Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

ĐỀ TÀI VẬN DỤNG KỸ NĂNG SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.27 KB, 25 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC HUYỆN KRÔNG BŨK
TRƯỜNG THCS LÝ THƯỜNG KIỆT
********

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI:

VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TÍCH CỰC TRONG DẠY HỌC MÔN VẬT LÝ Ở
TRƯỜNG THCS HIỆN NAY

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ MAI

EaBLang, tháng 2 năm 2008


Tiểu luận Trết học

I.

II.

III.

Trang:

A. PHẦN MỞ ĐẦU

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau. Ứng với


mỗi giai đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế xã hội. Các
hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển do sự tác động của các
qui luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển. Xã hội
phát triển trước hết được đánh dấu bằng lực lượng sản xuất. Xã hội
này hơn xã hội khác được xác đònh bằng năng suất lao động. Điều đó
được quyết đònh ở bước tiến bộ về chất của lực lượng sản xuất. Do
vậy Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến đổi mới công cụ, phương
tiện nhằm tăng năng lực cho người lao động về sức khỏe, chuyên
môn, trí tuệ, tình cảm và thể lực. Nghò quyết lần thứ IV của Trung
ương Đảng khóa VIII đã đặt nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông thôn. Tuy vậy, ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thì việc phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đang là vấn đề hết sức khó khăn.
- Để góp phần mình trong việc đề xuất một số giải pháp phát triển lực
lượng sản xuất ở đòa phương. Tôi chọn đề tài này và coi đây là vấn
đề cấp bách hiện nay trong việc xây dựng nông thôn theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI.
- MỤC TIÊU: Từ thực tiễn về lực lượng sản xuất ở đòa phương và vận
dụng lý luận đã học để đề xuất các giải pháp phát triển lực lượng sản
xuất ở đòa phương của Huyện Krông Bũk-tỉnh Đăc Lắc.
- NHIỆM VỤ:+ Làm rõ vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến lực
lượng sản xuất.
+ Đưa ra các chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước về vấn đề
phát triển lực lượng sản xuất của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển lực lượng sản xuất ở đòa
phương trong những năm tới.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
- Vấn đề nghiên cứu: Các yếu tố của lực lượng sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

- Thời gian thực hiện đề tài: Từ ngày 16/ 11 / 2007 đến 14 / 12 / 2007.

Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
- Cơ sở lý luận và phương pháp luận: Chủ nghóa duy vật biện chứng và
Chủ nghóa duy vật lòch sử, phép biện chứng duy vật ; Tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước về lực lượng sản xuất.
- Phương pháp cụ thể: Nghiên cứu tài liệu, tham khảo, so sánh, phân
tích, tổng hợp và khái quát hóa.

Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I.


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
PHÁT TRIỂN LỰC LƯNG SẢN XUẤT

I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỰC LƯNG SẢN XUẤT.
1.- Cơ sở lý luận:
Lực lượng sản xuất là một nhân tố trong phương thức sản xuất, nó
luôn vận động có tính chất cách mạng. Lực lượng sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó
thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ
năng lao động nhất đònh và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người kết hợp
với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực
lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất
hàng đầu là người lao động. Chính người lao động là chủ thể của quá
trình lao động sản xuất. Bằng sức mạnh và kỹ năng lao động của
mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ
lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật
chất. Cùng với quá trình phát triển sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao
động, nhất là trí tuệ ngày càng được nâng cao. Ngày nay, với cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng
vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động là yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết đònh trong tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động là yếu tố đông nhất trong tư liệu sản xuất, nó
không ngừng được cải tiến và hoàn thiện trong quá trình lao động sản
xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động

đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến nay, đó là nguyên
nhân sâu xa của sự biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ
lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là
tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lòch sử.
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

Khi công cụ sản xuất thay đổi hoàn thiện và phát triển thì kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của người lao động cũng thay đổi, phát
triển hoàn thiện. Ngày nay khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp thì trình độ của những người lao động trong quá trình sản xuất
cũng mang tính khoa học. Nhưng những tư liệu sản xuất dù có vai trò
quan trọng đến đâu thì riêng bản thân chúng cũng không thể tạo ra
của cải vật chất cho xã hội, nếu tách khỏi vai trò của con người thì
tác dụng của chúng rất hạn chế. Chúng chỉ phát huy vai trò trọng yếu
của mình như những nhân tố hữu cơ của lực lượng sản của xã hội khi
được kết hợp với lao động sống. Như vậy người lao động là nhân tố
cơ bản của lực lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất chủ yếu đầu tiên
của xã hội, vì chính con người sáng chế ra công cụ lao động và sử
dụng công cụ sản xuất ấy tiến hành sản xuất tạo ra của cải vật chất
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội.
2.- Vai trò của khoa học-kỹ thuật đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất:
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai

trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất
và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa
học đã thâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp. Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất
phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bò mới,
công nghệ mới, nguyên vật liệu mới và năng lượng mới. Sự thâm
nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất đã làm cho lực lượng
sản xuất có bước nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Lênin từng chỉ ra rằng: Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân
loại là giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chính con người
trong quá trình sản xuất biết tận dụng và đúc kết kinh nghiệm sản
xuất luôn cải tiến hoàn thiện và phát triển công cụ sản xuất.Tư liệu
sản xuất nhằm phát huy và tăng cường sức mạnh của mình trong
chinh phục thiên. Sản xuất ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất
cho xã hội. Từ công cụ bằng đá, bằng đồng, bằng sắt con người tiến
lên chế tạo máy móc và đang tiến tới kỹ thuật mới và công nghệ mới
của cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật. Ngày nay con người đã
tiến những bước kỳ diệu trong việc chinh phục thiên nhiên, chinh
phục vũ trụ. Mỗi thời đại có những lực lượng sản xuất riêng của mình
với những đặc điểm nhất đònh; một đặc thù của lực lượng sản xuất
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:


trong thời đại chúng ta là khoa học đã biến thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Như chúng ta biết một số nước có nền khoa học và kỹ thuật
tiên tiến như: Mỹ, Nga, Nhật bản v v... nhờ vận dụng lực lượng sản
xuất phát triển mà các nước đó đã đạt tới đỉnh cao của công nghệ kỹ
thuật mà trực tiếp là phát triển của lực lượng sản xuất đến điểm cao.
Quan hệ sản xuất tuy phụ thuộc vào lực lượng sản xuất nhưng có tác
động trở lại quan trọng đối với sự vận động và phát triển của lực
lượng sản xuất. Nếu thích hợp với trình độ và tính chất của lực lượng
sản xuất thì quan hệ sản xuất tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất
phát triển; còn nếu không thích hợp và lạc hậu đối với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất thì sẽ trở thành lực cản lớn đối với lực
lượng sản xuất và đối với sự phát triển của xã hội. Như vậy quan hệ
sản xuất thích hợp với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất là
một động lực trọng yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất và của
toàn xã hội.
Các Mác viết: “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng
các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những
quan hệ sản xuất hiện có, mâu thuẫn với quan hệ sở hữu trong đó từ
trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển từ chỗ là những
hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất. Những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất, khi đó, bắt đầu thời
đại của cách mạng xã hội. Cơ sở kỹ thuật đã thay đổi thì tất cả các
thượng tầng đồ sộ cũng bò đảo lộn ít nhiều nhanh chóng phát triển.”
Còn đối với đất nước ta: muốn xây dựng thành công Chủ nghóa xã hội
phải biết vận dụng đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghóa xã hội, có những lúc chúng ta cũng chưa vận dụng đúng
quy luật này. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chủ
trương đổi mới để khắc phục những sai lầm đã mắc phải trong cải tạo
xã hội và quản lý kinh tế chính là để có được những quan hệ sản xuất

phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong quá
trình tiến lên Chủ nghóa xã hội chúng ta phải biết tìm ra những hình
thức trung gian quá độ về quan hệ sản xuất để nó phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Cho nên Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng đònh
lại vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa đất nước, nhất là Nghò quyết Trung Ương IV và Trung
Ương VI khóa VIII đã chú trọng phân tích và chỉ ra yếu tố quan trọng
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

nhất trong việc phát triển xã hội. Đó là phát triển lực lượng sản xuất
trong một đất nước như đất nước ta chủ yếu là nông nghiệp thì việc
phát triển lực lượng sản xuất rất quan trọng và lâu dài khẳng đònh vai
trò trong công cuộc xây dựng đất nước.
3. -Phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất ( sản xuất và tái sản xuất xã hội ). Quan hệ sản xuất
gồm ba mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm
sản xuất ra. Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong
quá trình sản xuất. Giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất chặt
chẽ với nhau. Trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan
hêï xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong
từng xã hội. Nó quyết đònh quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan

hệ phân phối sản phẩm. Trong lòch sử có hai loại hình sở hữu cơ bản
về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư
nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào
trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu
sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trò và
bò trò, bóc lột và bò bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà
trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng.
Do đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá
trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó do
quan hệ sở hữu quy đònh và phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy
nhiên, có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với
quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý chi phối,
song nó tác động trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động
đến thái độ của con người trong lao động sản xuất và do đó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời
nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong từng giai đoạn lòch sử
nhất đònh tạo thành các phương thức sản xuất nhất đònh. Trong hai
mặt đó, lực lượng sản xuất là nội dung, thường xuyên biến đổi, phát
triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học


Trang:

đònh. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa hai mặt
đo ùtạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất- quy luật cơ bản nhất của sự vận
động, phát triển xã hội.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất bắt nguồn từ đòi hỏi khách
quan của sự phát triển xã hội là phải không ngừng phát triển sản
xuất, nâng cao năng suất lao động. Để thực hiện điều đó, con người
không ngừng cải tiến và đổi mới công cụ lao động; đồng thời với quá
trình đó là trình độ của người lao động cũng không ngừng được nâng
cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu, và do đó lực lượng
sản xuất không ngừng phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình
độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện
ở trình độ công cụ lao động, trình độ người lao động, trình độ tổ chức
và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản
xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lòch sử là thể
hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lòch
sử đó.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của
lực lượng sản xuất. Trong lòch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát
triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội. Khi sản xuất
dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động xã hội kém phát triển
thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt
tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Tính xã hội ở trình độ cao là
có tính quốc tế.
Sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất quyết đònh quan

hệ sản xuất, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Khi một
phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng
thái mà trong đó, quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản
xuất đều tạo đòa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều
đó có nghóa là quan hệ sản xuất tạo điều kiện sử dụng và kết hợp
một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất, và do đó lực
lượng sản xuất có điều kiện phát triển hết khả năng của nó.
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ
nhất đònh lại làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành
không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan
hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Các
Mác viết: “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản
xuất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản

xuất đó, mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến
nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những
xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một
cuộc cách mạng xã hội.
Lực lượng sản xuất quyết đònh quan hệ sản xuất, nhưng quan
hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy đònh mục đích của
sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất,
đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng
khoa học và công nghệ vv... và do đó, tác động đến sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, hoặc “ tiên tiến”
hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản
xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật
chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, việc giải quyết
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải
đơn giản. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội
của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai
cấp, thông qua cách mạng xã hội.
4. - Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội trong quá trình
lòch sử tự nhiên:
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng



Tiểu luận Trết học

Trang:

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất vật chất – là quan hệ cơ bản chi phối và quyết đònh
mọi quan hệ xã hội. Nó là bộ xương của hình thái kinh tế xã hội, là
tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái hinh tế xã hội này với
hình thái kinh tế xã hội khác.
Quan hệ xã hội được hình thành một cách khách quan trong
quá trình sản xuất vật chất xã hội, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người, mà chỉ phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Điều đó khẳng đònh rằng con người
không thể tùy tiện lựa chọn hay xóa bỏ một kiểu quan hệ nào đó, nó
hoàn toàn được quy đònh bởi tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất
và vì vậy lực lượng quyết đònh cả sự vận động, phát triển của hình
thái kinh tế xã hội.
Bộ phận thứ ba trong một hình thái kinh tế xã hội là kiến trúc
thượng tầng tương ứng, nghóa là kiểu kiến trúc thượng tầng do cơ sở
hạ tầng sinh ra. Đây là cái thứ sinh, cái phản ánh làm cho xã hội
được hiểu như một chỉnh thể, một chỉnh thể thống nhất, biện chứng
giữa cái khách quan và cái chủ quan của xã hội.
Trong cơ cấu và sự tác động của các yếu tố của hình thái kinh
tế xã hội còn có quan hệ giai cấp ( trong xã hội có giai cấp ), quan hệ
dân tộc, quan hệ gia đình... được hình thành và chòu sự tác động của
các yếu tố ta phân tích ở trên. Nghiên cứu lý thuyết hình thái kinh tế
xã hội của Mác cần chú ý một điều hết sức quan trọng là các yếu tố
hợp thành hình thái kinh tế xã hội có mối quan hệ và tác động lẫn
nhau theo các quy luật khách quan vốn có của nó. Trước hết và cơ

bản là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản, quy luật cơ sở hạ tầng quyết đònh kiến trúc thượng
tầng, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có đấu tranh giai cấp
đối kháng với quy luật kinh tế-xã hội khác.
Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với
mỗi giai đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế xã hội. Các
hình thái kinh tế xã hội vận động, phát triển do sự tác động của các
quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên của sự phát triển. Mác
viết: “ Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là quá
trình phát triển lòch sử - tự nhiên.”
Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lòch
sử tự nhiên được hiểu theo hai khía cạnh sau:
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

Thứ nhất: với sự phát hiện ra một điều đơn giản và dễ hiểu là:
con người muốn sống, trước hết phải ăn, ơ,û mặc rồi mới nói đến làm
chính trò, khoa học ... mà muốn có cái để ăn, ở, mặc... thì con người
phải tiến hành sản xuất vật chất ( đó là điều cơ bản để phân biệt con
người với các sinh vật khác). Từ phát hiện đó, Mác khẳng đònh rằng:
sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội; lòch sử phát
triển của xã hội loài người thực chất là lòch sử phát triển của sản xuất
vật chất, sự biến đổi và tiến bộ không ngừng của các lực lượng sản
xuất, và do đó kéo theo sự thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản

xuất, các phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất thay đổi kéo
theo toàn bộ trật tự xã hội thay đổi, tức là sự thay thế của các hình
thái kinh tế xã hội. Theo quy luật hình thái xã hội sau cao hơn, tiến
bộ hơn thay thế hình thái xã hội trước. Nói cách khác, sự thay thế của
các hình thái kinh tế xã hội trong lòch sử là một quá trình phát triển từ
thấp đến cao theo quy luật khách quan, không phụ thuộc ý muốn chủ
quan của con người. Đó là một quá trình tiến hóa bao hàm những
bước nhảy vọt tạo lên sự tiến bộ của lòch sử loài người.
Thứ hai: Sự phát triển của xã hội, sự thay thế nhau của các
hình thái kinh tế xã hội tuân theo những quy luật khách quan vốn có
của nó. Động lực phát triển của xã hội nằm ngay trong lòng xã hội.
Đó là sự vận động của các mâu thuẫn xã hội mà trước hết là mâu
thuẫn giữa các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn
giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mâu thuẫn giữa giai cấp
( trong xã hội có giai cấp ) ...
Tóm lại, nếu đem các quan hệ xã hội vào các quan hệ sản
xuất, rồi đem quy luật quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất chúng ta sẽ thấy được quá trình lòch sử tự nhiên
của sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội.
Lý thuyết hình thái kinh tế – xã hội của Mác vạch ra cấu trúc
và các quy luật chung nhất trong sự vận động của xã hội. Song, khi
vận dụng nó vào trường hợp cụ thể từng quốc gia, từng dân tộc phải
tính đến sự tác động phức tạp của hoàn cảnh lòch sử cụ thể từ tổng
hợp nhiều yếu tố.
Lòch sử phát triển của xã hội loài người nói chung phải trải qua
các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao, song lòch sử nhân loại
cũng không loại trừ sự phát triển đặc thù của các quốc gia, dân tộc
trong hoàn cảnh nhất đònh, có thể bỏ qua hình thái kinh tế xã hội này,
nhảy vọt lên hình thái kinh tế – xã hội cao hơn nghóa là việc bỏ qua
Nguyễn Văn Thức


Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

một hình thái kinh tế – xã hội trong lòch sử của nhiều dân tộc là một
khả năng thực tế được tạo lên do chính các quy luật chung nhất của
vận động lòch sử mà lý luận hình thái kinh tế xã hội của Mác đã vạch
ra. Đây chính là biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái khách
quan và cái chủ quan trong sự vận động xã hội.

CHƯƠNG II
PHÉP BIỆN CHỨNG BIỂU HIỆN TRONG LỰC
LƯNG SẢN XUẤT CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY
I. ĐIỀU KIỆN MỘT NƯỚC CHẬM PHÁT TRIỂN VỀ KINH TẾ

BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI NGÀY
NAY.
1. Điều kiện khách quan ( tiền đề kinh tế ): đó chính là yếu tố thời
đại. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đã quốc tế hóa lực lượng sản xuất. Vì thế, ở đây đã chứa đựng dưới
một hình thức ít nhiều phát triển theo cách phân tích của Ăngghen –
những phương tiện để xóa bỏ Chủ nghóa tư bản. Và do đó, có thể
thông qua con đường giao lưu và hợp tác đa phương hóa, đa dạng
hóa, để các nước chậm phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng
có thể đi vào con đường phát triển rút gắn ngay cả khi Chủ nghóa tư

bản chưa bò đánh bại tại quê hương của nó.
- Do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất, tính chất quốc tế
hóa của lực lượng sản xuất đã tạo lên một xu thế mới trong quan hệ
giữa các quốc gia, dân tộc làm thức tỉnh các dân tộc có thể đi vào con
đường phát triển phi Tư bản chủ nghóa.
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất trong các nước Tư bản
chủ nghóa do cách mạng khoa học và công nghệ đưa lại, cũng mở ra
nhiều yếu tố tăng trưởng kinh tế – là thành tựu chung của nhân loại
mà các nước xã hội chủ nghóa có thể sử dụng như những bước trung
gian, quá độ về kinh tế đi lên Chủ nghóa xã hội.
2. Điều kiện chính trò:
- Có Đảng của giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và
trở thành Đảng cầm quyền.
- Xây dựng và thực hiện được một nhà nước kiểu mới: của dân,
do dân và vì dân.
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

- Có một hệ thống chính trò đủ mạnh để đưa nền kinh tế đất nước
theo đònh hướng Xã hội chủ nghóa.
Trong thời đại ngày nay, nhân tố kinh tế – sự phát triển cao
của lực lượng sản xuất suy cho cùng là nhân tố quyết đònh thắng lợi
của Chủ nghóa xã hội. Song nhân tố chính trò xét về mặt chủ thể của
lòch sử lại trở thành nhân tố quyết đònh trong bước đường phát triển

của dân tộc. Đó là nhân tố chủ quan, song phải được khách quan hóa,
nghóa là:
- Đảng và nhà nước phải nhận thức và vận động đúng các quy luật
khách quan của lòch sử, mà trước hết là quy luật kinh tế.
- Đảng và nhà nước không chỉ cần có trí tuệ mà còn phải trong sạch,
phải kiên đònh đònh hướng Xã hội chủ nghóa.
- Đảng và nhà nước phải lấy chính sách, pháp luật để tập hợp, phát
huy mọi tiềm năng trong nhân dân theo đường lối phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần.
- Đảng và nước ta phải có chính sách đối ngoại đúng đắn để thu hút
vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ của khu vực và thế giới.
- Đảng và nhà nước phải tạo ra và sử dụng sức mạnh tổng hợp trong
nước và thế giới để nước ta bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghóa đi lên
Chủ nghóa xã hội.
Nước ta quá độ lên Chủ nghóa xã hội mang theo những đặc điểm cơ
bản sau:
Một là chưa trải qua chế độ Tư bản chủ nghóa, nghóa là chưa có nền
công nghiệp hiện đại, tức là chưa có tiền đề vật chất của Chủ nghóa xã
hội. Trình độ của lực lượng sản xuất thấp, không đều.
Hai là, năng lực tổ chức quản lý kinh tế, quản lý xã hội thấp, chưa có
phong cách tổ chức quản lý công nghiệp.
Ba là, trình độ dân trí, dân chủ thấp, ý thức pháp luật còn kém, do
chưa có tiền đề kinh tế xã hội tạo ra nó.
Như vậy, các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế – xã hội như lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng đều ở trình độ
thấp, quá độ lên Chủ nghóa xã hội, Chủ nghóa cộng sản còn nhiều yếu tố
bất cập, một sự bất cập đồng bộ. Tuy nhiên sự bất cập này không phải là
không vượt qua được. Để vượt qua khó khăn đó, phải khắc phục được
quan niệm cũ về bỏ qua Tư bản chủ nghóa một cách đơn giản. Đảng đã
chỉ rõ con đường đi lên Chủ nghóa xã hội của nước ta là con đường phát

