TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN
TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận
dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THCS Hoa Liên
Nghi Xuân-Hà Tĩnh
Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Hà Thị Hải Hà
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A
Hà Tĩnh, năm 2015
1
A.MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn
giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện
phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao
của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy
học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối
với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường
phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy
học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học
chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là môn
học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp
dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn:
“Sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho
học sinh phổ thông qua dạy học môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục
công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ,
hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THCS
Hoa Liên..
2
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Hoa Liên-Nghi
xuân-Hà Tĩnh
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Hoa Liên
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Hoa Liên-Nghi Xuân-Hà Tĩnh
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra,
đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
B.NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
3
1.1. Khái quát về lịch sử nghiên cứu vấn đề
PPNCTH được sử dụng lần đầu tiên một cách bài bản tại Đại học kinh doanh
Havard. Tại đây, vào khoảng năm 1870, Christopher Columbus Langdell đã là
người khởi xướng việc sử dụng các tình huống trong giảng dạy về quản trị kinh
doanh. Đến năm 1910, bên cạnh phương pháp giảng dạy truyền thống, sinh viên
Đại học kinh doanh Harvard đã được thường xuyên thảo luận về các tình huống
trong kinh doanh. Sau đó, từ khoảng năm 1909 nhà trường liên tục mời các đại
diện các doanh nghiệp đến trường để trình bày về thực tiễn quản trị kinh doanh,
đưa ra các tình huống yêu cầu sinh viên phải nghiên cứu, tranh luận và đưa ra các
giải pháp. Năm 1921, quyển sách đầu tiên về tình huống ra đời (tác giả Copeland).
Tác giả cuốn sách đã nhìn thấy tầm quan trọng và tác dụng to lớn của việc áp dụng
PPNCTH trong giảng dạy quản trị nên đã nỗ lực phổ biến phương pháp giảng dạy
này trong toàn trường. Phương pháp này sau đó dần dần đã được áp dụng phổ biến
trong hầu hết các ngành nghề đào tạo như y, luật, hàng không,.. và trong các trường
học ở tất cả các cấp bậc đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học.
Năm 1919, ở Canada, hai nhà nghiên cứu của trường đại học Western Ontario
(U.W.O), tiến sĩ W. Sherwood Fox và tiến sĩ K.P.R Neville, là những người đầu
tiên khởi xướng việc giảng dạy kinh doanh theo PPNCTH của đại học Havard bên
ngoài biên giới Hoa Kỳ. Sau khi xem xét cẩn thận tất cả chương trình giảng dạy
kinh doanh ở các trường đại học hàng đầu Bắc Mĩ, hai ông kết luận là chương trình
giảng dạy của trường đại học kinh doanh Havard đã cung cấp những phương pháp
giảng dạy tốt nhất. Năm 1922, Ellis H. Morrow, một cựu sinh viên Havard đã được
mời đến để triển khai tại đây PPNCTH trong giảng dạy. Ngày nay, trường kinh
doanh Richard Ivey của đại học Western Ontario đã trở thành con chim đầu đàn
trong việc giảng dạy quản trị kinh doanh bằng PPNCTH ở Canada và là đơn vị lớn
thứ hai trên thế giới sản xuất tình huống.
Không chỉ trong lĩnh vực giảng dạy kinh doanh mà cả trong y học, phương
pháp tình huống cũng đã được đưa vào giảng dạy tương đối sớm. Ngay từ những năm
đầu của thế kỷ XX, William Osler áp dụng PPNCTH vào đào tạo y bác sĩ và kết quả
rất đáng khích lệ: Chỉ sau hai năm hoc, sinh viên của Osler đã trở nên thuần thục với
các kỹ năng trong y học. Giải thích cho thành công này, Osler đã viết “Với phương
pháp tình huống, sinh viên sẽ bắt đầu với bệnh nhân, học với bệnh nhân và hoàn
thành khoá học cũng với bệnh nhân; còn sách và bài giảng chỉ được sử dụng như
phương tiện đưa họ đến đích mà thôi” (McAnich, A, R. (1993).
Được áp dụng mạnh mẽ trong giảng dạy kinh doanh từ sau Thế chiến thứ nhất,
trải qua thời gian, PPNCTH đã ngày càng đưa người học tiến tới vị trí trung tâm của
buổi học, còn giáo viên chỉ có vai trò là người hỗ trợ những sinh viên của mình trong
4
việc liên hệ lý thuyết với thực tiễn một cách đúng đắn và chuẩn xác hơn. Ngày nay,
PPNCTH đã vượt ra khỏi ranh giới của những bộ môn như quản trị kinh doanh hay y
học để tiếp tục được sử dụng rộng rãi và tỏ rõ những tính năng ưu việt của nó trong
đào tạo sư phạm, đào tạo kỹ thuật, nghiên cứu chính sách và thiết kế v.v.
Chẳng hạn như trong đào tạo sư phạm, PPNCTH đã được sử dụng rộng rãi nhất
là trong vòng 20 năm trở lại đây. Trong khi một số học giả tập trung nghiên cứu việc
áp dụng tình huống trong công tác giảng dạy và quá trình tiếp thu những kiến thức sư
phạm thì những người khác lại chú trọng vào cách sử dụng tình huống nhằm nâng cao
khả năng quyết đoán và giải quyết vấn đề của sinh viên. Mặc dầu đi theo những hướng
nghiên cứu khác nhau như vậy, họ đều đi đến một thống nhất chung là PPNCTH tỏ ra
cực kỳ hiệu quả trong việc trợ giúp người học liên hệ lý thuyết với thực hành và do đó,
mang lại một sức sống mới cho không khí học tập trên các giảng đường.
Ở Việt Nam, từ một số năm trở lại đây, PPNCTH cũng đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu và đưa vào áp dụng trong giảng dạy ở các lĩnh vực như Quản trị
kinh doanh với những tác giả như Nguyễn Hữu Lam (2003), Vũ Từ Huy (2003),
Ngô Quí Nhâm, Vũ Thế Dũng (2007, Nguyễn Thị Lan (2006), Nguyễn Quang Vinh
(2008), ở lĩnh vực Luật với tác giả Vũ Thị Thúy (2010),… hay ở lĩnh vực Quản lý
giáo dục với các tác giả Trần Văn Hà (2002), Đặng Quốc Bảo (2002), Phan Thế
Sủng và Lưu Xuân Mới (2000),… Ngoài ra, còn một số những công trình nghiên cứu
khác về việc áp dụng PPNCTH vào những môn học cụ thể như môn Toán của tác giả
Nguyễn Bá Kim (1998), Đỗ Thế Hưng (2003) hay môn Kỹ thuật công nghiệp của tác
giả Nguyễn Đức Thọ (2002),…. Các công trình nghiên cứu áp dụng PPNCTH trong
giảng dạy môn Giáo dục học mới chỉ dừng ở mức những luận văn thạc sĩ khoa học, ví
dụ như của Lê Thị Thanh Chung (1999), Nguyễn Thị Thanh (2002), Phạm Ngọc
Tâm (2002), Nguyễn Văn Sia (2003), Hồ Thị Nhật (2004),…
1.2. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1 Tình huống
Có nhiều định nghĩa khác nhau về tình huống. Theo Từ điển Tiếng Việt, tình
huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một địa điểm, trong một thời gian cụ thể,
buộc người ta phải suy nghĩ, hành động, đối phó, tìm cách giải quyết.
Tình huống cũng có thể được hiểu là sự mô tả hay trình bày một trường hợp có
thật trong thực tế hoặc mô phỏng nhằm đưa ra một vấn đề chưa được giải quyết và qua
đó đòi hỏi người đọc (người nghe) phải giải quyết vấn đề đó.
