà xuất bản không phải trông chờ
vào Nhà nước và mặt khác phát huy được thế mạnh của lực lượng tư nhân cho lĩnh
vực này.
b/ Hoạt động liên kết xuất bản
Hoạt động liên kết xuất bản thể hiện mối quan hệ hợp tác giữa nhà xuất bản
với tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Hoạt động liên kết xuất bản được qui định
tại Điều 20 của Luật xuất bản 2004 và 2008 cho thấy sự thừa nhận vai trò và
những đóng góp có hiệu quả của các nguồn lực xã hội vào sự nghiệp xuất bản.

Bằng vốn liếng dồi dào, sự năng động nhạy bén với thị trường, các công ty sách tư
nhân đã làm cho đời sống văn hóa đọc và thị trường xuất bản phong phú, sôi động
và nhiều màu sắc. Đã xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp sách tư nhân có
thương hiệu và uy tín với bạn đọc. Được tổ chức theo cách thức vận hành của một
nhà xuất bản, với đội ngũ khai thác bản thảo, biên tập, bộ phận PR, phát hành năng
16


động hiệu quả, các công ty sách tư nhân ngày càng thể hiện trình độ chuyên môn
và có ảnh hưởng đến cộng đồng văn hóa đọc.
Song mặt trái của liên kết xuất bản cũng xuất phát từ lợi ích cục bộ, động
lực mục tiêu lợi nhuận khiến các doanh nghiệp sách tư nhân khai thác những dòng
sách thứ cấp, chiều theo thị hiếu dễ dãi của một bộ phận người đọc. Vì lợi nhuận,
một số doanh nghiệp sách tư nhân vi phạm tác quyền, vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, xào xáo, đánh cắp, đánh tráo tác phẩm, in lậu… Do khó khăn trong hoạt động,
sự thiếu bản lĩnh trong ứng xử với thị trường xuất bản sôi động, thách thức và đầy
phức tạp, một số nhà xuất bản bị các doanh nghiệp sách tư nhân chi phối định
hướng hoạt động, đôi lúc phải đương đầu giải quyết các sự cố khi sách có vấn đề.
Tuy nhiên những đóng góp của các doanh nghiệp sách tư nhân nhìn chung
là tích cực. Pháp luật cần thể hiện sự công bằng và bình đẳng trong ứng xử với
doanh nghiệp tư nhân liên kết xuất bản. Cần có những quy định khuyến khích sự
đầu tư của những doanh nghiệp tư nhân tâm huyết. Với những hành vi và hoạt
động kinh doanh vi phạm pháp luật cần quy định các chế tài xử lý thích đáng, đủ
sức răn đe.
c/ Hội nhập và những cam kết của Việt Nam trong hoạt động xuất bản
Cùng với việc gia nhập công ước Berne và gia nhập WTO, hoạt động xuất
bản ngày càng hội nhập sâu với xuất bản thế giới. Từ giao thương một chiều qua
giao dịch mua bản quyền nước ngoài, các nhà xuất bản, doanh nghiệp sách tư nhân
trong nước đang có những bước thăm dò, tiếp thị sản phẩm trong nước ra với cộng
đồng thế giới theo chiều ngược lại.

Hội nhập cũng thể hiện khá rõ nét khi các nhà xuất bản nước ngoài có văn
phòng đại diện tại Việt Nam, có doanh nghiệp nước ngoài tổ chức sản xuất các
công đoạn vẽ tranh, làm bản thảo truyện tranh ở Việt Nam, có doanh nghiệp nước
ngoài có nhà in hoạt động ở TP HCM… Một số nhà xuất bản nước ngoài có chính
sách không bán bản quyền cho các đối tác Việt Nam mà đề nghị hợp tác xuất bản
dưới hình thức đối tác Việt Nam tổ chức dịch thuật, xin phép xuất bản, nhà xuất
bản nước ngoài in ở nước ngoài (Singapore hoặc Trung Quốc, Thái Lan) rồi xuất
bán cho đối tác Việt Nam. Lẫn trong những hoạt động vừa nêu trên có một số
doanh nghiệp nước ngoài đã cố tình lợi dụng kẻ hở của luật pháp Việt Nam bằng
cách lách sự quản lý và kiểm soát của nhà nước Việt Nam.
Thực tế cho thấy ngoài lĩnh vực in ấn được dẫn chiếu bằng Luật đầu tư, các
nhà xuất bản, các doanh nghiệp nước ngoài đang có ý định thâm nhập sâu vào thị
trường xuất bản Việt Nam, mà không dừng lại ở văn phòng đại diện.
Do vậy nếu chiếu theo những ràng buộc và cam kết quốc tế trong lĩnh vực
xuất bản, nhằm kiểm soát và quản lý chặt hoạt động có yếu tố nước ngoài, cần có
những điều khoản qui định chặt chẽ những giới hạn liên kết hợp tác giữa các nhà
17


