Tải bản đầy đủ (.doc) (324 trang)

ĐỀ CƯƠNG PHẦN NGHỊ LUẬN văn học lớp 12 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.83 MB, 324 trang )

ĐỀ CƯƠNG PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC LỚP 12
1. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH
Về tác phẩm này, các em ôn tập theo những dạng đề sau :
Dạng 1: Phân tích 1 đoạn trích: Đoạn đầu quan trọng nhất
Dạng 2: Cảm nhận/ bình luận/ phân tích 1 khía cạnh thuộc nội dung hoặc nghệ
thuật của bản tuyên ngôn
Dạng 3: Nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm
Dạng 4: Phân tích tác phẩm/ đoạn trích, từ đó liên hệ thực tế ( dạng đề tích hợp
nghị luận xã hội
Ngoài ra có thể ôn đề đọc hiểu về đoạn trích trong TNĐL
Bài tập tham khảo :
Câu 1: Bình luận về sức thuyết phục của bản Tuyên ngôn độc lập- Hồ Chí
Minh.
Bài làm:
TNĐL là một tác phẩm chứa nhiều giá trị. Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, giá
trị nào của tác phẩm này cũng thật sâu sắc. Về mặt thể loại văn học, Tuyên Ngôn
Độc Lập là một áng văn chính luận hào hùng, mẫu mực, đáng lưu truyền muôn thuở.
Một trong những nét nổi bật của bản Tuyên Ngôn Độc Lập là sự lập luận sắc sảo,
chặt chẽ tạo nên một sức thuyết phục rất lớn. Xuất phát từ quan điểm sáng tác và đặc
trưng thể loại của tác phẩm này, chúng ta sẽ thấy được cội nguồn của sức thuyết
phục ấy.
Như mọi người đều biết, Tuyên Ngôn Độc Lập là một tác phẩm chính luận.
Văn chính luận thuyết phục người ta bằng những lý lẽ, nếu đánh địch thì cũng đánh
địch bằng những lý lẽ. Sức mạnh của nó là ở những lý lẽ đanh thép, những lập luận
chặt chẽ, những bằng chứng không ai chối cãi được. Văn chính luận nếu có dùng đến
hình ảnh, có gợi đến tình cảm thì chẳng qua cũng chỉ để phụ giúp thêm cho sự thuyết
phục bằng lý lẽ mà thôi. Chúng ta sẽ nói đến cái hay, cái tài của Tuyên Ngôn độc

Page 1



Lập theo quan niệm đó. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập viết cho ai? Câu hỏi đặt ra có vẻ
như thừa. Bởi vì lời giải đáp đã có sản trong văn bản:
‘Hỡi đồng bào cả nước!… “Chúng tôi (…) trịnh trọng tuyên bố với thế giới
rằng’. Như vậy là Bác viết cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới chứ còn cho ai
nữa. Còn viết để làm gì, thì viết để Tuyên Ngôn Độc Lập chứ còn có mục đích nào
khác?
Thực ra vấn đễ không hẳn chi có thế. Nếu chỉ viết cho đồng bào và thế giới
chung chung thì chắc Người không phải dùng đến lắm lý lẽ như vậy. Và chưa hẳn đã
cần phải mở đầu bằng những câu trích trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Tuyên
Ngôn nhân quyền và dân quyền của Mỹ và Pháp từ thế kỷ XVIII. Vậy đối tượng và
mục đích của văn kiện lịch sử nàyphải được tìm hiểu cặn kẽ -hơn nữa. Cần thấy rằng
khi Bác Hồ đọc bản Tuyên Ngôn thì ở miền Nam, thực dân Pháp nấp sau quân đội
Anh (thay mặt quân Đồng minh vào giải pháp quân đội Nhật) đang tiến vào Đông
Dương, còn ở phía Bắc thì bọn Tàu Tưởng, tay sai của đế quốc Mỹ, đã trực sản ở
biên giới. Người viết bản Tuyên Ngôn cũng thừa hiểu rằng “mâu thuẫn giữa Anh –
Mỹ – Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh, Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho
Pháp trở lại Đông Dưong” (Nhận định của Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ngày
15-8-1945 Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, 1970). Và tên thực dân này, để chuẩn bị
cho cuộc xâm lược thứ hai của mình đã tung ra trong dư luận quốc tế những lí lẽ
“hùng hồn” của bọn ăn cướp: Đông Dương vốn là thuộc địa của Pháp. Pháp có công
khai hoá đất nước này, nay trở lại là lẽ đương nhiên, khi Phát xít Nhật đã bị Đồng
minh đánh bại. Như vậy là bản Tuyên Ngôn không chỉ đọc trước đồng bào và một
thế giới trừu tượng, cũng không phải chỉ để tuyên bố độc lập một cách đơn giản. Đối
tượng thế giới ở đây trước hết là bọn đế’ quốc Mỹ, Anh, Pháp. Và sự khẳng định
quyền độc lập tự do của dân tộc ở đây đồng thời là một cuộc tranh luận nhằm bác bỏ
lý lẽ của bọn xâm lược trước dư luận thế giới. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu
của một đối thủ nào đấy, không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối
thủ ấy. Người ta gọi thế là “lấy gậy ông đập lưng ông”.
Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính lời
lẽ của tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập và

Page 2


Tuyên Ngôn Nhân quyền và Dân quyền từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng
và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách nói, cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa
kiên quyết. Khéo léo vì nô tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người
Pháp, người Mỹ .Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có
làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp,
nước Mỹ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.
Ngoài ra mở đầu bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản
tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của hai nước lớn như thế, thì cũng cd
nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang bằng nhau, ba nền độc lập ngang bằng nhau,
ba bản Tuyên Ngôn ngang bằng nhau. Một cách kín đáo hơn, bản Tuyên Ngôn của
Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô Đại
cáo ngày xưa, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang
hàng Triệu Đinh. Lê, Lý, Trần của Nam quốc với Hán, Đường, Tông, Nguyên của
Bắc quốc.Mà đăng đối cân xứng cũng là phải, vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945
thực ra đã giải quyết đúng những nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mỹ (1776)
và của Pháp (1789). Bản Tuyên Ngôn đã nêu rõ: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích
thực dân gần một trăm năm nay đã gây dựng nên nước Việt Nam độc lập”. Đó cũng
là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng của nước Mỹ: đấu tranh giải phóng các dân tộc
thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên Ngôn cũng viết: “Dân ta
lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà”.
Đấy cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền của Pháp
thế kỷ XVIII.
Nhưng để đối thoại với bọn đế quốc xâm lược lúc bấy giờ,vấn đề hàng đầu là
vấn đề độc lập dân tộc. Điều đó giải thích vì sao bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã mở
đầu như thế: “Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên Ngôn Độc

Lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên
thế giới, sinh ra đầu bình dàng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”. Y kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của HỒ
Page 3


Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Một nhà văn hoá nước
ngoài đã viết: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển
quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều
có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. (HồChí Minh trong lòng nhân dân
thế giới – NXB Sự thật. H. 1979).
Vậy thì có thể xem cái luận điểm ”suy rộng ra’ kia là phát súng lệnh khởi đầu
cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp
thế giới vào nửa sau thế kỷ XX?
Những kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọạ nén độc lập của dân tộc khi
bản Tuyên Ngôn ra đời và bọn xâm lược Pháp. Đẩy lùi nguy cơ ấy phải là cuộc chiến
đấu vũ trang lâu dài của toàn dân. Nhưng cuộc chiến đầu ấy rất cần đến sự đồng tình
và ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Muốn vậy phải xác lập cơ sở pháp lý của cuộc kháng
chiến, phải nêu cao chính nghĩa của ta và đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân
muốn “hợp pháp hoá” cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quôc tế. Bản Tuyên
Ngôn đã giải quyết được yêu cầu ấy bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và
đanh thép.
Thực dân Pháp muốn khoe khoang công lao khai hoá của chúng đối với Đông
Dương ư? Thì bản Tuyên Ngôn đã vạch trần những hành động trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta: thủ tiêu mọi quyền tự do
dân chủ, chia rẽ ba kỳ, tắm máu các phong trào yêu nước và cách mạng, thi hành
chính sách ngu dân, đầu độc bằng thuốc phiện rượu cồn, bóc lột vơ vét đến tận
xương tuỷ, cuối cùng gây ra nạn đói khiến “từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai mươi
triệu đồng bào ta bị chết’ đói”. Thực dân Pháp muốn kể công “bảo hộ” Đông Dương
ư? ThÌ bản Tuyên Ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội vì “trong 5 năm

chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”.
Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng và chúng có
quyền trở lại Đông Dương ư? Nhưng Đông Dươngcó còn là thuộc địa của chúng nữa
đâu? Bản Tuyên Ngôn vạch rõ: ”Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành
thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng
Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam
Page 4


dân chủ cộng hoà. Sự thật là dàn ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không
phải từ tay Pháp”. Luận điểm này, đứng về ý nghĩa pháp lý cực kỳ quan trọng. Nó sẽ
dẫn tới lời tuyên bố tiếp theo của bản Tuyên Ngôn: ”Bở thế cho nên, chúng tôi lâm
thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố
thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về
nước Việt Nam. Xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Sức mạnh
của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Và không có lý lẽ
nào có sức thuyết phục cao hơn là lý lẽ của sự thật. Vì thế Người viết Tuyên ngôn
luôn luôn láy đi láy lại hai chữ “sự thật”: “Sự thật là…” “sự thật là…” Và cuối cùng
thì nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập”… Đấy là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện
của bản Tuyên Ngôn. Đấy là hệ thống lý lẽ bác bỏ luận điệu của bọn đế quốc, thực
dân. Còn đối với dân tộc Việt Nam? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự
do hay không, có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản Tuyên Ngôn đã
đưa ra những lý lẽ không phải để bác bỏ mà để khẳng định:
Nếu thực dân Pháp có tội phản bội Đồng Minh, hai lần bán rẻ Đông Dương
cho Nhật, thì dân tộc Việt Nam đại diện là Việt Minh đã đứng lên chống Nhật cứu
nước và cuối cùng giành chủ quyền từ tay phát xít Nhật.
Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất đê hèn, tàn bạo và phản động của chúng
hành động “Thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn
tâm giết một số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng’ thì nhân dân ta vẫn giữ

thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù đã thất thế: “Sau cuộc biến động
ngày 9 tháng 3, Việt Minhđã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu
cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của
họ”. Một dân tộc phải chịu biết bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng
chiến đấu cho độc lập tự do, đã đứng hẳn về phe Đồng Minh chống phát xít, đã nêu
ao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế. “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc’ do phải
được độc lập”…
Tinh thầni khẳng định trong lời kết luận, còn được tăng cấp lên một bậc nữa:
hưởng độc lập tự do không chỉ là một cái quvền phải có, không phải chỉ là một tư
Page 5


cách cần có, mà đó là một hiện thực: ‘Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập’, Và vì thế “Toàn thể đàn tộc Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền độc lập tự do ấy’
Người ta gọi bài Bình Ngô đại cáo là “Thiên cổ hùng văn”. Cũng có thể nói
như thế đối với bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất nhiên bản
Tuyên Ngôn ra đời không còn ở thời kỳ văn học nguyên hợp, văn sử bất phân nữa để
người viết đưa vào những hình tượng hào hùng, tầng tầng lớp lớp như bài Cáo của
người xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận. Tài nghệ ở đây là dàn dựng
được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chúng không
ai chối cãi được. Và đằng sau những lý lẽ ấy là một tấm tư tưởng, tầm văn hoá lớn đã
tổng kết được trong một bản Tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, khúc triết, kinh
nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền, dân quyền của
dân tộc và của nhân loại. Chính Bác Hồ cũng đánh giá đây là thành công thứ ba
khiến Người cảm thấy “sung sướng” trong cả cuộc đời viết văn, làm báo đầy kinh
nghiệm của mình./.
( Bài viết trong sách tham khảo)
Câu 2 : Từ “Tuyên ngôn độc lập” (Hồ Chí Minh), anh/chị có suy nghĩ gì về

