Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC CÔNG DÂN: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.39 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THCS

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Bùi Thị Thu
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015


A. MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Đổi mới chất lượng giáo dục đang là vấn đề được xã hội quan tâm, đặc biệt là
trong điều kiện hiện nay. Muốn đổi mới được chất lượng giáo dục thì chúng ta phải
đổi mới phương pháp dạy học để trong các giờ dạy giáo viên chỉ đóng vai trò tổ chức,
dẫn dắt, định hướng còn học sinh đóng vai trò chủ động, sáng tạo. Có lẽ vì thế mà
trong mấy năm trở lại đây tất cả các giáo viên trên toàn đất nước đều được tham gia
các lớp chuyên đề, tập huấn về nội dung này trên tinh thần chỉ đạo của Bộ giáo dụcđào tạo.
1.2. Môn giáo dục công dân là một môn học có vai trò rất quan trọng trong việc hình
thành, phát triển nhân cách của học sinh. Trong điều kiện hiện nay khi các tệ nạn xã
hội xâm nhập vào thế giới học đường thì việc giáo dục pháp luật cho học sinh qua
môn học này trở thành yêu cầu bức thiết của nghành giáo dục nói chung và của giáo
viên dạy môn giáo dục công dân nói riêng.


1.3.Thực tế dạy học ở nhà trường cho thấy đa số phụ huynh, học sinh đang xem nhẹ
môn học này, coi đó là môn học phụ điều đó ảnh hưởng đến chất lượng dạy học của
môn giáo dục công dân. Còn về phía giáo viên trong các giờ dạy còn chưa chịu khó
tìm tòi, ứng dụng các phương pháp dạy học phù hợp nên giờ dạy trở nên khô khan,
nhàm chán, học sinh chán nản, lười học.
1.4. Để giáo dục pháp luật cho học sinh trong môn giáo dục công dân giáo viên có
thể vận dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau nhưng phương pháp dạy học tình
huống là phương pháp có nhiều tính ưu việt nhất. Đây là một phương pháp dạy học
tích cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao,
làm tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết
các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là
môn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc
áp dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết
Mặc dù vậy nhưng nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu rõ về phương pháp này cũng như
cách vận dụng cụ thể vào bài dạy giáo dục công dân liên quan đến pháp luật.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy học
bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học môn
Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục
2


công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ,
hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THCS
Thạch Lạc

4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Thạch Lạc
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Thạch Lạc
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường phổ thông THCS Thạch Lạc
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra,
đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
3


Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học (Gợi ý)
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác

động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở
lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
4


chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc
tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong
phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:

Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:

5


“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.

Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình
huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích
cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến
thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu
và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức
hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.

6


Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách
quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu
cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là
họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương

pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về
lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra
được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không
sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
7


Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh

đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
8


trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm

phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có
thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình
huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau

9


tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con
đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng

phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
10


khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của
giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho

học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
11


Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào

thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp
thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học cơ sở Thạch Lạc.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Trường THCS Thạch Lạc đóng trên địa bàn xã Thạch lạc- huyện Thạch Hà- Tĩnh Hà
Tĩnh, là một trong những xã nghèo nhất của vùng biển ngang huyện Thạch Hà. Nhân
dân chủ yếu làm nông nghiệp và ngư nghiệp do đó đời sống khó khăn, trình độ dân trí
còn thấp. Trong đó có 1/3 dân số theo đạo thiên chúa. Trường THCS Thạch Lạc là một
trường không nằm trong mô hình trường liên xã nên quy mô nhỏ( 9 Lớp), cơ sở vật
chất phục vụ cho việc dạy học còn thiếu thốn. Học sinh trong trường 1/2 là con em
giáo dân nên tình trạng bỏ học, vắng học, chậm học diễn ra thường xuyên. Phụ huynh
ít quan tâm đến việc học của con cái.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học cơ sở Thạch Lạc.
Trong những năm qua giáo viên, nhà trường luôn đi tiên phong trong việc đổi mới
phương pháp dạy học trong tất cả các môn học trong đó có môn GDCD theo tinh thần