triển hợp quy luật. Quá độ lên Chủ nghóa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghóa, tức là bỏ qua việc xác lập vò trí thống trò của quan hệ sản xuất
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

và kiến trúc thượng tầng Tư bản chủ nghóa, nhưng tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ Tư bản, đặc biệt
là về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đồng thời chúng ta xác đònh rõ ràng là
cần phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp
với sự phát triển theo đònh hướng Xã hội chủ nghóa; chống tư tưởng duy
lực lượng sản xuất, chủ nghóa kỹ trò.
Xây dựng Chủ nghóa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghóa, tạo ra
sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lónh vực là một sự nghiệp
rất khó khăn, phức tạp, có sự đan xen và đấu tranh quyết liệt giữa cái
mới và cái cũ, giữa chủ nghóa xã hội và không chủ nghóa xã hội, phải sử
dụng một số hình thức không gian, cho nên tất yếu phải trải qua một thời
kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội có tính chất quá độ . Ví dụ chúng ta phải chấp nhận còn nhiều
hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, nhiều giai
cấp, tầng lớp xã hội khác nhau.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã phân tích đặc
điểm thời đại, tình hình kinh tế xã hội của đất nước đã đưa ra quyết đònh
đổi mới, mà trước hết là đổi mới tư duy. Từ đổi mới tư duy chuyển sang

đổi mới tư duy kinh tế. Từ đổi mới tư duy kinh tế chuyển sang đổi mới
cơ cấu kinh tế. Từ đổi mới cơ cấu kinh tế chuyển sang đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế. Từ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế chuyển sang đổi mới
phương thức phân phối, điều mà đã có tác dụng kích thích sản xuất, kích
thích người lao dộng ứng dụng khoa học, công nghệ để tạo ra nhiều sản
phẩm có chất lượng cao.
Cùng với đổi mới những yếu tố cơ bản của quan hệ sản xuất, chúng
ta còn đổi mới tư duy về công nghiệp hóa, đồng thời chuyển từ cơ chế
đóng kín với cơ chêù bên ngoài sang cơ chế mới để Việt Nam hội nhập
với quốc tế, kết quả của sự chuyển đổi này nhằm khơi dậy tối đa nguồn
nội lực và ngoại lực cho sự phát triển của đất nước.
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với việc sử dụng
những thành phần kinh tế trung gian quá độ ở Việt Nam mà đại hội VI
đã vạch ra là đúng đắn. Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng đã phát triển
và cụ thể hóa chủ trương đó. Từ chủ trương đúng đến việc đưa chủ
trương vào cuộc sống là một khoảng cách. Độ dài ngắn của khoảng cách
phụ thuộc rất lớn vào nhân tố chủ quan, trước hết là phụ thuộc vào vai
trò lãnh đạo của Đảng, vào năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức, quản lý
kinh tế – xã hội của Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam. Đây là nhân
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

tố có ý nghóa quyết đònh sự thành công của sự nghiệp phát triển đất nước
theo đònh hướng Xã hội chủ nghóa ở Việt Nam trước vô vàn thử thách, cả

trong nước cũng như trên thế giới.
Nước ta lựa chọn con đường Xã hội chủ nghóa bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghóa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức
sản xuất xã hội chủ nghóa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn,
phức tạp. Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bò kìm hãm
không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu mà cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố đi quá xa so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức
kinh tế trung gian, quá độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô
lớn. Để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghóa, chúng ta chủ
trương xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế
thò trường có sự quản lý của nhà nước nhằm phát huy mọi tiềm năng của
các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất để xây
dựng cơ sở kinh tế của chủ nghóa xã hội. Từng bước xã hội hóa xã hội
chủ nghóa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép mà được
thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như công
ty cổ phần, chủ nghóa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã... để dần
dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vò kinh tế
quốc doanh và tập thể là nòng cốt. Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã
hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới thay thế và không đem lại
hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn; chúng ta chủ trương thực hiện sự
chuyển hóa cái cũ thành cái mới theo đònh hướng xã hội chủ nghóa.
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
LỰC LƯNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nêu ra mục tiêu
của thời kỳ công hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta trở thành một
nước công nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng

sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng cao, quốc phòng
an ninh vững chắc , vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản để trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ
đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện
trong cả nước, năng xuất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh
doanh cao hơn nhiều so với hiện nay.
Về quan hệ sản xuất: Chế độ sở hữu cơ chế quản lý và chế độ phân
phối gắn liền với nhau, phát huy được nguồn lực, tạo ra nguồn lực mạnh
mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Kinh tế
nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã trở
thành nền tảng trong nền kinh tế. Nền kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư
bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các
hình thức khác nhau tồn tại phổ biến.
Về đời sống vật chất, văn hóa: Nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà
ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, khám chữa
bệnh, có mức hưởng rhụ văn hóa khá, quan hệ xã hội lành mạnh, lối
sống văn minh gia đình hạnh phúc. Phát triển nông nghiệp toàn diện
hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi lónh vực, tình