xuất bản, nhà phát hành, doanh nghiệp sách tư nhân trong nước với các đối tác
nước ngoài.
d/ Xuất bản trực tuyến và xuất bản phẩm điện tử
Ngày nay, chúng ta gặp ngày càng nhiều những xuất bản phẩm trên các
mạng điện tử như internet, điện thoại di động, máy đọc sách, băng đĩa bán trên thị
trường rất khó kiểm soát nếu không nói là không thể kiểm soát được. Là tác phẩm
điện tử, phát trực tuyến, loại hình xuất bản này bỏ qua gần như tất cả các khái
niệm thông thường về NXB, qui trình xuất bản, in và phát hành (tổ chức bản thảo,
đăng ký, kiểm soát và xử lý, nộp lưu chiểu, in nối bản, nộp thuế…). Xuất bản trực
tuyến cũng không nhất thiết phải từ một địa chỉ được xác định trong nước, không
nhất thiết phải ghi rõ xuất xứ, người chịu trách nhiệm với địa chỉ và danh tính thật

nhưng nó có thể thay thế việc xuất bản qua máy in cổ điển để cho ra đời hàng
ngàn trang tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, thơ, tiểu luận hàng triệu người
muốn đọc, không những thế có thể in lại và truyền bá nhanh chóng bằng chính
phương tiện điện tử hoặc phương tiện in ấn truyền thống.
Xuất bản trực tuyến đã trở thành thách thức lớn về thị phần, qui chế pháp
luật và cả hệ thống lý luận về xuất bản lâu nay. Theo một thống kê gần đây, riêng
nước ta có 2 triệu blog cá nhân, 20% dân số sử dụng internet. Trên thế giới có 2 tỷ
người sử dụng internet, riêng mạng facebook đã có 500 triệu thành viên. Với một
lượng không lồ tải lên mạng và sử dụng các xuất bản phẩm không cần qua sản
phẩm in, không thể kiểm soát được như vậy, không thể có một nhà xuất bản cổ
điển nào có thể vững vàng được. Nhưng internet chỉ là một phần trong xuất bản
trực tuyến. Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, ngày càng có
nhiều tác phẩm, sản phẩm trí tuệ được tải qua mạng không cần đến máy in. Thiết
bị đa phương tiện ngày càng tinh xảo, một khối lượng khổng lồ các bản nhạc,
tranh vẽ, sáng tác văn học, vở kịch, điệu múa, bộ phim được tải lên sóng, không
cần qua bất kỳ sự quản lý nào, trực tiếp tham gia kinh doanh, cạnh tranh với các
NXB được cấp giấy phép. Không dừng ở đó, hình thức xuất bản trực tuyến ngày
càng mở rộng.
Xuất bản phẩm điện tử, EPub, Audiobook và xuất bản phẩm dạng POD
(print on demand) đang là xu hướng của công nghệ xuất bản thế giới. Tại Việt
Nam, một số doanh nghiệp điện tử, các nhà xuất bản, phát hành đã bắt đầu triển
khai việc số hóa xuất bản phẩm.
Hiện xuất bản phẩm điện tử được các đơn vị khai thác dưới hình thức:
- Convert (chuyển đổi) từ sách in sang sách số (sách trong nước và sách dịch
từ nước ngoài).
- Số hóa bản thảo mới.
18


