Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC CÔNG DÂN: Sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.07 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Sử

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông
trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Đặng Thị Nga
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục pháp luật nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân ‘cách, rèn
giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện
phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao
của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy
học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối
với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường


phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy
học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học
chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, trò ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh… Giáo dục công dân là môn
học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp
dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy học
bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học
môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục
công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ,
hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THPT
Nguyễn Đổng Chi.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
2


Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Giáo dục công dân.

5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THPT Nguyễn Đổng Chi.
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THPT Nguyễn Đổng Chi.
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường phổ thông THPT Nguyễn Đổng Chi.
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra,
đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD.
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu.
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu.


3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học.
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác
động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở

lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc
4


tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong
phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
5


truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huống thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình

huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích
cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến
thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu
và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức
hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.

6



Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách
quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu
cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là
họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về
lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra

được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không
sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
7


học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.

Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
8


huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm
phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể

đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có
thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình
huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con
9



đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học

Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của

10


giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn

bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
11


Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp

thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả lựa chọn học sinh của
các lớp 12A và lớp 12C trường Trung học phổ thông Nguyễn Đổng Chi huyện Lộc Hà
tỉnh Hà Tĩnh. Trong các lớp được lựa chọn thì lớp 12A là lớp thực nghiệm còn lớp
12C là lớp đối chứng.
Thời gian tiến hành thực nghiệm là từ tháng 1 đến cuối tháng 2 năm 2012.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học
Nội dung pháp luật ở chương trình lớp 12 bộ môn GDCD liên quan đến khá nhiều
luật (Luật Hiến pháp, Luật Khiếu nại và Tố cáo, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Dân
sự, Luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ...). Để học sinh hiểu được kiến thức pháp
luật một cách cặn kẽ không phải là chuyện dễ. Bởi kiến thức pháp luật vốn dĩ đã khó
lại khô khan cho nên khó hấp dẫn đối với các em. Để khắc phục được điều này đòi hỏi
mỗi giao viên phải thực sự nổ lực trong việc nghiên cứu tìm tòi và vận dụng các
12



phương pháp, biết chắt lọc các thông tin mang tính thời sự để xây dựng các tình huống
có tính thuyết phục với các em. Lâu nay một số giáo viên đã làm được điều này. Tuy
nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên ngại tìm tòi đổi mới phương pháp, vẫn sử
dụng phương pháp dạy học cũ là thuyết trình do đó không phát huy được tính tự học
của các em và làm cho việc dạy và học diễn ra một cách thụ động theo kiểu: Thầy
giảng - trò nghe, thầy hỏi- trò trả lời, thầy đọc - trò ghi chép và học thuộc.
Dạy bộ môn GDCD nói chung và kiến thức pháp luật nói riêng phải theo hướng phát
huy tính tich cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng cho học sinh
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên. Quá trình
dạy học là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên
thiết kế, tổ chức và hướng dẫn qua đó các em có thể tự khám phá và chiếm lĩnh nội
dung bài học. Học sinh sẽ hứng thú, thông hiểu và ghi nhớ những gì các em nắm được
qua hoạt động chủ động tích cực của chính mình.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công:
Những năm gần đây cùng với việc dạy học tiếp cận với các phương pháp mới
( phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp dự án, phương
pháp điều tra khảo sát, phương pháp tình huống...) đã đem lại hiệu quả cao cho việc
giảng dạy. Học sinh không còn thụ động trong việc lĩnh hội tri thức. Các em đã biết tự
nghiên cứu học hỏi, giáo viên với tư cách chỉ là người hướng dẫn. Nhiều giáo viên đã
mạnh dạn đổi mới phương pháp, mạnh dạn tiếp cận công nghệ thông tin nên đã thu hút
được các em đối với bộ môn, phát huy được tính tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo,
rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức
vào các tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trên việc vận dụng các phượng pháp dạy học
hiện nay vào quá trình giảng dạy đặc biệt là giảng dạy pháp luật cũng gặp không ít khó
khăn.
1.2.3.2 Những hạn chế