Ở góc độ Tâm lý học, tình huống là hệ thống các sự kiện bên ngoài có quan hệ
với chủ thể, có tác dụng thúc đẩy chủ thể đó. Trong quan hệ không gian, tình huống
xảy ra bên ngoài nhận thức của chủ thể. Trong quan hệ thời gian, tình huống xảy ra
trước so với hành động của chủ thể. Trong quan hệ chức năng, tình huống là sự độc
5
lập của các sự kiện đối với chủ thể ở thời điểm mà người đó thực hiện hành động. [Từ
điển Tâm lý học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 2000]
1.2.2 Tình huống có vấn đề
Có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về tình huống có vấn đề. Tình
huống có vấn đề là “tình huống trong đó có điều gì đó được đặt ra nhưng chưa sáng tỏ,
không xác định được trước đó mà chỉ đặt ra mối quan hệ của nó tới những gì có trong
tình huống” (X.L Rubinstein). Hay “tình huống có vấn đề là tình huống đặc trưng bởi
trạng thái tâm lý xác định của con người, nó kích thích tư duy khi trước con người nảy
sinh những mục đích và điều kiện hoạt động mới, trong đó những phương tiện và
phương thức hoạt động trước đây mặc dù là cần nhưng chưa đủ để đạt mục đích mới
nào” (A.V Petropski). Hoặc như I.Ia. Lecne quan niệm “tình huống có vấn đề là một
khó khăn được chủ thể ý thức rõ rang hay mơ hồ, mà muốn khắc phục thì phải tìm tòi
những tri thức mới, những phương thức hành động mới”. Nói tóm lại, các định nghĩa
về tình huống có vấn đề đều đề cập chung đến một điểm như sau: Tình huống luôn
chứa đựng vấn đề/ mâu thuẫn và kích thích người học mong muốn, hứng thú giải
quyết.
1.2.3 Tình huống dạy học
1.2.3.1 Khái niệm
Theo Boehrer (1995) thì: “Tình huống là một câu chuyện, có cốt chuyện và
nhân vật, liên hệ đến một hoàn cảnh cụ thể, từ góc độ cá nhân hay nhóm, và thường là
hành động chưa hoàn chỉnh. Đó là một câu chuyện cụ thể và chi tiết, chuyển nét sống
động và phức tạp của đời thực vào lớp học”.
Tình huống được đưa vào giảng dạy thường ở dưới dạng những bài tập nghiên
cứu. Đặc điểm nổi bật của loại hình bài tập này là “xoay quanh những sự kiện có thật
hay gần gũi với thực tế trong đó chứa đựng những vấn đề và mâu thuẫn cần phải được
giải quyết” (Center for Teaching and Learning of Stanford University, 1994). Một bài
tập nghiên cứu tình huống tốt, theo như Boehrer and Linsky (trang 45) cần phải trình
bày được những vấn đề có tính khiêu khích và tạo được sự thấu cảm với nhân vật
chính. Có học giả thậm chí đã minh hoạ điều này bằng một hình ảnh sinh động như
sau: “Cũng giống như mồi cho cá, một tình huống tốt cần phải có một ‘lưỡi câu’ để
giúp cho những người tham giá cảm thầy thực sự thích thú với ‘con mồi’”. Muốn vậy
thì về mặt nội dung, tình huống không những phải chứa đựng vấn đề mà còn phải tạo
điều kiện dẫn dắt người học tìm hiểu sâu qua nhiều tầng, lớp của vấn đề. Người đó nói
thêm: “Một tình huống hay tựa như một củ hành với nhiều lớp vỏ”, mỗi lần bóc một
lớp vỏ này thì một lớp vỏ mới lại hiện ra, cứ thế cho đến khi người học có thể tiếp cận
được lõi - tức là cốt lõi, bản chất của vấn đề.
6
Cũng cần phải nói thêm là trong giảng dạy, tình huống không phải là những
trường hợp bất kỳ trong thực tế mà là những tình huống đã được điều chỉnh, nghiên
cứu kỹ lưỡng để mang tính điển hình và phục vụ tốt cho mục đích và mục tiêu giáo
dục, tức là giúp cho người học có thể hiểu và vận dụng tri thức cũng như rèn luyện
được các kỹ năng và kỹ xảo. Tình huống được sử dụng để khiêu khích người học phân
tích, bình luận, đánh giá, suy xét và trình bày ý tưởng của mình để qua đó, từng bước
chiếm lĩnh tri thức hay vận dụng những kiến thức đã học vào những trường hợp thực
tế. Tình huống yêu cầu người đọc phải từng bước nhập vai người ra quyết định cụ thể.
Hay như cách nhận định gọn gàng mà sâu sắc của Herreid (1997) thì: “Tình huống là
những câu chuyện ẩn chứa trong mình những thông điệp. Chúng không phải là những
câu chuyện chỉ để giải trí đơn thuần. Tình huống là những câu chuyện để giáo dục”
Thông thường, các tình huống sử dụng trong giảng dạy được trình bày trong các
loại ấn bản rất đa dạng như dạng phim, băng video, CDROM, băng cassette, đĩa, hay
kết hợp các phương tiện trên. Tuy nhiên, những tình huống được in ấn hiện nay vẫn
phổ biến nhất do thuận tiện và chi phí thấp. Việc viết tình huống tập trung trước tiên
trên loại tình huống truyền thống.
1.2.3.2 Tiêu chuẩn của một tình huống tốt
Herreid (1997/98) chỉ ra những tiêu chí của một tình huống tốt, đó là:
1. Một tình huống tốt kể ra một câu chuyện
2. Một tình huống tốt xoay quanh một vấn đề hấp dẫn
3. Một tình huống tốt xảy ra trong vòng 05 năm trở lại đây
4. Một tình huống tốt gây dựng ở người học sự thấu cảm với nhân vật
5. Một tình huống tốt bao gồm các trích dẫn
6. Một tình huống tốt phù hợp với người đọc
7. Một tình huống tốt phải có tính sư phạm
8. Một tình huống tốt gây dựng được xung đột
9. Một tình huống tốt có tính thúc ép người học đưa ra quyết định
10. Một tình huống tốt có tính khái quát
11. Một tình huống tốt thì ngắn gọn
Trong khi đồng tình với Herreid ở hầu hết các tiêu chí trên, chúng tôi nhấn
mạnh cần phải có sự linh hoạt trong việc đánh giá tình huống, nhất là ở các tiêu chí 3,
5. Thêm nữa, tiêu chí 8, 9 thường đi liền với nhau Trong thực tế, các tình huống tốt có
thể không nhất thiết bao gồm trích dẫn, nhưng cần phải gần gũi với cuộc sống, không
tạo cảm giác gượng ép, giả tạo trong các tình tiết và lời thoại của nhân vật.
Theo quan điểm của chúng tôi, các tiêu chí cho một tình huống tốt nên được
phân thành tiêu chí về nội dung và tiêu chí về hình thức như dưới đây:
Về mặt nội dung, tình huống phải:
7
Mang tính giáo dục
Chứa đựng mâu thuẫn và mang tính khiêu khích
Tạo sự thích thú cho người học.
Nêu ra được những vấn đề quan trọng và phù hợp với người học,...
Về mặt hình thức, tình huống phải:
Có cách thể hiện sinh động
Sử dụng thuật ngữ ngắn gọn, súc tính và ẩn danh
Được kết cấu rõ ràng, rành mạch và dễ hiểu
Có trọng tâm, và tương đối hoàn chỉnh để không cần phải tìm hiểu thêm quá
nhiều thông tin,...
1.3 Phương pháp nghiên cứu tình huống trong dạy học
1.3.1 Khái niệm phương pháp nghiên cứu tình huống
PPNCTH là một phương pháp đặc thù của dạy học giải quyết vấn đề theo tình
huống, ở đó, các tình huống là đối tượng chính của quá trình dạy học. Như đã nói ở
trên, trường hợp được nêu ra trong dạy học là những tình huống dạy học điển hình và
quá trình người học nghiên cứu trường hợp cũng chính là quá trình hiểu và vận dụng
tri thức. Theo Nguyễn Hữu Lam (2003), “phương pháp tình huống là một kỹ thuật
giảng dạy trong đó các thành tố chủ yếu của nghiên cứu tình huống được trình bày với
những người học với các mục đích minh họa hoặc các kinh nghiệm giải quyết vấn
đề”. [Nguyễn Hữu Lam, 1/10/2003]
1.3.2 Cách thức soạn thảo tình huống
Để thiết kế một tình huống cần tiến hành theo 3 bước như sau [Waterman, M.
