Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật kinh tế về pháp luật về doanh nghiệp nhà nước thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.11 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

PHAN LÊ PHƯỢNG HẰNG

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH MTV
DỊCH VỤ CÔNG ÍCH HUYỆN CẦN GIỜ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT

PHAN LÊ PHƯỢNG HẰNG

PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH MTV
DỊCH VỤ CÔNG ÍCH HUYỆN CẦN GIỜ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT


Chuyên ngành Luật kinh doanh – Mã số 52380101

Người hướng dẫn khoa học: GVC - ThS. Nguyễn Triều Hoa

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


LỜI CÁM ƠN

Để hoàn thành khoá luận này, tôi chân thành gửi lời cám ơn đến:
GVC - Th.S Nguyễn Triều Hoa và ThS Nguyễn Khánh Phương đã hướng
dẫn và chỉ bảo tận tình để giúp tôi hoàn thành khóa luận này.
Ông Nguyễn Duy Lộc - Phó Giám đốc cùng các đồng nghiệp Phòng Tổ
chức - Hành chính Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện Cần Giờ đã
hướng dẫn, hỗ trợ và cung cấp các thông tin, tài liệu hữu ích cho tôi trong quá
trình tìm hiểu việc áp dụng pháp luật về Doanh nghiệp nhà nước tại Công ty.

Xin chân thành cảm ơn!

i


LỜI CAM ĐOAN

“Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận đã được chỉ rõ
nguồn gốc”


Tác giả khóa luận

Phan Lê Phượng Hằng

ii


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP
Sinh viên thực tập: PHAN LÊ PHƯỢNG HẰNG MSSV: 33131023367
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện Cần Giờ
Thời gian thực tập: Từ 03/08/2015 đến 18/10/2015
Nhận xét chung:
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

Đánh giá cụ thể
(1) Có tinh thần, thái độ, chấp hành tốt kỷ luật đơn vị; đảm bảo thời gian
và nội dung thực tập của sinh viên trong thời gian thực tập
(tối đa được 5 điểm)……………………………….……………..….………
(2) Viết báo cáo giới thiệu về đơn vị thực tập (đầy đủ và chính xác)
(tối đa được 2 điểm)..………………………………………………...……...
(3) Ghi chép nhật ký thực tập (đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, và chính xác).
(tối đa được 3 điểm)………………………………………………………..…..…..
Điểm số tổng cộng (1) + (2) + (3)………………………….
Điểm chữ:………………………………..…………………
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người nhận xét đánh giá
PHÓ GIÁM ĐỐC

Nguyễn Duy Lộc

iii


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Sinh viên thực tập: PHAN LÊ PHƯỢNG HẰNG MSSV: 33131023367
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:


16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện Cần Giờ
Đề tài nghiên cứu:
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC, THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH MTV DỊCH VỤ CÔNG ÍCH HUYỆN CẦN
GIỜ
Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Đánh giá và chấm điểm quá trình thực tập
(1) Có tinh thần thái độ phù hợp, chấp hành kỷ luật tốt (tối đa 3 điểm)..…….
(2) Thực hiện tốt yêu cầu của GVHD, nộp KL đúng hạn (tối đa 7 điểm)……..
Tổng cộng điểm thực tập cộng (1) + (2)……………….
Điểm chữ:…………………………………………………
Kết luận của người hướng dẫn thực tập & viết khóa luận
(Giảng viên hướng dẫn cần ghi rõ việc cho phép hay không cho phép
đưa khóa luận ra khoa chấm điểm)
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người hướng dẫn

GVC – ThS NGUYỄN TRIỀU HOA
iv



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA NGƯỜI CHẤM THỨ NHẤT
Sinh viên thực tập: PHAN LÊ PHƯỢNG HẰNG MSSV: 33131023367
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện Cần Giờ
Đề tài nghiên cứu:
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC, THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH MTV DỊCH VỤ CÔNG ÍCH HUYỆN CẦN
GIỜ
Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
Đánh giá cụ thể
(1) Điểm quá trình (tối đa 1 điểm)……………………………………….
(2) Hình thức khóa luận (tối đa 1 điểm)………………………………….
(3) Nội dung khóa luận
- Tính phù hợp, thực tiễn và mới của đề tài (tối đa 1 điểm)……..…..
- Phần mở đầu (tối đa 0,5 điểm)…………………………………………

- Phần 1(tối đa 1,5 điểm)………………………………………..………..
- Phần 2 (tối đa 3 điểm)…………………………………………….…….
- Phần 3 (tối đa 1 điểm)……………………………….…………...…….
- Phần kết luận (tối đa 1 điểm)……………………………………..……
Điểm số tổng cộng (1) + (2) + (3)……………………….
Điểm chữ:……………………………………………….
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người chấm thứ nhất

v


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT
---   ---

PHIẾU ĐIỂM CỦA NGƯỜI CHẤM THỨ HAI
Sinh viên thực tập: PHAN LÊ PHƯỢNG HẰNG MSSV: 33131023367
Lớp: Luật kinh doanh

