Tải bản đầy đủ (.docx) (143 trang)

Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá 1986 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 143 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin trân trọng cám ơn các thầy cô giáo trong khoa
Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã dìu dắt, dạy dỗ và truyền dạy những
kiến thức khoa học cho chúng em trong những năm học qua.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS. TS
Nguyễn Văn Am, người thầy đã cống hiến hết mình vì sự nghiệp giáo dục, tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn, giúp đỡ và truyền đạt cho em những kinh nghiệm khoa học quý
báu giúp em hoàn thành Luận văn đúng thời hạn.
Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Thanh
Hoá, Cán bộ Hội Nông dân Thanh Hoá... đã nhiệt tình giúp đỡ em trong công tác
điều tra, khảo sát, thống kê. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Thư viện
tỉnh Thanh Hoá, Phòng tư liệu khoa Lịch sử, Thư viện Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội, Thư viện Quốc gia Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để em thực
hiện Luận văn.
Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, người
thân, bạn bè đã chia sẻ, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để em hoàn
thành Luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Học viên
Nguyễn Thị Tâm

1


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Số thứ tự
1
2
3
4


5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

Chữ viết tắt
ATGT
BCH
BHXH
BHYT
CNH - HĐH
HTX
HND
HNDVN
KHKT
KHHGĐ
NXB
TNHH
SXKDG
UBND

Nghĩa của chữ viết tắt
An toàn giao thông
Ban chấp hành

Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hợp tác xã
Hội nông dân
Hội nông dân Việt Nam
Khoa học kĩ thuật
Kế hoạch hoá gia đình
Nhà xuất bản
Trách nhiệm hữu hạn
Sản xuất kinh doanh giỏi
Uỷ ban nhân dân

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nước ta là một nước nông nghiệp, nông dân chiếm đại đa số trong dân tộc,
nông dân là lực lượng sản xuất chính tạo ra của cải vật chất để nuôi sống toàn bộ xã
hội. Đồng thời, nông dân Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước cách mạng và có
2


sức mạnh vĩ đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhất là từ khi có
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có đường lối cách mạng và đường lối nông vận
đúng đắn, khoa học đã phát huy được sức mạnh của nông dân. Đặc biệt, cũng từ
năm 1930 Đảng đã tổ chức một đoàn thể chính trị riêng của nông dân để tổ chức
đấu tranh cho nông dân, từ đó phong trào của nông dân chuyển từ đấu tranh “tự
phát” sang “tự giác” đạt được những thắng lợi rất to lớn. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Hội Nông dân vận động, tổ chức nông dân cách mạng đã thu được từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc, nông dân cùng với công nhân là lực lượng cơ bản, nòng
cốt trong lực lượng cách mạng Việt Nam. Trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nông
dân liên minh với công nhân và trí thức cách mạng là cơ sở vững chắc của khối
đoàn kết dân tộc giải quyết các nhiệm vụ cách mạng. Xuất phát từ vai trò, sức mạnh
của giai cấp nông dân Việt Nam, Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930 của
Đảng ta đã khẳng định: “ …Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền , vô sản giai
cấp và nông dân là hai lực lượng chính” “Dân cày là hạng người chiếm đại đa số
ở Đông Dương (hơn 90%), họ là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân
quyền”, “ Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền , vô sản giai
cấp có đứng đầu và cùng với quần chúng dân cày mà tranh đấu để bênh vực quyền
lợi hằng ngày cho dân cày và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để thì mới
có thể giành quyền lãnh đạo dân cày được ”, [ 75, tr.19]
Với cơ cấu chiếm hơn 70% dân số, nông dân nước ta hiện vẫn là lực lượng
xã hội đông đảo nhất và có vai trò rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước và xây
dựng nông thôn mới. Việc nhận thức đúng đắn vai trò của nông dân nước ta hiện
nay, một mặt, là cơ sở để tiếp tục động viên, khuyến khích nông dân tích cực tham
gia các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; mặt khác, là căn cứ để có
những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy tốt vai trò sức mạnh đó, góp phần đưa cách
mạng nước ta nhanh chóng đạt tới mục tiêu đã đề ra. Chính vì vậy, khi nghiên cứu

3


lịch sử dân tộc Việt Nam chúng ta không thể không nghiên cứu nông dân và Hội
Nông dân Việt Nam.
Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa là một bộ phận của Hội Nông dân cả nước,
bên cạnh những đặc điểm chung của Hội Nông dân cả nước, Hội Nông dân tỉnh
Thanh Hóa mang những đặc điểm riêng. Giống như nông dân toàn quốc, nông dân
và Hội Nông dân Thanh Hóa cũng có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp cách

mạng đối với cả nước và đối với địa phương. Chính vì thế, nghiên cứu về vấn đề
Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa không những giúp chúng ta hiểu sâu sắc Hội Nông
dân và phong trào nông dân Thanh Hóa mà còn hiểu sâu sắc hơn Hội Nông dân toàn
quốc. Đồng thời, chúng ta có nhận thức đúng đắn về vai trò của tổ chức Hội Nông
dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, hiểu rõ vai trò của giai cấp nông dân đối với
phong trào giải phóng dân tộc.
Từ năm 1986 đến nay đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế thế giới, nền kinh tế - xã hội
nước ta nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã và đang thu được
những thành quả quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta cũng đứng trước những khó khăn,
thách thức to lớn hơn trước. Đặc biệt, trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
nước ta, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ Tổ quốc hiện nay còn nhiều vướng
mắc, khó khăn, tồn tại, đặc biệt là vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đang có
những vấn đề bất cập đặt ra đòi hỏi chúng ta phải giải quyết. Chính vì vậy, Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam hiện nay đã rất quan tâm giải quyết vấn
đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn, xây dựng nông thôn mới để thúc đẩy phát
triển các ngành kinh tế - xã hội của đất nước.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn còn đóng góp một số tư liệu mới sưu tập
được phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu, biên soạn lịch sử trong
các nhà trường và công tác giáo dục truyền thống của Hội Nông dân, cho giai cấp
nông dân, thế hệ trẻ, nhân dân Thanh Hoá và nhiều tỉnh khác.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
từ năm 1986 đến năm 2014 có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa về thực tiễn sâu sắc, thiết
thực. Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi đã chọn vấn đề: “Hội Nông dân tỉnh
Thanh Hoá 1986 - 2014” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ khoa học lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
4


Về đề tài Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Thanh Hoá cũng đã được một số cơ

quan nghiên cứu và nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay cũng đã có
một số công trình nghiên cứu đã được công bố như:
-

“Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá”, tập I (1930 - 1954) của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ
Thanh Hoá biên soạn (1991). Nội dung chính của cuốn sử đề cập đến vai trò lãnh
đạo của Đảng bộ đối với công cuộc cách mạng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh
Hoá thời kì từ 1930 đến năm 1954. Tuy nhiên, trong một số trang của cuốn sử có đề
cập đến hoạt động của Hội Nông dân và phong trào nông dân Thanh Hoá trong thời
kì vận động Cách mạng Tháng Tám (1930 - 1945) và kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945 – 1954).

-

Cuốn “Lịch sử Đảng bộ Thanh Hoá”, tập II (1954 – 1975) do Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Thanh Hoá tổ chức biên soạn cũng có một số trang phản ánh nhiều hoạt
động của Hội Nông dân và phong trào nông dân tỉnh Thanh Hoá, trong đó có hoạt
động xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc 1954 – 1975.

-

Cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá”, tập III (1975 – 2005) do Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá tổ chức biên soạn có một số trang đề cập đến hoạt động
của Hội Nông dân và phong trào nông dân tỉnh Thanh Hoá trong thời kì đất nước
thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội và bước đầu công cuộc đổi mới đất nước theo
đường lối cách mạng của Đảng (1975 – 2005) như trang 23, 48, 63, 74, 75, 90, 102,
104 – 110, 121, 140 – 142, 189 – 190, 240, 366.