12


chỉ đạo của Bộ GD- ĐT. Tuy nhiên để tìm ra một phương pháp dạy học nhằm giáo dục
pháp luật cho học sinh trong môn giáo dục công dân thật sự mang lại hiệu quả, có tính
ứng dụng cao thì nhiều giáo viên vẫn còn lúng túng. Thực tế cho thấy trong các giờ
dạy GDCD liên quan đến giáo dục pháp luật cho học sinh giáo viên phần lớn sử dụng
phương pháp thuyết trình nhằm cung cấp cho các em các điều khoản trong bộ luật liên
quan đến nội dung bài học. Vì thế giờ học còn khô khan chưa phát huy được được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của các em.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công:
Mặc dù vậy trong những năm qua đối với môn GDCD chúng tôi đã gặt hái được một
số thàn công sau:
- Giáo viên dạy nhiệt tình, có đam mê và không ngừng tìm tòi, áp dụng các phương
pháp dạy học phù hợp với đặc thù bộ môn nhằm giúp các em có hứng thú trong học
tập.
- Phương pháp dạy học tình huống đã thực sự mang lại cho giờ dạy nhiều khởi sắc.
Giáo viên đã xây dựng được nhiều tình huống hay hấp dẫn, lôi cuốn học sinh vào nội
dung bài học. Học sinh thực sự phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
mình.
- Thông qua các giờ học giáo dục pháp luật trong môn giáo dục công dân học sinh có ý
thức chấp hành pháp luật tốt hơn.
- Nhà trường đã xác định được đúng vai trò của môn giáo dục công dân nên tạo điều
kiện thuận lợi cho giáo viên trong việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa liên quan đến
việc giáo dục pháp luật trong môn GDCD.
1.2.3.2 Những hạn chế:
- Giáo viên dạy môn GDCD đa số chưa có chuyên môn, chủ yếu là giáo viên dạy
Toán, Lý, Hóa, Sinh...đảm nhiệm, vì thế việc áp dụng các phương pháp dạy học, đặc
biệt là phương pháp dạy học tình huống gặp rất nhiều khó khăn.

- Các tài liệu tham khảo về dạy học tình huống hạn chế nên giáo viên rất khó khăn
trong việc xây dựng được các tình huống hay.
- Học sinh thuộc diện vùng sâu, vùng xa nên việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong
tình huống nhiều lúc còn bỡ ngỡ, chưa nhanh nhạy.
1.2.3.3 Nguyên nhân
-Nguyên nhân khách quan:
Tình trạng dạy chéo môn dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao ở môn GDCD trong
trường THCS đang là vấn đề trăn trở của giáo dục Hà Tĩnh hiện nay.
Các chuyên đề về ứng dụng các phương pháp dạy học nhằm giáo dục pháp luật trong
môn giáo dục công dân còn ít.
13


- Nguyờn nhõn ch quan:
Tỡnh trang dy chộo mụn dn n nhng giỏo viờn khụng cú chuyờn mụn phi m
nhim ging dy mụn GDCD trng THCS do ú h li tỡm tũi, nghiờn cu, dy
vi t tng qua loa, xong vic.
Hc sinh xem nh mụn hc, coi l mụn hc ph do nh hng ca b m.
TIU KT CHNG 1
Chng I ó i sõu phõn tớch cỏc ni dung c bn lm c s lý lun cho ti nghiờn
cu nh trỡnh by tng quan v lch s nghiờn cu vn trờn th gii v Vit Nam,
gii thớch nhng khỏi nim c bn liờn quan n ti. c bit, tỏc gi ó trỡnh by
lm ni bt cỏc ni dung liờn quan n PPNCTH trong dy hc nh khỏi nim, cu
trỳc tin trỡnh thc hin, u nhc im ca phng phỏp v kh nng vn dng vo
ging dy mụn Giỏo dc cụng dõn trong cỏc nh trng ph thụng hin nay.
CHNG 2: XY DNG TèNH HUNG TRONG DY HC MễN GDCD
NHM GIO DC PHP LUT CHO HC SINH TRUNG HC C S.
Vi ti ny chỳng tụi xin c trỡnh by cỏch vn dng phng phỏpdy hc tỡnh
hung nhm giỏo dc phỏp lut cho hc sinh vo mt bi dy giỏo dc cụng dõn c
th lp 8