& Stanley, E. (2005)]:
Bước
Bước1:1:Xác
Xácđịnh
địnhmục
mụctiêu
tiêubài
bàihọc
họcvàvàcân
cân
nhắc
nhắccác
cácyếu
yếutốtốkhách
kháchquan
quan
a. Lấy ý tưởng
Bước
Bước2:2:Chuẩn
Chuẩnbịbịtình
tìnhhuống
huống
b. Viết tình huống
Bước
Bước3:3:Kiểm
Kiểmtra,
tra,chỉnh
chỉnhsửa
sửa
* Bước 1: Xác định mục tiêu bài học và cân nhắc các yếu tố khách quan
Trước tiên, người giáo viên cần phải xác định được mục tiêu bài học, vì xét cho
cùng thì tình huống, dù ở dạng thức nào đi chăng nữa, cũng đều phải phục vụ một mục
đích nào đó. Trong giảng dạy tình huống, thì mục tiêu cần đạt được ấy chính là mục
tiêu bài học. Chính vì thế mà nguời giáo viên luôn phải đặt cho mình câu hỏi “Ở bài
8
học này, cần phải đạt được mục tiêu gì, phải cung cấp cho người học những kiến thức
gì và phải rèn luyện cho họ những kỹ năng cần thiết gì?” và tham chiếu vào đó để thiết
kế tình huống sao cho phù hợp. Nếu không, sẽ rất dễ xảy ra trường hợp là tình huống
nêu ra không có hoặc truyền tải quá ít ý nghĩa giáo dục. Khi đó, thảo luận tình huống
sẽ trở thành một buổi nói chuyện phiếm, không mang lại tác dụng sư phạm gì cho
người được giáo dục.
Một cách khác để người dạy có thể đánh giá mức độ phản ánh của mục tiêu bài
học trong mỗi một tình huống là đánh giá và rút kinh nghiệm sau những lần tổ chức
các buổi thảo luận tình huống. Để làm được điều này, người dạy có thể sử dụng bảng
đánh giá tình huống.
Tiếp đó, người giáo viên cần tính đến các yếu tố khách quan, vì những yếu tố
này có quyết định trực tiếp đến sự thành công của tình huống. Cụ thể là người giáo
viên cần phải tính đến những yếu tố như:
– Thời gian: để tránh thiết kế những tình huống quá dài hay quá ngắn. Nói một
cách khác thì buổi thảo luận dựa trên tình huống cần phải diễn ra ‘vừa phải’ với
khoảng thời gian cho phép.
– Số người học: Số lượng người học có ảnh hưởng quan trọng đến tình huống, vì
hiển nhiên thiết kế một tình huống cho 20 người chẳng hạn, là hoàn toàn khác
với việc thiết kế một tình huống cho một nhóm nhỏ 5 người. Thông thường thì
số người tham gia thảo luận lý tưởng là khoảng 15 - 20 người.
– Trình độ của người học: Chủ yếu dựa vào trình độ của người học mà người dạy
cần đưa ra những tình huống vừa sức: không quá khó để cản trở người học giải
quyết được vấn đề nhưng cũng không quá dễ để khiến cho người học cảm thấy
nhàm chán.
– Cơ sở vật chất: Tuỳ theo điều kiện vật chất mà người giáo viên lựa chọn con
đường truyền tải nội dung dễ hiểu nhất, như sử dụng máy chiếu, video, tranh ảnh
và thiết kế nhóm thảo luận.
Ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể, người dạy còn cần phải tính đến tín ngưỡng,
tôn giáo, tầng lớp xã hội, quan hệ giữa các nhóm tham gia cũng như lường trước được
những tác dụng và áp lực mà tình huống có thể tác động tới người học để qua đó, tránh
thiết kế những tình huống không phù hợp, gây phản cảm hay thậm chí là vô tình xúc
phạm người học.
Khẳng định điều này, Leypoldt M. trong cuốn “40 cách giảng dạy trong nhóm” đã đưa
ra chín nguyên tắc mà giáo viên cần cân nhắc trong giảng dạy tình huống, đó là:
1. Những người tham gia
2. Lược sử vấn đề thảo luân
3. Mối quan hệ giữa các thành viên và nhóm tham gia thảo luận
9
4. Các vấn đề liên quan đến tôn giáo và tín ngưỡng
5. Các vấn đề liên quan đến xã hội
6. Các yếu tố về kinh tế
7. Trình độ học vấn của người học
8. Các vấn đề liên quan đến đạo đức
9. Áp lực gây ra vấn đề
* Bước 2: Chuẩn bị tình huống
a. Lấy ý tưởng
Việc lấy ý tưởng cho một tình huống sẽ tạo tiền đề quan trọng cho một tình huống tốt.
Tuy nhiên thực tế cho thấy việc lấy ý tưởng cho một tình huống là không hề dễ dàng,
bởi nó đòi hỏi rất nhiều thời gian, công sức để tìm được những ý tưởng hay và mới lạ.
Tuy nhiên, có một số nguồn thông tin mà người giáo viên có thể sử dụng để tạo ý
tưởng cho tình huống:
– Các phương tiện thông tin đại chúng: Đây là nguồn thông tin phong phú và đa
dạng mà giáo viên có thể tận dụng khai thác. Sử dụng TV, đài báo, sách truyện
và đặc biệt là Internet, nhiều giáo viên đã tìm được nhiều ý tưởng cho tình
huống của mình. Điều này lý giải tại sao ý tưởng cho tình huống có thể nảy đến
một cách rất tự nhiên và ‘khơi mào’ cho một cuộc thảo luận có khi chỉ đơn giản
là “Các bạn đã đọc bài báo về… trên báo … sáng nay chưa?”
– Người học: Người học không chỉ đơn thuần đóng vai trò là người phân tích và
giải quyết tình huống mà họ còn có thể là chủ thể sáng tạo và đề xuất ra tình
huống nữa. Những vấn đề, những trường hợp khó giải quyết mỗi cá nhân đã
từng gặp trong cuộc sống sẽ trở thành nguồn tình huống vô tận mà mỗi giáo
viên có thể khai thác và vận dụng một cách thích hợp để phục vụ tốt nhất cho
nội dung bài học. Mặt khác, đây còn là nguồn thông tin ‘dễ tìm’ nhưng có sức
hiệu quả cao bởi tính gần gũi của chúng đối với người học. Do đó, người dạy có
thể yêu cầu người học chuẩn bị những tình huống theo cá nhân hay cũng có thể
theo nhóm và coi đó như một bài tập - project nhỏ và lựa chọn chỉnh sửa trước
khi đtôi ra thảo luận nhóm.
– Kinh nghiệm bản thân: Trong những trường hợp mà không thể tìm kiếm được
từ những nguồn thông tin bên ngoài thì kinh nghiệm bản thân cũng là nguồn tư
liệu mà người dạy có thể khai thác. Tuy nhiên thực tế chứng minh là không phải
ai cũng có một nguồn tri thức nền đủ rộng để có thể thiết kế một tình huống cụ
thể và hiệu quả.
b. Viết tình huống
10
Sau khi đã tạo ra ý tưởng thì cũng là lúc giáo viên có thể bắt tay vào việc biên
soạn tình huống. Nhìn chung, một tình huống tốt thường có ba phần: Mở đầu, phát
triển và kết thúc. Nhiệm vụ cụ thể của từng phần như sau:
- Mở đầu: Giới thiệu tình huống và nhân vật, bước đầu tạo lập bối cảnh mà nền
trên đó, tình huống được diễn ra.
- Phát triển: Đây tất nhiên là phần chính, vì nó cung cấp cho người học những chi
tiết và dữ kiện cần thiết cho công việc thảo luận, tổng hợp nên giải pháp và cũng
là phần mà những mâu thuẫn, xung đột được đẩy lên đến đỉnh điểm, buộc người
học phải có sự lựa chọn.
- Kết luận: Khác với một bài làm văn, phần kết luận trong một tình huống thường
là một kết thức mở với một câu hỏi được nêu ra, yêu cầu người học phải giải
quyết.