-


Cuốn “Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá, 1930 –
1992”, do Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá tổ chức biên soạn, tác giả
Trịnh Nhu chủ biên, xuất bản năm 1993, cuốn sách gồm 179 trang, trình bày lại quá
trình xây dựng, phát triển của phong trào nông dân và Hội Nông dân tỉnh Thanh
Hoá qua các thời kì cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập, chính quyền 1930
– 1945 (chương II). Thời kì kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954 (chương III) và
thời kì xây dựng bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc 1954 – 1975 (chương IV). Tiếp

5


tục xây dựng cuộc sống theo định hướng xã hội chủ nghĩa 1975 – 1992 (chương V).
Cuốn sách lịch sử đã nghiên cứu và phản ánh những truyền thống quý báu, vai trò
to lớn của giai cấp nông dân tỉnh Thanh Hoá, quá trình xây dựng, phát triển của Hội
Nông dân và phong trào nông dân tỉnh Thanh Hoá trong công cuộc đấu tranh cách
mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước (1930 – 1992).
Đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu lịch sử, những nhận định, đánh giá về Hội
Nông dân, phong trào Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá qua các thời kì lịch sử. Đặc
biệt, trong chương V trang 137 – 168 đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu, sự
kiện lịch sử về Hội Nông dân và phong trào nông dân tỉnh Thanh Hoá (1986 –
1992) - mười lăm năm đầu thời kì đổi mới giúp chúng tôi đối chiếu, so sánh với
những kết quả nghiên cứu của mình trong Luận văn.
-

“Đổi mới nội dung và phương hướng hoạt động của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá
thời kì đổi mới”, Khoá luận tốt nghiệp Đại học – Học viện Báo chí tuyên truyền Hà
Nội, năm 2002 của Lương Thị Sinh. Tác giả đã cung cấp cho chúng tôi về mặt lí
luận, thực tiễn giúp chúng tôi nghiên cứu về những nội dung và phương hướng hoạt

động của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá thời kì đổi mới.

-

“Thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của Hội Nông dân tỉnh trong giai đoạn
hiện nay”, Khoá luận tốt nghiệp Đại học – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
năm 2000 của Bùi Xuân Thiên. Đề tài Khoá luận không trực tiếp nghiên cứu Hội
Nông dân tỉnh Thanh Hoá mà nghiên cứu thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao
vai trò Hội Nông dân ở các tỉnh trong cả nước. Tuy vậy, đề tài Khoá luận giúp
chúng tôi trong nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao vai trò của Hội Nông
dân tỉnh Thanh Hoá trong giai đoạn hiện nay.

-

Tác giả Lê Thị Hoa với đề tài “Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá trong hai mươi năm
đầu của công cuộc đổi mới (1986 – 2006)”, Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử Đại
học Sư phạm Hà Nội – 2007. Luận văn đã cung cấp cho chúng tôi những tư liệu, sự
kiện lịch sử về Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá từ năm 1986 đến năm 2006 để chúng
tôi đối chiếu và so sánh với những kết quả nghiên cứu của mình. Đồng thời, chúng

6


tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu về Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá từ năm 2006 đến
năm 2014 để hoàn thành đề tài Luận văn của mình.
-

Cuốn “Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam 1930 – 1995” do
Hội Nông dân Việt Nam biên soạn, xuất bản năm 1998. Cuốn sử đã trình bày về quá
trình ra đời, hoạt động, phát triển của Hội Nông dân Việt Nam, vai trò của Hội

Nông dân Việt Nam và giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn cách mạng từ 1930 – 1945. Đồng thời, tác
phẩm cũng đề cập đến Hội Nông dân và phong trào nông dân toàn quốc đã cung cấp
một số tư liệu lịch sử giúp chúng tôi nghiên cứu Hội Nông dân và phong trào nông
dân tỉnh Thanh Hoá trong các thời kì lịch sử như các trang 134, 197, 225, 239, 266,
277, 279, 303, 453, 455, 525, 536… đã giúp chúng tôi hiểu sâu sắc về lịch sử Hội
Nông dân và phong trào nông dân Việt Nam, giúp chúng tôi có kiến thức, phương
pháp để nghiên cứu, hoàn thành đề tài Luận văn của mình.
Như vậy cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá giai đoạn 1986 – 2014. Những công trình nghiên cứu
trên đây là tài liệu tham khảo rất bổ ích vì đã cung cấp cho chúng tôi những nội
dung, tư liệu lịch sử, những nhận xét, đánh giá về Hội Nông dân tỉnh Thanh Hoá để
tôi đối chiếu, so sánh với kết quả nghiên cứu của mình.
3. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi Luận văn nghiên cứu của Hội Nông dân ở:
- Phạm vi không gian: Trên địa bàn toàn Tỉnh Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian: Giai đoạn 1986 - 2014
Tuy nhiên, để làm rõ được yêu cầu của đề tài, Luận văn đề cập đến sự hình
thành, hoạt động của Nông Hội Nông dân Thanh Hoá trước năm 1986 và những vấn
đề liên quan về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác nông hội,
Hội Nông dân.
3.3.Nhiệm vụ của đề tài:
7


Trên cơ sở những tư liệu được sắp xếp, chỉnh lý Luận văn trình bày tổ chức,
hoạt động và những thành tựu, tồn tại của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa từ năm

1986 – 2014. Từ đó, bước đầu nêu lên một số nhận xét, đánh giá về đặc điểm, đóng
góp của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa trong sự nghiệp cách mạng của địa phương
và trong cả nước. Đồng thời, qua đó cũng làm sáng tỏ vai trò của Đảng, Mặt trận Tổ
quốc, chính quyền và các đoàn thể chính trị của quần chúng và vai trò đóng góp của
nông dân, nhân dân Thanh Hoá đối với Hội Nông dân Thanh Hóa. Bước đầu rút ra
một số bài học kinh nghiệm để phục vụ cho công tác tổ chức, hoạt động của Hội
Nông dân tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay và về sau.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu:
4.1 Nguồn tài liệu:
Để nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều nguồn tài liệu khác nhau:
- Những văn kiện Đại hội Đảng, đường lối, chủ trương, pháp luật của Nhà
nước về Hội Nông dân. Nguồn tư liệu này cung cấp những quan điểm, phương
hướng nghiên cứu đúng đắn để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.
- Những tư liệu lưu trữ của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa, Uỷ ban nhân dân,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thanh Hóa, Tuyên giáo tỉnh ủy Thanh Hóa, Sở văn
hóa thông tin, Thư viện tỉnh Thanh Hóa. Đây là nguồn tư liệu làm cơ sở để chúng
tôi xây dựng Luận văn.
- Những tài liệu tham khảo như sách, bài báo, bài nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa trong thời gian 1986 – 2014. Đây là nguồn tài liệu tham
khảo bổ ích, cung cấp những tư liệu lịch sử và những nhận xét, đánh giá Hội Nông dân
và nông dân Thanh Hóa để đối chiếu so sánh với kết quả nghiên cứu của mình.
- Là đề tài lịch sử địa phương nên chúng tôi rất chú trọng công tác điền dã,
khảo sát thực tế địa phương Thanh Hóa để tập hợp những tư liệu thực tế như: Hồi kí
của những nhân chứng lịch sử, tranh ảnh, ca dao, bài hát, vở kịch, biểu đồ, bản đồ,
số liệu thống kê... bổ sung cho nguồn tư liệu thành văn.
4.2 Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài, chúng tôi vận dụng phương
pháp luận sử học Mácxít, phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Nhưng
phương pháp lịch sử là chủ yếu; Đồng thời, còn sử dụng phương pháp phân tích,