Trong việc vận dụng phương pháp vào dạy học có thể nói đang gặp sự bất cập đó là
không phải giáo viên nào cũng mặn mà với việc này, bởi nó chiếm khá nhiều thời gian
cũng như công sức của người giáo viên. Bên cạnh đó điều kiện để hỗ trợ cho việc vận
dụng các phương pháp cũng có nhiếu khó khăn (kinh phí cho làm các dự án, viết kịch
bản cho đóng vai, thời gian để xây dựng các tình huống...). Một khó khăn nữa là sự
hợp tác của học sinh, một số em theo nếp học cũ thụ động nghe thầy cô giảng, lười suy
nghĩ, ỷ lại bạn bè do đó cũng gây khó khăn cho việc đổi mới phương pháp.
1.2.3.3 Nguyên nhân: Có một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Giáo viên:
13


+ Không chịu học hỏi, lười suy nghĩ
+ Ngại tiếp cận với công nghệ thông tin.
+ Chưa tự tin trong việc đổi mới các phương pháp dạy học.
+ Việc xây dựng các tình huống còn gặp nhiều lúng túng.
- Học sinh:
+ Vẫn quan niệm phân biệt đối với các môn học do đó việc còn học mang tính đối
phó.
+ Thái độ ỷ lại thầy cô và bạn bè, không chịu hợp tác với thầy cô và các bạn trong
việc tự lĩnh hội tri thức. Đây cũng chính là lý do làm cho một số giáo viên cảm
thấy không mặn mà khi bỏ công sức và thời gian để vận dụng các phương pháp khi
dạy về kiến thức pháp luật.
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học tình huống chúng ta có
thể thấy được đây là phương pháp dạy học rất phù hợp đối với nội dung pháp luật
không chỉ đối với học sinh cấp THPT mà bao gồm cả học sinh THCS.
Trong thực tiễn giảng dạy nhiều giáo viên đã mạnh dạn lựa chọn phương pháp này.
Tuy nhiên vẫn có giáo viên còn ngại ngần vì lý do này hay lý do khác. Trên cơ sở lý
luận và thực tiễn của việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc biệt là dạy pháp luật
ở trường phổ thông tôi nhận thấy việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

là điều thực sự cần thiết. Tuy nhiên để góp phần thành công trong việc giảng dạy đòi
hỏi giáo viên phải biết vận dụng phối hợp cùng với các phương pháp khác một cách
linh hoạt chứ không phải nhất nhất giờ học chỉ vận dụng một phương pháp này. Nếu
làm được điều đó chắc chắn bộ môn GDCD nói chung đặc biệt là kiến thức pháp luật
sẽ không còn là sự nhàm chán với các em.

14


CHNG 2
XY DNG TèNH HUNG TRONG DY HC MễN GDCD NHM GIO
DC PHP LUT CHO HC SINH THPT.
2.1. Cn c vo mc phc tp xõy dng mt s tỡnh hung khi giỏo dc phỏp
lut cho hc sinh THPT.
Loi 1: Tỡnh hung gin n
Vớ d: Anh Hoàng Thanh Tuấn đã tốt nghiệp đại học, không phải là đối tợng
không đợc thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam theo khoản 2 Điều 13 Luật
Doanh nghiệp năm 2005 (các đối tợng này bao gồm : Cán bộ, công chức theo quy định
của pháp luật về cán bộ công chức ; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam ;
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
Việt Nam ; cán bộ lãnh đạo, quản lí nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở
hữu nhà nớc). Với mục đích thành lập doanh nghiệp t nhân, anh Tuấn đã nộp đủ hồ sơ
đăng kí kinh doanh theo quy định của Điều 16 luật này tại cơ quan đăng kí kinh doanh
có thẩm quyền. Sau 10 ngày làm việc, kể từ ngày nộp hồ sơ, anh Tuấn đến cơ quan
đăng kí kinh doanh trên yêu cầu cấp cho mình Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Câu hỏi:
1. Việc làm trên của anh Tuấn là hành vi thực hiện pháp luật dới hình thức nào
sau đây :
Sử dụng pháp luật ; thi hành pháp luật ; tuân thủ pháp luật ; áp dụng pháp luật.