Tác giả John Thomas (2003) cũng đã đưa ra qui trình soạn thảo một tình huống theo
các bước như sau:
Thứ nhất, xác định chủ đề: miêu tả đặc điểm nổi bật của tình huống
Thứ hai, xác định mục tiêu giảng dạy: nêu rõ các mục tiêu cần đạt được thông qua tình
huống
Thứ ba, xây dựng nội dung tình huống, bao gồm:
- Miêu tả bối cảnh tình huống;
- Cung cấp đủ những thông tin cần thiết để có thể phân tích tình huống (lưu ý đảm
bảo tính bí mật của tình huống);
- Không bình luận, không đưa ra giải đáp, thúc bách học viên suy nghĩ
Thứ tư, đưa ra nhiệm vụ cho người học
* Một số lưu ý khi viết tình huống
- Nên dùng văn phong báo chí khi viết tình huống (ngắn gọn, súc tích);
- Nên dùng ngôn ngữ đơn nghĩa, rõ ràng, nên giải thích những thuật ngữ mới;
- Người viết tình huống phải giữ vai trò trung lập, không đưa ra nhận xét riêng ảnh
hưởng đến người học.
- Có thể làm tình huống sống động bằng cách sử dụng những trích dẫn hài hước.
1.3.3 Tiến trình thực hiện phương pháp nghiên cứu tình huống
1.3.3.1 Quá trình chuẩn bị
VỀ PHÍA NGƯỜI DẠY
Nền tảng cho một tình huống tốt chính là ở khâu chuẩn bị - từ phía người học
cũng như người dạy (Hichner, 1977; Zimmerman, 1985; Gomez-Ibanez, 1986;
Lundberg, 1993). Đối với người dạy, sự chuẩn bị không chỉ dừng lại ở việc soạn thảo
tình huống hay hướng dẫn học sinh cách soạn thảo tình huống mà còn qua việc chuẩn
bị cho buổi thảo luận tình huống nữa.
11
+ Đặt ra những yêu cầu với người học
Trước một khoá học về tình huống hay trước những buổi thảo luận về tình huống,
người dạy cần “thoả thuận” với người học về những yêu cầu mà họ cần đạt được trong
quá trinh thảo luận. Christensen (1897) đã đưa ra tiêu chí “4Ps” mà người dạy cần
thống nhất với người học trước những buổi thảo luận tình huống, trong đó bao gồm :
Preparation: Sự chuẩn bị trước khi thảo luận
Presence: Sự có mặt đầy đủ trong các buổi thảo luận
Promptness: Sự đúng giờ trong các buổi thảo luận
Participation: Sự tích cực trong tham gia thảo luận
Thậm chí, nếu cần thiết, người dạy có thể trình bày rõ tiêu chí cho điểm, đánh
giá thảo luận của mình và lắng nghe những ý kiến phản hồi từ phía học sinh. Những
quy định và yêu cầu như vậy là rất cần thiết trong việc định hướng người học trong
thảo luận tình huống nhằm đạt được những tiêu chí cần thiết của một buổi học phương
pháp dạy học tình huống, cũng như đảm bảo được tính công bằng và qua đó, khuyến
khích người học tham gia thảo luận tích cực và có trách nhiệm hơn.
Thêm vào đó, người dạy còn có thể đề ra những quy tắc chung trước các buổi
thảo luận (Ground rules) Việc đề ra những quy tắc chung như vậy sẽ giúp cho người
dạy điều hành buổi học dễ dàng, đồng thời cũng giúp cho buổi thảo luận diễn ra cởi
mở và thành công hơn. Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà người dạy đề ra những quy
tắc chung cho phù hợp với nội dung của buổi học.
+ Mô tả cấu trúc của một buổi học tình huống và chia nhóm
Trong bước này, người dạy cần giúp người học thấy được tiến trình và cách
thức tiến hành một buổi thảo luận, thời gian cho phép cũng như nhiệm vụ của họ trong
quá trình thảo luận. Đối với những người học lần đầu tham gia thảo luận tình huống,
người dạy cũng cần phải nói rõ vai trò của mình không phải đưa ra đáp án mà chỉ là
người nêu ra các câu hỏi và trợ giúp khi cần thiết. Qua đó, người dạy khuyến khích
tính chủ động, tích cực và tự do trình bày quan điểm của mỗi cá nhân và những luận
chứng, luận cứ để bảo vệ cho quan điểm của cá nhân/nhóm mình.
Cũng ở trong bước này mà người dạy có thể thực hiện chia nhóm đối với người
dạy theo những tiêu chí, mục đích riêng của buổi học cũng như môn học. Việc chia
nhóm có thể thực hiện theo một số những quy tắc sau:
- Chia nhóm theo các tuyến nhân vật: Theo cách chia nhóm này, người dạy sẽ tuỳ
vào tình huống để chia lớp học ra thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm đại diện cho
một quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau (như kiểu những nhóm chuyên gia)
và yêu cầu mỗi nhóm mổ xẻ, phân tích và giải quyết vấn đề theo quan điểm của
nhóm mình. Cách chia này thích hợp với các lớp với số lượng đông, mang lại
quan điểm tương đối toàn diện về vấn đề và đảm bảo không quá “gò bó” người
12
tham gia theo một quan điểm “đồng tình” hay “phản đối” đối với tình huống
được nêu ra.
- Chia nhóm theo hai phe “ủng hộ” và “phản đối”: Theo cách chia này thì lớp sẽ
chỉ được chia làm hai nhóm: nhóm ủng hộ (for) và nhóm phản đối (against).
Mỗi nhóm không chỉ nêu ra luận điểm mà còn phải sử dụng những lý lẽ cần
thiết để bảo vệ cho những luận điểm của nhóm mình trước phản hồi của những
nhóm còn lại. Cách chia này phù hợp với lớp nhỏ, và tạo được sự tập trung cao
xung quanh cuộc tranh cãi khá “kịch tích” giữa hai nhóm thảo luận.
- Chia nhóm bất kỳ: Cách chia này phù hợp với những tình huống không gây
tranh cãi mà tập trung chủ yếu vào việc giải quyết vấn đề.
Việc chia nhóm như thế nào có thể được quyết định bởi giáo viên (như dựa vào trình
độ của người học để có thể xen kẽ những học sinh giỏi và những học sinh còn yếu)
hay cũng có thể do người học từ quyết định (như bốc thăm, tự chọn …)
+ Chuẩn bị kiến thức cho người học
Thông thường, để người học có thể tiến hành thảo luận đạt kết quả cao, người
dạy có thể sẽ phải trang bị cho người học một số những kiến thức cần thiết. Những sự
chuẩn bị này có thể là qua những bài giảng, những bản phát tay hay những danh sách
tài liệu hướng dẫn đọc thêm ở nhà. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người dạy sẽ không
chuẩn bị cho người học và yêu cầu họ phải tự tìm tòi lấy nội dung kiến thức để phục
vụ cho buổi thảo luận. Mặc dầu vậy, sự định hướng của giáo viên cho người học trong
giai đoạn này sẽ giúp nâng cao chất lượng của buổi thảo luận và đảm bảo sự hoàn
thành mục tiêu bài học của buổi thảo luận.
VỀ PHÍA NGƯỜI HỌC
Tất nhiên trước mỗi buổi thảo luận, người học có thể tìm hiểu thêm các tài liệu
để chuẩn bị cho buổi thảo luận tình huống. Tuy nhiên, đối với người học, tiêu điểm
của PPNCTH chính là các buổi thảo luận nhóm. Trong thảo luận tình huống, người
học sẽ đưa ra ý kiến, đặt ra những câu hỏi, xây dựng luận chứng, luận cứ trên cở sở
những luận điểm của cá nhân/nhóm, phân tích, tổng hợp các ý kiến tranh luận, tự điều
chỉnh hướng thảo luận và học hỏi kinh nghiệm từ những người khác thông qua trao
đổi, tranh luận quan điểm.