Khóa:

16

Hệ: VB2CQ

Đơn vị thực tập: Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện Cần Giờ
Đề tài nghiên cứu:
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC, THỰC TIỄN ÁP

DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH MTV DỊCH VỤ CÔNG ÍCH HUYỆN CẦN
GIỜ
Nhận xétchung:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………
Đánh giá cụ thể
(1) Điểm quá trình (tối đa 1 điểm)……………………………………….
(2) Hình thức khóa luận (tối đa 1 điểm)………………………………….
(3) Nội dung khóa luận
- Tính phù hợp, thực tiễn và mới của đề tài (tối đa 1 điểm)……..…..
- Phần mở đầu (tối đa 0,5 điểm)…………………………………………
- Phần 1(tối đa 1,5 điểm)………………………………………..………..
- Phần 2 (tối đa 3 điểm)…………………………………………….…….
- Phần 3 (tối đa 1 điểm)……………………………….…………...…….
- Phần kết luận (tối đa 1 điểm)……………………………………..……
Điểm số tổng cộng (1) + (2) + (3)……………………..….
Điểm chữ:………………..……………………………….
Tp.HCM, ngày …… tháng 10 năm 2015
Người chấm thứ hai

vi


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu:......................................................................................................2
3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu.............................................................................2

4. Kết cấu đề tài..................................................................................................................3

CHƯƠNG 2............................................................................................................22
PHỤ LỤC SỐ 2......................................................................................................52


vii


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
§51.1 Hiến pháp năm 2013 có nêu “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, điều này
khẳng định Nhà nước và kinh tế nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Mặc dù từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào ngày 07/11/2006, thành
phần kinh tế nhà nước đã giảm, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong nền
kinh tế của nước ta, hiện nay khối doanh nghiệp này hiện nắm giữ lượng tài
sản rất lớn của dân, của Nhà nước. Và mô hình Doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) vẫn là một vấn đề cần quan tâm để làm sao cho các DNNN hoạt
động kinh doanh đầy đủ theo cơ chế thị trường và cạnh tranh bình đẳng với
các doanh nghiệp khác, và làm sao để các cơ quan quản lý nhà nước ít có sự
can thiệp và áp đặt mệnh lệnh hành chính vào hoạt động kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp 2014 (LDN2014) được ban hành bổ sung một
chương mới, Chương IV với 22 điều khoản (từ Điều 88 đến 109) quy định về
DNNN mà Luật Doanh nghiệp 2005 (LDN2005) không có để đảm bảo làm
minh bạch hóa hoạt động của DNNN, giảm thiểu rủi ro cho tài sản của dân,

của Nhà nước hiện do các doanh nghiệp này nắm quá lớn. Có thể nói, việc
ban hành một chương riêng về DNNN trong LDN2014 là một bước đột phá
thể chế lần hai đối với các DNNN, việc này tạo ra hành lang pháp lý đủ chặt
chẽ và thống nhất trong quản lý DNNN.
Việc thay đổi các quy định về DNNN trong LDN2014 sẽ tác động như
thế nào đến hoạt động hiện tại của Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích
huyện Cần Giờ, là doanh nghiệp 100% vốn điều lệ do Nhà nước làm chủ sở
hữu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công ích. Những cơ hội, thách thức của
công ty sẽ gặp phải khi áp dụng các quy định của pháp luật, và việc áp dụng


các quy định mới này có ảnh hưởng gì đến nguyên tắc quản trị của công ty
(về cơ cấu tổ chức quản lý, thông tin tài chính, mối quan hệ giữa cấp quản lý
nhà nước với công ty, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm nhân sự lãnh đạo công
ty...) là lý do mà tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu làm khóa luận tốt
nghiệp.

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu về các quy định pháp lý hiện hành, với những thay đổi các
quy định đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, mục
tiêu của tác giả là tìm ra sự tác động của luật mới đối với cách tổ chức quản
lý, nguyên tắc quản trị của doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tác giả sẽ có những nhận định của mình
về việc áp dụng pháp luật như vậy phù hợp hay chưa phù hợp, từ đó, tác giả
sẽ đề xuất nhằm có thể giúp công ty điều chỉnh sao cho phù hợp với quy định
của pháp luật.
Khóa luận này sẽ trả lời các câu hỏi sau:
- Loại hình DNNN theo LDN2014 được quy định như thế nào?
- Việc áp dụng pháp luật về DNNN dưới hình thức Công ty TNHH
MTV trong thực tiễn như thế nào? Phù hợp hay không phù hợp?