2. Anh Tuấn có sử dụng đúng đắn các quyền của mình hay không ? Vì sao ?
Tỡnh hung ny cú th vn dng vo Bi 2: Thc hin phỏp lut (c th l vn dng
vo ni dung S dng phỏp lut).
Vi tỡnh hung gin n giỏo viờn khụng cn mt quỏ nhiu thi gian xõy dng
tỡnh hung cng nh gii thớch cho cỏc em. T bn thõn cỏc em cú th gii quyt c
tỡnh hung.
Loi 2: Tỡnh hung phc tp
Vớ d: Ch Hng v quờ vi mt s vn ln sau nhiu nm lao ng vt v nc
ngoi. Ch d nhthnh lp doanh nghip v kinh doanh trong lnh vc xõy dng. Cú
ngi khuyờn ch khụng nờn u t vo lnh vc trờn vỡ ú cú nhiu doanh nghip
Nh nc ang hot ng, nhng ngi lónh o cỏc doanh nghip ny u l nam
gii, ch l phỏi n chc chn s b cỏc doanh nghip trờn gõy khú khn trong kinh
doanh. Vỡ th ch nờn tỡm mt lnh vc kinh doanh phự hp vi mỡnh hn.
Cõu hi:
Cõu 1: Em cú nhn xột gỡ v li khuyờn trờn?
Cõu 2: Nu l cỏn b lónh o ca a phng, em s lm gỡ trc s vic trờn?
Tỡnh hung ny s ỏp dng vo bi 4: Quyn bỡnh ng ca cụng dõn trong mt s lnh
vc ca i sng xó hụi (ni dung bỡnh ng trong lao ng).
tr li c cõu hi trong bi tp tỡnh hung ny ũi hi hc sinh phi bit c
quy nh c th trong iu Lut ca B Lut lao ng.
15


iu 109 B lut Lao ng quy nh: Nh nc m bo cỏc quyn lm vic ca
ph n bỡnh ng v mi mt i vi nam gii, cú chớnh sỏch khuyn khớch ngi s
dng lao ng to iu kin lao ng n cú vic lm thng xuyờn, ỏp dng rng
rói ch lm vic cú thi gian biu linh hot...
iu13 Lut u t quy nh: cỏc nh u t cú quyn t u t, kinh doanh ch
ng trong vic la chn lnh vc u t, hỡnh thc u t, phng thc huy ng
vn, a bn, quy mụ u t, i tỏc u t v thi hn hot ng ca d ỏn, ch ng

ng kớ kinh doanh mt hoc nhiu ngnh ngh; thnh lp doanh nghip theo quy nh
ca phỏp lut; t quyt nh v hot ng u t kinh doanh ó ng kớ.
Cn c vo ni dung m giỏo viờn mun chuyn ti n hc sinh xõy dng tỡnh
hung phự hp. Ngoi vic a ra tỡnh hung giỏo viờn phi chun b cỏc iu Lut
cỏc em hiu thờm v cỏc kin thc phỏp lut thụng qua cỏc nghnh lut c th. Tỡnh
hung ny liờn qua n ngnh Lut Lao ng, qua ú trang b mt s hiu bit cho cỏc
em v hỡnh thnh cỏc em thỏi bit tụn trng ngi lao ng trong ú bao gm c
lao ng n.
Loi 3: Tỡnh hung y
Chị Xuân bị Giám đốc Công ti kỉ luật với hình thức Chuyển công tác
khác. Vì cho rằng Giám đốc quyết định của Giám đốc về kỉ luật chị là sai pháp
luật, chị đã làm đơn tố cáo và trực tiếp gửi tới Uỷ ban nhân dân tỉnh. Ng ời cán bộ
Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh không nhận hồ sơ và nói đơn tố cáo của chị là
không đúng pháp luật. Chị Xuân ấm ức lắm, vì cho rằng trong tr ờng hợp này chị
gửi đơn tố cáo là đúng.
Câu hỏi :
1.
Theo em, trong trờng hợp này, chị Xuân làm đơn tố cáo và gửi đơn
tới Uỷ ban nhân dân tỉnh là đúng hay sai pháp luật ?
2.
Theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo, chị Xuân phải làm gì để thực
hiện quyền công dân của mình ?
Tỡnh hung ny c ỏp dng vo bi 7: Cụng dõn vi cỏc quyn dõn ch (mc 3:
Quyn khiu ni, t cỏo ca cụng dõn)s
õy l mt tỡnh hung c xõy dng da trờn mt vi phm phỏp lut ó xy ra trong
i sng xó hi. Cú th s cú nhiu hc sinh bit c ni dung ny. Tuy nhiờn cỏc
em bit mt cỏch cn k v y thỡ iu ú li cng cú ớch cho cỏc em. Nhng tỡnh
hung c xõy dng da trờn c s cú thc s cú tớnh thuyt phc cao i vi cỏc
hc sinh. Tuy nhiờn lm c bi tp tỡnh hung ny ũi hi hc sinh phi s dng
cỏc kin thc ca nhiu bi hc( kin thc v vi phm phỏp lut, cỏc loi vi phm phỏp

