Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC CÔNG DÂN: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Tr­êng THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.82 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở Trêng THCS

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Bïi ThÞ ViÖt Ph¬ng
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A
§¬n vÞ : Trêng THCS Xu©n Léc - Can Léc


Hà Tĩnh, năm 2015
ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
5.2 Phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Đóng góp mới của đề tài
8. Kết cấu của đề tài


2


A . phÇn MỞ ĐẦU :

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung,
mảng kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân
cách, rèn giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt,
trong điều kiện phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với
trình độ phát triển cao của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp
dụng các phương pháp dạy học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình
huống) là việc làm cần thiết đối với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà
trường phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến
phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân
trong nhà trường phổ thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo
lối truyền thống, dạy chay học chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng,
cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học
tích cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao,
làm tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải
quyết các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục
công dân là môn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân

3



cách học sinh. Việc áp dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn
GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “ Sử

dụng

phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục
pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học môn Giáo
dục công dân” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu
việc áp dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn
Giáo dục công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực
tiễn, thái độ, hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường
THCS Xu©n Léc.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo
dục công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy
học môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu

4



- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Xu©n Léc
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Xu©n Léc .
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục
công dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Xu©n Léc
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết
lý thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều
tra, đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như
phỏng vấn sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.

5


7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo
viên GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học
sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu

B . phÇn NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN
GDCD
I . Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình
huống trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định
nghĩa về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự
phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác,
tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục
đích của giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học
sinh nhằm đảm bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.

6


Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò,
trong quá trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên
cứu, mà kết quả là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương
pháp dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy
rằng giữa dạy và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp
học, chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với
nhau về mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình
dạy học. Trong sự thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn
phương pháp học có tính độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương
pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp
dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương
pháp học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý,
và bằng lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn
và kiểm tra, đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy,
hai chức năng này gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau
được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi
nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng
chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa
truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học
của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho
phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại
vừa phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học
7


sinh phải tiếp thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ
lôgic bài giảng của thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định
hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi
thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi
tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp
học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm

nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của
dạy với học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của
mỗi hoạt động truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong
học. Nói cách khác, dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt
phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương
pháp học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi
chép và sơ bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin,
biến nó thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư
duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.

8


Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của
nó là vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận
thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ
đạo trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá
trình học sẽ đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống

* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu
thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các
phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh
gắn với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính
phức hợp được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của
cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những tình huống thực hoặc mô
phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan
của bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và
có thể giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn
đề học tập là những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu
thuẫn biện chứng giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải
tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện
khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế,
khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình
huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới.
Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu
9


quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn
ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo
của con người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có
nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước,
mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội
được kiến thức, phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của

người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy
học là: tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó
khăn, học sinh ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm
thấy với khả năng của mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay
vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động
nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề
xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của
việc nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận
thức mới hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những
lúng túng về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó
thì những tri thức và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất

10


nhiên việc giải quyết vấn đề không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có
của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà
trong đó giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp
mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải
tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là

bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả
phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó
cho các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải
quyết nó nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do
thiếu kiến thức cần thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ
lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh
chưa biết cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ
năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo
nên nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học
sinh chấp nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của
học sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới
(mục đích cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn
đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một
11


trong những phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích
cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức
rộng cả về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì
giáo viên không đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng
không đúng với nội dung hoặc không sát thực tế. Từ đó làm cho người học
không định hướng được cách giải quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.

1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học
làm trung tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ
hiểu và dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân
tích, thảo luận, người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và
ghi nhớ những kiến thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học
lý thuyết, người học có thể rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết
mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp
người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình giải
quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng
cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học
truyền thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa
giáo viên và học sinh, trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học
sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống
tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo
viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong một
hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải
12


dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ
quan điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo
viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án
giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người
học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến,
quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức
của họ.

Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để
liên kết, vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống,
học viên có thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong
cùng một môn học hoặc của nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình
huống giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra
nhưng bản thân chưa đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và
phong phú nên không loại trừ khả năng phát sinh những tình huống mà
người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao giờ. Trong tình huống
này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập, sáng
tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng
người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức
cho cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học
có thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh
luận và thuyết trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học
có thể thành công trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ
dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi
trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá trình giải quyết
tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh
13


luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông
một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic;
hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các
tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có
khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến

thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy
kiến thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu
được áp dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có
khả năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định
hướng trong học tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá
nhân người học”. Thông qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh
học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương
lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có thể tự định hướng học
tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng
thú của phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng
tình huống, học sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến
thức nào cần được nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng
hứng thú của học sinh đối với việc học vì nó kích thích người học tham gia
tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh
luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo
luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời
những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
14


Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học
bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học
sinh, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin,
giải pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài
giảng của mình, nhất là từ những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo.
Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có
thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có

những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình
huống còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng
dạy bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều
quan điểm khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn
kiến thức xã hội và kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo
luận về tình huống sẽ không hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục
như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là trong những lớp học
mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác nhau, và
giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự
học, thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng
động. Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương
pháp học bằng tình huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ
lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng
tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian
của người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng
15


thời gian nhất định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối
hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong
phương pháp học bằng tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc
tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương
pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng
viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ
năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội

và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình
huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng
dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ
ngơi” vì trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để
làm. Đây là một ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi
hỏi những kỹ năng phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học,
bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận,
dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là những thách
thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử
dụng tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong
quá trình thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài
học. Tùy thuộc vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức
độ phức tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống
dưới dạng các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình
huống này thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể
16


dùng ngay trong bài thuyết giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh
họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy
tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống
phức tạp hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước
khi lên lớp giờ thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao
gồm một hoặc một số vấn đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết

giảng của một bài học mới. Các tình huống này cần được giao trước cho học
sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình huống không cần
quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ
những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức
tạp nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này
là để học sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải
quyết các vụ việc trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại
tình huống này yêu cầu học sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được
giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên.
Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học
sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh.
Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về
sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống
theo độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên
có thể xây dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở
là các vụ việc mà trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau.
Loại tình huống này rất tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn
17


luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống thuộc loại
này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi
đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một
kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo
viên sẽ định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống
này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học

Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một
vấn đề nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy,
quy trình xây dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều
ngược lại với quy trình giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình
này có thể được mô tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần
truyền đạt tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào
đó giáo viên muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái
niệm khác hay cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên
muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến
thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông thường chính là
những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu. Việc
giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở
các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình
thành một tình huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có
18


hai cỏch xõy dng tỡnh tit s kin. Th nht, giỏo viờn cú th da trờn
nhng v vic ó xy ra v ó c gii quyt mt cỏch sỏng to. Nu cú
nhng v vic liờn quan ti nhng ni dung kin thc m giỏo viờn ang
mun hc sinh tỡm hiu thỡ giỏo viờn cú th ly tỡnh tit ca v vic ú ri
iu chnh tỡnh tit s kin cho phự hp vi yờu cu ca mỡnh. Th hai, nu
khụng tỡm c v vic thc t thỡ giỏo viờn cú th t xõy dng nờn mt tỡnh
hung gi nh. Trong trng hp ny cỏc tiờu chun ca mt tỡnh hung tt

nh phõn tớch trờn õy phi c tuõn th.
Vic xõy dng c tỡnh hung tt l mt cụng on quan trng trong
quỏ trỡnh dy hc bng tỡnh hung .
II. C S THC TIN CA TI NGHIấN CU

1.2 Thc trng ca vic giỏo dc phỏp lut cho hc sinh trong dy hc
mụn GDCD trng Trung hc cơ sở Xuân Lộc - Can Lộc - Hà Tĩnh
1.2.1 c im ca a bn kho sỏt
Trờng THCS Xuân Lộc là một trong những trờng cách trung tâm thị trấn
không quá xa ( khoảng 4 km ) , nên học sinh nói chung có điều kiện tiếp
xúc, học hỏi những mặt tiến bộ của các bạn học sinh ở các trờng điểm
trong khu vực. Tuy nhiên vì điều kiện đặc thù do ở địa bàn xã con em giáo
dân chiếm phần đông dân số của xã nên còn có nhiều hạn chế trong công
tác giáo dục đạo đức cũng nh pháp luật cho các em.
1.2.2 Thc trng ca vic s dng cỏc PPDH nhm giỏo dc phỏp lut
cho hc sinh trong dy hc mụn GDCD trng Trung hc ...
1.2.3 Nhng thnh cụng v hn ch
1.2.3.1 Nhng thnh cụng
1.2.3.2 Nhng hn ch
19