3. Phương pháp và phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện khóa luận này, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính, đi sâu phân tích các quy định pháp luật, so sánh với các quy định
trước đó; và tìm hiểu sự tác động việc áp dụng các quy định pháp luật đó
trong thực tiễn. So sánh đối chiếu giữa các văn bản quy phạm pháp luật cũng
như việc áp dụng quy định tại Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện
Cần Giờ, từ đó tìm ra sự phù hợp hay chưa phù hợp của quy định pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu: LDN2014, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu
tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp 2014 (gọi tắt là Luật quản lý vốn
2014).

2


4. Kết cấu đề tài
Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài; mục tiêu, phạm vi, ý nghĩa thực tiễn,
kết cấu đề tài.
Chương 1: Cơ sở lý luận và căn cứ pháp lý về pháp luật Doanh nghiệp
nhà nước.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về Doanh nghiệp nhà nước tại
Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích huyện Cần Giờ.
Chương 3: Nhận xét, đề xuất về việc áp dụng pháp luật Doanh nghiệp
nhà nước dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Phần kết luận:

3


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CĂN CỨ PHÁP LÝ VỀ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1

Cơ sở lý luận về Doanh nghiệp nhà nước:

1.1.1 Nhận thức chung về Doanh nghiệp nhà nước:
1.1.1

Cách hiểu về Doanh nghiệp nhà nước:

Nhà nước tham dự vào đời sống kinh tế xã hội dù ở quốc gia nào, chế
độ nào và luôn theo hai tư cách: (1) là chủ nhân của quyền lực công cộng,
Nhà nước tham dự vào đời sống kinh tế như người điều tiết chung mọi sự vận
động và phát triển của toàn bộ nền kinh tế; (2) là chủ sở hữu những nguồn lực
vật chất. Nhà nước tham gia vào thương trường với tư cách là một nhà đầu tư
vốn hoặc nhà tiêu dùng.
Ở những lĩnh vực mà các nhà đầu tư tư nhân không đủ sức hoặc vì
không thể có sự thôi thúc bởi lợi nhuận thì Nhà nước là người đảm nhiệm
trách nhiệm đầu tư, theo đó Nhà nước đầu tư vốn để thiết lập những doanh
nghiệp hoạt động không nhất thiết phải vì lợi nhuận, những doanh nghiệp này
tồn tại dưới sự bảo trợ trực tiếp của Nhà nước 1. Mặt khác, khi tham gia với tư
cách là nhà đầu tư bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, Nhà nước sẽ
cho hình thành những doanh nghiệp tồn tại vì mục đích lợi nhuận, cạnh tranh
bình đẳng, và những doanh nghiệp này tồn tại và hoạt động như tất cả các
doanh nghiệp khác theo luật tư.
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có tên tiếng Anh là “govermentowned corporation” (COC) hoặc “state-owned enterprise” (SOE) - đây là
một loại hình doanh nghiệp phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới 2. Tại
Việt Nam, lần đầu tiên DNNN được nhắc đến với tên gọi là “Doanh nghiệp
quốc gia” theo Sắc lệnh số 104/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành

1

Ngô Như Phát, Phạm Duy Nghĩa (2001), Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội, tr.57.
2
Phạm Hoài Huấn - chủ biên (2015), Luật Doanh nghiệp Việt Nam - tình huống, dẫn giải và bình luận, NXB
Chính trị Quốc gia, tr.153.

4


ngày 01/01/1948. Điều (§) 2 Sắc lệnh này ghi nhận “Doanh nghiệp quốc gia
là một doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của quốc gia và do quốc gia điều
khiển”. Lúc bấy giờ những đơn vị kinh tế của Nhà nước được gọi là xí nghiệp
quốc doanh (trong công nghiệp), nông trường quốc doanh, lâm trường quốc
doanh (trong nông lâm nghiệp), cửa hàng quốc doanh (trong thương nghiệp)...
Và thuật ngữ DNNN được sử dụng chính thức lần đầu tiên trong Nghị
định số 388/HĐBT ngày 20/11/1991 về ban hành quy chế về thành lập và giải
thể DNNN. §1 Nghị định 388 có nêu “DNNN là một tổ chức kinh doanh do
Nhà nước thành lập đầu tư vốn và quản lý với tư cách chủ sở hữu”.
Trải qua hơn hai mươi năm, hiện nay, khái niệm DNNN được định
nghĩa theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN2014) như sau: “DNNN là
doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ” 3. So với Luật Doanh
nghiệp 2005 (LDN2005), việc quy định khái niệm về DNNN đã được thu hẹp
lại, chỉ có những doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thì
mới được gọi là DNNN. Với khái niệm này, có thể thấy cách hiểu về DNNN
trong LDN2014 giống với quy định về DNNN trong LDN1995.
Nhìn nhận một cách khái quát, DNNN được hiểu là tổ chức có tư cách
pháp nhân do Nhà nước là chủ sở hữu nắm toàn bộ vốn điều lệ và kiểm soát
quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. DNNN có tên riêng, có tài sản, có

trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật, tiến
hành các hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội.
1.1.2