Theo Boehrer và Linsky (1990), thảo luận tình huống giúp cho người học:
- Phát triển tư duy phê phán
- Nâng cao trách nhiệm của người học trong học tập
- Trao đổi, trau dồi thông tin, khái niệm và kỹ năng
- Làm không khí buổi học thêm sôi động
- Phát triển khả năng làm chủ và khai thác thông tin
13
Phối hợp và cân đối giữa lý trí và tình cảm
- Phát triển kỹ năng hợp tác nhóm
- Phát triển kỹ năng đặt câu hỏi và tự học
Thêm nữa, trong khâu chuẩn bị, dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh
cũng có thể và nên được học cách sưu tầm, chỉnh sửa, biên soạn hay thiết kế hệ thống
các tình huống phục vụ cho các nội dung học tập khác nhau.
1.3.3.2 Tiến trình thực hiện một buổi học theo PPNCTH
Như đã đề cập ở trên, trong một tiết dạy học áp dụng PPNCTH thì vai trò trung
tâm thuộc về người học. Mặc dù vậy, vai trò của người giáo viên như một người điều
phối, dẫn dắt và trợ giúp (facilitator) cũng rất quan trọng. Giáo viên có nhiệm vụ mở
đầu cuộc thảo luận, thu hút ý kiến của người học, bàn rộng thêm những ý kiến đáng
chú ý, chỉ ra những luận điểm trái ngược, tạo nên sự kết nối trong các buổi thảo luận
và hướng buổi thảo luận đi theo nội dung bài học - nói tóm lại là định hướng và trợ
giúp người học - hơn là truyền đạt thông tin, giải thích hay đưa ra hướng giải quyết.
Tùy theo khả năng của học sinh mà người giáo viên có thể bắt đầu áp dụng PPNCTH ở
những “cấp độ” khác nhau mà ở đó, vai trò của họ cũng thay đổi theo hướng chuyển
dần người học về vị trí trung tâm của buổi học. Cụ thể, người giáo viên có thể đóng
vai trò là:
– Người minh họa: trình bày phần phân tích và làm sáng tỏ các luận điểm cho
học sinh, học sinh chủ yếu nghe và ghi chép kiến thức và hiểu. Đây là cấp độ
thấp nhất của tiết học tình huống, chủ yếu được áp dụng khi học sinh còn chưa
quen với phương pháp này hay chưa nắm vững được nội dung kiến thức bài học
để có thể tự tiến hành nghiên cứu tình huống.
– Thủ quân: định hướng vấn đề thảo luận, học sinh có nghĩa vụ đưa ra câu trả lời
đúng thể hiện sự hiểu, áp dụng, và phân tích các vấn đề liên quan. Đây là cấp độ
cao hơn, vì người học đã phải tự giác nhiều hơn trong quá trình tiếp cận vấn đề,
tiếp cận tình huống.
– Huấn luyện viên: nhận nghĩa vụ tiến hành buổi học nhưng để cho sinh viên thi
đấu trận đấu của mình, áp dụng, phân tích, và tổng hợp. Ở cấp độ này, người
học đã thực sự trở thành “trung tâm” của buổi học, nhưng người giáo viên vẫn
có tác động điều chỉnh, định hướng chung.
– Người hỗ trợ: tạo ra bầu không khí trong đó học sinh có thể đưa ra câu trả lời
của chính mình, phân tích, tổng hợp, và đánh giá. Ở cấp độ này, một nhóm học
sinh có thể sẽ được cử ra để làm nhiệm vụ điều khiển buổi học (facilitator
group) còn người giáo viên chỉ giữ vai trò điều chỉnh, định hướng khi thật cần
thiết. Nói một cách khác thì người giáo viên đã rút ra hoàn toàn khỏi vị trí trung
tâm và để người học nắm toàn bộ quyền điều hành buổi thảo luận.
-
14
Theo Garvin, D.A. (2003), trước một tình huống, nguời học sẽ phải lần lượt
trải qua các bước như sau:
Đọc tình huống và xác định những vấn đề cốt yếu mà người ra quyết định
đương đầu
Đây là bước tiếp cận đầu tiên với tình huống của người học. Ở đó, người học
có nhiệm vụ chính là chỉ ra được đâu là mấu chốt, mâu thuẫn của vấn đề để theo đó
giải quyết đúng mâu thuẫn, vấn đề mà tính huống nêu ra, tránh đi lạc đề hay giải
quyết không thấu đáo vấn đề.
Đối với bước này, điều đầu tiên là người học cần phải đọc qua để nắm được
cốt truyện, các tuyến nhân vật và có những nhận thức ban đầu về vấn đề cần giải
quyết. Một trong những cách tôt nhất là một thành viên trong nhóm sẽ đọc to tình
huống cho những thành viên còn lại ghi chép, vạch ra những ý chính. Điều này sẽ
giúp tiết kiệm thời gian đồng thời nâng cao sự tập trung của các thành viên khác
trong nhóm thảo luận. Thông thường, vấn đề mà tình huống nêu ra thường được
đặt dưới dạng câu hỏi trực tiếp ở cuối đoạn.
Xác định những dữ liệu cần để phân tích các vấn và để tổng hợp thành các giải
pháp
Trong giai đoạn này, người học phải thực hiện hai bước nhỏ:
- chỉ ra những dữ liệu quan trọng mà đề bài cung cấp để giải quyết vấn đề
- dựa vào đó có sự phân tích, tổng hợp để đưa ra được những hướng giải quyết
khác nhau cho vấn đề được đặt ra.
Để thực hiện bước này, người học cần:
15
Nắm ý chính của toàn bộ tình huống. Nghiên cứu kỹ tiêu đề, dàn ý, phần mở
đầu và kết luận của tình huống.
- Nếu tình huống đòi hỏi phải đưa ra kết luận thì ai là người sẽ đưa ra kết luận
đó? Anh ta sẽ phải đưa ra những quyết định gì? Mục đích cần đạt được của anh
ta khi đưa ra những kết luận đó là gì?
- Đọc, nghiên cứu và gạch chân dưới những từ và cụm từ quan trọng
- Xác định được vấn đề chủ chốt trong tình huống trước. Sau đó, đọc lại tình
huống lần nữa để nhặt ra những thông tin, dữ kiện cần thiết để giải quyết vấn
đề.
- Có thể có những giải pháp nào cho cùng một vấn đề của tình huống? Trong
những giải pháp đề ra, giải pháp nào có tính hiệu quả hơn những giải pháp kia?
Những tác động (hậu quả) của những giải pháp ấy là gì?
Đưa ra, phân tích, và so sánh những giải pháp khác nhau
Đây là phần mà mỗi cá nhân sẽ đưa ra ý kiến của mình để từ đó so sánh và phân
tích những ưu điểm, nhược điểm của từng tình huống trong việc giải quyết những vấn
đề đã nêu ở trên.
Đề xuất phương hướng hành động
Đây là bước cuối, sau quá trình thảo luận - khi mà các nhóm thảo luận đã nhất
trí về một phương án hiệu quả nhất và đề xuất lên giáo viên. Ở đây, tình huống, vấn đề
được giải quyết.
* Nhìn chung thì ở bước nào đi chăng nữa, người học cũng cần lưu ý những nguyên
tắc sau để có thể học tập tình huống một cách hiệu quả nhất:
- Cần biết chuẩn bị cho việc trình bày những ý tưởng và chững minh cho những ý
tưởng ấy. Đồng thời cần phải biết lắng nghe những ý kiến và nhận định của
người khác. Đừng ngại sử dụng những ý tưởng của người khác để làm vững
chắc hơn những luận điểm của mình.
- Tham gia tích cực và chủ động vào hoạt động thảo luận
- Nếu muốn nêu lên một vấn đề mới trong cuộc thảo luận, cần chú ý đề xuất vấn
đề một cách thích hợp: khi cuộc thảo luận chuẩn bị chuyển sang một đề tài mới
hay liên hệ vấn đề muốn nêu với vấn đề đang được thảo luận.
- Cần phải chú ý đi đúng hướng thảo luận. Cũng cần phải lưu tâm rằng ai đã nói,
và ai chưa trình bày ý kiến và cần tạo điều kiện để những người khác cũng được
tham gia thảo luận.
- Đừng ngại nêu lên ý kiến hay yêu cầu giải thích khi chưa nắm bắt được vấn đề.