1.2.3.3 Nguyên nhân

2.2 Thực trạng sử dụng Phương pháp dạy học nói chung, Phương pháp dạy
học tình huống (hay nghiên cứu tình huống) nói riêng trong dạy học môn
Giáo dục công dân ở trường THCS Xu©n Léc - Can Léc - Hµ TÜnh

Thường


Mức độ vận dụng
Thỉnh
Không

xuyên

thoảng

bao giờ

(%)
20

(%)

1. PP thuyết trình

(%)
80

2. PP vấn đáp

70

30

50

3. PP trực quan
4. PP phân vai


60

5. PP hợp tác làm việc theo nhóm
6. PP dạy học tình huống (Nghiên cứu

70

tình huống)
7. PP project
8. Các phương pháp khác

30

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài
nghiên cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và
Việt Nam, giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả
đã trình bày làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học như
khái niệm, cấu trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả

20


năng vận dụng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ
thông hiện nay.
Chương 2
THỰC NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH
HUỐNG nh»m gi¸o dôc ph¸p luËt cho häc sinh TRONG DẠY

HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN ë bËc thcs .
2.1. KẾ HOẠCH THỰC NGHIỆM
2.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học bằng tình
huống nh»m gi¸o dôc ph¸p luËt cho häc sinh trong chương trình Giáo dục công
dân lớp 8 tại trường THCS Xu©n Léc , nhằm xác định sự đúng đắn và hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống trong việc phát huy tính tích cực của học
sinh trong học tập phần công dân với ph¸p luËt trong chương trình Giáo dục công
dân .
2.1.2. Phương pháp thực nghiệm
Trong quá trình thực nghiệm để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả sử dụng phương pháp điều tra số
liệu thông qua phát phiếu thăm dò để khảo sát trình độ lớp đối chứng và lớp thực
nghiệm, tiến hành giảng dạy các lớp đã lựa chọn, kiểm tra đánh giá kết quả lớp
dạy, tác giả phân tích, tổng hợp số liệu thu thập được sau khi giảng dạy. Trên cơ
sở phân tích số liệu đó tác giả rút ra kết luận về hiệu quả của phương pháp dạy học
bằng tình huống.
2.1.3. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả lựa chọn học sinh
của các lớp 8A và lớp 8E trường THCS Xu©n Léc. Trong các lớp được lựa chọn
thì lớp 8A là lớp thực nghiệm còn lớp 8E là lớp đối chứng.
2.1.4. Nội dung thực nghiệm

21


Ni dung c la chn tin hnh thc nghim l Bài Quyền khiếu nại , tố cáo
của công dân ( GDCD lớp 8 )
2.2. TIN TRèNH THC NGHIM
2.2.1. Kho sỏt khi lp i chng vi khi lp thc nghim

Khi lp d kin dy i chng l lp 8E v khi lp d kin dy thc
nghim l lp 8A .
Lp 8A : s s lp l 36 cú 20 n v 16 nam. Hc lc gii 1, khỏ 16, trung
bỡnh l 19. im trung bỡnh mụn Giỏo dc cụng dõn: t 8.0 tr lờn l 22 em, 6.5 tr
lờn l 14 em.
Lp 8E: s s lp l 29, cú 18 n v 11 nam.. im trung bỡnh mụn Giỏo dc
cụng dõn: t 8.0 tr lờn l 11 em, 6.5 tr lờn l 18 em.
Qua kho sỏt lp i chng v lp thc nghim ta thy sc hc ca hai lp ny
tng i ng u, õy l iu kin thun li thc nghim s phm.
2.2.2. Thit k giỏo ỏn vn dng phng phỏp dy hc bng tỡnh hung
Thit k giỏo ỏn cú vn dng phng phỏp dy hc bng tỡnh huống nhằm
giáo dục pháp luật trong môn GDCD 8 .
* Thit k giỏo ỏn lp i chng.
Giỏo ỏn lp i chng chỳng tụi dy theo phng phỏp thuyt trỡnh v m thoi
trờn c s giỏo ỏn ó thit k sn.
* Thit k giỏo ỏn lp thc nghim.
Trờn c s cỏc bi hc la chn, tụi thit k giỏo ỏn theo hng vn dng phng
phỏp dy hc bng tỡnh hung thc hin.
C th nh sau:
Thit k giỏo ỏn thc nghim
Tiết 25 . Bài 18:
quyền khiếu nại , tố cáo của công dân
I- Mục tiêu cần đạt
- Phân biệt đợc nội dung của quyền khiếu nại và quyền tố cáo của công dân
- Biết bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân ; hình thành ý thức đấu tranh chống
hành vi vi phạm pháp luật
- Thấy đợc trách nhiệm của Nhà nớc và công dân trong việc thực hiện hai
22