lut, quyn v ngha v ca cụng dõn...)
Nu em no quỏ trỡnh hc nghiờm tỳc s tr li c bi tp ny.
Nhng tỡnh hung nh th ny cú cỏi khú nhng cng cú s hp dn i vi hc sinh,
nú s phỏt trin c trớ tu ca cỏc em, khc phc c vic hc th ng nh lõu
nay.
16


Trên đây là các tình huống được xây dựng dựa trên cơ sở từ đơn giản đến phức tạp.
Giáo viên tùy vào nội dung bài dạy, tùy vào đối tượng học sinh để vận dụng sao cho
đạt hiệu quả cao nhất - đó là trách nhiệm của mỗi giáo viên.
2.2 Bài dạy thực nghiệm:
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
( tiết 1)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1 Về kiến thức
-Nêu được khái niệm: Thực hiện PL, các hình thức thực hiện PL.
- Hiểu được thế nào là vi phạm PL và trách nhiệm pháp lí, các loại vi phạm PL và
trách nhiệm pháp lí.
2 Về kỹ năng
Biết cách thực hiện Pl phù hợp lứa tuổi.
3- Về thái độ
- Nâng cao ý thức tôn trọng PL.
- Ủng hộ những hành vi thực hiện đúng PL và phê phán những hành vi phạm PL.
II. TÀI LIỆU, PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SÔNG
CHO HS
1. Tài liệu và Phương tiện dạy học:
- SGK, SGV 12 Tình hống GDCD 12, Bài tập trắc nghiệm GDCD 12.
- HP 1992, chuẩn kiến thức kĩ năng , tài liệu kĩ năng sống ,chương trình giảm tải…
- Bảng biểu, máy vi tính, đèn chiếu nếu có..

- Tranh , ảnh, sơ đồ có liên quan nội dung bài học
2. Kĩ năng sống: -Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin về thực hiện và vi phạm pháp
luật;kĩ năng hợp tác tìm hiểu vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí;Kĩ năng giải
quyết vấn đề,ra quyết định trong việc xử lí tình huống pháp luật; Kĩ năng tư duy phê
phán hành vi vi phạm pháp luật.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định lớp
2. kiểm tra bài cũ:
1. Thế nào là quản lí xh bằng PL? Muốn quản lí xh bằng PL, nhà nước phải làm gì?
2. Tại sao nói PL là phương tiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân?
3. Giảng bài mới
Hoạt động của GV và HS
* Hoạt động 1

Nội dung chính của bài
1. Khái niệm, các hình thức thực hiện pháp luật
17


- GV: Yêu cầu HS đọc 2 tình
huống VD sgk; sau đó hướng
dẫn HS khai thác vấn đề theo
câu hỏi sau:
+ Tình huống 1: Chi tiết nào
thể hiện hành động thực hiện
PL giao thông đường bộ một
cách có ý thức (tự giác), có
mục đích? Sự tự giac đã đem
lại tác dụng như thế nào ?