huống, tăng nhanh nguồn lương thực thực phẩm và rau quả, cải thiện
chất lượng cuộc sống, giảm suy dinh dưỡng. Miễn dòch cơ cấu nông
nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả, mở rộng diện tích trồng cây
công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển
kinh tế thôn buôn, kinh tế rừng, tăng nhanh sản lượng hàng hóa gắn với
công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra những chính sách lớn,
trong đó có chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đẩy nhanh quá trình chuyển dòch cơ cấu kinh tế gắn với phân công
lao động ở nông thôn.
Thực hiện tốt các chủ trương về phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và
một số chủ trương mới như đẩy nhanh chương trình thoát lũ, đẩy mạnh
công nghệ sinh học, ưu tiên phát triển cây trồng, vật nuôi có quy mô
xuất khẩu...
Thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông
nghiệp hàng hóa và chuyển dòch cơ cấu kinh tế nông thôn tạo việc làm
và thu nhập cho nông dân nghèo. Cụ thể, khẩn trương hoàn thành việc
giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông dân, khắc
phục tình trạng ruộng đất quá phân tán và manh mún.
Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đặc
biệt là một số khu quy mô nhỏ các trung tâm kinh tế xã hội ở các vùng
nông thôn, xây dựng các khu công nghiệp chế biến.
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học


Trang:

Tăng nhanh trang thiết bò kỹ thuật nông nghiệp vaò nông thôn, nhà
nước hỗ trợ tạo điều kiện để đẩy mạnh sản xuất và sử dụng sản phẩm cơ
khí phục vụ nông nghiệp, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, bao gồm cả
bồi dưỡng kỹ năng lao động. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước
ta con nhiều khó khăn thử thách, bên cạnh những mặt yếu kém vốn có
của nền kinh tế, còn thêm hậu quả của thiên tai hạn hán, bão lụt xảy ra
ở một số vùng gây những ảnh hưởng không nhỏ cho đời sống nhân dân.
Mặc dù vậy Đảng và nhà nước ta đã lãnh đạo đất nước để phấn đấu đưa
nước ta ra khỏi tình trạng chậm phát triển, phấn đấu đạt tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đời sống nhân dân được nâng cao và cải thiện rõ dệt.
Trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ X đã nêu rõ: đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; phát triển mạnh các ngành kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá
trò gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và
nông dân. Về chủ trương: Nghò quyết có nêu, chuyển dòch mạnh cơ cấu
nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trò gia tăng ngày
càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thò trường, thực hiện cơ khí
hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa. Đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh,
tạo điều kiện để hình thành nền công nghiệp sạch, đẩy mạnh phát triển
công nghiệp và ngành nghề, dòch vụ ở nông thôn, xây dựng nông thôn
mới theo hướng dân chủ, công bằng, nếp sống có văn hóa, có các tiện
ích cần thiết.
Các nhiệm vụ và giải pháp:
Một là, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dòch cơ cấu nông nghiệp và
kinh tế nông thôn. Tạo điều kiện để nông dân chuyển mạnh sang sản

xuất các loại sản phẩm có thò trường và hiệu quả kinh tế cao. Phát triển
chăn nuôi với tốc độ tăng trưởng cao, nâng tỷ trọng ngành này trong giá
trò sản xuất nông nghiệp. Quy hoạch xây dựng các vùng sản xuất hàng
hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, chế biến.
Tiếp tục chương trình bảo vệ và phát triển rừng, đổi mới chính sách giao
đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn đònh
và được cải thiện. Nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu
gỗ cho chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Hai là, chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong khâu giống, kỹ thuật canh tác và
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch, gắn với hệ thống khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y, bảo vệ thực vật.
Ba là,tiến hành quy hoạch phát triển nông thôn trong tổng thể quy
hoạch chung của từng vùng, từng đòa bàn. Hình thành các khu dân cư đo
thò hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội ở nông thôn như hệ thống
thủy lợi, giao thông, các khu, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế,
chợ, bưu chính –viễn thông, điện, nước sạch. Chú trọng giải quyết việc
làm, đào tạo nghề cho nông dân, đặc biệt các vùng sử dụng đất nông
nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, phát triển hạ tầng giao
thông, xây dựng các khu đô thò mới. Tạo điều kiện cho lao động nông
thôn có việc làm tại chỗ và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ra nước

ngoài.
Bốn là, tiếp tục đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói, giảm
nghèo, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo.
Nhận thức chủ trương của Đảng và nhà nước về việc phát triển lực
lượng sản xuất; các cấp ủy Đảng và chính quyền đòa phương cần chỉ đạo
cho các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là hội nông dân, hội phụ nữ thường
xuyên tổ chức các cuộc tập huấn công tác gia đình, thông qua các cuộc
hội thảo nhằm làm cho quần chúng nhân dân lao động trong đòa phương
nắm bắt kòp thời khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, nêu
gương những điển hình tiên tiến làm kinh tế giỏi, phát huy những sáng
kiến hay trong lao động sản xuất, thành lập các chi hội làm vườn để
tương trợ lẫn nhau làm kinh tế. Hiện nay các đòa phương trên đòa bàn
tỉnh Đăc lăc nói chung và Huyện Krông bũk nói riêng có diện tích đất
trồng lúa rất ít, chủ yếu là đất trồng cà phê cho nên công tác tổ chức các
cuộc hội thảo phổ biến kinh nghiệm cho bà con về kỹ thuật chăm sóc
cây cà phê, thu hái và chế biến sản phẩm là rất cần thiết. Những đòa
phương có tiềm năng về chăn nuôi gia súc, gia cầm thì chính quyền đòa
phương khuyến khích cho vay vốn với lãi suất thấp để phát triển ao cá,
chăn nuôi gia súc, gia cầm... Phát triển nhanh hệ thống thủy lợi ở các
vùng có lúa nước, khơi thông các hồ đập để dự trữ nước cho mùa khô
phục vụ tưới cà phê. Với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm,
chính quyền đòa phương vận động nhân dân tham gia đóng góp công sức
và tiền của để sửa chữa,ø nâng cấp và mở thêm các tuyến đường giao
thông liên thôn, liên xã phục vụ cho việc đi lại học tập và lao dộng sản
xuất cho nhân dân. Bên cạnh đó chính quyềnù đòa phương còn cử con em
đi học các lớp đào tạo về khoa học kỹ thuật để sau này về phục vụ tại
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng



Tiểu luận Trết học

Trang:

đòa phương, thành lập đội ngũ những người tình nguyện gồm cán bộ kỹ
thuật, sinh viên tốt nghiệp đại học và những nông dân giỏi, những doanh
nghiệp trẻ thành đạt xuống các thôn buôn hướng dẫn, phổ biến kỹ thuật
giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh doanh.
III. CÁC BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN LỰC LƯNG SẢN XUẤT Ở
ĐỊA PHƯƠNG.
1. Sử dụng vốn vay đầu tư và nội lực của nhân dân trong việc cải tiến
các công cụ sản xuất và phương tiện sản xuất.
Phát huy tiềm năng của từng hộ gia đình để phát triển sản xuất,
những gia đình có mức thu nhập cao và khá thì khuyến khích động
viên họ làm giàu, tổ chức cho các hộ gia đình tham quan học tập và
giúp đỡ nhau cùng làm ăn tương trợ lẫn nhau, hỗ trợ vốn để mua sắm
trang thiết bò máy móc, vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu.
Chính quyền đòa phương bằng mọi cách tạo điều kiện cho nhân
dân vay vốn như q tín dụng, ngân hàng nhà nước và các tổ chức
kinh tế khác để bà con mua sắm máy móc, đầu tư phát triển kinh tế.
Tạo điều kiện khuyến khích nhân dân mạnh dạn đầu tư vào
các ngành nghề truyền thống ở đòa phương. Có chính sách thu hút
vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp trên đòa bàn nhằm
giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân đòa phương.
2. Từng bước ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất.
Do trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại, nên các cấp
ủy Đảng và chính quyền đòa phương cần có kế hoạch thường xuyên
cử cán bộ hội nông dân và các hộ sản xuất giỏi đi tham quan học tập

và cử đi học nâng cao nghiệp vụ. Hiện nay nước ta đang chuyển dòch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khoa học
kỹ thuật và công nghệ đã trở thành động lực của thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Do vậy thì người lao động cần phải có một kiến
thức, trình độ nhất đònh để tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ
thuật mới áp dụng vào sản xuất, chẳng hạn như những chương trình
khuyến nông càng cần được quan tâm, tổ chức các cuộc hội thảo đầu
bờ, tổ chức hội chợ thương mại trưng bày giới thiệu sản phẩm cho
người lao động, tổ chức nhiều đoàn đi tham quan học tập các mô hình
sản xuất mới làm ăn có hiệu quả. Cử các cán bộ có trình độ năng lực
về khoa học kỹ thuật xuống tận thôn buôn để hướng dẫn nhân dân
chuyển dòch cơ cấu cây trồng vật nuôi có hiệu quả. Với phương châm
của Đảng và nhà nước ta là: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài, vì vậy các cấp ủy đảng và chính quyền đòa phương
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

cần nhận thức rõ về việc đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho người lao động để đáp ứng kòp thời với giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Nông nghiệp, nông thôn là lónh vực cực kỳ quan trọng trong cả
nước, trước mắt và lâu dài vì lao động tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, phải coi trọng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
phát triển và xây dựng nông thôn. Vì vậy cần phải nâng cao hơn nữa

vai trò lãnh đạo của Đảng và chính quyền trong việc phát triển lực
lượng sản xuất, đẩy mạnh và hình thành các vùng sản xuất tập trung
như rau hoa quả, lúa nước chất lượng cao, tập trung đầu tư cho vùng
chuyên canh cà phê để có hiệu quả và năng suất cao. Chăm lo đầu tư
nhiều hơn nữa để phát triển lực lượng sản xuất, từng bước thay thế
những phương tiện máy móc cũ kỹ lạc hậu bằng máy móc hiện đại
để mang lại hiệu quả năng suất lao động nhằm phát triển kinh tế.
Làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt chính sách dân
tộc. Các cấp ủy Đảng và chính quyền đòa phương cần quan tâm xây
dựng các công trình đòa phương như đường, điện, trường, trạm nhằm
nâng cao đời sống văn hóa xã hội cho nhân dân.

C.KẾT LUẬN.