8


khái quát tổng hợp, so sánh, thống kê. Coi trọng khâu làm tốt công tác sưu tầm,
giám định tư liệu, sử dụng kết quả nghiên cứu của các khoa học liên ngành.
Đây là một đề tài lịch sử địa phương nên phải coi trọng công tác điền dã, thu
thập, sử dụng tư liệu lịch sử địa phương.
5. Đóng góp của Luận văn
- Luận văn lần đầu tiên trên cơ sở những tư liệu chọn lọc, sắp xếp, chỉnh lý,
dựng lại một cách hệ thống, tương đối đầy đủ về tổ chức, hoạt động của Hội Nông
dân tỉnh Thanh Hóa từ 1986 – 2014.
- Trên cơ sở đó nêu những nhận xét về vai trò, đóng góp của Hội Nông dân
tỉnh Thanh Hóa đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng phát triển đất nước, bảo vệ Tổ
quốc và nâng cao đời sống của nhân dân tỉnh Thanh Hóa và cả nước.
- Bước đầu rút ra một số bài học kinh nghiệm, kiến nghị, đóng góp thiết thực
cho sự nghiệp xây dựng, phát triển, tổ chức và hoạt động của Hội Nông dân tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn cách mạng hiện nay và về sau.
- Đóng góp một số tư liệu mới sưu tầm phục vụ cho công tác dạy, học nghiên
cứu lịch sử trong các nhà trường và công tác giáo dục truyền thống của Hội Nông
dân tỉnh cho giai cấp nông dân, thế hệ trẻ, nhân dân Thanh Hoá.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn được
xây dựng thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tổ chức và hoạt động của Hội Nông dân tỉnh Thanh
Hóa trước năm 1986.
Chương 2: Tổ chức và hoạt động của Hội Nông dân tỉnh Thanh Hóa (1986 – 2014).
Chương 3: Một số nhận xét về đặc điểm, đóng góp của Hội Nông dân tỉnh
Thanh Hóa đối với sự nghiệp cách mạng địa phương và đất nước.

Chương 1:

KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THANH HÓA VÀ HỘI NÔNG DÂN TỈNH
THANH HÓA TRƯỚC NĂM 1986
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hoá.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên

9


- Vị trí địa lý
Thanh hoá nằm ở vị trí trung chuyển giữa các tỉnh phía Bắc và các tỉnh phía
Nam nước ta. Thanh Hoá cách Thủ đô Hà Nội 153km về phía Bắc, về phía Nam
cách Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An 138 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 1.560km.
Thanh Hoá Nằm ở vị trí từ 19,18o đến 20,40o vĩ độ Bắc; 104,22o đến 106,40o kinh
độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh: Ninh Bình, Hoà Bình, Sơn La; Phía Nam giáp tỉnh
Nghệ An; Phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn – Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào; Phía
Đông giáp biển Đông với chiều dài đường bờ biển 102 km.
Thanh Hoá có lãnh thổ rộng lớn: 11.168,3 km 2 (chiếm 3,37% tổng diện tích
tự nhiên của cả nước). Trong đó có 70% đất đai là đồi và rừng núi [41, tr.7].
- Điều kiện tự nhiên
Địa hình Thanh Hoá khá phức tạp, bị chia cắt nhiều và nghiêng theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam; đồi núi chiếm trên 3/4 diện tích tự nhiên của cả tỉnh. Địa hình
Thanh Hoá có thể chia thành 3 vùng rõ rệt: Vùng núi và trung du, vùng đồng bằng
và vùng ven biển.
Điều kiện khí hậu, Thanh Hoá nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2
mùa rõ rệt: Mùa hạ nóng, ẩm mưa nhiều và chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô,
nóng. Mùa đông lạnh và ít mưa. Thanh Hoá có nền nhiệt độ cao, nhiệt độ trung bình
năm khoảng 230C- 240C; Độ ẩm không khí biến đổi theo mùa nhưng sự chênh lệch
độ ẩm giữa các mùa là không lớn. Độ ẩm trung bình các tháng hàng năm khoảng
85%; Lượng mưa ở Thanh Hóa là khá lớn, trung bình năm từ 1.456,6 - 1.762,6 mm,
nhưng phân bố rất không đều giữa hai mùa và lớn dần từ Bắc vào Nam và từ Tây

sang Đông. Thanh Hoá nằm trong vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ, hàng năm có
ba mùa gió là: Gió Bắc, do không khí lạnh từ Bắc cực qua lãnh thổ Trung Quốc thổi
vào; Gió Tây Nam: Từ vịnh Belgan qua lãnh thổ Thái Lan, Lào thổi vào, gió rất
nóng nên gọi là gió Lào (hay gió phơn Tây Nam); Gió Đông Nam (còn gọi là gió
nồm): Thổi từ biển vào đem theo không khí mát mẻ.
Thanh Hóa là tỉnh có mạng lưới sông ngòi khá dầy, từ Bắc vào Nam có 4 hệ
thống sông chính là sông Hoạt, sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng, với tổng

10


chiều dài 881km, tổng diện tích lưu vực là 39.756 km 2, tổng lượng nước trung bình
hàng năm 19,52 tỉ m3. Hệ thống sông ngòi dầy đặc, nguồn nước phong phú, phục vụ
cho nhu cầu hàng ngày của người dân và tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành
kinh tế của Tỉnh.
Thanh Hoá có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đặc biệt là khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều có nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, khí hậu và điều kiện tự nhiên thất thường. Hằng năm thiên tai luôn xảy ra
đe dạo tài sản, tính mạng của nhân dân như bão, lũ lụt, khô hạn kéo dài, gió rét,
gió nóng, dịch bệnh…
1.1.2. Các nguồn tài nguyên
Trước hết, chúng ta phải kể đến nguồn tài nguyên đất. Theo kết quả điều tra
thổ nhưỡng theo phương pháp của FAO- UNESCO, tỉnh Thanh Hoá có 8 nhóm đất
chính với 20 loại đất khác nhau gồm có những nhóm đất chính sau: Nhóm đất phù
sa có diện tích 191.216 ha, chiếm 17,2% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở các
vùng đồng bằng, ven biển. Đất có thành phần cơ giới thường là thịt nhẹ, ít chua,
giàu chất dinh dưỡng nên có chất lượng tốt, thích hợp với nhiều loại cây trồng, nhất
là các loại cây ngắn ngày như lương thực, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày
khác. Nhóm đất xám có diện tích 717.245 ha, chiếm 64,6% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh, phân bố chủ yếu ở vùng trung du miền núi, thuộc các huyện Quan Hoá, Bá

Thước, Như Xuân, Thường Xuân, Cẩm Thuỷ, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Lang
Chánh... Đất có tầng dầy, dễ thoát nước, thích hợp cho phát triển lâm nghiệp và các
cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả như cao su, cà phê, chè, cam, chanh, dứa...
Nhóm đất đỏ có diện tích 37.829 ha, chiếm 3,4% diện tích tự nhiên, phân bố ở độ
cao trên 700 mét tại các huyện: Quan Hoá, Lang Chánh, Thường Xuân. Nhóm đất
này có tầng dày, thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình, ít chua nên thích hợp với
nhiều loại cây trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng.
Qua hàng ngàn năm lịch sử, các thế hệ nhân dân Thanh Hoá kế tiếp nhau đã
lao động cần cù, dũng cảm, sáng tạo cải tạo thiên nhiên, hạn chế những thiệt hại do
thiên tai gây ra, khai hoang lấn biển cải tạo đất đai mở rộng diện tích canh tác, địa