Tóm lại, phương pháp dạy học tình huống là phương pháp đưa người học lên
chiếm giữ vị trí trung tâm của buổi học. Chính vì thế mà không phải tình huống, không
phải giáo viên mà chính mỗi cá nhân sẽ là nhân tố quan trọng nhất quyết định yếu tố
-
16
thành công của phương pháp dạy học tình huống. Điều này đã được khẳng định bằng
một hình ảnh so sánh sinh động như sau:
“Một buổi học tình huống cũng tựa như một buổi hoà nhạc, trong đó, người dạy tựa
như người chỉ huy dàn nhạc, làm nhiệm vụ nối liền những màn biểu diễn cá nhân lại,
và nắm được sản phẩm âm thanh sẽ như thế nào. Người dạy kích thích không khí học
tập bằng cách khơi gợi sự tìm tòi, yêu cầu người học trả lời những câu hỏi quan trọng,
và biết được người học sẽ nắm được những gì thông qua những câu hỏi ấy. Nhưng xét
cho cùng, cũng như người nhạc trưởng không thể tự mình làm nên một bản nhạc,
người dạy phương pháp tình huống cũng phải phụ thuộc vào mỗi cá nhân người học để
có thể đạt đến mục tiêu cao nhất của mỗi bài học. (Golich V., 2000)
Ngoài ra, tác giả Kaiser cũng đã đưa ra một mô hình 6 bước được xem như là cấu
trúc lý tưởng cho việc tiến trình thực hiện PPNCTH (Kaiser 1973). Theo quan điểm của
chúng tôi, cấu trúc 6 bước này phù hợp với tiến trình thực hiện PPNCTH trong dạy học
môn Giáo dục học (Nguyễn Thị Phương Hoa, 2009)
1. Tiếp cận tình huống
2. Thu thâp̣ thông tin
3. Nghiên ứcu tình huống
4. Ra quyêt́ định
5. Bảo vệ quan đi
ểm
6. So sánh giải pháp
Người học tiếp cận với tình huống
Người học nắm thông tin về tình huống, thu thập
thông tin giải quyết tình huống
Người học nghiên cứu, phân tích tình huống
Người học đưa ra quyết định về cách giải quyết
vấn đề nêu ra trong tình huống
Người học giới thiệu và bảo vệ quan điểm
về giải pháp của mình
Người học so sánh các giải pháp đưa ra để
lựa chọn lấy giải pháp tối ưu nhất
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
2.1 Thực trạng chung về tình hình dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường
THCS Hoa Liên……….
Giáo dục đạo đức và Pháp luật trong nhà trường là vô cùng quan trọng vì giáo dục đạo
đức và Pháp luật trong nhà trường nhằm mục đích trang bị cho HS những kiến thức
đạo đức và Pháp luật cơ bản từ đó góp phần điều chỉnh hành vi, cách xử sự của các
em, góp phần hình thành ở các em phong cách sống và làm việc theo chuẩn mực đạo
đức và Pháp luật, là một trong những biện pháp tích cực nhất trong hoạt động phòng
ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra sau này.
- Thế nhưng HS thường cảm thấy gặp khó khăn trong các bài học về đạo
đức và Pháp luật, vì các bài học này khô khan và khó nhớ. Nếu như chỉ dùng
17
phương pháp vấn đáp hoặc thuyết trình các khái niệm đạo đức và Pháp luật thì các
em sẽ không hiểu được cặn kẽ vấn đề dẫn đến các em dễ rơi vào tình trạng “học
vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên. Còn khi giảng dạy bằng
việc sử dụng bài tập tình huống sẽ giúp cho HS dễ hiểu và dễ nhớ các vấn đề lý
thuyết phức tạp.
- Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người học có thể tự
rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một cách dễ
dàng trong thời gian dài. Vì vậy việc dùng tình huống để giảng dạy bộ môn GDCD
hết sức cần thiết đặc biệt là trong giáo dục đạo đức và Pháp luật cho HS. Hiện nay,
nhiều GV có sử dụng nhưng chưa được chú trọng vì đa số GV sử dụng tình huống
để cho các em xử lí khi củng cố bài học hay khi thực hành bài tập. Theo tôi nghĩ
việc sử dụng bài tình huống cần rộng rãi hơn trong bài học. Có khi nó là một vấn
đề cần suy ngẫm khi giới thiệu vào bài học để mong tìm ra cách giải quyết có hiệu
quả, có khi nó là phương tiện để khai thác nội dung bài học, để minh họa hay mở
rộng vấn đề, có khi nó là tình huống do các em đặt ra để trao đổi cùng các bạn về
một vấn đề nào đó các em băn khoăn, có khi nó là một tình huống để các em củng
cố bài học hay thực hành bài tập…
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
a.Thuận lợi:
GV ngày nay được trang bị nhiều kiến thức mới, được tập huấn qua nhiều
lớp thay sách giao khoa. Có điều kiện trao đổi, dự giờ các đồng nghiệp.
- HS có điều kiện học tập tốt hơn, nhạy bén trong các trong việc xử lý các
tình huống.
- GV có cơ hội đánh giá thái độ học tập và cách ứng xử của HS qua việc xử
lý những bài tập tình huống:
+ Để phát triển tư duy.
+ Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức.
+ Phân tích kĩ năng xử lý tình huống.
b. Khó khăn:
- Do đặc thù bộ môn nên việc biên soạn bài tập tình huống phù hợp trong
giờ dạy GDCD của GV luôn gặp khó khăn.
- HS chưa quan tâm nhiều đến việc xử lý những tình huống trong cuộc sống.
2.2 Thực trạng sử dụng Phương pháp dạy học nói chung, Phương pháp dạy học
tình huống (hay nghiên cứu tình huống) nói riêng trong dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường THCS Hoa Liên…..
18
Mức độ vận dụng
Thường
Thỉnh
Không
xuyên
thoảng
bao giờ
(%)
(%)
(%)
1. PP thuyết trình
2. PP vấn đáp
3. PP trực quan
4. PP phân vai
5. PP hợp tác làm việc theo nhóm
6. PP dạy học tình huống (Nghiên cứu
tình huống)
7. PP project
8. Các phương pháp khác
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam,
giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả đã trình bày
làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học như khái niệm, cấu
trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả năng vận dụng vào
giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ thông hiện nay.
Chương 2
TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
I. Thực tiễn áp dụng phương pháp dạy học pháp luật bằng tình huống trong môn
gdcd ở trường THCS Hoa Liên
1. Nội dung
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều phương pháp
khác nhau. Tuy nhiên vấn đề là dùng phương pháp nào đem lại hiệu quả giảng dạy tối
ưu, học sinh chiếm lĩnh tri thức nhanh nhất và khắc sâu kiến thức nhất. Thông thường
khi giảng bài này giáo viên thường đưa ra các tình huống liên quan đến bài học, giáo
viên phân tích tình huống và giảng giải sau đó yêu cầu học sinh rút ra kiến thức cơ
bản của bài học. Nhưng nếu các đơn vị kiến thức trong bài đều sử dụng một phương
pháp thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán, không kích thích được sự hứng thú của học
sinh.Tuy nhiên cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một cách sáng tạo
hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm để phát huy tính chủ động, tự giác,
sáng tạo từ phía học trò bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Mặt khác, khi sử dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy nếu giáo viên chỉ cho
học sinh thảo luận các tình huống trong sách giáo khoa thôi thì bài học sẽ mang tính
19
kinh viện và chỉ đạt được một mục đích của bài là về kiến thức còn về thái độ, kỹ năng
là chưa có. Xuất phát từ thực tiễn trên khi sử dụng phương pháp này giáo viên cần xây
dựng các tình huống phải sát với thực tiễn cuộc sống và gần gũi với nhận thức, tâm lý
lứa tuổi học sinh.
a. Yêu cầu của bài tập tình huống:
- Đảm bảo tính khoa học, phù hợp chuẩn kiến thức, kĩ năng: Tình huống
phải thực sự có vấn đề, có mâu thuẫn nhận thức và phải tạo ra nhu cầu nhận thức,
gây được cho HS niềm tin (cảm thấy cần thiết có nhu cầu giải quyết vấn đề) có thể
nhận thức được. Tình huống phải đảm bảo phù hợp với trình độ của HS, đảm bảo
sự hoạt động tư duy, sáng tạo từ thấp đến cao, từ dễ đến khó…
- Đảm bảo tính sư phạm: Đôi lúc có những tình huống oái oăm, không phù
hợp với chuẩn mực đạo đức trong nhà trường chúng ta không nên sử dụng. Những
tình huống được lựa chọn phải mang tính sư phạm cao.