Với sách convert do chuyển đổi từ sách in sang sách số, việc kiểm định nội

dung sẽ không có vấn đề vì đã qua công đoạn thẩm định, cấp phép dưới hình thức
sách in.
Với sách số hóa từ nguồn bản thảo mới chưa qua công tác thẩm định biên
tập và cấp phép, việc kiểm soát nội dung công bố sẽ có những bất cập, nhiều khả
năng ngoài tầm kiểm soát và độ rủi ro cao.
Xuất bản phẩm dạng POD ( Print on demand – In theo nhu cầu )
Dạng này in theo yêu cầu nên số lượng in có thể một vài bản đến vài chục
bản.
- EPub : Sách được xuất bản dưới hình thức sách điện tử, in thành sách in
với số lượng hạn chế nhằm thăm dò thị trường hoặc để PR cho tác giả, tác phẩm.
- Sách quí hiếm
- Sách xuất bản đã lâu nhưng chưa có điều kiện tái bản nay người đọc có
nhu cầu.
Rõ ràng xu hướng dùng sách điện tử, audiobook, sách in theo yêu cầu… là
hình thức kinh doanh và tiếp nhận tri thức một cách tiện ích và kinh tế nhất. Đây
sẽ là nhu cầu bùng phát trong thời gian không xa cả từ phía người dùng lẫn nhà
kinh doanh sản phẩm. Do vậy, Luật xuất bản sửa đổi không thể né tránh hoặc chỉ
đưa vào những nội dung rất chung chung, đơn giản thì sẽ không bắt kịp với thực tế
đời sống xuất bản, mặt khác sẽ tạo những kẽ hở trong quản lý và ngoài tầm kiểm
soát loại hình xuất bản này.
Nên chăng có nhà xuất bản điện tử và đây sẽ là đơn vị đảm trách chức năng
và nhiệm vụ xuất bản sách điện tử, giống như trong hoạt động báo chí, bên cạnh
các báo in, có những tờ báo điện tử như Vietnamnet, Vnexpress…
3. Một số đề xuất khác
- Cơ sở phát hành được thành lập và hoạt động chỉ cần có giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, không nên đặt vấn đề cấp thêm giấy phép hoạt động phát
hành. Việc cấp giấy phép trong hoạt động phát hành chỉ nên đặt ra đối với từng
loại hoạt động cụ thể có yêu cầu phải cấp giấy phép như kinh doanh xuất nhập
khẩu, hoạt động triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm v.v…
- Quy định việc tăng cường tính chủ động trong hoạt động xuất bản, nâng

mức đầu tư, bố trí cán bộ, mở rộng giao lưu văn hóa..., nhờ đó khai thác tốt hơn
các tiềm năng ở mọi thành phần kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm và nâng cao năng
lực, nhu cầu của công chúng theo hướng hiện đại, dân chủ, nhân văn.
- Hoạt động xuất bản đã và đang hình thành và phát triển như một nền công
nghiệp. Cần có cơ chế hình thành một quy trình công nghệ khép kín và đồng bộ từ
sáng tạo cá nhân, biên tập, sản xuất, lưu thông và người hưởng thụ.
19


- Đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu xuất bản phẩm, đáp ứng nhu cầu học
tập, nghiên cứu về văn hoá của người đọc trong nước và thông qua một số xuất
bản phẩm xuất khẩu để giới thiệu với bạn bè quốc tế và cộng đồng người Việt
Nam.
- Áp dụng hệ thống mã số sách chuẩn quốc tế ISBN cho tất cả các nhà xuất
bản.
- Tăng cường quan hệ với các tổ chức, cá nhân để tìm cơ hội và chủ động
các hình thức hợp tác, nhất là hợp tác biên tập, xuất bản, công nghệ in và tranh thủ
bản quyền với các đối tác nước ngoài.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi về hành pháp lý cho các nhà xuất bản trong
nước mua, bán bản quyền, dịch và xuất bản với các nhà xuất bản nước ngoài.
- Cần đầy mạnh hơn nữa việc xã hội hoá hoạt động văn hoá nói chung và
công tác xuất bản nói riêng. Các cơ quan nghiên cứu, các trường đại học cần có sự
phối hợp chặt chẽ với nhau và kết hợp với các nhà xuất bản để cho ra đời những ấn
phẩm thực sự có giá trị, thực sự là món ăn tinh thần của xã hội. Các nhà xuất bản
cần phải được chuyên nghiệp hoá từ khâu quản lý, biên tập, phát hành; vừa cạnh
tranh lành mạnh để thúc đẩy công tác xuất bản tốt hơn. Tôn trọng thực hiện
nghiêm túc quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho họ.
Từ thực tế công tác quản lý Nhà nước về hoạt động xuất bản và sự phát triển
của thị trường xuất bản phẩm còn nhiều hạn chế nên việc sửa đổi Luật Xuất bản là
việc làm cần thiết nhằm quản lý hoạt động xuất bản một cách hiệu quả, đúng

hướng.