11


bàn cư trú, xây dựng nên những làng bản, đồng ruộng, thành phố trù phú như ngày
nay. Quá trình lao động, đấu tranh, xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước đã hun
đúc cho nhân dân bản địa có truyền thống lao động, sáng tạo, yêu nước, bất khuất
chống áp bức, bóc lột [41; tr.26]
Thứ hai là tài nguyên nước, nước mặt tỉnh Thanh Hoá tương đối phong phú
và đa dạng. Ngoài 4 hệ thống sông chính cung cấp nước là sông Hoạt, sông Mã,
sông Chu, sông Yên, sông Lạch Bạng còn có 264 suối nhỏ và 1.760 hồ chứa lớn
nhỏ khác nhau, tạo ra một mạng lưới thủy văn dày đặc và phân bố khá đều trên địa
bàn tỉnh. Nước là nguồn tài nguyên cần thiết đối với đời sống của cư dân và sản
xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Thứ ba là tài nguyên rừng, với hơn 2/3 diện tích tự nhiên là đồi núi, tỉnh
Thanh Hoá có tài nguyên rừng khá lớn, đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc
phòng hộ đầu nguồn và phát triển kinh tế - xã hội. Theo kết quả kiểm kê đất đai về
số liệu hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp năm 2010, diện tích đất có rừng toàn tỉnh
là 600.627,66 ha; tỷ lệ che phủ đạt 54%.
Về tài nguyên biển, Thanh Hoá có bờ biển dài 102 km (từ cửa Càn - Nga Sơn

đến Hà Nẫm - Tĩnh Gia); vùng lãnh hải rộng hơn 1,7 vạn km 2. Vùng biển và ven biển
Thanh Hoá có tài nguyên khá phong phú, đa dạng, trong đó nổi bật là tài nguyên thuỷ
sản, tài nguyên du lịch biển và tiềm năng xây dựng cảng và dịch vụ hàng hải.
Tài nguyên khoáng sản ở Thanh Hoá khá phong phú về chủng loại và đa
dạng về cấp trữ lượng. Hiện toàn tỉnh có tới 257 mỏ và điểm quặng, với 42 loại
khoáng sản, trong đó có một số loại có ý nghĩa quốc tế và khu vực như Crôm, đá ốp
lát, đô lô mít, chì kẽm, thiếc, vonfram, antimoan, đá quý. Nhiều mỏ có trữ lượng lớn
và phân bố tập trung, cho phép khai thác với quy mô công nghiệp như đá vôi, đất
sét làm xi măng. Đây là một lợi thế lớn của tỉnh trong việc phát triển công nghiệp
khai khoáng, công nghiệp sản xuất xi măng, công nghiệp vật liệu xây dựng...
Nhìn chung nguồn tài nguyên thiên nhiên tỉnh Thanh Hoá khá phong phú và
đa dạng đó là điều kiện thuận lợi để Thanh Hoá đẩy mạnh phát triển nền kinh tế đa
dạng, trong đó có ngành kinh tế nông nghiệp.

12


Điều kiện kinh tế - xã hội:

3
-

Kinh tế
Trong quá khứ lịch sử cho đến nay nhìn chung nhân dân Thanh Hoá chủ yếu
sống bằng nghề lúa nước, nguồn thu nhập chính là từ nông nghiệp, do đó nông dân
là lực lượng đông đảo, vấn đề nông nghiệp – nông thôn là vấn đề quan trọng. Ngoài
ra công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng khá phát đạt. Trong nhiều thế
kỉ, Thanh Hoá có nhiều trung tâm nổi tiếng với các nghề: Đúc đồng, làm dụng cụ
bằng đá, nghề làm chiếu cói…
Từ năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng cho đến năm 1986, vì những

chính sách kinh tế theo cơ chế quan liêu bao cấp không còn phù hợp với giai đoạn
cách mạng mới nên Việt Nam bị lâm vào khủng hoảng và giảm sút nghiêm trọng,
tỉnh Thanh Hoá cũng không nằm ngoài tình trạng ấy: Sản xuất nông nghiệp phát
triển chậm, năng suất lúa thấp nên việc thiếu lương thực liên tiếp xảy ra; sản xuất
công nghiệp, thủ công nghiệp chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Công tác
quản lý bị buông lỏng, chất lượng sản phẩm kém. Tình hình đó đòi hỏi phải đổi mới
toàn diện đất nước để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
Khi bước vào công cuộc đổi mới, từ sau năm 1986Thanh Hoá đã dần
khắc phục được khó khăn, nâng cao dần đời sống nhân dân với mức độ tăng
trưởng GDP bình quân hàng năm là trên 7%. Thanh Hoá đang cùng cả nước
tiến hành Công nghiệp hoá – Hiện đại hoá đất nước. Hiện nay Thanh Hoá đã
hình thành bốn khu công nghiệp là Bỉm Sơn – Thạch Thành ở phía Bắc; Nghi
Sơn ở phía Nam, khu công nghiệp Lam Sơn ở phía Tây và khu công nghiệp Lễ
Môn ở phía Đông.
Tỉnh Thanh Hoá bước đầu đã xây dựng được hệ thống cơ sở hạ tầng có thể
đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp ở mức độ nhất định. Điển hình như
mạng lưới đường bộ khá dày với gần 8000km (không kể đường liên thôn, nội
đồng). Phần lớn các xã của tất cả các huyện đều được phủ điện lưới quốc gia, hệ
thống thuỷ lợi không ngừng được củng cố với nhiều công trình (Đập Bái Thượng,
hệ thống thuỷ lợi sông Chu, sông Mã, hệ thống tiêu sông Hoành, sông Lý, Trường
13


Lê…). Chương trình kiên cố hoá kênh mương theo hình thức Nhà nước và nhân dân
cùng làm đã thực hiện được hơn 600km… Đặc biệt công trình thuỷ điện, hồ chứa
nước Cửa Đạt đang được xây dựng ở huyện Thường Xuân là một trong những công
trình có quy mô lớn nhất miền Bắc. Nhờ đó mà kinh tế nông nghiệp tỉnh Thanh
Hoá có nhiều điều kiện để phát triển mạnh.
-


Xã hội
Tỉnh Thanh Hoá vốn là một trong những “cái nôi” của lịch sử nhân loại nên
trên mảnh đất nơi đây có nhiều thành phần dân tộc định cư lâu đời, có bề dày truyền
thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất. Thanh Hoá hiện là tỉnh có nhiều đơn vị hành
chính nhất trong số 64 tỉnh thành phố của nước ta. Bao gồm 1 thành phố, 3 thị xã,
23 huyện với 151 xã, 21 phườngvà 28 thị trấn.
Thành phố Thanh Hoá là trung tâm kinh tế hành chính văn hoá của tỉnh. Ba
thị xã trực thuộc tỉnh là Thị xã Bỉm Sơn (ở phía bắc của tỉnh), Thị xã Sầm Sơn (nằm
giáp biển và là một trong những trung tâm du lịch biển của Miền Trung) và Thị xã
Ngọc Lặc là thị xã miền núi nằm ở phía tây của tỉnh, mới được nâng cấp lên thành
thị xã năm 2004.
Trong số 23 huyện của tỉnh có 8 huyện đồng bằng (Thọ Xuân, Đông Sơn,
Nông Cống, Triệu Sơn, Yên Định, Thiệu Hoá, Hà Trung,Vĩnh Lộc); 5 huyện ven
biển(Nghi Sơn, Hoàng Hoá, Hậu Lộc,Quảng Xương, Tĩnh Gia) và 10 huyện trung
du miền núi (Như Xuân, Như Thanh, Lang Chánh, Bá Thước, Thạch Thành, Cẩm
Thuỷ, Thường Xuân, Quan Hoá, Quan Sơn, Mường Lát).
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện có 7 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc
Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 84,75%, tiếp đến là dân tộc Mường chiếm 8,7%,
dân tộc Thái chiếm 6%, còn lại là các dân tộc khác như H’Mông, Dao, Hoa... chiếm
một tỷ trọng nhỏ. Các dân tộc ở Thanh Hóa có những nét văn hoá, kinh tế đặc trưng
của vùng Bắc Trung Bộ. Có nhiều lễ hội và phong tục truyền thống tốt đẹp đang
được phục hồi và phát triển theo hướng tiến bộ.
Thanh Hoá là tỉnh có dân số đông, đứng thứ hai trong cả nước (sau Thành
phố Hồ Chí Minh). Tính đến năm 2005, số dân của tỉnh Thanh Hoá là 3,676 triệu

14


người. Do đó đã tạo ra một lực lượng lao động đông đảo, có khoảng gần 2 triệu lao
động, khoảng 90% ở nông thôn và phần lớn tham gia các hoạt động nông nghiệp.