Quá độ lên chủ nghóa xã hội, không qua giai đọan phát triển Tư bản chủ nghóa,
hiện nay đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức. Để thực hiện chủ trương đó chúng ta cần chú trọng
phát triển lực lượng sản xuất, vì lực lượng sản xuất là nhân tố quyết đònh trực tiếp
quan hệ sản xuất , kiến trúc thượng tầng của hình thái kinh tế xã hội. Ngày nay
khoa học kỹ thuật đã thâm nhập vào sản xuất làm cho nó trở thành lực lượng sản

Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:


xuất trực tiếp tạo ra năng suất lao động lớn hơn nhiều, thúc đẩy các quá trình kinh
tế xã hội phát triển.
Từ thực trạng lực lượng sản xuất ở đòa phương hiện nay có thể
thấy rằng, việc phát triển lực lượng sản xuất đã đạt được kết quả nhất
đònh, tạo sự chuyển biến trong việc thay đổi dần các công cụ sản xuất,
phương tiện sản xuất thô sơ, lạc hậu sang sử dụng công cụ sản xuất và
phương tiện sản xuất mới hiện đại. Tuy vậy, ở một số đòa phương việc
thay thế công cụ sản xuất và phương tiện sản xuất còn nhiều hạn chế,
việc phân cấp đất đai để có chế độ cho nó cũng chưa thực hiện tốt, trình
độ lao động, kinh nghiệm lao động của nông dân còn thấp, quản lý còn
yếu.
Để phát triển lực lượng sản xuất ở đòa phương theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, với sự hiểu biết của bản thân tôi xin đưa ra
một số kiến nghò sau:
Thứ nhất, trên cơ sở thực trạng về lực lượng sản xuất của đòa phương
hiện nay, trước hết chính quyền đòa phương cần phải kiểm tra lại quỹ
đất, phân vùng, phân cấp đất đai để có một cơ cấu cây trồng phù hợp,
kiểm tra xem xét việc sử dụng đất đai, từ đó có biện pháp chỉ đạo, đònh
hướng cho bà con nông dân phát triển mô hình kinh tế vườn, ao, chuồng.
Thứ hai, phải có những biện pháp sử dụng những nguồn vốn cho vay,
đầu tư có hiệu quả, động viên khuyến khích nông dân đầu tư mua sắm
máy móc, trang thiết bò, phương tiện sản xuất, kinh doanh những ngành
nghề theo quy đònh của Đảng và nhà nước, đặc biệt chú trọng vùng đồng
bào dân tộc thiểu số sinh sống.
Thứ ba, phải có sự quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ, không chỉ cán
bộ quản lý mà cả cán bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ dân trí,
nghiệp vụ cho người lao động, áp dụng nhanh những tiến bộ khoa học
vào sản xuất, giảm dần sự phân hóa giàu nghèo, quan tâm phát triển lực
lượng sản xuất ở vùng đồng bào dân tộc.
Tóm lại: Để phát triển lực lượng sản xuất hiện nay ở đòa phương nước

ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
chúng ta cần phải tiếp tục xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất tiến bộ
theo hướng xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đònh hướng
xã hội chủ nghóa, để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
hiện có ở các đòa phương nước ta hiện nay.

Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
- Các Mác: Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trò.
Mác – Ăngghen: Tuyển tập-tập 2
NXB sự thật Hà Nội 1981 trang 637-638.
- Lênin toàn tập.

Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:


- Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X.

- Các nghò quyết Trung ương VI, VII khóa 8.
- Bài giảng triết học. ( Thầy giáo: TS – Nguyễn Văn Tuyên.)
Khoa Mác Lênin- Trường Đại học Tây Nguyên.

LỜI CAM ĐOAN
Đây là đề tài của riêng em, trên cơ sở được học tập dưới sự hướng
dẫn của Thầy giáo: Tiến só – Nguyễn Văn Tuyên. Khoa Mác LêninTrường Đại học Tây Nguyên, sự tìm tòi tham khảo tài liệu, trong các bài
giảng của Thầy, các nghò quyết của Đảng trong văn kiện đại hội Đảng toàn
quốc các khóa VI, VII, VIII, IX, X. Với thời gian có hạn và sự hiểu biết của
bản thân còn hạn chế, cho nên nội dung và yêu cầu của đề tài còn nhiều

Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

thiếu xót. Kính mong quý Thầy góp ý và giúp đỡ để em khắc phục và cố
gắng học tập tốt hơn.

PHẦN PHỤ LỤC
Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU.


1

I. Tính cấp thiết của đè tài
II. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
III. Phạm vi nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.

2

IV. PHẦN NỘI DUNG.
Nguyễn Văn Thức

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


Tiểu luận Trết học

Trang:

CHƯƠNG I.
I. Cơ sở lý luận về lực lượng sản xuất.
1. Cở sở lý luận.
2.Vai trò của khoa học-kỹ thuật đối với
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
3. Phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
4. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội
trong quá trình lòch sử tự nhiên

CHƯƠNG II.


6
9
11

PHÉP BIỆN CHỨNG BIỂU HIỆN TRONG LỰC LƯNG
SẢN XUẤT CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY.
I. Điều kiện một nước chậm phát triển về kinh tế
Bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghóa đi lên chủ nghóa xã hội ở
Việt Nam trong thời đại ngày nay.
1. Điều kiện khách quan
2. Điều kiện chính trò.
3. Đặc điểm cơ bản của nước ta khi quá độ lên chủ nghóa xã hội
II. Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển
lực lượng sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
III. Các biện pháp phát triển lực lượng sản xuất ở đòa phương.

C. KẾT LUẬN.
D. TÀI LỆU THAM KHẢO.
E. LỜI CAM ĐOAN.

Nguyễn Văn Thức

3
4

12

12
14
18

20
22
23

Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng


×