Tit 23 - Bi 16:
Quyền sở hữu tài sản của công dân
và nghĩa vụ tôn trọng tài sản của ngời khác
1. Mc tiờu
a. Kin thc
HS hiu ni dungquyn s hu v bit nhng ti sn no thuc s hu ca cụng
dõn.
b. K nng
HS bit cỏch t bo v quyn s hu ca mỡnh.
c.Thỏi
Hỡnh thnh, bi dng cho HS ý thc tụn trng ti snca mi ngi v u
tranh vi cỏc hnh vi xõm hi quyn s hu.
2. Chuẩn bị ca giỏo viờn v hc sinh:
a. Giỏo viờn :
- SGK, SGV 8, nghiờn cu ti liu son bi.
- Hin phỏp nm 1992, B lut Dõn s, B lut hỡnh s.
- Ca dao, tc ng v tớnh tht th trung thc.
14


b. Học sinh:
- SGK, vở ghi.
- Học bài cũ, nghiên cứu bài mới theo câu hỏi trong SGK.
3. Tiến trình bài dạy:
* æn ®Þnh tæ chøc:
a. Kiểm tra bài cũ:
+ Câu hỏi: HS chúng ta phải có trách nhiệm như thế nào trong việc phòng ngừa
tai nạn vũ khí và các chất độc hại?
* Giới thiệu bài:
HS A cầm trong tay cái bút và nói : "Cái bút này của em". HS A đã khẳng định

điều gì với cây bút ?
- HS A là chủ sở hữu của cây bút.
Vậy để hiểu thêm về vấn đề sở hữu, chúng ta cùng học bài hôm nay.
b. Dạy nội dung bài mới:
* Thảo luận:
1. Theo em những người sau đây: Người
chủ chiếc xe máy, người được giao giữ xe,
người mượn xe, ai có quyền :
a, Giữ gìn bảo quản xe .
b, Sử dụng xe để đi .
c, Bán tặng cho người khác mượn .
- Người chủ chiếc xe máy có cả 3 quyền
trên.
- Người được giao giữ xe : Được giữ gìn
bảo quản xe ( trong thời gian gửi xe)
- Người mượn xe: Quyền sử dụng xe để đi (
theo hợp đồng mượn , thuê xe )

I. Đặt vấn đề
1. Người chủ chiếc xe có quyền:
a, Giữ gìn bảo quản xe ->Chiếm hữu.
b, Sử dụng xe để đi -> Sử dụng.
c, Bán, tặng, cho mượn -> Định đoạt.

2. Người chủ chiếc xe có quyền gì đối với 2. Ông An không được bán bình cổ, vì
tài sản đó?
bình cổ không thuộc quyền sở hữu của
- Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
ông mà thuộc về nhà nước. ->Công
dân có quyền sở hữu tài sản đồng thời

3. Bình cổ ông An đào được có thuộc quyền phải có nghĩa vụ tôn trọng tài sản của
sở hữu của ông An không? Vì sao?
người khác
Ông An có quyền bán chiếc bình cổ đó
không? Vì sao?
15


- Bình cổ không thuộc về ông An và bình
cổ truộc về Nhà nước.
- Ông An không được bán bình cổ, chủ sở
hữu mới có quyền bán đó là cơ quan văn
hoá, bảo tàng.

KL: Công dân có quyền sở hữu đối với tài
sản của mình. Quyền sở hữu bao gồm 3
quyền: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt.
Giải thích:
- Chiếm hữu: là chiếm giữ tài sản.
- Sử dụng: là dùng đúng mục đích.
- Định đoạt: là quyết định số phận tài sản.