20


PHỤ LỤC
Các nhà xuất bản trên cả nước
(Số liệu 2011)

I. Các Nhà xuất bản Trung ương: 52 nhà xuất bản
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37

Nhà xuất bản Công Thương
Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ
Nhà xuất bản Đại học Công Nghiệp TP.HCM
Nhà xuất bản Đại học sư phạm TP.Hồ Chí Minh
Nhà xuất bản Đai học Thái Nguyên
Nhà xuất bản Đại học Vinh
Nhà xuất bản Đại học Nông Nghiệp
Nhà xuất bản Kinh tế TP.HCM
Nhà xuất bản Dân Trí
Nhà xuất bản Thời đại
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Nhà xuất bản Tư Pháp

Nhà xuất bản Hồng Đức
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
Nhà xuất bản Công an nhân dân
Nhà xuất bản Kim Đồng
Nhà xuất bản Thanh niên
Nhà xuất bản Lao động
Nhà xuất bản Phụ nữ
Nhà xuất bản Mỹ thuật
Nhà xuất bản Sân khấu
Nhà xuất bản Hội Nhà văn
Nhà xuất bản Lao động - Xã hội
Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Nhà xuất bản Tôn giáo
Nhà xuất bản Thông tấn
Nhà xuất bản Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam
Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông
Nhà xuất bản Giao thông vận tải
Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật
Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ
Nhà xuất bản Nông nghiệp
Nhà xuất bản Tài chính
Nhà xuất bản Thống kê
Nhà xuất bản Thể dục thể thao
Nhà xuất bản Y học
Nhà xuất bản Xây dựng
21


38
39

40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52

Nhà xuất bản Từ điển bách khoa
Nhà xuất bản Tri thức
Nhà xuất bản Thế giới
Nhà xuất bản Âm nhạc
Nhà xuất bản Văn học
Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc
Nhà xuất bản Văn hoá - thông tin
Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân
Nhà xuất bản Bách khoa Hà Nội
Nhà xuất bản Đại học Huế
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhà xuất bản Đại học Sư phạm
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. HCM
Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam


II. Các Nhà xuất bản địa phương: 12 Nhà xuất bản
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12

Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM
Nhà xuất bản Hà nội
Nhà xuất bản Hải Phòng
Nhà xuất bản Hồng Bàng
Nhà xuất bản Thanh Hoá
Nhà xuất bản Nghệ An
Nhà xuất bản Thuận Hoá
Nhà xuất bản Đà Nẵng
Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố HCM
Nhà xuất bản Trẻ
Nhà xuất bản Đồng Nai
Nhà xuất bản Phương Đông

22



TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo sơ kết ba năm thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư và
phương hương hướng nhiệm vụ công tác xuất bản trong thời gian tới.
Bộ thông tin và truyền thông, Báo cáo số 2753 ngày 14/9/2011 về tình hình
thực hiện nhiệm vụ năm 2011 và dự kiến chương trình công tác 2012 đối với lĩnh
vực thông tin.
Bộ Thông tin và truyền thông, Một số văn bản chỉ đạo và quản lý của Đảng,
nhà nước về hoạt động xuất bản, Nxb Bưu điện, Hà Nội, 2008.
Bộ Thông tin và truyền thông, Báo cáo đánh giá 6 năm thi hành Luật xuất
bản và việc chuẩn bị sửa đổi luật, số 05-BC/BTTTT ngày 20/1/2012.
Báo cáo kết quả giám sát tình hình thi hành Luật xuất bản của Ủy ban
VHGDTTNNĐ của Quốc hội.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
Tài liệu Hội nghị Luật xuất bản của Ủy ban VHGDTTNND của Quốc hội,
TPHCM ngày 29/3/2012.
Tài liệu Hội nghị Luật xuất bản của Ủy ban VHGDTTNND của Quốc hội,
Hà Nội ngày 6/3/2012.

23



×