Thanh Hoá có cơ cấu dân số tương đối trẻ, sức khỏe tốt, trình độ văn hoá
cao, thích ứng với sự ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật... Đến nay, tỉnh đã hoàn
thành phổ cập giáo dục THCS đúng độ tuổi; 473 trường đạt chuẩn quốc gia, trong
đó 69 trường mầm non, 343 trường tiểu học, 56 trường THCS và 5 trường THPT.
Đây là nguồn nhân lực chủ yếu sẽ được huy động vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Với đặc điểm dân cư trong tỉnh, Thanh Hoá không chỉ là một thị trường rộng lớn,
mà còn có nguồn nhân lực dồi dào để phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp.
2

Khái quát về sự hình thành và phát triển tổ chức Hội Nông dân Việt Nam tỉnh
Thanh Hóa trước thời kì đổi mới (1930 - 1986)
1.2.1. Hội Nông dân Thanh Hoá và hoạt động của Hội những năm 1930 – 1939
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) đã nêu lên những
vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân là: "Đảng phải đoàn kết đại đa số nông
dân, phải dựa vào nông dân nghèo làm cách mạng thổ địa, đánh đổ bọn đại địa chủ
và phong kiến"; đồng thời Đảng nhấn mạnh "Nông dân là lực lượng to lớn của cách
mạng", vì vậy phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất. Từ những quan
điểm nêu trên, Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10/1930 đã thảo luận và khẳng
định “Nông Hội đỏ” là hình thức tổ chức đầu tiên của phong trào nông dân Việt
Nam, là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân Việt Nam. Nông Hội đỏ
(tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân) được thành lập đánh dấu bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam.
Thanh Hoá là tỉnh sớm có phong trào nông dân. Nông Hội đỏ ở Thanh Hoá
được thành lập ngay trong năm 1930, với 200 hội viên ở một số làng thuộc các
huyện Thọ Xuân, Thiệu Hoá, Đông Sơn... Ngay từ ngày thành lập, dưới sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh, Nông Hội đỏ Thanh Hoá luôn là lực lượng nòng cốt trong các
phong trào cách mạng của nông dân. Tiêu biểu cho truyền thống yêu nước kiên
cường, bất khuất của người Xứ Thanh là cuộc đấu tranh của nông dân Yên Trường


15


đòi chia lại công điền, công thổ do bọn Thống lý chiếm đoạt; của nông dân làng
Chí Tiến - Thọ Xuân chống lại Tri phủ bắt phu đắp đường vào ấp Quan Thành; của
600 nông dân Yên Định đòi trả tự do cho tù chính trị; cuộc mít tinh liên huyện của
3000 nông dân các huyện: Yên Định, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc để ủng hộ
Mặt trận Nhân dân tự do dân chủ và nhiều cuộc đấu tranh khác...
Cao trào cách mạng Xô viết – Nghệ Tĩnh (1930 – 1931) nổ ra, tháng 4/1931,
giai cấp nông dân Thanh Hoá đã hăng hái tham gia các cuộc phát truyền đơn, treo
cờ búa liềm, mít tinh ủng hộ Xô viết – Nghệ Tĩnh, phản đối sự đàn áp dã man của
thực dân Pháp và bè lũ tay sai đối với đồng bào nông dân Nghệ Tĩnh.
Từ giữa năm 1931, đế quốc Pháp và bè lũ tay sai tăng cường đàn áp phong
trào cách mạng hòng tiêu diệt các chiến sĩ cộng sản và quần chúng nhân dân. Vào
thời gian này, nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng bộ bị bắt, những cuộc đấu tranh của
quần chúng bị đàn áp nhưng Nông hội đỏ vẫn được duy trì dưới hình thức tương trợ
lẫn nhau trong lao động sản xuất và trong đời sống hàng ngày. Cuối năm 1931, Tổ
chức Nông hội đỏ ở các làng Yên Lộ, Long Linh, Cẩm Bào, Phúc Bồi, Căng Hạ,
Bình Ngô, Xá Lê, Phong Cốc, Ngọc Trung, Mao Xá, Vực Thượng, Lê Nghĩa…vẫn
tiếp tục hoạt động và phát triển làm nòng cốt để thành lập các tổ chức biến tướng
của Nông hội đỏ như Hội đánh tranh, Hội lợp nhà… các cuộc đấu tranh của quần
chúng chống bọn hào lý tham nhũng, chống nạn phù thu lạm bổ, chống những hủ
tục ở nông thôn vẫn diễn ra thường xuyên và đã từng bước giành được thắng lợi.
Các tổ chức biến tướng đã tích cực hoạt động vận động quần chúng đấu tranh bằng
nhiều hình thức phong phú. Những hoạt động này góp phần vào việc từng bước
nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng.
Nhờ hoạt động tích cực, đến giữa năm 1932, các tổ chức Nông hội ở nhiều
nơi trong tỉnh được củng cố. Ở một số địa phương bắt đầu xuất hiện các cuộc đấu
tranh đòi cải lương hương tục của nông dân.
Từ năm 1935, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mới, có

lợi cho phong trào cách mạng. Ở trong tỉnh, phong trào đấu tranh của quần chúng
đã vượt qua được những khó khăn tạm thời và giành được nhiều thắng lợi. Theo sự

16


chỉ đạo của cấp trên, Tỉnh uỷ đã đổi “Nông Hội đỏ” thành “Hội tương tế ái hữu”.
Hội tương tế ái hữu tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào phong trào đấu tranh
chung. Hội tương tế ái hữu có nhiều hình thức hoạt động sáng tạo như việc tổ chức
các lớp học chữ quốc ngữ, các tổ đọc sách báo… ở một số làng thuộc huyện Thiệu
Hoá, Yên Định, Thọ Xuân… các lớp học chữ quốc ngữ, các tổ đọc sách báo thu hút
đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và thông qua hình thức hoạt động này để
tuyên truyền đường lối cách mạng của Đảng, tập hợp và giác ngộ tinh thần cách
mạng cho quần chúng [41, Tr.31].
Tháng 7/1935, Hội nghị đại biểu Hội ái hữu tương tế liên huyện Yên Định –
Thiệu Hoá đã chủ trương vận động nhân dân đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng,
chống bọn cường hào tham nhũng. Những chủ trương trên được đông đảo quần
chúng nhân hưởng ứng.
Tháng 3/1936, Hội nghị Tỉnh uỷ tại Yên Lộ (theo tinh thần chỉ đạo của Trung
ương Đảng), đã diễn ra kịp thời đề ra những chủ trương công tác mới và đặc biệt chú
ý đến nhiệm vụ xây dựng các tổ chức quần chúng như Hội tương tế ái hữu. Từ sau
Hội nghị này, phong trào đấu tranh của quần chúng diễn ra ở nhiều nơi trong toàn
tỉnh. Hội tương tế ái hữu được xây dựng ở hầu hết các tỉnh miềm xuôi, phát triển lên
huyện Thạch Thành và có nhiều hoạt động tích cực như mở lớp học chữ quốc ngữ, tổ
chức cho đông đảo quần chúng, nhất là thanh niên đọc sách báo cách mạng, đấu tranh
chống lại các hủ tục mê tín, dị đoan, đòi chia lại công điền, công thổ, nam nữ bình
quyền… vào thời điểm này, cuộc vận động hưởng ứng Đông Dương Đại hội diễn ra
sôi nổi, rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân. Nhiều uỷ ban hành động ở cơ sở được
thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp, các giai cấp, trong đó công nhân và nông
dân đóng nòng cốt. Uỷ ban hành động đã tập hợp được hàng trăm bản kiến nghị với

hàng ngàn chữ kí, điểm chỉ đòi chính phủ pháp phải thi hành cải cách ở Đông Dương,
đòi quyền tự do dân chủ. Cuộc đấu tranh công khai, hợp pháp của nhân dân làng
Phong Cốc phản đối hành động khát máu của tên thực dân Béc-nai-đê bắn chết một
hội viên Hội tương tế ái hữu đã giành được thắng lợi. Công sứ Pháp phải nhượng bộ,
bồi thường thiệt hại cho nạn nhân và trục xuất Béc-nai-đê ra khỏi tỉnh.