II. Nội dung bài học

1. Quyền sở hữu tài sản của của
công dân là quyền của công dân đối
với tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình.
Để hiểu rõ hơn quyền sở hữu của công dân - Quyền sở hữu tài sản gồm:
chúng ta chuyển sang tìm hiểu nội dung bài + Quyền chiếm hữu

học.
+ Quyền sử dụng
+ Quyền định đoạt
Em hiểu quyền sở hữu tài sản của công dân - Quyền định đoạt là quyền quyết định
là gì?
đối với tài sản như mua bán, tặng cho,
để lại thừa kế, phá huỷ, vứt bỏ.
Quyền sở hữu tài sản bao gồm những quyền
nào?

Trong 3 quyền trên, quyền nào là quan
trọng nhất? Vì sao?
- Quyền định đoạt là quan trọng nhất vì là
quyền quyết định đối với tài sản.
* Tình huống
Chiếc xe đạp mà chúng ta đến trường
hàng ngày có phải là tài sản thuộc sở hữu
của chúng ta không? Em đánh giá như
thế nào về hiện tượng một số bạn HS
16


mang cầm cố xe đạp để đi chơi điện tử?
- Chiếc xe đạp mà chúng ta đến trường
hàng ngày không phải là tài sản thuộc sở
hữu của chúng ta.
- Một số bạn HS mang cầm cố xe đạp để đi
chơi điện tử là không biết tôn trọng tài sản
của người khác.


2. Những tài sản thuộc sở hữu của
công dân như:
- Thu nhập hợp pháp
- Của cải để dành
- Nhà ở
- Tư liệu sinh hoạt
- Tư liệu sản xuất
- Vốn và tài sản khác của công dân
trong các doanh nghiệp hoặc các tổ
Những tài sản nào thuộc sở hữu của công chức kinh tế khác.
dân? Lấy VD?

Theo em, nghĩa vụ tôn trọng tài sản của
người khác thể hiện phẩm chất đạo đức
nào?
a. Trung thực
b. Liêm khiết
c. Thật thà
3. Nghĩa vụ tôn trọng tài sản của
d. Tự trọng
người khác
- Không lấy tài sản của người khác từ
những thứ nhỏ đến những thứ có giá
Pháp luật nước ta có những quy định như trị lớn
thế nào để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp - Nhặt được của rơi trả lại.
của công dân?
- Khi vay lợ phải trả đúng hẹn.
* Tình huống: Ông Nam đến tiệm cầm - Khi mượn phải giữ gìn cẩn thận,
đồ của chị Hương cầm cố chiếc xe máy dùng xong phải trả ngay.
và hẹn với chị Hương 4 ngày sau sẽ đến - Nếu gây thiệt hại về tài sản phải bồi

lấy. Trong thời gian đó chi Hương đã lấy thường theo quy định cảu pháp luật.
chiếc xe máy của ông Nam cho chị Lan 4. Nhà nước công nhận và bảo hộ
mượn và bị hỏng.
quyền sở hữu hợp pháp của công
a. Em có nhận xét gì về việc làm của chi dân.
Hương?
17


b. Trách nhiệm của chị Hương trong tình
huống này như thế nào?
c. Nếu chị Hương vẫn để chiếc xe máy bị
hỏng trao lại cho ông Nam thì ông Nam
sẽ phải làm gì?
Từ tình huống đó giáo viên định hướng học
sinh trả lời: Việc làm của chị Hương là sai
vì chị Hương không phải là chủ sở hữu nên
không có quyền chiếm hữu, định đoạt, sử
dụng tài sản đó. Chị Hương phải có trách
nhiệm sửa chữa lại xe như tình trạng ban
đầu cho ông Nam. Nếu chị Hương không
sửa chữa thì ông Nam sẽ kiện chị Hương và
nhờ pháp luật can thiệp.
Từ tình huống đó giáo viên cung cấp thêm
cho học sinh điều 175 trong bộ luật dân sự
về: Bảo vệ quyền sở hữu
1. Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân
và các chủ thể khác được pháp luật công
nhận, bảo vệ.
2. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt

trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản
của mình. Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ
ngăn cản kì người nào có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm đòi
lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử
dụng, điịnh đoạt không có căn cứ pháp
luật.
Để củng cố thêm nội dung pháp luật đó
giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu tình
huống sau:
Bà Lan đến nhà Bà Hà vay một khoản
tiền 20.000000 hẹn 60 ngày sau sẽ hoàn
lại cả gốc và lãi. Nhưng đến hết thời gian
quy định nhưng Bà Lan vẫn dây dưa
không chịu trả nợ.
a. Việc làm của bà Lan đúng hay sai? Vì III. Bài tập
18


sao?
b. Nếu bà Lan vẫn không chịu trả nợ thì
bà Hà phải làm gì?
Giáo viên định hướng trả lời:
Việc làm của bà Lan là sai vì đã không tôn
trọng tài sản của người khác.
Nếu bà Lan không chịu trả nợ thì bà Hà có
thể kiện ra tòa và giải quyết theo luật dân
sự.
Nói thêm về quyền sở hữu trí tuệ như: sở
hữu sáng chế hay sở hữu sáng tá)

* Bài tập 1
- Ngăn chặn ngay việc làm đó.
- Giải thích cho bạn không được làm
như vậy.
- Hỏi bạn nếu có khó khăn gì sẽ cùng
nhau giúp đỡ.
- Nếu bạn không nghe sẽ báo cho cô
giáo chủ nhiệm và gia đình bạn.
* Bài tập 2
- Bình hành động như vậy là trái quy
định của pháp luật
- Nếu em là Bình em sẽ đến cơ quan
công an nhờ tìm lại chủ của người bị
mất.
c. Củng cố, luyện tập:
- Quyền sở hữu tài sản của công dân là gì?
- Quyền sở hữu tài sản bao gồm những quyền nào?
- Nghĩa vụ tôn trọng tài sản của người khác thể hiện như thế nào ?
d. Hướng dẫn HS tự học ở nhà:
- Học thuộc nội dung bài học.
- Bài tập về nhà: bài 5 (sgk - tr 47)
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Với giáo án trên chúng tôi đã cố gắng vận dụng phương pháp giáo dục tình huống
nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua một tiết dạy cụ thể . Thông qua các
tình huống cụ thể đó học sinh đã vận dụng các kiến thức trong nội dung bài học để giải
19


quyết các vấn đề đặt ra trong các tình huống đó. Đồng thời qua các tình huống đó giáo
viên giáo dục pháp luật cho các em về những vấn đề liên quan đến nội dung bài học,để

từ đó giúp các em điều chỉnh được hành vi của mình phù hợpvới các chuẩn mực xã hội
, nâng cao ý thức chấp hành hành pháp luật.
KẾT LUẬN
Trong các phương pháp dạy học ở môn giáo dục công dân thì phương pháp dạy học
tình huống đã thể hiện được tính ưu việt của nó dặc biệt là trong những bài dạy có liên
quan đến kiến thức pháp luật. Thông qua các tình huống cụ thể giáo viên đã giúp học
sinh kéo gần khoảng cách giữa lí thuyết và thực tiễn.Các em làm việc tích cực, chủ
động hơn, mạnh dạn đưa ra những cách giải quyết tình huống hay. Từ đó giáo viên dễ
dàng trong việc giáo dục pháp luật cho các em, giúp các em dễ nhớ và nhớ lâu hơn.
Giờ học nhờ vậy mà lôi cuốn hấp dẫn hơn. Tuy nhiên giáo viên cần chọn các tình
huống vừa sức với các em, và mang tính thiêt thực thì hiệu quả của giờ dạy sẽ cao hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Sách giáo khoa GDCD 8- NXB GD
2. Sách Giáo viên GDCD-b NXB GD
3. Luật Dân sự
4. Thiết kế dạy học môn GDCD- NXB GD
5. Phương pháp dạy học môn GDCD- NXB GD

20


21



×