quyền này .
II- Chuẩn bị
1- Thầy: SGK, SGV, TLTK, bảng phụ
2- Trò : SGK, xem trớc bài
III- Hoạt động dạy học
1, ổn định:
2, Kiểm tra bài cũ
Nêu các loại tài sản nhà nớc và lợi ích công cộng ? Bản thân em đã thực
hiện những quy định của nhà nớc nh thế nào ?
3, Bài mới .
GV tổ chức cho HS sắm vai các tình
I- Đặt vấn đề.
huống SGK.
HS tự phân vai và lời thoại
Nhóm 1. Báo cho cơ quan có chức năng
- TH1. HS trong vai ngời có vẻ giấu
theo dõi . Nếu đúng ,cơ quan có thẩm
giếm buôn bán , sử dụng ma túy
quyền xử lý theo pháp luật
- TH2. HS thể hiện vai ngời lấy xe đạp
Nhóm 2. Em báo cho thầy cô giáo hoặc
của bạn bị phát hiện
công an việc lấy cắp xe của bạn
- HS trong vai anh H , ngời bị đuổi việc Nhóm 3. Anh H khiếu nại lên cơ quan có
không rõ lý do
thẩm quyền để cơ quan có trách nhiệm
Nếu em ở vào các tình huống trên , là ng- yêu cầu giải quyết
ời chứng kiến em sẽ làm gì ?
Qua ba tình huống trên em rút ra cho
mình đợc bài học gì ?

GV yêu cầu học sinh lấy một vài tình
huống khi cần khiếu nại và tố cáo trong
thực tế .
GV nêu tình huống :
Tình huống 1 :
Bác Tam là ngời tàn tật nhng phòng thuế
của xã lại định mức đóng thuế cho cửa
hàng của bác bằng mức thuế của những
ngời bình thòng khác . Nghe chuyện đó ,
bác Bình nói :
- Tôi đợc biết , những ngời tàn tật là
đối tợng đợc xét miễn giảm thuế
đấy . Bác làm đơn khiếu nại đi .
Theo em, bác Bình khuyên bác Tam nh
vậy là đúng hay sai ? Vì sao ?
Tình huống 2 :
Chứng kiến cảnh một bạn gái 14 tuổi đi
làm thuê, thờng xuyên bị chủ cửa hàng
đánh đập, Hoa rất thơng bạn nên có ý
định tố cáo hành động đó với cơ quan
công an . Nhng Hà can ngăn :

23


-

Hãy nhờ bố mẹ đi báo công an ,
chúng mình còn nhỏ làm gì có
quyền đợc tố cáo ngời khác .

Em có đồng ý với ý kiến của bạn Hà
không ? Vì sao ?
GV tổ chức cho học sinh thảo luận thành
các nhóm nhỏ , mỗi nhóm thảo luận một
tình huống .
Đại diện các nhóm trình bày , áp dụng kĩ
thuật trình bày một phút .
* Kết luận :

=> Kết luận :
GV định hớng cho HS :
1. Bác Bình khuyên bác Tam làm
đơn khiếu nại là đúng vì ngời
khuyết tật đợc quyền đề nghị xem
xét miễn giảm thuế kinh doanh
đối với mình .
2. Không đồng ý với ý kiến của bạn
Hà , vì ai cũng có quyền tố cáo
các hành vi vi phạm pháp luật .
Nhóm 4. Bài học : khi biết đợc các tổ
chức, cơ quan nhà nớc vi phạm pháp luật
gây thiệt hại đến lợi ích của mình , nhà
nớc .khiếu nại và tố cáo .
- Ai là ngời thực hiện ?
- Thực hiện vấn đề gì ?
- Vì sao ?
- Để làm gì ?
- Dới hình thức nào ?
HS thảo luận và điền vào bảng