17


Thắng lợi của cuộc đấu tranh này cổ vũ mạnh mẽ tình thần đấu tranh của quần
chúng, mở rộng phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp trong toàn tỉnh.
Từ thực tế đấu tranh, Hội tương tế ái hữu đã có nhiều hình thức tổ chức mới
như: Nông hội tương tế, Thanh niên tương tế, Phụ nữ tương tế, Phụ lão tương tế.
Các hội này tập hợp và huy động ngày càng đông đảo quần chúng vào phong trào
cách mạng. Ở làng Long Linh, nông dân còn lập ra Hội “Kỳ Anh” để thu hút những
phụ lão có uy tín trong làng làm hậu thuẫn cho các cuộc đấu tranh hợp pháp ở nông
thôn. Nông dân làng Yên Lộ đã tổ chức các Hội hợp tác xã cày cấy và chăn nuôi,
Hội hợp tác xã tiêu thụ hàng hoá…
Cuối năm 1937, các cuộc đấu tranh nổ ra rộng khắp trong toàn tỉnh Thanh
Hoá, trở thành một cao trào cách mạng thực sự. Mở đầu là cuộc mít tinh liên huyện
tại làng Chiềng (làng Trịnh Xá – Yên Định) vào ngày 11/2/1938 để tuyên truyền về
Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Cuộc mít tinh đã lôi kéo 3000 quần chúng thuộc
các huyện Yên Định, Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc tham gia. Cuộc mít tinh này
đã nêu cao khẩu hiệu: Ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, tự do dân chủ, tự do nghiệp
đoàn, tự do lập hội, thả hết tù chính trị… cuộc mít tinh đã giành thắng lợi, cổ vũ
mạnh mẽ phong trào cách mạng tiếp tục phát triển lên một bước mới.
Tiêu biểu cho các cuộc đấu tranh của nông dân giai đoạn này là cuộc đấu tranh
của nông dân Yên Định ngày 7/4/1938 đòi tri huyện Nguyễn Văn Tương phải trả nợ
cho nông dân. Tiếp đó là cuộc đấu tranh của nông dân đòi lý trưởng làng Long Linh
(Thiệu Hoá) phải trẩ tiền công đắp đường cho dân. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ

của nông dân, chính quyền phong kiến tay sai phải trả hàng nghìn đồng Đông Dương
cho dân. Các cuộc đấu tranh cướp ruộng đất, đòi chia lại công điền, công thổ diễn ra
quyết liệt ở các huyện Vĩnh Lộc, Hoằng Hoá, Thạch Thành, Nông Cống. Có những
cuộc biểu tình của nông dân tập hợp tới 600 người hô vang các khẩu hiệu chống áp
bức, bóc lột, chống sưu cao, thuế nặng… trước sức mạnh của quần chúng nhân dân,
thực dân Pháp đã phải nhượng bộ một số quyền lợi cho họ.
Những cuộc đấu tranh của nông dân Thanh Hoá trong những năm đầu dưới sự
lãnh đạo của Đảng và của tổ chức Hội Nông dân tỉnh, đã đi từ mục tiêu đòi quyền lợi

18


“cơm, áo” hàng ngày, đòi dân sinh dân chủ, tiến lên đấu tranh với mục tiêu chính trị là
chính, bằng nhiều hình thức phong phú, sáng tạo thu hút đông đảo nông dân và các
tầng lớp trong xã hội. Phong trào nông dân với tổ chức Nông hội ở Thanh Hoá trong
giai đoạn đầu của cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản đã chứng tỏ giai cấp nông dân vốn giàu lòng yêu nước, ý chí bất khuất
chống xâm lược và cường quyền, tính thần đoàn kết tương trợ, sẵn sang đi theo Đảng
cộng sản trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc và là đội quân chủ lực đông nhất,
mạnh nhất của cách mạng. Là một bộ phận trong đội ngũ cách mạng do Đảng tổ chức
và lãnh đạo, những người nông dân đã nhanh chóng vượt qua sự hạn chế của mình,
phát huy truyền thống yêu nước, tính tích cực cách mạng hoà nhập vào phong trào
chung, góp phần tạo ra những bước ngoặt lịch sử.
1.2.2. Hội Nông dân Thanh Hoá và hoạt động của Hội những năm 1939 – 1945
Năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, xô đẩy loài người vào thảm
hoạ của cuộc tranh giành quyền lợi giữa các nước đế quốc. Ở Đông Dương, thực
dân Pháp đàn áp khốc liệt phong trào cách mạng, ra sức bắt người cướp của để dốc
vào cuộc chiến tranh thế giới. Phong trào cách mạng cả nước nói chung và tỉnh
Thanh Hoá nói riêng gặp nhiều khó khăn. Nhưng phong trào nông dân ở Thanh Hoá
dưới sự lãnh đạo của tổ chức mình vẫn được giữ vững, tiếp tục đứng dạy tiêu diệt

địch trên nhiều mặt trận với nhiều hình thức khác nhau.
Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (11/1939) đã nhấn
mạnh cách mạng giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn trước mắt. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất
để đoàn kết lực lượng yêu nước, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa
chủ phản bội quyền lợi dân tộc để chia cho dân cày, chống tô cao, chống cho vay nặng
lãi. Đồng thời, để tập hợp lực lượng đánh đổ chính quyền thực dân và tay sai, Hội nghị
chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương.
Để phù hợp với tình hình mới đó, “Hội tương tế ái hữu” đã đổi tên thành
“Hội nông dân phản đế”, nhằm tập hợp đông đảo quần chúng, đấu tranh cho nhiệm
vụ chung của cả nước là chống đế quốc và tay sai.
19