độc lập, tự do trong thời đại ngày nay đối với dân tộc và mỗi cá nhân.
Định hướng cách làm:
Mở bài:
+Giới thiệu tác giả tác phẩm
+Giới thiệu vấn đề nghị luận:
Vấn đề cần nghị luận là: Từ Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh), suy nghĩ về
độc lập – tự do trong thời đại ngày nay đối với dân tộc và mỗi cá nhân
Thân bài : có thể trình bày theo định hướng sau:
+ Khái quát những nội dung chính của bản tuyên ngôn (Các luận điểm chính
của bản tuyên ngôn) trong hoàn cảnh lịch sử- Cách mạng tháng Tám:
-Hoàn cảnh lịch sử: Cách mạng tháng Tám thành công, thực dân Pháp lâm le trở lại
Việt

Nam…
Page 6


– Các luận điểm chính của bản tuyên ngôn: nêu nguyên tắc về quyền bình đẳng giữa
các dân tộc, tố cáo tội ác thực dân trong 80 năm qua, phủ nhận quyền của Pháp đối
với Việt Nam, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và thể hiện quyết tâm bảo
vệ nền độc lập.
+ Suy nghĩ về độc lập tự do trong thời đại ngày nay (Trong mỗi giai đoạn lịch
sử,

độc

lập

tự


do



ý

nghĩa

khác

nhau):

– Thời đại ngày nay xu thế hội nhập, toàn cầu hóa (Xu thế không thể đảo ngược).
-Độc lập tự do thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau: bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ, biên giới hải đảo; độc lập về kinh tế, không phụ thuộc vào các nước khác trên
tinh thần hợp tác; về văn hóa: chúng ta “Hòa nhập” nhưng không “Hòa tan”, khẳng
định .vị thế, bản sắc văn hóa dân tộc trên trường quốc tế…
Kết

bài:

Bàn

bạc

mở

rộng

vấn


đề:

-Với mỗi cá nhân: suy nghĩ, hành động luôn trên tinh thần của công dân nước Việt
Nam độc lập tự hào dân tộc. Trong đời sống cá nhân, độc lập tự do có ý nghĩa hết sức
lớn lao khi ta thực sự sống là chính mình.
Câu 3 : Đọc đoạn trích Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh và trả lời câu hỏi
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình
đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái
hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ
nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở
Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc
ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong
những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Page 7


Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn,
thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên
liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân
buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta

một cách vô cùng tàn nhẫn.
1. (1 điểm) anh (chị) hay cho biết vị trí của đoạn văn trên trong tác phẩm
“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh? anh (chị) hay kể tên những bản tuyên ngôn
độc lập đã có trong văn học Việt Nam?
2. Nêu chủ đề của đoạn trích trên?
3. Anh (chị) hãy nêu nét đặc sắc của đoạn trích trên?
4. Anh (chị) viết một đoạn văn thể hiện sự hiểu biết của mình về đoạn văn trên
(không quá năm câu).
Trả lời :
1
Đoạn trích nằm ở phần 2 của bản “Tuyên ngôn độc lập”
Văn học Việt Nam đã ghi nhận 3 tác phẩm được xem là Tuyên ngôn độc lập:
+ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt
+ Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
+ Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
2
Chủ đề của đoạn trích: tố cáo tội ác thực dân Pháp: Kinh tế, chính trị, văn hóa,
thể hiện long căm thù giặc của Hồ Chí Minh.
3. Đặc sắc về nghệ thuật:
Nghệ thuật lặp cấu trúc câu kết hợp với điệp từ, nghệ thuật liệt kê.
Dẫn chứng xác đáng, chân thực vạch trần bản chất độc ác với thái độ gay gắt
của tác giả.
Page 8


4. Đoạn văn nằm ở phần 2 của bản Tuyên ngôn, phần tố cáo tội ác của giặc.
Vạch trần bộ mặt tàn ác quỷ giữ của thự dân Pháp. Đoạn trích có vị trí quan trọng
trong bản Tuyên ngôn với dẫn chứng chính xác, chân thực với cách điệp lại cấu trúc
câu, lặp từ, góp phần taọ nên thành công cho bản Tuyên ngôn.
Câu 4 : Đánh giá về bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh (sách Ngữ văn

12, tập một), có ý kiến cho rằng: Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá.
Nhưng cũng có ý kiến nhận định: Tuyên ngôn Độc lập là một áng văn chính luận
mẫu

mực.

Bằng cảm nhận của mình về tác phẩm, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.
Gợi ý :
1

Vài

nét

về

tác

giả,

tác

phẩm

- Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ cách mạng đồng thời là nhà văn, nhà văn hóa vĩ đại. Sáng
tác của Người phong phú, đa dạng và thống nhất sâu sắc, nhuần nhị mối quan hệ giữa
chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật. Tuyên ngôn Độc lập là tác
phẩm

tiêu


biểu

trong

sự

nghiệp

văn

chương

Hồ

Chí

Minh.

- Tuyên ngôn Độc lập có một giá trị lịch sử vô cùng to lớn đồng thời phản ánh một
cách tập trung nhất, tiêu biểu nhất phong cách nghệ thuật văn chính luận của Hồ Chí
Minh.
2

Giải

thích

ý


kiến

- Ý kiến thứ nhất chủ yếu đánh giá về giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập. Đó là
văn kiện có ý nghĩa khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra trang sử
mới

cho

dân

tộc.

- Ý kiến thứ hai nhấn mạnh tới giá trị nghệ thuật của tác phẩm, xem đây là tác phẩm
chính

luận

đặc

sắc,



tính

thuyết

phục

cao.


0,5

3 Bình luận , chứng minh hai ý kiến
Cần

tập

trung

bình

luận:

- Cả hai ý kiến đều xoay quanh giá trị nội dung và nghệ thuật của bản Tuyên ngôn
Độc

lập,

đánh

giá

về

thành

công

tiêu


biểu

của

tác

phẩm.

- Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành cách đánh giá đầy đủ,
toàn diện về tác phẩm.
Page 9


- Về giá trị lịch sử: Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện lịch sử tuyên bố trước
quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước
ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam mới. Tác giả đã nêu lên cơ
sở pháp lí vững chắc, tố cáo những tội ác của thực dân Pháp gây ra trên đất nước ta
như những bằng chúng, thước phim lịch sử để từ đó tuyên bố độc lập và khẳng định
quyết

tâm

giữ

vững

nền

độc


lập,

tự

do

của

đất

nước.