Quá trình ra đời và phát triển của Doanh nghệp nhà nước ở Việt
Nam:

Từ thời phong kiến xa xưa ở nước ta, các triều đại đã tự lập các xưởng
riêng, lúc bấy giờ chủ yếu là đúc tiền, đúc súng, đóng tàu và xây dựng; về
ngoại thương, nhà nước nắm độc quyền4. Hoạt động quốc doanh thể hiện nổi
bật nhất dưới thời Nguyễn, ở các trấn lớn đều có các xưởng lớn do triều đình
3

§4.8 Luật Doanh nghiệp 2014
Phạm Duy Nghĩa (tái bản lần thứ năm, 2015), Giáo trình Luật Kinh tế, tái bản lần thứ năm, NXB Công an
nhân dân (325), tr.274.
4

5


nhà Nguyễn lập ra để tập trung đầu tư vào các ngành mà ngày nay gọi là công
nghiệp nặng như khai khoáng, đóng tàu, luyện kim, giao thông và xây dựng
cơ sở hạ tầng khác. Dưới chế độ phong kiến, các hoạt động quốc doanh
thường chỉ phục vụ cho lợi ích riêng, phục vụ nhu cầu tồn tại của triều đình
mà không tạo ra được cơ sở hạ tầng, hay góp phần để phát triển kinh tế hàng
hóa; người làm công trong các xưởng quốc doanh lúc bấy giờ được xem gần
như là nô lệ bị cưỡng bức lao động, không có tay nghề và kỷ luật cần thiết
cho nền công nghiệp; bên cạnh đó việc quy định mức thuế bằng hiện vật và

quy định giá bán ấn định đối với các tư nhân thực hiện khai khoáng thay nhà
nước bằng hình thức tô nhượng, cùng với chiến tranh đã làm cho ngành khai
khoáng quốc doanh cũng như tư nhân lụi dần, không tạo đà cho ngành công
nghiệp luyện kim ở nước ta ra đời. Do đó dù xuất hiện sớm, tuy nhiên các
hoạt động quốc doanh dưới các triều đại phong kiến Việt Nam không thể giúp
quốc gia trở thành nước công nghiệp5.
Đến thời Pháp thuộc, nước Pháp có truyền thống nhấn mạnh tới vai trò
của quốc doanh, đặc biệt là trong các lĩnh vực độc quyền tự nhiên, cơ sở hạ
tầng và những ngành nghề có liên quan đến phúc lợi xã hội 6. Quốc doanh ở
Việt Nam lúc này chủ yếu đặt dưới sự quản lý, điều hành của chính quyền
thực dân Pháp, trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại hầu hết do tư bản
nhà nước và tư nhân Pháp chiếm độc quyền; các hình thức quốc hữu trong thị
trường Việt Nam giai đoạn này đa dạng, tồn tại dưới các hình thức như các
doanh nghiệp công quản đặt dưới quyền kiểm soát của cơ quan hành chính;
các pháp nhân công lập tự trị, các công ty quốc doanh; các tổ chức không phải
là pháp nhân nhưng có chức năng kinh doanh, các công quản độc quyền khai
thác buôn bán thuốc phiện, rượu, thuốc lá, muối... Có thể thấy mặc dù thực
dân Pháp đã rút quân khỏi Việt Nam từ rất lâu nhưng đã để lại một thói quen
sử dụng tư bản nhà nước như một hình thức phổ biến để tổ chức các doanh
nghiệp quy mô lớn ở nước ta.
Sau ngày giải phóng đất nước, giành được độc lập, ở miền Bắc nhiều
cơ sở quốc doanh được khôi phục và mở rộng, mô hình hợp tác hóa - tập thể
5
6