Cuối năm 1940, phong trào phản đế cứu quốc ở Thanh Hoá phát triển mạnh,
nhất là huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định. Số hội viên phản đế cứu quốc lên
tới 4000 người.
Ở huyện Thọ Xuân, 83 làng trong tổng số 200 làng đã có tổ chức phản đế
cứu quốc, với 1547 hội viên. Nhiều cuộc đấu tranh của quần chúng liên tiếp nổ
ra mà lực lượng đông đảo là nông dân đòi chia lại công điền, công thổ, xoá bỏ
lao dịch, phản đối “lạc quyên”, quốc trái, vạch trần bộ mặt của bọn hào lý tham
nhũng, sách nhiễu nhân dân. Nhiều làng đã tổ chức ra các hội phản đế cứu quốc
và có nhiều hình thức gây quỹ để mua sắm vũ khí. Làng Phúc Trình (huyện Yên
Định) đã giành 2 mẫu ruộng công điền cho tự vệ cày cấy để gây quỹ mua sắm vũ
khí [41, tr.38 – 39].
Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ trong tình hình mới, giai cấp nông dân đã
tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng các căn cứ địa cách mạng, mở rộng
phong trào cách mạng lên các huyện miền núi, tạo ra một địa bàn hoạt động cách
mạng rộng lớn và lập ra các tiểu tổ du kích, tự vệ chiến đấu, song song với việc tích
cực xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương. Vào thời điểm

này, phong trào đấu tranh chống thuế mới của địch diễn ra dưới nhiều hình thức
phong phú như đưa đơn kiến nghị nhà cầm quyền đòi hoãn và giảm thuế… ở một số
nơi nông dân đã vận động cả lý trưởng ký tên đóng dấu vào đơn. Nông dân ở một số
làng như Phong Cốc, Xá Lê, Long Linh…kiên quyết không nộp thuế cho giặc.
Hội viên Hội phản đế cứu quốc ngày càng phát triển cả về số lượng và chất
lượng, tính riêng ở huyện Thọ Xuân đã có 1.547 hội viên.
Trước sự chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị Trung
ương lần thứ 8 của Đảng (họp từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941) đề ra nhiệm vụ cuộc
cách mạng trong giai đoạn mới, đặc biệt Mặt trận Việt Minh ra đời và công bố
chương trình cứu nước, trong đó có điểm nói rõ: Làm cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập; Làm cho nhân dân Việt Nam được sung sướng, tự do. Điều này
đã đáp ứng lòng mong ước nhiều đời của hàng triệu nhân dân Việt Nam mà trong

20


đó hơn 90% là nông dân.Vì thế, Mặt trận Việt Minh vừa mới ra đời đã thu hút hàng
ngàn nông dân tỉnh ta tham gia vào Hội Nông dân phản đế Cứu quốc.
Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tháng 6 năm 1941 đã quyết định đẩy mạnh công tác
xây dựng lực lượng vũ trang, mở rộng và củng cố các căn cứ địa cách mạng, dấy lên
cao trào cách mạng trong toàn tỉnh. Chiến khu Ngọc Trạo thuộc huyện Thạch Thành
được xây dựng trong thời gian này. Nhân dân Ngọc Trạo cũng như nhân dân các địa
phương khác trong toàn tỉnh đã gửi lương thực, thuộc men tiếp tế cho chiến khu.
Đầu tháng 6/1941, Tỉnh uỷ triệu tập Đại hội đại biểu Mặt trận phản đế cứu
quốc. Chương trình Đại hội đề ra như sau: Đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và tay sai,
giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, thành lập chính quyền cách mạng nhân dân; Nam
nữ bình quyền; phổ thông đầu phiếu; tịch thu ruộng đất của thực dân, địa chủ Việt
gian chia cho dân cày nghèo; thủ tiêu các thứ thuế vô lý; trợ cấp cho dân nghèo,
người già và trẻ em; cưỡng bức giáo dục phổ thông; tự do ngôn luận, hội họp, đi lại.
Chương trình do Mặt trận đề ra đã có tác dụng thiết thực thúc đẩy phong trào cách

mạng phát triển.
Tháng 7/1942, Hội nghị đại biểu các cơ sở Đảng đã chủ trương thành lập
Thanh Hoá ái quốc hội để tập hợp đoàn kết các tầng lớp yêu nước vào mặt trận cứu
quốc giải phóng dân tộc. Cuối năm 1942, Thanh Hoá ái quốc đã đổi thành Mặt trận
Việt Minh Thanh Hoá, hoà nhập vào phong trào chung của cả nước.
Để đáp ứng yêu cầu chi dùng của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, phát
xít Nhật, Pháp ra sức bóc lột nhân dân cả nước nói chung và nhân dân Thanh Hoá
nói riêng. Chính sách vơ vét, bóc lột, đàn áp của phát xít Nhật, Pháp đã làm cho đời
sống của nhân dân Thanh Hoá nói riêng và đời sống của nhân dân cả nước nói
chung vô cùng cực khổ, ý chí cách mạng của nông dân càng thêm nung nấu. Phong
trào đuổi giặc, cứu nước diễn ra sôi nổi từ các huyện đồng bằng đến các huyện miền
núi. Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc ở các phủ, huyện, thị xã phát
triển mạnh và sâu rộng trong tất cả các tầng lớp nhân dân. Tỉnh uỷ lâm thời và Tỉnh
bộ Việt Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương chỉ đạo phong trào đấu tranh của
quần chúng như “chống thu lúa”, “chống bắt phu”, “chống nhổ lúa trồng đay”,

21


“chống chiến tranh phát xít”… Vào thời điểm này, đông đảo nhân dân tham gia
cuộc mít tinh, biểu tình chống sưu cao, thuế nặng, chống bắt phu, bắt lính, chống
nhổ lúa trồng đay… Một trong những cuộc đấu tranh có tiếng vang lớn là cuộc đấu
tranh của 2000 đồng bào huyện Hoàng Hoá tháng 11/1943. Sau đó là cuộc biểu tình
chống thuế ở các huyện Thiệu Hoá, Thọ Xuân, Yên Định, Hậu Lộc, các cuộc đấu
tranh của hàng ngàn nông dân các làng Thổ Phụ, Bình Ngô, Yên Lộ chống Nhật
cướp đất trồng đay. Những cuộc đấu tranh do Việt Minh tổ chức và lãnh đạo, đã lôi
kéo cả một số chánh tổng, lý trưởng tham gia. Trước sức mạnh của quần chúng, kẻ
thù đã phải nhượng bộ và thực hiện một số yêu cầu của nông dân. Kết quả đó đã tạo
nên khí thế mới, đưa phong trào tiếp tục tiến lên.
Phong trào phá kho thóc của Nhật và bọn địa chủ cường hào gian ác chia cho

dân nghèo được nhân dân hưởng ứng đông đảo. Nhân dân đã phá kho thóc ở trại
Xếp Nghĩa (Thiệu Hoá), ở ấp Cần Xá (Nông Cống) của Nguyễn Hữu Ngọc, ở ba
tổng Bút Sơn, Hành Vĩ, Bái Trạch của Lý Phết, Lý Tư và Cai Nguyên. Những cuộc
đấu tranh chống đói đã giành được thắng lợi, vừa giải quyết được một phần nạn đói,
vừa phát động và tổ chức được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia phong trào
cách mạng và thực sự đã trở thành một cuộc vận động chính trị rộng lớn.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương (9/3/1945), Việt
Minh ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng nhân dân, hướng dẫn và lãnh
đạo quần chúng nhân dân xây dựng chiến khu, vũ trang toàn dân tiến tới khởi nghĩa
giành chính quyền.
Trong không khí sục sôi khởi nghĩa của cả nước, đêm 18 rạng ngày
19/8/1945, Uỷ ban khởi nghĩa tỉnh đã phát động lênh khởi nghĩa trong toàn tỉnh.
Lực lượng khởi nghĩa ở các huyện Yên Đinh, Vĩnh Lộc,Thạch Thành, Quảng
Xương, Hậu Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Đông Sơn đã nhất tề nổi dạy giành chính
quyền. Nhân dân đã giành được chính quyền từ tay địch. Trước sức mạnh của nhân
dân, chính quyền tay sai bù nhìn từ phủ, huyện, tổng đến các làng xã đều phải đầu
hàng, trao chính quyền cho nhân dân. Sau đó, chính quyền ở các huyện Thiệu Hoá,
Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ, Tĩnh Gia, Nông Cống, thị xã đều về tay nhân dân. Đến ngày
21/8/1945, thị xã và các huyện đồng bằng (trừ phủ lỵ Đông Sơn) và hai huyện miền
22