+ Tình huống 2: Để xử lí 3
thanh niên vi phạm, cảnh sát
giao thông đã làm gì? (áp
dụng PL xử phạt vi phạm
hành chính)> Mục đích của xử
phạt đó là gì? (răn đe và giáo
dục)
- HS: Trả lời
- GV: Tổng kết và nêu khái
niệm sgk.
* Hoạt động 2
Thảo luận nhóm:
- GV: Kẻ bảng phân công
từng nhóm trình bày theo yêu
câu đượcgiao.

a) Khái niệm thực hiện pháp luật
- 2 VD sgk việc tuân theo PL của CD và việc vận dụng
PL của cảnh sát giao thông đều là hành vi phù hợp qui
định của PL (hành vi hợp pháp), để Pl giao thông
được thực hiện trong cuộc sống.
- Thực hiện PL là quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những qui định của PL đi vào cuộc sống,
trở thành những hành vi hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức.

b) Các hình thức thực hiện pháp luật
Gồm 4 hình thức sau:

1

- HS: Đại diện trình bày.
- GV: N/xét, bổ xung, kết
luận.
* Các quyền nghĩa vụ công
dân không tự phát sinh hay
chấm dứt nếu không có một
văn bản, quyết định áp dụng
PL của cơ quan nhà nước có
thảm quyền.
* Cơ quan nhà nước ra quyết

2

3

Hình
Nội dung
thức
thực
hiện PL
Sử dụng Cá nhân tổ chức sử
PL
dụng đúng đắn các
quyền của mình, làm
những gì PL cho phép
làm

Ví dụ

Quyền tự

do
kinh
doanh, lựa
chọn
ngành
ghề…
Thi
…Thực hiện đầy đủ Nghĩa vụ
hành PL nghĩa vụ, chủ động nộp thuế…
làm những gì PL qui
định phải làm.
Tuân
…Không làm những Không
thủ PL
điều PL cấm.
buôn bán
hàng
18


nh x lớ ngi vi phm PL
hoc gii quyt tranh chp.
Cn c vo Q ca c quan
nh nc, ngi vi phm hoc
cỏc bờn tranh chp phi thc
hin quyn, ngha v theo qui
nh PL.

4


p
Cn c PL ra quyt
dng PL nh lm phỏt sinh,
chm dt quyn,
ngha v c th ca cỏ
nhõn, t chc (**)

cm
Quyn
kt hụn..
- Trn thu
phi np
pht

- Phõn tớch im ging nhau v khỏc nhau gia 4
hỡnh thc thc hin PL:
* Ging nhau: u l hot ng cú mc ớch nhm
a PL vo i sng, tr thnh hnh vi hp phỏp
ca ngi thc hin.
* Khỏc nhau: Trong hỡnh thc s dng PL thỡ ch
th PL cú th thc hin hoc khụng thc hin quyn
c PL cho phộp theo ý chớ ca mỡnh khụng b ộp
but phi thc hin.
4. Cng c h thng bi hc
GV cho HS lm BTTH cng c kin thc bi hc:
Một ngời cha nói với con trai rằng, sau này học xong trung học phổ thông con
có quyền lựa chọn các trờng đại học mà con thi vào sao cho phù hợp với khả năng và
nguyện vọng của mình. Theo cha, con nên thi vào các trờng nh Đại học Khoa học Tự
nhiên hoặc Đại học Bách Khoa thì phù hợp với khả năng của con.
Ngời mẹ không nhất trí với ý kiến ngời cha và cho rằng con mình phải thi vào

Trờng Đại học Kinh tế Quốc dân, vì chỉ có am hiểu về kinh tế thì mới có cuộc sống đầy
đủ sau này đợc. Ngời con đã không nghe theo cả cha và mẹ mà quyết định thi vào Trờng Đại học Xây dựng, vì rất ham mê ngành Xây dựng.
Ngời mẹ cho rằng, việc làm này của con là không nghe theo lời cha mẹ, là bất
hiếu.
Ngời cha đã tôn trọng quyết định của con, và cho rằng, con trai mình quyết định
nh vậy là thực hiện đúng khoản 2 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong
đó quy định : Cha mẹ hớng dẫn con chọn nghề ; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền
tham gia hoạt động xã hội của con.
Câu hỏi:
1. Theo em, trong ba ngời trên đây, việc làm của ai là thực hiện đúng quy định
của pháp luật ?
2. Nếu có ngời thực hiện đúng quy định của pháp luật thì đó là biểu hiện của
hình thức nào (sử dụng pháp luật ; thi hành pháp luật ; tuân thủ pháp luật hay áp dụng
pháp luật) ?
3. Theo em, việc ngời mẹ cho rằng ngời con nh vậy là bất hiếu (vô đạo đức) có
đúng không ? Vì sao ?
19