Phạm Duy Nghĩa, tlđd 4 (328), tr.276.
Phạm Duy Nghĩa, tlđd 4 (329), tr.278

6



hóa được đẩy tới mức cao nhất; ở miền Nam với chủ trương cải tạo xã hội chủ
nghĩa nhắm vào kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể nhằm thống nhất nền kinh tế
theo mô hình chung trong cả nước, Nhà nước đã quốc hữu hóa và chuyển
thành quốc doanh tất cả các xí nghiệp công quản, thành lập các xí nghiệp
công tư hợp doanh, hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán
được hình thành và dần dần chiếm lĩnh thị trường. Đến năm 1980, thành phần
kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể đang phát triển trong thể chế kinh tế cũ bị hạn
chế, thủ tiêu; kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể ngày càng được mở rộng trở
thành hai thành phần kinh tế chủ yếu, được pháp luật thừa nhận, bảo hộ và
được ghi nhận vào bản Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian,
cách quản lý này mau chóng trở nên lỗi thời, sự sụp đổ của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung trên quy mô toàn cầu cuối những năm 80 của thế kỷ XX là một
bằng chứng phơi bày các khuyết tật của nền kinh tế kế hoạch hóa trước một
thế giới cạnh tranh cao độ7. Việt Nam không nằm ngoài xu thế của thế giới,
đến năm 1979, Nghị quyết Trung ương 6 (khoá IV) đã đề ra nhiệm vụ cấp
bách trước mắt là cải cách các chính sách về lưu thông - phân phối, mở đường
áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các DNNN, cho phép DNNN vươn
ra thị trường tự do, được phép tự kinh doanh độc lập trong một phạm vi hạn
chế với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp lệnh do Nhà nước giao.
Ngày 07/11/2006, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, từng bước thực
hiện các cam kết về DNNN, doanh nghiệp thương mại nhà nước, rằng trong
lĩnh vực này là Nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt
động của các DNNN. Nhà nước với tư cách là một cổ đông được can thiệp
bình đẳng vào hoạt động của doanh nghiệp như các cổ đông khác, Việt Nam
không coi mua sắm của DNNN là mua sắm Chính phủ. Thực tế hiện nay, số
lượng DNNN đã giảm, song vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể trong nền kinh tế
với 12 tập đoàn kinh tế nhà nước, khoảng 80 tổng công ty 91, 1000 DNNN
(do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ) ước chiếm 30% GDP. Bên cạnh đó
còn có các ngân hàng quốc doanh, các công ty cổ phần do Nhà nước chiếm

hữu cổ phần chi phối, các công ty liên doanh có sự góp vốn của DNNN8.
7
8

PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, tlđd 4 (329), tr.280.
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, tlđd 4 (330), tr.281.

7


Tóm lại, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, DNNN vẫn là loại hình
doanh nghiệp nắm giữ lượng lớn tài sản Nhà nước; các nguồn tài nguyên đất
đai, tài chính, cơ sở vật chất cơ bản vẫn do DNNN nắm giữ, DNNN vẫn một
yếu tố quan trọng giúp cho thành phần kinh tế nhà nước - thành phần kinh tế
chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
phát triển.
1.1.3

Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế:

Từ Đại hội VIII, Đảng ta đã sử dụng khái niệm “Kinh tế nhà nước”
(KTNN), thành phần KTNN bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và
các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ
sở hữu. Trong đó chia thành ba nhóm cơ bản: Nhóm các yếu tố thuộc sở hữu
toàn dân, như đất đai và tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển,...; Nhóm các
yếu tố vật chất mà Nhà nước sử dụng vốn ngân sách, kể cả các nguồn vốn mà
Nhà nước huy động; Nhóm các DNNN được hình thành trên cơ sở đầu tư nhà
nước, kể cả đầu tư của các DNNN, thể hiện việc Nhà nước thực hiện hoạt
động kinh tế9.
Hội nghị Trung ương 3 khoá IX đã xác định KTNN có vai trò chủ đạo

theo nghĩa “có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị xã hội của đất nước”; đồng thời
cũng xác định DNNN “phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt,
góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập
kinh tế quốc tế”10.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước (KTNN) và KTNN cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
9

/>10
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hànhTrung ương Khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.

8


thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Và một lần nữa Hiến
pháp 2013 cũng đã khẳng định “nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế; KTNN giữ vai trò chủ đạo”11.
Có thể thấy xuyên suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn khẳng định
vai trò chủ đạo của KTNN, trong đó DNNN giữ vị trí cơ bản và rất to lớn.
Các DNNN vừa là chủ thể kinh doanh, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt do
Nhà nước sử dụng trong tác động tham gia các hoạt động kinh tế. Là chủ thể
kinh doanh, các DNNN phải thực hiện hạch toán kinh tế, tự chủ về tài chính,
hoạt động có hiệu quả để bảo đảm quá trình tái sản xuất mở rộng, bảo đảm

gia tăng nguồn lực kinh tế mà Nhà nước đã đầu tư cho các doanh nghiệp
này. Là lực lượng tham gia vào các hoạt động kinh tế như một công cụ của
Nhà nước, các DNNN góp phần tạo ra sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp Nhà
nước đạt được các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Vai trò của DNNN thể
hiện trên ba mặt sau:
• Về mặt kinh tế: Vai trò của DNNN thể hiện ở các nội dung chủ
yếu sau: (1) Khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và
khu vực tư nhân. Đây là vai trò chủ yếu và quan trọng nhất của
DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
vì tất cả những khuyết tật của cơ chế thị trường đều làm giảm hiệu
quả xã hội của hệ thống kinh tế. (2) Đảm nhận các lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân. (3)
Tham gia vào những lĩnh vực khoa học công nghệ mũi nhọn, có hệ
số rủi ro cao. (4) Tham gia một số ngành có lợi thế cạnh tranh
• Về mặt chính trị: Vai trò của DNNN thể hiện ở hai nội dung cơ
bản sau: Một là, nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên
quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí,
trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). Hai là, tham gia
chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để chủ động định
11

§51.1 Hiến pháp năm 2013

9


hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc
tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác
khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công
nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).