Ngời thực
hiện (là ai ? )
Đối tợng (vấn
đề gì ?)
Cơ sở (vìsao ?
)
Mục đích
(để làm gì ? )

Khiếu nại
Công dân có quyền và lợi ích
bị xâm phạm
Các quyết định hành chính ,
hành vi hành chính
Quyền, lợi ích bản thân ngời
khiếu nại .
Khôi phục quyền , lợi ích ngời
khiếu nại .

Hình thức

Trực tiếp , đơn th , báo đài ....

Tố cáo
Bất cứ công dân nào
Hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt
hại đến lợi ích nhà nớc
Gây thiệt hại đến lợi ích nhà nớc ,
tổ chức và công dân
Ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm

lợi ích của nhà nớc , tổ chức, cơ
quan, công dân
Trực tiếp , đơn , th , báo ,đài..

GV cho học sinh làm bài tập 4 SGK
Nhận xét sự giống và khác nhau về quyền khiếu nại và quyền tố cáo ?
So sánh
Điểm

Khiếu nại
Tố cáo
-Là quyền của công dân đợc quy định trong hiến pháp
- Là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
24


giống

- Là phơng tiện công dân tham gia quản lý nhà nớc và xã hội
- Là ngời trực tiếp bị hại

- Mọi công dân có quyền để ngăn
chặn hành vi xâm phạm lợi ích nhà
nớc , tổ chức , cơ quan và công dân

Điểm khác

II- Nội dung bài học .
1, Quyền khiếu nại
- Là quyền của công dân đề nghị với

cơ quan có thẩm quyền .thiệt hại lợi
ích của mình
2, Quyền tố cáo
- Là quyền của công dân báo cho cơ
quan nhà nớc cơ thẩm quyền ..gây
Quyền khiếu nại và tố cáo có ý nghĩa nh thế thiệt hại cho nhà nớc , tổ chức, cơ quan ,
nào ?
cá nhân
3, Hình thức
Vì sao hiến pháp lại quy định công dân - Trực tiếp , gián tiếp
có quyền khiếu nại và tố cáo ?
4, ý nghĩa :
GV ghi điều 74 hiến pháp 1992 lên
- Là quyền cơ bản của công dân đợc
bảng phụ
ghi trong hiến pháp và các văn bản luật
Đọc điều 74 cả lớp nghe .
- Khi thực hiện 2 quyền này cần
Trách nhiệm của các cơ quan giải quyết
trung thực , khách quan , thận trọng .
khiếu nại , tố cáo nh thế nào ?
5,Trách nhiệm của nhà nớc và công
Trách nhiệm của ngời khiếu nại , tố cáo ? dân .
Ngoài Hiến pháp 1992 , Quốc hội còn
- Nhà nớc nghiêm cấm hành vi trả
ban hành luật gì? Có hiệu lực từ bao giờ ? thù ngời khiếu nại , tố cáo
Có nội dung gì ?
- Nghiêm cấm việc lợi dụng 2
quyền này để vu khống ngời bị hại
6, Học sinh cần làm .

- Nâng cao hiểu biết về pháp luật
- Học tập, lao động , rèn luyện đạo
đức ..
4, Bài tập
Bài tập1. Hãy nhận xét và phát biểu suy nghĩ của mình về các ý kiến sau :
- Thực hiện quyền khiếu nại ,tố cáo là tham gia quản lý nhà nớc , quản lý xã
hội
(bổ sung : bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân )
- Thực hiện quyền khiếu nại và tố cáo không phải là tham gia quản lý nhà nớc
và xã hội mà chỉ để bảo vệ lợi ích của bản thân công dân (là tham gia quản lý nhà
nớc và xã hội)
5, Hớng dẫn về nhà
- Học thuộc bài
- Làm các bài tập còn lại
Quyền khiếu nại là gì ? Khi nào thì khiếu
nại ? Cho ví dụ ?
Quyền tố cáo là gì ? Khi nào thì tố cáo ?
lấy ví dụ ?
Công dân có thể thực hiện 2 quyền này
bằng những hình thức nào ?

25


×