núi Thạch Thành, Cẩm Thuỷ đã được hoàn toàn giải phóng khỏi ách thống trị của
Nhật và bè lũ tay sai, thành lập chính quyền dân chủ nhân dân. Ngày 23/8/1945, Uỷ
ban nhân dân cách mạng tỉnh đã ra mắt trước hàng vạn nhân dân lao động trong
không khí của một ngày hội lớn, ngày hội của những người chiến thắng.
Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng 8/1945 ở Thanh Hoá giành được thắng lợi là kết
quả của cả một quá trình vận động cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trong sự nghiệp
cách mạng vĩ đại đó Nông hội đỏ và các hình thức tổ chức phát triển về sau của nó
đã góp phần quan trong vào việc động viên, tổ chức nông dân tham gia quân đội

chính trị và quân đội vũ trang cách mạng đánh đổ chính quyền thực dân, phong kiến
giành chính quyền về tay nhân dân là một trong những lực lượng cơ bản của cách
mạng, giai cấp nông dân ở Thanh Hoá đã cùng với giai cấp công nhân và các tầng
lớp nhân dân làm nên một lịch sử vĩ đại, đánh dấu bước tiến mới trong lịch sử phát
triển của tỉnh nhà. Đồng thời, thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã khẳng định vai
trò to lớn của giai cấp nông dân trong tiến trính phát triển lịch sử và không thể thiếu
vắng, trong mỗi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng cộng sản Việt Nam –
đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo.
1.2.3. Hội Nông dân Thanh Hoá và hoạt động của Hội những năm 1945 – 1954
Cách mạng tháng Tám thành công, đất nước chưa kịp hưởng niềm vui độc
lập, lại phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược
với âm mưu muốn cướp nước ta một lần nữa. Thực hiện lời kêu gọi “Kháng chiến
kiến quốc” của Hồ Chủ Tịch, nông dân tỉnh Thanh Hoá tiếp tục tham gia đấu tranh
bảo vệ chính quyền cách mạng, xây dựng hậu phương, tiến hành kháng chiến và
làm nghĩa vụ quốc tế (1945 – 1954).
Trải qua quá trình xây dựng Nông hội cứu quốc, Thanh Hoá đã có 42.478 hội
viên, là một lực lượng quan trọng trong giai đoạn mới của cách mạng. Đáp lời kêu
gọi “Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thà hi sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc Thanh Hoá nhất tề đứng dạy cùng nhân dân cả nước tiến hành cuộc chiến
tranh cách mạng, bảo vệ thành quả Cách mạng tháng Tám.

23


Ngay sau khi bước vào kháng chiến, Đảng bộ và nhân dân Thanh Hoá rất
vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm. Người đã giao nhiệm vụ cho Đảng
bộ và nhân dân trong tỉnh xây dựng Thanh Hoá thành tỉnh kiểu mẫu, hậu phương
của cuộc kháng chiến. “Phải làm sao cho mỗi mặt chính trị, kinh tế, quân sự phải
là kiểu mẫu. Làm một người kiểu mẫu, một làng kiểu mẫu” [41, tr.52].

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ và Nông hội cứu
quốc tỉnh Thanh Hoá đã lãnh đạo, động viên nhân dân các dân tộc trong tỉnh đẩy
mạnh thực hiện nhiệm vụ “kháng chiến, kiến quốc”. Trên mặt trận lao động sản
xuất, đặc biệt là mặt trận nông nghiệp đã đạt được những thành tựu to lớn. Năm
1947, Thanh Hoá sản xuất 26 vạn tấn thóc, 7.800 tấn ngô, 48.000 tấn khoai lang,
547 tấn bông. Nhân dân trong tỉnh đã tự túc được lương thực. Diện tích trồng cấy
cũng ngày càng được mở rộng: Năm 1949, diện tích trồng lúa tăng them 10.000
mẫu, bông tăng them 6.149 mẫu, ngô tăng them 3.494 mẫu, khoai tăng thêm 9.428
mẫu, lạc tăng thêm 383 mẫu… cùng với đó là việc áp dụng các biện pháp kĩ thuật
vào sản xuất nông nghiệp nên đã mang lại hiệu quả cao [41, tr. 54].
Trong ba năm (1948 – 1950), 8 vạn thanh niên nông dân Thanh Hoá đã
gia nhập bộ đội chủ lực, góp phần đáng kể vào việc xây dựng lực lượng vũ trang
toàn quốc. Vừa chiến đấu, phục vụ chiến đấu, vừa xây dựng hậu phương về mọi
mặt, nông dân các dân tộc trong tỉnh còn góp phần giúp đỡ cách mạng Lào xây
dựng căn cứ kháng chiến. Nhường cơm, xẻ áo giúp đỡ nhân dân các vùng bị địch
tạm chiếm tản cư đến, Nhường nơi ở, ruộng đất, nông cụ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi để đồng bào tản cư sớm ổn định cuộc sống, góp phần tham gia vào
công cuộc kháng chiến.
Đầu năm 1951, tỉnh đã huy động 24 vạn dân công vận chuyển 5.000 tấn
lương thực phục vụ chiến dịch Trung Du, 8,5 vạn dân công phục vụ chiến dịch
Quang Trung. Cuối năm 1951 có 30 vạn dân công phục vụ chiến dịch Hoà Bình.
Cùng với nhân dân cả nước, con em nông dân Thanh Hoá lên đường tòng
quân giết giặc, đã đóng góp sức người, sức của phục vụ cho tiền tuyến, góp phần
làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ “Lừng lẫy năm châu chấn động địa

24


cầu”, kết thúc gần một thế kỷ xâm lược cướp bóc của thực dân Pháp đối với nước
ta. Riêng chiến dịch Điện Biên Phủ, hình ảnh 12 vạn nông dân Thanh Hóa đã tham

gia vận chuyển trên 50% số lương thực, thực phẩm phục vụ cả chiến dịch trên
những tuyến đường Tây Bắc hiểm trở thật cao đẹp. Để khi kết thúc cuộc kháng
chiến chống Pháp, Bác Hồ đã khen ngợi đồng bào các dân tộc Thanh Hoá "Bây giờ
tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ tới đó. Tiếng Điện Biên Phủ tới đâu,
đồng bào Thanh Hoá cũng có một phần vinh dự đến đó".
Trên chặng đường 9 năm của cuộc trường kì kháng chiến, những người nông
dân Thanh Hoá đã cung cấp sức người, sức của cho hầu hết các chiến trường, góp
phần to lớn vào thắng lợi của cuộc chiến tranh cách mạng. Được rèn luyện trong
thực tế đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Nông dân Cứu quốc,
nông dân Thanh Hoá – một bộ phận của giai cấp nông dân Việt Nam đã trưởng
thành về ý thức cách mạng và ý chí đấu tranh, về tinh thần quốc tế trong sáng, về tổ
chức, về tinh thần đoàn kết thống nhất ý chí và hành động với các tầng lớp trong xã
hội vì thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh chống thực dâ n Pháp, giành lại quyền độc
lập, thống nhất của Tổ quốc. Đó là cái vốn quý báu để tỉnh Thanh Hoá vững vàng
bước vào giai đoạn cách mạng mới.
1.2.4. Hội Nông dân Thanh Hoá và hoạt động của Hội những năm 1954 – 1975
Thắng lợi vẻ vang của 9 năm kháng chiến chống bọn thực dân Pháp xâm
lược, bọn can thiệp Mỹ và bè lũ tay sai bán nước đưa nước ta sang một giai đoạn
cách mạng mới. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, từng bước đi lên chủ nghĩa
xã hội, làm cơ sở vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam tỉnh
Thanh Hoá, nông dân và Nông hội Thanh Hoá – lực lượng đông đảo nhất trong tỉnh,
cùng giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác quyết tâm xây dựng Thanh
Hoá thành “một tỉnh giàu đẹp và kiểu mẫu” theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc.
Trong những năm 1954 – 1957, sự kiện lịch sử nổi bật nhất của Thanh Hoá
là cải cách ruộng đất, hoàn thành nốt nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân

25



×