- Về giá trị nghệ thuật: Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực thể hiện
ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, vừa tố cáo mạnh mẽ tội
ác của thực dân Pháp, ngăn chặn âm mưu tái chiếm nước ta của các thế lực thù địch
và các phe nhóm cơ hội quốc tế, vừa bộc lộ tình cảm yêu nước, thương dân và khát
vọng

độc

lập,

tự

do

cháy

bỏng


của

tác

giả



toàn

dân

tộc.

- Sự kết hợp giữa giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật đã khiến cho bản Tuyên ngôn
Độc lập từ khi ra đời cho đến nay là áng văn chính luận có sức lay động sâu sắc hàng
chục

triệu

trái

tim

con

người

Việt


Nam.

Xem thêm các đề khác tại đây : />2. TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
Dạng 1 :Cảm nhận về đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng
Bài này các em chú ý cho cô khổ 1-2-3 nhé, khổ 4 không quan trọng mấy.
Dạng 2 : Nghị luận ý kiến bàn về bài Tây Tiến- Quang Dũng
Dạng 3 : So sánh đoạn thơ trong bài Tây Tiến- Quang Dũng với đoạn thơ trong
bài thơ khác có cùng chủ đề hoặc có điểm tương đồng về nội dung.
Với bài Tây Tiến- Quang Dũng, đề thi có thể yêu cầu so sánh với Việt Bắc,
Đất nước, hoặc đoạn thơ miêu tả hình tượng người lính ,…
Dạng 4 : Liên hệ thực tế.
Ví dụ đề bài cho phân tích hình tượng người lính Tây Tiến , từ đó liên hệ tới
hình ảnh người chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biển đảo quê hương chẳng hạn,…
hoặc liên hệ tới lí tưởng sống của thanh niên thời nay.
Dang 5 : Cảm nhận hình tượng người lính Tây Tiến, cảm nhận chi tiết , hình
ảnh, …
Page 10


Kiến thức cơ bản về bài Tây Tiến – Quang Dũng
1.

Quang

Dũng.

– Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.
– Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng
Quang Dũng được biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng

khoáng, đậm chất lãng mạn và tài hoa. Các tác phẩm chính: Mây đầu ô, Thơ văn
Quang Dũng…
2. Trình bày hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
– Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập
đầu

năm

1947.

– Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng
thời đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc
Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân TT khá rộng nhưng
chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học
sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật
chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất
dũng

cảm.

– Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang
đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài
thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài
thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời
gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
3. Đặc

điểm

nổi


bật

của

bài

thơ

Tây

Tiến

– Cảm hứng lãng mạn: Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tôi trữ tình
– nỗi nhớ nồng nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh,
phát huy cao độ trí tưởng tượng khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng độc
đáo. Đối tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ
dội, vừa thơ mộng trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào hoa, mộng
mơ, lãng mạn. Sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập: đối lập về hình ảnh, thanh điệu,
tính

cách

của

người

lính

TT.

Page 11


– Âm hưởng bi tráng: “bi” là đau buồn, “tráng” là khỏe khoắn, mạnh mẽ. Tác phẩm


âm

hưởng

bi

tráng thường không né tránh những chuyện xót xa, đau lòng nhưng bao giờ cũng đưa
đến những xúc cảm mạnh mẽ, rắn rỏi. Tác giả đã nhắc đến những khó khăn gian khổ
trong những cuộc hành quân, nói đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau
thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà không luỵ. Cái bi được thể hiện
bằng

một

giọng

điệu,

âm

hưởng,

màu


sắc

tráng

lệ,

hào

hùng.

– Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
4. Nội dung và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.
a.

Nội

dung:

– Bức tranh thiên nhiên vùng Tây Bắc tổ quốc ta vừa tráng lệ, hùng vĩ vừa nên thơ,
trữ

tình.

– Khẳng định, ca ngợi vẻ đẹp đậm chất bi tráng về hình ảnh người lính Tây Tiến: tâm
hồn lãng mạn, khí phách anh hùng, lí tưởng cao cả Vẻ đẹp của chiến sĩ Việt Nam
trong

kháng

chiến


chống

Pháp.

– Thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về trung đoàn Tây Tiến và
quê

hương

Tây

Bắc

trong

những

năm

kháng

chiến

chống

Pháp.

* Đoạn 1: Nỗi nhớ của tác giả và con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến:
“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!…………Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”



Nỗi

nhớ

của

tác

giả:

Nhà thơ Quang Dũng gắn bó với trung đoàn Tây Tiến, gắn bó với núi rừng Tây Bắc
trong những năm kháng chiến . Vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc – xa đơn vị
bộ đội , xa vùng đất nhiều kỉ niệm kháng chiến tác giả nhớ nhung da diết:
Sông



Nhớ

về

xa

rồi

Tây

Tiến


ơi!

rừng

núi

nhớ

chơi

vơi

– Mở đầu bài thơ là lời gọi tha thiết , ngọt ngào. Tác giả gọi tên đơn vị “ Tây Tiến” ,
gọi tên con sông vùng Tây Bắc “ sông Mã” mà thân thiết , dạt dào cảm tình như gọi
tên những người thân thương trong cuộc đời mình.Phải chăng trung đoàn Tây Tiến,
núi rừng Tây Bắc gần gũi , thân thương với tác giả và khi xa thì Tây Bắc, Tây Tiến
trở

thành

một



mảnh

tâm

hồn”


của

tác

giả.
Page 12


– Tác giả rất thành công trong việc sử dụng nghệ thuật điệp từ “ nhớ “ và từ láy “
chơi vơi”, tác giả “ nhớ chơi vơi” nỗi nhớ ấy không xác định được hết đối tượng ,
nhớ sông Mã , nhớ Tây Tến, nhớ núi rừng Tây Bắc , … nhớ tất cả. Những nơi trung
đoàn Tây Tiến đã đi qua, những đồng đội từng gắn bó,…tất cả đều trở thành kỉ niệm
không thể nào quên.Chính vì thế mà khi xa Tây Tiến, xa Tây Bắc trong tâm hồn tác
giả

trào

dâng

nỗi

nhớ

da

diết,

mãnh


liệt.

– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến: Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ ,
con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến nơi Tây Bắc hiện lên khá rõ nét.
– Trước hết là những vùng đất mà đoàn quân đã đi qua, gắn bó, mỗi vùng đất với một
nét
Sài

riêng
Khao

Mường

không

dễ



quên:

sương

lấp

đoàn

quân

mỏi


hoa

về

trong

đêm

hơi

Luông

mưa

xa

khơi

Hịch

cọp

trêu

người

em

thơm


Lát

….
Nhà

ai

Pha

…..
Đêm

đêm

Mường

Châu

mùa

……
Mai

nếp

xôi

+ Ở Sài Khao thì sương nhiều như muốn che lấp cả đoàn quân khiến cho đoàn quân
mỏi mệt Đó cũng chính là những gian khổ mà chiến sĩ phải vượt qua.

+ Nếu như ở Sài Khao đoàn quân phải vất vả, mệt nhọc thì khi về Mường Lát thật ấm
áp, lãng mạn bởi “ hoa về trong đêm hơi”. “ Hoa”, “ hơi” là hai hình ảnh làm cho bức
tranh

Mường

Lát

thêm

gần

gũi,

trìu

mến.

+ Về Pha Luông thì mưa rừng thật thú vị, vừa hành quân vừa ngắm cảnh vật dưới
mưa

thật

lãng

mạn,

trữ

tình.


+ Có lẽ “ấm lòng” nhất là khi hành quân về vùng Mai Châu , hương vị đặc sản “ nếp
xôi”của vùng đất ấy khiến các anh chiến sĩ dẫu có xa cũng không thể nào quên.
+ Còn ghê rợn nhất là khi về Mường Hịch, cái âm thanh phát ra từ núi rừng ấy thật là
khiến

cho

con

người

cảm

giác

bất

an

:

“cọp

trêu

người”.

Mỗi vùng đất trung đoàn Tây Tiến đi qua đều để lại dấu ấn trong tâm hồn, tuy có
Page 13



nhiều

gian

nan,

vất

vả

nhưng

cũng

rất

lãng

mạn,

trữ

tình.

– Con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến được tác giả khái quát rõ nhất qua
đoạn

thơ:


Dốc

lên

khúc

Heo

hút

Ngàn

thước

cồn
lên

khuỷu

dốc

mây

súng

cao,

thăm


thẳm

ngửi

ngàn

trời

thước

xuống

…..
Chiều
Đêm

chiều
đêm

oai
Mường

linh

thác

Hịch

cọp


gầm

thét

trêu

người

Đoạn thơ ngắn nhưng thể hiện nét bút tài hoa của Quang Dũng. Ông thành công
trong

việc

sử

dụng

ngôn

từ,

hình

ảnh,

bút

pháp,…

+ Hàng loạt từ láy gợi hình ảnh, cảm xúc “khúc khuỷu”, “ thăm thẳm”, “ Heo hút”

+ Hình ảnh vừa hiện thực vừa táo bạo, phi thường như dốc cao khiến súng chạm trời
– “ súng ngửi trời”, dốc lên bao nhiêu thì xuống bấy nhiêu “ ngàn thước lên cao ,
ngàn

thước

xuống”

.

+ Kết hợp hình ảnh với những âm thanh đặc sắc như “ thác gầm thét”, “ cọp trêu
người”
+
+

Sử
Đoạn

thơ

dụng
đậm

khuynh

nhiều
hướng

sử


thi

thanh


cảm

hứng

Trắc.
lãng

mạn.

Nét bút tài hoa của Quang Dũng đã vẽ lại con đường hành quân- chiến đấu của trung
đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến chống Pháp , con đường ấy thật gian
khổ, hiểm nguy với đèo cao , dốc hiểm và thú rừng dữ tợn nhưng cũng thật lãng mạn,
khó

quên.

– Sau hàng loạt những câu thơ sử dụng thanh Trắc tác giả phóng bút một câu thơ
toàn thanh Bằng khá độc đáo “ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Phải chăng sau những đoạn đường hành quân, chiến đấu vất vả thì chiến sĩ Tây Tiến
được thưởng thức nét lãng mạn của cơn mưa rừng, được thưởng thức nét đẹp của nhà
ai thấp thoáng trong màn mưa. Những giây phút lãng mạn , thơ mộng trên con đường
hành quân là ngọn nguồn sức mạnh để các chiến sĩ vượt qua gian lao, thử thách.
Qua con đường hành quân của trung đoàn Tây Tiến ta cảm nhận được vẻ đẹp riêng
Page 14



của núi rừng Tây Bắc và trung đoàn Tây Tiến. Tây Bắc vừa hùng vĩ, tráng lệ vừa nên
thơ, trữ tình. Chiến sĩ Tây Tiến kiên cường, bất khuất, sẵn sàng vượt gian lao thử
thách để thực hiện nhiệm vụ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
– Và trên con đường hành quân, chiến đấu , cũng có những chiến sĩ không còn đủ
sức

để

tiếp

tục

nhiệm

Anh

bạn

dãi

Gục

lên

súng

vụ,

dầu




tưởng

của

không



bỏ

mình:

bước

nữa

quên

đời!

Hai câu thơ gợi cái bi, sự mất mác , đau thương . Nhưng dẫu các anh “ không bước
nữa”, “ bỏ quên đời “ thì vẫn trong tư thế cầm súng. Một số chiến sĩ Tây Tiến không
tiếp tục sự nghiệp , lí tưởng bởi lẽ sức đã kiệt. Các anh sống và chiến đấu trong điều
kiện thiếu thốn thuốc men, lương thực, lại bị những cơn sốt rét rừng hoành
hành nên không còn đủ sức để tiếp bước. Đây là hiện thực đau thương khó tránh khỏi
trong những năm kháng chiến nên Quang Dũng cũng không ngần ngại khi nhắc đến.
sự ra đi của đồng đội là mất mác không thể nào quên của đại đội trưởng Quang

Dũng. Tác giả nhắc đến để tưởng nhớ, buồn thương , tự hào về đồng đội của mình và
càng thôi thúc tinh thần chiến đấu để giành lấy sự bình yên, hạnh phúc, độc lập, tự
do.
Đoạn mở đầu bài thơ “ Tây Tiến” da diết nỗi nhớ đồng đội , nhớ núi rừng Tây Bắc
của tác giả Quang Dũng. Qua nỗi nhớ, con đường hành quân của trung đoàn Tây
Tiến



bức

tranh

núi

rừng

Tây

Bắc

hiện

về

khá



nét.