• Về mặt xã hội: Do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động,
DNNN phải gánh vác chức năng và vai trò xã hội, khác biệt so với
các loại hình doanh nghiệp khác. Vai trò này thể hiện ở chỗ nó
phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa
chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo
đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các
ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu.
1.1.2 Phân loại Doanh nghiệp nhà nước:
DNNN thường được phân loại theo nhiều phương diện, góc độ khác
nhau. Có thể phân loại DNNN theo một trong các tiêu chí sau:
(1) Theo tiêu chí ngành nghề và chính sách tài chính, DNNN được chia
thành doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích.
- DNNN hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu vì
mục tiêu lợi nhuận12. Các doanh nghiệp này có thể hoạt động trong
mọi lĩnh vực của nền kinh tế, lấy mục tiêu lợi nhuận làm hàng đầu và
do đó cùng tham gia bình đẳng trên thị trường.
- DNNN hoạt động công ích là doanh nghiệp hoạt động sản xuất, cung
ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp
làm nhệm vụ quốc phòng an ninh 13. Các doanh nghiệp này tồn tại lâu
dài cùng với nền kinh tế, thuộc sở hữu hoàn toàn của Nhà nước và
không có mục tiêu lợi nhuận cũng như không tham gia cạnh tranh
trên thị trường14.
(2) Theo tiêu chí cơ quan quản lý, DNNN được chia thành doanh
nghiệp trung ương do Chính phủ hoặc các bộ và cơ quan ngang bộ quản lý và
12

§3.3 Luật Doanh nghiệp 1995.
§3.4 Luật Doanh nghiệp 1995.
14
Phạm Hoài Huấn, tlđd 2, tr.159.

13

10


doanh nghiệp địa phương do UBND cấp tỉnh, huyện quản lý. Việc phân loại
theo tiêu chí này nhằm giúp phân định quyền hạn và trách nhiệm quản lý của
từng cấp chính quyền đối với từng doanh nghiệp, nhất là các DNNN hoạt
động công ích vì sự tồn tại của các doanh nghiệp này gắn liền với chức năng
kinh tế - xã hội của Nhà nước.
(3) Theo tiêu chí về vốn chủ sở hữu, DNNN được chia thành DNNN do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, DNNN do Nhà nước nắm giữ từ 75%
đến dưới 100% tổng số cổ phần, DNNN do Nhà nước nắm giữ từ 65% đến
dưới 75% tổng số cổ phần, DNNN do Nhà nước nắm giữ từ trên 50% đến
dưới 65% tổng số cổ phần15.
(4) Hoặc có thể chia DNNN thành tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công
ty và các doanh nghiệp độc lập.
(5) Hoặc tùy theo quy mô mà DNNN được chia thành doanh nghiệp
lớn, vừa và nhỏ.
Về cơ bản, việc phân loại DNNN theo tiêu chí (1), (2), (3), (4) có ý
nghĩa trực tiếp nhất đối với chính sách và pháp luật của Nhà nước. Việc phân
loại theo tiêu chí (5) có ý nghĩa nhất định trong việc xác định các doanh
nghiệp thuộc diện cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu16.
1.1.3 Hình thức, cơ cấu tổ chức quản lý trong Doanh nghiệp nhà nước:
Trước khi LDN2014 được ban hành, hình thức DNNN đa dạng và quy
mô doanh nghiệp khác nhau như công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn. Do đó, không thể áp dụng một cách thống nhất vể tổ
chức quản lý.
So với các quy định trước đây về DNNN, thì LDN2014 đã quy định
siết lại về hình thức DNNN, theo đó DNNN chỉ tồn tại dưới hình thức Công

ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (TNHH MTV), cách thức tổ chức
quản lý DNNN được thực hiện một trong hai mô hình:

15

Quyết định số 37/2014/QĐ-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chí, danh mục
phân loại DNNN.
16
Phạm Duy Nghĩa, tlđd 4 (331), tr.282.

11


(1) Chủ tịch Công ty, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và Kiểm soát
viên;
(2) Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và Kiểm soát
viên.