Trên đây là một số tình huống tôi đã xây dựng để áp dụng vào quả trình dạy pháp
luật cho học sinh THPT. Trong thực tiễn giảng dạy bộ môn GDCD ở trường THPT tôi
thấy việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học là điều vô cùng cần thiết, nó có
tính chất quyết định đối với sự thành công của tiết dạy. Thành công của tiết dạy đó là
giáo viên có tài năng trong việc tổ chức và lôi cuốn học sinh vào bài dạy, giáo viên
không phải làm việc nhiều, điều quan trọng là tạo cho các em sự say mê tìm tòi và
nghiên cứu, chính tự các em sẽ chủ động trong việc lĩnh hội tri thức. Một trong những
phương pháp đem lại hiệu quả cao đối với người học chính là việc sử dụng phương
pháp dạy học tình huống khi dạy bộ môn GDCD và đặc biệt là nó rất phù hợp khi vận
dụng vào dạy pháp luật.


C. KẾT LUẬN
1. Kết luận:
Chúng ta nhận thấy rằng, việc giáo dục cho học sinh không chỉ là giáo dục kiến
thức, mà còn rèn luyện kỹ năng, đặc biệt là giáo dục thái độ, cách ứng xử, cư xử của
các em . Do đó, với vai trò và trách nhiệm đó, Giáo viên không chỉ không ngừng
đổi mới phương pháp giảng dạy mà còn trực tiếp trao đổi, chia sẻ ở những vấn đề
đời thường nhất, để các em hiểu rằng, chính các em mới là đối tượng chính trong
tiến trình dạy và học hiện nay.
Bằng cách giảng dạy thông qua các tình huống giúp cho học sinh nắm rõ hơn về
nội dung kiến thức, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, rèn luyện kĩ năng sống.
Bản thân tôi nhận thấy rằng trong quá trình giảng dạy cũng rút ra được cho mình
nhiều bài học kinh nghiệm bổ ích trong qua trình giảng dạy.
Đây là chuyên đề của tôi được đúc kết từ những thực tiễn trải nghiệm của bản
thân, do đó sẽ không thể tránh khỏi sơ suất và sai sót. Mong nhận được những đóng
góp quý báu của các đồng chí để đề tài của tôi được trọn vẹn hơn, hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất:
20


Cần có những buổi hội thảo, thảo luận chuyên đề về giáo dục giáo dục pháp luật cho
GV có thể chia sẽ trao đổi kinh nghiệm.
Mở các lớp tập huấn về giáo dục pháp luật cho bộ môn GDCD.
Cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
pháp luật cho HS.
Xuất phát từ thực tiễn trên, trong quá trình giảng dạy bản thân tôi luôn tìm tòi,
học hỏi vận dụng những phương pháp phù hợp nhằm giúp HS hứng thú với bộ môn
từ đó HS có thể tiếp thu bài học một cách tốt nhất trong đó có phương pháp dạy học
tinh huống. Vấn đề quan trọng làm thế nào từ khái niệm, lí thuyết GV áp dụng tích
hợp giáo dục pháp luật vào thực tiễn. Sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
vào giáo dục pháp luật bản thân tôi gặp không ít khó khăn vì kinh nghiệm bản thân

còn hạn chế. Vì vậy; những thiếu sót là không thể tránh khỏi, tuy nhiên với một
người đứng lớp đặc biệt môn GDCD chưa được người học và xã hội quan tâm đúng
mức thì sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giáo dục pháp luật là vấn
đề cần thiết hiện nay nhằm góp phần đào tạo con người phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Đây là kinh nghiệm bước đầu chắc hẳn không tránh được sự thiếu sót rất mong
sự góp ý chân thành của quý thầy cô để giúp tôi có những kinh nghiệm ngày càng
hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên GDCD 12.
2. Chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD 12.
3. Tài liệu tập huấn chuyên đề đổi mới sách giáo khoa.
4. Tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa 12.
5. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 2004- 2007
6. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên GDCD trường THPT

21


22



×