Đó cũng chính là cái “Tình “ mà Quang Dũng dành cho Tây Tiến ,Tây Bắc : Yêu
mến,
(

gắn

Chế

Khi

Lan
ta



Viên

:

đi,

đất

Khi


ta
bỗng




,
hóa

tự
chỉ


tâm

hào.
nơi

đất
hồn


)

* Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp của trung đoàn Tây Tiến trong những năm kháng chiến
chống

Pháp.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa……….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
* Kỷ niệm đẹp một thời trận mạc đã trở thành hành trang của người lính Tây Tiến.
Đúng vậy, các chiến sĩ Tây Tiến cũng như chính tác giả cũng không thể nào quên
những kỉ niệm trong những năm kháng chiến cùng đồng đội, quân dân. Kỉ niệm khó
Page 15



quên

nhất



lẽ



những

đêm

liên

hoan

lửa

trại:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…….Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
+ Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào
(

Tây


Bắc,

Lào)

.

“ Doanh trại bừng lên “ – tác giả sử dụng từ “ bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và
tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “ đuốc hoa”,
có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu , thướt
tha , e ấp, dịu dàng. “ Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc
nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm
vui

vẻ,

ấm

áp



quyến

rũ,

say

lòng

người.


+ Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có
chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến
các anh ngạc nhiên , thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được
tác giả diễn tả ở từ “ Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có
những



đóa

hoa”

say

lòng

người

đến

thế.

+ Say mê , thích thú trong đêm hội để về “ xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với
các



gái


Các

chiến



thật



lãng

mạn.

+ Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh
sáng,… Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ ,ấm áp , lãng mạn . Và
đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây
Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây
phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang
của

các

chiến



trên

chiến


trường

ác

liệt.

* Trung đoàn Tây Tiến qua nhiều vùng đất nơi Tây Bắc, mỗi vùng đất với nét đẹp
riêng khó quên. Nếu Sài Khao có sương nhiều như che lấp cả đoàn quân Tây Tiến ,
Mường Hịch có tiếng cọp khiến con người ghê sợ , vùng Mai Châu có hương vị cơm
nếp

thật

hấp

dẫn

,…thì

Châu

Mộc

cũng

thật

lãng


mạn, trữ

tình.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy….Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh
Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884
Page 16


mét , nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra
bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một
mảnh

trong


Khi

tâm

Khi
ta

ta

đi,

đất


hồn

ở,
bỗng

của

chỉ
hóa

tâm

bao


hồn”

nơi
(

Chế

người.
đất

Lan


Viên


)

+ “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947 , sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu
làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in
đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “
thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên
trong

lòng.

+ “ Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ
sông

bờ

suối“nẻo

bến

bờ”.

Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên
nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “ chiều sương” và “ hồn lau nẻo bến bờ”.
+ Điệp ngữ “ có thấy”, “ có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm
phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ , nhớ cảnh rồi nhớ đến
người. “ Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “ Có
nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “ Hoa đong đưa” là hoa rừng
đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây
Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang
đong


đưa

trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có
“tay lái ra hoa” mới có thể “ đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và
con

người

Tây

Bắc

thật

tài

hoa!

Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao
nguyên Châu Mộc.Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn , Quang Dũng vẽ lại
bức

tranh

tuyệt

đẹp

về


thiên

nhiên



con

người

Tây

Bắc.

+ Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc thật hoang vu, là chốn rừng thiêng nước độc nhưng tác
giả đã khám phá ra được nét đẹp thật thơ mộng, lãng mạn của cảnh và người .Nhà
thơ gắn bó với cảnh vật, với con người Tây Bắc, vào sinh ra tử với đồng đội mới có
Page 17


những kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá
đến

như

thế.

Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài
của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn, kết hợp hài hòa tính

thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và đêm hội đuốc hoa là tài năng , tâm hồn và
sự gắn bó sâu nặng của Quang Dũng với trung đoàn Tây Tiến, với núi rừng Tây Bắc
và với quê hương đất nước trong những năm kháng chiến chống Pháp.
* Đoạn 3 : chân dung chiến sĩ Tây Tiến với khí phách anh hùng, tâm hồn lãng mạn
trong

máu

lửa

chiến

tranh.

TâyTiến đoàn binh không mọc tóc………Sông Mã gầm lên khúc độc hành
* Trên những nẻo đường hành quân , chiến đấu , vượt qua bao đèo cao dốc hiểm ,
đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa
cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da
phong
TâyTiến
Quân

sương



sốt

rét


đoàn
xanh

rừng,

thiếu

binh

thuốc
không

màu



men,

lương

thực,…

mọc

tóc

oai

hùm


dữ

– Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến
chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh
cái

khốc

liệt

của

chiến

tranh.

Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “ xanh màu lá” tương phản với
nét“ dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang ,
tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp
sợ.
– “ Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các
chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi
rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ
Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người
lính

cụ

Hồ.


* Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu
Page 18


thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới…….Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội,
biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người
thân

thương,…

– Mắt trừng – hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh
táo của người lính trong khói lửa ác liệt , “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt
kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của
đoàn

quân

Tây

Tiến,

của

chiến




cụ

Hồ.

– Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội ,về “ dáng kiều
thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “ Xếp bút nghiên theo
việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa
tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn
“Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm
hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có
thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa? ,… Làm sao các anh quên
được những tà áo trắng, những cô gái thân thương,… những “dáng kiều thơm” đã
từng hò hẹn,…? Hình ảnh “ dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người
đọc nhiều điều thú vị , ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng
dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào
hoa,

lãng

mạn

của

binh

đoàn

Tây

Tiến


trong

trận

mạc.