1.2

Căn cứ pháp lý về Doanh nghiệp nhà nước:

1.2.1 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam
về Doanh nghiệp nhà nước:
1.2.1.1

Giai đoạn trước năm 1995:

Sau khi Hiến pháp năm 1946 ra đời, hệ thống pháp luật nước ta tuy
trong hoàn cảnh chiến tranh vẫn có một bước phát triển mới, đặc biệt lĩnh vực

pháp luật kinh tế vẫn được quan tâm phát triển. Ngày 01/01/1948, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh 104/SL ấn định các nguyên tắc căn bản
của các “Doanh nghiệp quốc gia” và nêu khái niệm Doanh nghiệp quốc gia.
Có thể nói đây là văn bản pháp lý đầu tiên nói đến DNNN với tên gọi là
Doanh nghiệp quốc gia sau này được gọi xí nghiệp quốc doanh17.
Bắt đầu từ năm 1986, một vấn đề lớn của thời kỳ này là đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế. Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng là mốc lịch sử quan
trọng trên con đường đổi mới toàn diện ở nước ta. Nghị quyết Đại hội VI đã
nhấn mạnh nhiệm vụ “Kiên quyết xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch
toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.”
Tháng 8/1987, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (Khóa VI) đã ban hành Nghị
quyết về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là thực hiện chế
độ tự chủ kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh và đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế. Tháng 11/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định
217/HĐBT (ngày 14/11/1987) quy định cụ thể chế độ tự chủ kinh doanh của
các xí nghiệp quốc doanh. Sau đó, các văn bản quy phạm pháp luật lần lượt
được ban hành nhằm đổi mới hoạt động của các xí nghiệp quốc doanh như
Nghị định số 50/HĐBT ngày 22/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về ban hành
17

Ngô Thị Khế, Bùi Thị Khuyên (1997), Luật Kinh tế, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr.43.

12


Điều lệ xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, Nghị định số 27/HĐBT ngày
22/03/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về ban hành Điều lệ Liên hiệp xí nghiệp
quốc doanh, Nghị định số 28/HĐBT ngày 22/03/1989 của Hội đồng Bộ
trưởng về ban hành Điều lệ xí nghiệp liên doanh18.

Đến Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đề ra nhiệm vụ tiếp tục xoá
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có
hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Xí nghiệp quốc doanh
được đổi tên thành Doanh nghiệp nhà nước, từ đây thuật ngữ “Doanh nghiệp
nhà nước” chính thức được sử dụng. Thời kỳ này, DNNN được tổ chức và
hoạt động theo các văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị định số 388/HĐBT
ngày 20/11/1994 của Hội đồng Bộ trưởng về ban hành quy chế về thành lập
và giải thể doanh nghiệp nhà nước; Quyết định số 90/TTg ngày 07/4/1994 của
Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục sắp xếp DNNN; Quyết định số 91/TTg
ngày 07/4/1994 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn
kinh doanh.
1.2.1.2

Giai đoạn từ 1995 đến 2003:

Để phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh trong nền kinh
tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các DNNN, tăng
cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thúc đẩy DNNN hoạt động có
hiệu quả và thực hiện đúng các mục tiêu do Nhà nước giao cho doanh nghiệp,
cần thiết phải có một văn bản luật chính thức quy định đối với loại hình
Doanh nghiệp nhà nước. Năm 1995, Luật DNNN được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 20/4/1995, Chủ tịch nước
công bố ngày 30/4/1995 và có hiệu lực từ ngày công bố. Đây là văn bản luật
đầu tiên điều chỉnh đối với loại hình doanh nghiệp này được ban hành.
Tiếp theo đó, các văn bản dưới luật lần lượt được ban hành hướng dẫn
thực hiện các quy định của Luật DNNN 1995 như: Nghị định số 50/CP ngày
28/8/1996 của Chính phủ về thành lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản DNNN;
Nghị định số 38/CP ngày 28/4/1997 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một
18


Võ Thành Vị (1998), Quản lý nhà nước đối với các thành phần kinh tế, NXB Thống kê Hà Nội, tr.12.

13


số điều của Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996 của Chính phủ về thành lập,
tổ chức lại, giải thể và phá sản DNNN; Nghị định số 59/CP ngày 03/10/1996
của Chính phủ về ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh
đối với DNNN... và các thông tư của các Bộ hướng dẫn thi hành các nghị
định trên.
1.2.1.3

Giai đoạn từ 2003 đến trước ngày 01/7/2010:

Năm 2003, tại Hội nghị Trung ương 3 (Khóa IX) đã thảo luận và ban
hành Nghị quyết về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
DNNN. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, ngày 26/11/2003, Quốc
hội khóa XI đã thông qua Luật DNNN 2003 nhằm quy định việc thành lập
mới, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu, tổ chức quản lý và hoạt động của
Công ty Nhà nước; điều chỉnh quan hệ giữa chủ sở hữu nhà nước với người
đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu
toàn bộ vốn điều lệ, doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà
nước. Căn cứ vào quy định của Luật này, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, điển hình là Nghị định số
180/2004/NĐ-CP ngày 28/10/2004 về thành lập mới, tổ chức lại và giải thể
công ty nhà nước.
Qua thời gian triển khai, bản thân từng luật riêng về doanh nghiệp cũng
đã bộc lộ hạn chế, gây ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, không đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế đất nước và hội

nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và một số Nghị
quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định chủ trương xây
dựng Luật thống nhất về doanh nghiệp. Kế thừa những quy định tiến bộ, tích
cực của Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
2003, khắc phục những tồn tại, hạn chế như tính thiếu nhất quán, phân biệt
đối xử, thiếu bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các hình
thức sở hữu. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua dự thảo Luật Doanh nghiệp
vào ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006. Đối tượng áp
dụng là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNNN.
Giai đoạn này cho thấy, Nhà nước không phân biệt thành phần kinh tế, loại
14


hình sở hữu, các doanh nghiệp hoạt động chịu sự điều chỉnh của một luật
chung và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường.
Một số văn bản hướng dẫn giai đoạn này gồm Nghị định số
132/2005/NĐCP ngày 20/10/2005 của Chính phủ về thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty nhà nước, Nghị định số
09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế
quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào
các doanh nghiệp khác, Nghị định số 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của
Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên.
1.2.1.4

Giai đoạn từ ngày 01/7/2010 đến 2014:

Kể từ ngày 01/7/2010, các công ty nhà nước hoạt động theo Luật
DNNN2003 đã phải chuyển đổi sang hoạt động theo LDN2005, không còn
chịu sự điều chỉnh của một văn bản luật riêng.

Đối với những công ty nhà nước đã chuyển đổi sang mô hình công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên thì công tác quản lý của chủ sở hữu nhà
nước được thực hiện theo quy định tại LDN2005 và Nghị định số
25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về chuyển đổi công ty nhà
nước thành công ty TNHH MTV và tổ chức quản lý công ty TNHH MTV do
Nhà nước làm chủ sở hữu, Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/12/2012
của Chính phủ về phân công, phân cấp thực hiện các quyền, trách nhiệm,
nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với và vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp, Quyết định số 35/2013/QĐ-TTg ngày 07/6/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành quy chế hoạt động của Kiểm soát viên Công ty TNHH
MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, Nghị định số 172/2013/NĐCP ngày 13/11/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức lại, giải thể Công ty
TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu và công ty TNHH MTV là công ty
con của công ty TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu, Nghị định số
19/2014/NĐ-CP ngày 14/3/2014 của Chính phủ về ban hành Điều lệ mẫu của
công ty TNHH MTV do Nhà nước làm chủ sở hữu, Nghị định số
49/2014/NĐ-CP ngày 20/5/2014 của Chính phủ về giám sát, kiểm tra, thanh
15


tra đối với DNNN trong việc chấp hành pháp luật và tuân theo quyết định của
chủ sở hữu.
1.2.1.5

Giai đoạn 2014 đến nay:

Gần 10 năm từ khi LDN2005 được ban hành, Luật DN hiện hành còn
nhiều điểm chưa hoàn thiện, đặc biệt là những quy định đối với DNNN. Cụ
thể là chưa quy định về mục đích hoạt động và giới hạn phạm vi ngành, nghề
kinh doanh của DNNN. Bên cạnh đó là chưa quy định cụ thể quyền và nghĩa
vụ của Chính phủ nói chung trong vai trò đại diện chủ sở hữu theo ủy quyền

của Quốc hội. Ngoài ra, luật hiện hành cũng chưa quy định về giám sát, đánh
giá trong hệ thống đại diện chủ sở hữu, đồng thời yêu cầu công khai hóa và
minh bạch hóa trong DNNN cũng chưa được quy định chặt chẽ… Ngày
26/11/2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua dự thảo LDN2014, bổ sung một
chương riêng về DNNN, cũng trong ngày 26/11/2014, Quốc hội cũng đã
thông qua Luật quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh tại doanh nghiệp (Luật QL, SD vốn 2014) để bảo đảm đồng bộ pháp
luật, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy vai trò nòng
cốt của thành phần kinh tế nhà nước mà trong đó DNNN là vai trò chủ đạo.
Một số nghị định hướng dẫn trong giai đoạn này được ban hành như
Nghị định số 115/2014/NĐ-CP ngày 03/12/2014 của Chính phủ quy định chế
độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm vụ
được giao của doanh nghiệp nhà nước, Nghị định số 128/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 của Chính phủ về bán, giao và chuyển giao doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước.
Các văn bản hướng dẫn thi hành LDN2014 vừa được ban hành chính
thức gồm Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ về
đăng ký doanh nghiệp; Nghị định số 81/2015/NĐ-CP ngày 18/9/2015 của
Chính phủ về công bố thông tin của Doanh nghiệp nhà nước; Nghị định số
87/2015/NĐ-CP ngày 06/10/2015 của Chính phủ về giám sát đấu tư vốn Nhà
nước vào doanh nghiệp, giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và
công khai thông tin tài chính của DNNN và doanh nghiệp có vốn nhà nước;
16


×