Ví dụ: Tình huống sau: Có một cô gái tự tử ơn Sơn La. Được biết nguyên
nhân là do bố mẹ cô đã ép cô tảo hôn với người con trai ở bản khác.
Do mâu thuẩn với cha mẹ mình, cô đã tự vẫn vì không muốn lập gia đình
sớm. Trong thư để lại cho người thân, cô đã nói lên ước mơ và những dự định
trong tương lai của mình.
Em có suy nghĩ gì về cái chết thương tâm của cô gái đó? Trách nhiệm này
thuộc về ai?
Tình huống trên không sai, thậm chí là thực tế nhưng đối với HS lớp 9 biết
quá sớm việc tự tử khi không hài lòng hay mâu thuẩn với gia đình là một điều
không tốt.
- Đảm bảo tính thực tiễn: Những tình huống đưa ra phải sát với thực tiễn
cuộc sống mang tính thời sự cao, như khi ở trường chúng tôi giảng dạy có sự cố
nhiều bạn nữ đánh hội đồng một bạn nữ khác, chúng tôi cho kiểm tra tình huống
sau đây:
Hôm đó, ở trường THCS thành phố H. xảy ra một sự việc đáng buồn. Mấy
bạn nữ lớp 9B đánh hội đồng bạn T chỉ vì lí do “trông thấy ghét”. Đáng buồn hơn
nữa là một số bạn chứng kiến cảnh đó chỉ đứng xem, không ai can ngăn hay có ý
kiến gì.
- Em có tán thành những hành vi trên không ? Vì sao ? (1.0 điểm)
- Nếu chứng kiến sự việc đó, em sẽ có thái độ như thế nào và sẽ làm gì? (1.0
điểm) (trích đề kiểm tra một tiết GDCD 9 HKI)
b. Cấu trúc bài tập tình huống:
- Tình huống có vấn đề:
20
+ Vấn đề mà tình huống đặt ra phải gắn với nội dung bài học, các em giải
quyết tình huống phải căn cứ vào những kiến thức được thể hiện trong chuẩn kiến
thức, kĩ năng hiện nay.
+ Vấn đề phải gắn với thực tiễn cuộc sống, có thể xảy ra, để từ đó các em
cảm thấy mình đang trải nghiệm một thực tế.
Ví dụ: Em là một lớp trưởng, có một người anh ruột lớn hơn một tuổi học
cùng lớp và học tương đối yếu nhưng được cái là tương đối hiền. Có lần anh của
em vi phạm làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp, điều đó chỉ có mình em biết. Em
sẽ sử dụng phẩm chất đạo đức nào để xử lí và xử lí như thế nào để có lợi cho lớp
mà không mất tình anh em?
Với tình huống trên vấn đề đặt ra phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ năng
cũng như có thể xảy ra trong cuộc sống của các em.
+ Tránh những vấn đề vượt chuẩn kiến thức, kĩ năng; cũng như những vấn
đề xa rời thực tế cuộc sống của các em.
Ví dụ: Thi học kỳ I sắp đến nhưng Long vẫn còn ham chơi, chưa muốn học
bài. Cũng phải thôi vì Long vốn là học sinh thông minh và có thói quen trước khi
thi Long thức trắng đêm để học thuộc lòng bài học và thi thường đạt kết quả khả
quan. Sau khi thi mặc dù hơi mệt thậm chí ngã bệnh nhưng chỉ bồi bổ vài ngày là
khỏe. Em suy nghĩ gì về việc làm của Long.
Với vấn đề được đặt ra trong tình huống trên, ta thấy học sinh sẽ không biết
vận dụng chuẩn kiến thức, kĩ năng nào để giải quyết; hoặc trong cuộc sống có ai
làm như thế không?
- Yêu cầu giải quyết:
+ Yêu cầu cũng phải đảm bảo tính khoa học: rõ ràng, dễ hiểu; không dài
dòng, tránh tối nghĩa.
+ Yêu cầu cũng cần đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng, bởi học sinh hiện
nay vẫn thường học theo những gì GV hướng dẫn (trong chuẩn kiến thức, kĩ năng)
+ Yêu cầu buộc học sinh phải tư duy, phân tích những khả năng có thể xảy
ra, tránh dễ dãi, đọc là nhận ra liền.
Ví dụ: Chị Hà là người hàng xóm của gia đình em. Chị có người yêu học
trên chị một lớp. Anh chị hẹn nhau sau khi tốt nghiệp đại học thì sẽ làm lễ cưới.
Nhưng ở nhà mẹ chị đã nhận trầu cau và ép chị lấy con nhà giàu. Chị không đồng ý
thì mẹ chị dọa tự tử:
- Việc làm của mẹ chị Hà là đúng hay sai?
- Chị Hà nên phải làm gì để có thể kết hôn được với người mình yêu
thương?
Chúng ta thấy với tình huống trên học sinh phải giải quyết hai yêu cầu:
21
+ Yêu cầu thứ nhất học sinh phải dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng để giải
quyết.
+ Yêu cầu thứ hai học sinh phải tư duy, phân tích vấn đề như hiện nay là
hôn nhân tự nguyện, không ai được cưỡng ép, nhưng cha mẹ là người sinh ra ta
nếu ta không nghe lời cha mẹ thì sẽ ra sao? Hay nếu ta không nghe lời cha mẹ thì
mình phải làm gì để có cuộc sống hạnh phúc sao này...
c. Tiến hành trên lớp:
- Dùng để giới thiệu bài.
- Đây là thời điểm người dạy phải thu hút sự chú ý của HS, người GV phải
kích thích được sự tò mò, khám phá, muốn tìm hiểu của người học.
- Cho nên, ta nên chọn những tình huống, như:
+ Có thật, xảy ra ngay trong trường học hay ở địa phương hoặc tình huống
nổi tiếng nhiều người quan tâm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
+ Tình huống phải thật sự có vấn đề, gây mâu thuẩn trong suy nghĩ của HS.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chí công vô tư”, ta có thể vào bài bằng tình huống sau:
Có ý kiến cho rằng chỉ người lớn, nhất là những người có chức có quyền mới phải
rèn luyện phẩm chất chí công vô tư, học sinh còn nhỏ không có điều kiện để rèn
luyện phẩm chất đó.
Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
Ta thấy tình huống trên chắc chắn sẽ làm cho học sinh bức xúc, bởi vấn đề
được đặt ra có ý xem nhẹ học sinh. Các em nhận thấy mình có thể thực hiện chí
công vô tư như: tích cực tham gia các hoạt động của tập thể, không bao che cho
những việc làm sai trái, bảo vệ lẽ phải, công bằng khi nhận xét, đánh giá người
khác ....Từ đó, các em sẽ có phản ứng và chú ý đến bài mà các em chuẩn bị học.
Ví dụ: Hoặc khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí”, ta có
thể lấy tình huống: Một thanh niên không đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy, bị cảnh
sát giao thông yêu cầu dừng xe và phạt 200.000đ. Theo em, vì sao anh thanh niên
lại bị xử phạt như vậy?
Đây là tình huống mà các em, người thân trong gia đình khi tham gia giao
thông thường gặp và bị xử phạt nhưng hình như nguyên nhân bị phạt ít ai quan tâm
đến. Chắc chắn các em sẽ chú ý đến bài học này. Từ đó GV chốt ý đề vào bài mới,
như: Anh thanh niên do không đội mũ bảo hiểm khi đi xe máy nên đã vi phạm
pháp luật hành chính vì đã vi phạm quy định của pháp luật giao thông đường bộ.