Viết về “mộng” và “ mơ “ của trung đoàn Tây Tiến , Quang Dũng đã ca ngợi tinh
thần lạc quan, yêu đời của đồng đội. Đó cũng chính là nét khám phá của nhà thơ khi
vẽ chân dung người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản trong những năm
kháng
*

Bốn

chiến
câu

thơ

tiếp

theo

chống


đậm

chân


dung

Pháp.
chiến



Tây

Tiến:

– Trong gian khổ chiến trận , bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ
nằm

lại

nơi

chân

đèo

góc

núi

:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ……..Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”để lại trong lòng ta nhiều thương cảm , biết
Page 19


ơn, tự hào,…. Câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám
lạnh, ảm đạm, hiu hắt ,…và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài
của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí,
tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên
cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do,… Họ là những thanh niên Hà Nội, họ
tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết
trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “ quyết
tử

cho

Tố

quốc

quyết

sinh”.

Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng,
cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ độc lập tự do cho dân
tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta
trong những năm kháng chiến chống Pháp:” chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không


chịu

mất

nước,

nhất

định

không

chịu

làm



lệ”.

– Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai
câu
Áo
Sông

cuối
bào



của
thay

chiếu

gầm

lên

đoạn
anh
khúc

thơ:
về
độc

đất
hành

Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh.
Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ , với tấm áo bào bình dị ấy “về với
đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản ! Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã
xuống là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ
“ chết”, “ hi sinh” mà dùng từ “ về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm
lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu
cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy
chung son sắt với Tố quốc. Vì thế mà “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu
trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên

khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.
Page 20


* Đoạn thơ viết về chân dung chiến sĩ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất trong bài .
Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn , kết hợp vận dụng sáng
tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được
vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Các chiến sĩ Tây Tiến đã sống anh hùng và
chết vẻ vang. Chính vì thế mà hình ảnh người lính Tây Tiến, người lính cụ Hồ mãi
mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:


Anh

Sao



vệ
yêu

quốc

anh

thế

quân

!”


(

ơi

Tố

Hữu

)

* Khắc họa chân dung chiến sĩ Tây Tiến đậm chất bi tráng Quang Dũng khẳng định ,
ngợi ca tinh thần yêu nước , chủ nghĩa anh hùng của chiến sĩ Tây Tiến, chiến sĩ Việt
Nam trong kháng chiến chống Pháp. Đồng thời qua đó thể hiện nét bút tài năng và
tình cảm yêu mến, gắn bó, tự hào về trung đoàn Tây Tiến của Quang Dũng.
b.

Nghệ

thuật:

– Ngôn từ giàu hình ảnh, cảm xúc; nhiều từ ngữ Hán Việt ; từ ngữ chỉ địa danh.
– Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đặc sắc như nhân hóa, đối lập, điệp,..



Hình
Kết

hợp


ảnh
giữa

đặc

sắc,

cảm

hứng

đậm
lãng

chất
mạn



thơ
bút

chất
pháp

bi

nhạc.
tráng.


Nét bút tài hoa của Quang Dũng.
Một số đề tham khảo :
Đề 1 : So sánh đoạn thơ trong bài Đất nước và Tây Tiến
Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến – Quang Dũng)
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Page 21


Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Mở bài:
Tây Tiến của Quang Dũng và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những bài
thơ đặc sắc trong nền thơ cách mạng Việt Nam. Hai tác phẩm này đã nói về những
con người vô danh lặng thầm chiến đấu bảo vệ quê hương. Mỗi bài thơ đều để lại
những cảm xúc, suy tư sâu lắng trong lòng người đọc. Trong đó có những câu thơ rất
đặc sắc:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
……………………………….”
Và:
“Có biết bao người con gái con trai
……………………………………..”
Thân bài:

Trước hết chúng ta tiến hành phân tích từng đoạn:
a.Đoạn thơ trong bài Tây Tiến
*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, vị trí đoạn thơ
+Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài (thơ, văn, nhạc, hoạ), cũng là một người lính,
sống một đời lính oanh liệt, hào hùng. Quãng đời ấy đã trở thành cảm hứng đặc sắc
trong thơ ông. Bài thơ Tây Tiến viết về người lính, về những chàng trai“chiến trường
đi chẳng tiếc đời xanh” – người lính Tây Tiến.
+Tây Tiến là một đơn vị bộ đội thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu
là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu
hao lực lượng địch ở Thượng Lào, bảo vệ biên giới Việt Lào. Sau một thời gian hoạt
động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hoà Bình thành lập trung đoàn 52. Năm
1948, nhà thơ Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, không bao lâu, ông nhớ đơn vị
cũ sáng tác bài thơ này.
+ Bài thơ có 4 khổ, đây là khổ thứ 3, nội dung khắc hoạ hình tượng người lính
TT
*Phân tích cụ thể:
Page 22


-Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ, nhớ về đồng đội và địa bàn hoạt
động của đoàn quân, nhớ về vùng đất mà bước chân hào hùng mà đoàn binh Tây
Tiến đã đi qua – Tây Bắc. Vùng đất đó với thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ và thơ
mộng, trữ tình, vùng đất ấy với những con người tài hoa, duyên dáng và nghĩa tình.
Trên nền cảnh ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến. Họ hiện lên thật ấn tượng với
phẩm chất hào hùng đáng kính, họ đã hi sinh dọc đường hành quân, hi sinh dọc miền
biên giới – họ đã hi sinh vì lí tưởng sống cao đẹp:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

-Đoạn thơ sử dụng rất nhiều từ Hán Việt mang sắc thái trân trọng, thể hiện
không khí trang nghiêm, lòng thành kính thiêng liêng của nhà thơ trước sự hi sinh
của đồng đội. Những từ ngữ ấy như những nén tâm nhang thắp lên đưa tiễn những
người đã ngã xuống. CHính hệ thống từ ngữ ấy kết hợp với những hình ảnh giàu sức
gợi (biên cương, chiến trường, áo bào, khúc độc hành) cũng tạo sắc thái cổ kính, gợi
liên tưởng đến sự hi sinh oanh liệt của những anh hùng, dũng tướng sẵn sàng chấp
nhận cảnh “da ngựa bọc thây” đầy bi tráng trong văn học trung đại.
-Câu thơ đầu đoạn thơ sử dụng nhiều từ Hán Việt (biên cương, viễn xứ) nhưng
sức nặng của cả câu lại dồn vào một từ thuần Việt: “mồ”. Mồ cũng là mộ nhưng
không phải mộ theo đúng nghĩa. Đó chỉ là những nấm đất được đào vội, chôn mau
ngay trên con đường hành quân vội vã để đoàn quân lại tiếp tục lên đường. Đặt trong
không gian bao la, mênh mông hoang sơ của miền biên giới Việt – Lào, những nấm
mồ ấy gợi lên bao nỗi xót xa.
-Trong câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ (chiến trường đi)
để nhấn mạnh đích đến của người lính, người chiến sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh, sứ mênh đất nước rất mỏng manh, chiến trường là đích đến duy nhất, là
sự lựa chọn đầy trách nhiệm của cả một thế hệ. Với họ, “đường ra trận mùa này đẹp
lắm” và “cuộc đời đẹp nhất trên trận chiến chống quân thù”. Cách nói “chẳng tiếc đời
xanh” cho thấy sự dứt khoát, lòng quyết tâm, coi thường gian nguy, coi thường cái
Page 23


chết. Họ sẵn sàng hiến dâng cả đời xanh, tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất cho tổ quốc,
hơn thế nữa, tính mạng của họ cũng sẵn sàng hi sinh để làm nên dáng hình đất nước.
Họ ra đi với tinh thần của cả thời đại“Người ra đi đầu không ngoảnh lại”. Đó là lí
tưởng sống cao đẹp, hào hùng.
-Viết về người lính và cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta, nhà thơ Quang
Dũng rất chân thực, ông không hề né tránh hiện thực:
Áo bào thay chiếu anh về đất
“Áo bào thay chiếu” – một hình ảnh thực đến xót xa của chiến tranh. Nhưng

cái thiếu thốn về vật chất lại được khoả lấp bằng sự hiên ngang, can trường của
người lính. Từ Hán Việt và cách nói “Áo bào thay chiếu anh về đất”làm cho cái chết
của người lính Tây Tiến trở nên trang trọng hơn rất nhiều, thiêng liêng hơn nhiều.
Nhà thơ vẫn gợi lên sjw thật chung của cả thời chống Pháp là sự thiếu thốn về vật
chất, ở vùng biên giới xa xôi thì sự thiếu thốn ấy còn nhân lên gấp bội. Người chiến
sĩ đã ngã xuống không có một cỗ quan tài, thậm chí không có lấy một tấm chiếu để
liệm thân mà khi ngã xuống vẫn cứ mặc nguyên tấm áo thường ngày trên đường hành
quân. Đó có thể là tấm áo sờn vai, tấm áo bạc màu, tấm áo có vài mảnh vá. Nhưng
với thái độ trân trọng đồng đội, nhà thơ Quang Dũng đã thấy họ như đang mặc tấm
áo bào của chiến tướng mà đi vào cõi vĩnh hằng, bất tử cùng sông núi. Cách nói “về
đất” không chỉ là cách nói giảm, nói tránh mà mang ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng.
Cái chết không phải là ra đi vào cõi hư vô bất định mà là trở về, trở về với đất Mẹ
yêu thương. Đất Mẹ cũng đã mở lòng đón những đứa con đầy trách nhiệm của mình
trở về. Họ đã ra đi như thế đấy. Họ đã nằm lại nơi chân đèo, dốc núi nào đó trên con
đường hành quân đầy gian khổ, nhọc nhằn, họ đã để lại mình nơi biên cương lạnh
lẽo, hoang vắng. Nhưng họ đã ra đi vì lí tưởng, cái chết của họ dù để lại nhiều xót xa
trong lòng người đọc nhưng họ ra đi một cách rất thanh thản. Họ chỉ là “không bước
nữa”, là “bỏ quên đời”, là “về đất” thôi chứ không phải là chết. các anh đã ngã
xuống, đã “hoá thân cho dáng hình xứ sở” để rồi mỗi thế núi hình sông, mỗi tên đất
tên làng đều có bóng hình các anh. Các anh hi sinh, trở về trong lòng Đất Mẹ để “cho
cây đời mãi mãi xanh tươi”, để đem lại cho đất đai, cho quê hương đất nước sự sống
bất tận.
Page 24


– Đoạn thơ kết thúc bằng một âm hưởng hào hùng. Dường như linh hồn người
tử sĩ đã hòa cùng sông núi, con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc đau thương, hùng tráng
để tiễn đưa người lính vào cõi bất tử. Hình tượng “sông Mã” ở cuối bài thơ được
phóng đại và nhân hóa, tô đậm cái chết bi hùng của người lính_ sự hi sinh làm lay
động


đất

trời,

khiến

dòng

sông

*

gầm

lên

đớn

đau,

thương

Nghệ

tiếc.
thuật:

– Bằng bút pháp lãng mạn và âm hưởng bi tráng, đoạn thơ ngợi ca những phẩm chất
tốt đẹp của người lính Tây Tiến trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

b.Đoạn thơ trong bài “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là lời nhắn nhủ của
nhà thơ về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với non sông đất nước:
*Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
+Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà
thơ trẻ thời chống Mỹ . Ông xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản
thân ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa
Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức….
+Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết
năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức
khốc liệt .
*Phân
“Em

ơi

em

Phải
Phải

tích
Đất

biết
biết

Làm

cụ


Nước



gắn
hóa

thân

nên

máu


cho

Đất

thể:

xương


dáng
Nước

của
san

hình

muôn

mình
sẻ

xứ

sở
đời”

– Đoạn thơ có giọng điệu tâm tình sâu lắng, thiết tha. Tác giả tạo ra cuộc trò chuyện
thân mật giữa nhân vật trữ tình “anh” với “em”. Giọng điệu ấy đã làm mềm hóa nặng
nề,

khô

khan

của

chất

chính

luận.

– Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá một định luật rất mới “Đất Nước là máu xương
của mình”. Đối với mỗi con người, máu xương là yếu tố cần thiết cho sự sống. Hình
ảnh so sánh độc đáo ấy có hàm ý khẳng định: Đất nước là sự sống thiêng liêng đối
với


mỗi

con

người.
Page 25


×