Khi bị cảnh sát giao thông phạt tiền, anh thanh niên đã phải chịu trách nhiệm hành
chính về hành vi vi phạm hành chính của mình.
-. Dùng để minh hoạ cho nội dung bài học.
22
- Bước này mặc dù GV phải khai thác phần đặt vấn đề để HS hiểu được nội
dung bài học, nhưng có những vấn đề không phù hợp với tình hình lớp học, trường
học hay ở địa phương. Cho nên, GV phải linh hoạt thay đổi một phần đặt vấn đề
khác phù hợp hơn,
Ví dụ: khi dạy bài “Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ta có thể đổi phần đặt vấn đề như sau: Hiện nay
trách nhiệm của em là học tập cho tốt, rèn luyện đạo đức, lối sống theo gương
những thanh niên tiên tiến và theo lời dạy của Bác Hồ để sau này thành người công
dân có ích cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Em tự kiểm tra
mình đã làm được điều gì, như thế nào, cần sửa chữa những nhược điểm, khuyết
điểm của mình?
Với tình huống trên GV có thể khảo sát được suy nghĩ của rất nhiều HS
trong lớp học của mình.
- Phần nội dung bài học rất cần những dẫn chứng xác thực để minh họa, đặc
biệt là phần pháp luật lớp 9 rất “khô khan”, đòi hỏi người GV phải có vốn sống,
phải chuẩn bị những tình huống mang tính thực tế cao để minh họa cho HS hiểu
bài.
Ví dụ: khi dạy bài “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí của công
dân”, GV dù có kinh nghiệm đến đâu khi giúp HS hiểu rõ thế nào là một hành vi vi
phạm pháp luật cũng mất rất nhiều thời gian, nhưng với hệ thống bài tập tình
huống sau đây thì HS dễ dàng nhận biết:
Có chủ ý thực
hiện
Có Không
1/ Ông Ân xây nhà x
cao tầng không giấy
phép và đem đổ phế
thải xây dựng xuống
cống thoát nước.
Tình huống
2/ Lê cùng bạn
tham gia đua xe
máy, vượt đèn đỏ,
gây tai nạn giao
thông.
x
Lỗi
Hậu quả
Vi phạm PL
Có
Xây nhà
trái
phép, đổ
phế thải
xuống
cống
thoát
nước
Đua xe,
vượt
đèn đỏ
23
Không
Tắc cống,
ngập nước,
ô
nhiễm
môi trường
x
Gây
tai
nạn, thiệt
hại
về
người và
của
x
3/ A là bệnh nhân
Đập phá
Thiệt hại
x
tâm thần, khi lên
nhiều tài
cơn đã đập phá
sản quý
nhiều tài sản quý
của bệnh viện.
4/ Thiếu tiền tiêu x
Cướp
Gây
tổn
x
xài, N cướp giật dây
tài sản
thất tài sản
chuyền, túi xách của
cho người
người đi dường.
khác
5/ Bà Tư vay tiền x
Vay tiền
Xâm phạm
x
của Chị Ba đã quá
dây dưa
tài sản của
hạn, dây dưa không
không
người
chịu trả nợ.
trả
khác.
6/ Anh Sa là công x
Chặt
Người đi
x
nhân công ti Môi
cây, tỉa
đường bị
trường đô thị. Khi
cành
thương
chặt cây, anh đã
không
không đặt biển báo
đặt biển
nguy hiểm theo quy
báo
định. Hậu quả là
một người đi đường
đã bị thương do
cành cây rơi xuống.
Sau khi giúp học sinh điền vào ô trống, GV có thể đặt câu hỏi:
- Vì sao các hành vi 1,2,4,5,6 là hành vi vi phạm pháp luật?
- Vì sao hành vi 3 không vi phạm pháp luật?
Sau khi HS trả lời: Vì các hành vi 1, 2, 4, 5, 6 là hành vi trái Pháp luật, có
lỗi và do người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi của mình thực
hiện gây hậu quả xấu cho xã hội. Hành vi 3 không vi phạm pháp luật mặc dầu hành
vi của anh A là có lỗi vì anh A mắc bệnh tâm thần và không cố ý, không ý thức
được hành vi của mình.
GV giảng giải: Người có khả năng nhận thức, điều khiển được việc làm của
mình, được tự do lựa chọn cách ứng xử và chịu trách nhiệm về hành vi của mình
được gọi là người có năng lực trách nhiệm pháp lí.
Năng lực trách nhiệm pháp lí gồm hai yếu tố :
+ Khả năng nhận thức, điều khiển hành vi và độ tuổi của một người. Ví dụ:
Một em bé lên 5 tuổi nghịch lửa làm cháy gian bếp của nhà hàng xóm. Vì em bé
24
mới 5 tuổi nên em bé chưa có năng lực trách nhiệm pháp lí vì vậy hành vi làm
cháy gian bếp của nhà hàng xóm là không vi phạm Pháp luật.
+ Độ tuổi chịu trách nhiệm pháp lí trong các lĩnh vực khác nhau được qui
định khác nhau.
Sau đó GV có thể bổ sung thêm tình huống sau để nhấn mạnh và khắc sâu
kiến thức cho các em: Khôi và Phương bàn nhau về việc lấy trộm xe đạp của một
người trong xóm. Quân theo dõi, nghe được câu chuyện này đã khẳng định Khôi
và Phương vi phạm Pháp luật và gọi điện cho công an đến bắt họ ngay lập tức. Em
hãy cho biết ý kiến của mình về trường hợp này?
Đáp án tình huống: Hành vi của Quân là sai vì Khôi và Phương không vi
phạm pháp luật vì chưa thực hiện hành vi lấy trộm.
GV nhấn mạnh: Hành vi có thể là một hành động cụ thể (ví dụ: đi ăn trộm)
hoặc không hành động (ví dụ: thấy người bị tai nạn nhưng không làm gì để cứu
giúp). Nếu chỉ là ý định, ý tưởng nào đó thì không thể bị coi là vi phạm pháp luật.
GV giảng giải thêm: Ý định, ý tưởng phạm tội trong suy nghĩ không phải là
hành vi vi phạm pháp luật, nhưng nếu đem ý định đó ra đe dọa người khác thì bị
coi là hành vi vi phạm pháp luật vì sự đe dọa là ý định được thể hiện bằng lời nói
và hành động được coi là hành vi đe dọa.
-. Dùng để luyện tập, củng cố bài học, kiểm tra đánh giá.
- Hiện nay bài tập tình huống có ở SGK rất đa dạng và phong phú đủ để GV
có những tình huống để giúp HS khắc sâu kiến thức. Cái khó là ta nên chọn những
tình huống nào thật sự cần thiết cho HS.
- Tình huống nhiều, nhưng không đồng nghĩa là người GV không biên soạn
thêm để làm phong phú cho tiết dạy. Đó là những tình huống vui, gắn với trường
với lớp, đó là những tình huống có trên phương tiện thông tin đại chúng như
chương trình “Ai đúng? Ai sai?” của đài truyền hình Vĩnh Long (ta có thể tải trên
trang web của đài) để làm phong phú tiết dạy.
Ví dụ: khi dạy bài “Quyền và nghĩa vụ lao động của công dân” GV có thể
giúp HS nhận thấy việc làm sai trái khi sử dụng lao động là trẻ em, cũng như giúp
các em biết phải làm gì khi gặp sự việc như trên: Thấy một số trẻ em lang thang
đến khu vực bến phà gần nhà mình, bà Tư tìm cách rủ các em về nhà bà. Mấy ngày
đầu, bà đối xử với các em có vẻ tử tế. Nhưng sau đó bà sai các em hằng ngày đứa
thì đi nhặt rác, đứa thì đi đánh giày, đứa thì đi bán vé số, tối về phải nộp tiền cho
bà, em nào không có tiền nộp thì bị phạt, bị bỏ đói. Bà còn quy định mỗi em phải
nộp bao nhiêu tiền cho bà sau mỗi ngày. Bọn trẻ sau một thời gian ở với bà Tư đều
gầy yếu, xanh xao.
- Theo em, bà Tư có vi phạm pháp luật về lao động không?
25