Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC CÔNG DÂN: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.65 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm

Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Hồ Anh Sơn
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

2

Hà Tĩnh, năm 2015
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, với đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo, đã làm cho diện mạo đất nước thay đổi trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, hệ thống giáo dục
các cấp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Một trong những
mục tiêu giáo dục ở nhà trường là giáo dục toàndiện. Ở trường THCS học sinh
được học rất nhiều bộ môn khác nhau. Tất cả các môn học đó đều góp phần giáo
dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Bên cạnh đó còn có sự tác động của hoạt động
Đoàn, Đội. Nhưng môn Giáo dục công dân là môn học trực tiếp giáo dụcđạo đức,


tư tưởng cho học sinh trong đó có việc giáo dục ý thức pháp luật. Giáo dục pháp
luật cho công dân nói chung và cho học sinh phổ thông nói riêng là một vấn đề
quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là một phương thức để xây dựng, phát
triển nền văn hoá pháp lí, đảm bảo sự ổn định và bền vững của mỗi quốc gia.
Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, một quốc
gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Nghiên cứu nền giáo
dục của một số nước như: Anh, Mĩ, Hung-ga-ri, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung
Quốc, Sin-ga-po ... tôi thấy rằng nền giáo dục được họ đặc biệt quan tâm. Có thể
nói rằng sự quan tâm đó là khá toàn diện: Giáo viên, hệ thống nhà trường, phương
tiện giảng dạy .... Nội dung chương trình thường xuyên được cập nhật, bổ sung, đổi
mới theo tiến độ phát triển của xã hội. Phương pháp nghiên cứu, giảng dạy cũng
thường xuyên được đổi mới ngay từ các tiết học ở các cấp học theo đặc thù riêng
của từng bộ môn và nội dung chương trình. Tính tích cực, chủ động của người học
không ngừng được phát huy. Nhờ có sự đổi mới và tiến độ nêu trên mà học sinh
các quốc gia đó có mặt bằng kiến thức rất cao, sát với thực tiễn, họ tự tin, làm chủ
và phát huy tốt chính chất xám của họ, nhờ vậy mà đất nước của họ rất phát triển.
Ở nước ta, cùng với sự gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì vấn đề trật
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

3

tự pháp luật trong xã hội càng trở nên bức xúc. Theo thống kê tội phạm học vừa
qua cho thấy cả nước có 2.617 học sinh, sinh viên nghiện ma tuý. Địa bàn Hương
Sơn có tới hơn 5% trẻ em nghiện ngập, theo bạn bè hút thuốc lá, uống bia rược từ
khi mới lên 10-11 tuổi. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hiện được
1002 trường hợp sử dụng ma tuý trong đó có 695 học sinh phổ thông và 307 sinh

viên. 70-80% số học sinh phạm pháplà những học sinh chậm tiến, học lực kém, do
lười học hoặc do hoàn cảnh gia đình. Nguyên nhân của những con số trên là do ý
thức của các em về vấn đề pháp luật rất thấp. Có nhiều giải pháp đưa ra để làm
giảm các tệ nạn xã hội nhưng những giải pháp đó chỉđược coi là giải pháp tình thế.
Do đó cần phải hình thành cho mọi người có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh "pháp
luật" đặc biệt là đối tượng học sinh, ngay từ khi các em chưa phải là người tham
gia pháp luật thường xuyên. Vì thế, xây dựng chương trình giáo dục pháp luật
trong nhà trường là giải pháp mang tính lâu dài. Cũng lí do đó bản thân chọn “Vận
dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD, tạo sự hấp dẫn, hứng
thú, cho học sinh trong quá trình học tập và làm cho môn GDCD thật sự xứng đáng
với vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của bộ môn trong nhà trường THCS.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng học sinh lớp 6, 7 trường THCS Nguyễn Tuấn Thiện.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Nếu áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật
cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học
Cơ sở vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục công dân theo qui
trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục
công dân.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

4


5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Nguyễn Tuấn
Thiện
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Nguyễn Tuấn Thiện.
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục
công dân
5.2 Phạm vi nghiên cứu:
Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh chính là giúp các em có thêm những
hiểu biết về những "chuẩn mực pháp luật" biết xử lý các tình huống bắt gặp trong
cuộc sống. Trong khuôn khổ của tiểu luận, tôi không thể nêu cụ thể nội dung kiến
thức và phương pháp dạy học ở từng tiết, từng chủ đề, ở từng khối lớp mà tôi chỉ
đưa ra bằng một bài học cụ thể với phương pháp dạy học bằng các tình huống pháp
luật tạo nên sự tương tác hoạt động giữa thầy và trò. Đó chỉ là một số giải pháp của
tôi đã rút ra được trong suốt những năm giảng dạy giáo dục công nhân ở trường
THCS.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở các chương trình bồi dưỡng thường xuyên hàng năm Sách giáo
khoa giáo dục công dân để đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và
học giáo dục pháp luật ở trường THCS theo chương trình đổi mới. Dạy một tiết
học pháp luật có thể sử dụng rất nhiều đồ dùng + kết hợp với đa dạng các phương
pháp dạy học như: Máy chiếu, tranh ảnh, bảng biểu, phiếu học tập tình huống, câu
hỏi và phương pháp đàm thoại, đóng vai, thảo luận nhóm, trò chơi.... Tuỳ nội dung
từng bài mà sử dụng cho phù hợp. Như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao trong công
tác giảng dạy. Đề tài được viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ

thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

5

- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
7. Đóng góp mới của đề tài:
Vận dụng sáng tạo, khai thác được tính năng động của học sinh, gây hứng thú
trong giờ học môn GDCD sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm
Giáo dục pháp luật bằng giúp nâng cao chất lượng học tập môn GDCD nói chung
và giáo dục pháp luật nói riêng đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.
8. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 phần
- Phần Mở đầu.
- Phần Nội dung.
- Phần Kết luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học (Gợi ý)
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa
về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối
hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự

lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm
bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

6

Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong
quá trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả
là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp
dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy
và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học,
chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục
đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự
thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính
độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học
có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp
học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra,
đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này

gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều
giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên
phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp
lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc
tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu,
là mô hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp
thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của
thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực
hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

7

được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic
của bản thân. Vậy, trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo
gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của
cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với
học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động
truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác,
dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được
cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.

Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp
học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ
bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là
vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo
trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ
đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

8

“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án
giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu
chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết
ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống

dạy học là những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu
trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của
bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể
giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là
những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng
giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi
hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi
anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa
thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích
thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là
quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu
của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải
quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của
con người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi
sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương
pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

9


thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của
mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề
đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh,
đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc
nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc
phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng
về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức
và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề
không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn
khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận
và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng
tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho
các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó
nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần
thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ

thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

10

Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết
cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương
pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên
nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp
nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học
sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích
cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả
về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không
đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung
hoặc không sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải
quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và
dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận,

người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến
thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể
rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên
thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách
sâu sắc gắn liền với quá trình giải quyết tình huống đó.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

11

Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống,
quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh,
trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri
thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích
cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong
đó, học sinh được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải
quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình
để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định
của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án
giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có
thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm,
thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết,
vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có
thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn
học hoặc của nhiều môn học khác nhau.

Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa
đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ
khả năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa
gặp bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và
không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ
sung thêm kiến thức cho cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

12

trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu
điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với
các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học
hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác.
Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát
biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một
cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải
quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời
có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức của
mình.

Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức,
kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt
có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả
năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học
tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông
qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải
quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở
thành người có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được
nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với
việc học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần
nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan
điểm của mình. Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu,
nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

13

Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng
thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ
học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ
những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh

nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý
hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho
phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy
bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm
khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và
kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không
hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống
mong muốn, nhất là trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến
từ những vùng miền khác nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều
phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học,
thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy
nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình
huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó
làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của
người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất
định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ
thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

14


tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ
tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương
pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi
mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều
kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên
“tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một
tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một
ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng
phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu
hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận
xét, phản biện… Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá
trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình
thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc
vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó
thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường
chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết
giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên
vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến
thức tiếp theo”.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ

thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

15

Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ
thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn
đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình
huống này cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học
sinh đọc. Các tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học
sinh nghiên cứu và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học
sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc
trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học
sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các
bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để
giải quyết tình huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là
người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao
nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học
và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao
nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo
độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây
dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà
trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất
tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi

học sinh xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản
thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là
các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý
tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

16

Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội
dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình
giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng
các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên
muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay
cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và
áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên

những vấn đề mà thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến
thức cần học sinh tiếp thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải
giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được
xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết
sự kiện để hình thành một tình huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên
có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên
những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ
việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm
hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện
cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

17

giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong trường hợp này
các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học ...(Gợi ý)
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Thực trạng vấn đề đạo đức ý thức chấp hành pháp luật của học sinh phổ thông hiện
nay đang xuống cấp nghiêm trọng. Những biểu hiện cơ bản thường thấy như: 1.
Xưng hô, giao tiếp với thầy cô, người lớn tuổi và bạn bè bằng những lời lẽ trống
không, thiếu văn hóa thậm chí hỗn láo; 2. Có những hành vi và thái độ khiếm nhã

với bạn bè (khác giới) và thầy cô giáo như: Sử dụng điện thoại bừa bãi, nhắn tin
cho bạn bè và thầy cô vào những thời gian nhạy cảm và bằng những lời lẽ thiếu
lịch sự, học sinh khác giới ôm nhau ngay trong trường; 3. Quay cóp trong thi cử
một cách công khai và liên tục; 4. Ra ngoài đường đi hàng năm hàng bảy ngang
nhiên làm cho người tham gia giao thông rất khó chịu và đã nhiều vụ gây ra tai nạn
giao thông; 5. Đánh nhau (dùng cả vũ khí “nóng” với bạn bè và cả thầy cô giáo); 6.
Chơi điện tử, bi-a, game, trộm cắp xảy ra nhiều; 7. Bỏ học, trốn học, lừa tiền cha
mẹ để tiêu pha hoang phí, ăn tiêu đua đòi…
Những biểu hiện trên làm cho các nhà trường, các bậc phụ huynh, giới nghiên cứu
và quản lý giáo dục cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm. Nguyên nhân căn bản
của nó của nó gồm hai mặt chủ quan và khách quan. Về chủ quan, có thể thấy, các
nhà trường hiện nay chưa thật sự coi trọng công tác giáo dục đạo đức pháp luật cho
học sinh. Công tác này ở các nhà trường thường dựa chủ yếu vào Đoàn, Đội, giáo
viên chủ nhiệm. Các trường chỉ tập trung vào dạy văn hóa (dạy chữ) chứ chưa
quan tâm đến dạy đạo đức (dạy người - dạy làm người). Các trường ít tổ chức các
buổi ngoại khóa, các chủ đề về giáo dục đạo đức và pháp luật hoặc có tổ chức thì
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

18

chỉ nặng về cung cấp kiến thức sách vở, ít cung cấp kỹ năng và kiến thức thực tiễn.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều lúng túng trong việc xử lí những sai phạm của học
sinh. Việc phối kết hợp giáo dục giữa nhà trường với gia đình và các lực lượng, tổ
chức xã hội chưa đồng bộ, hiệu quả.
Về nguyên nhân khách quan: Nội dung, cấu trúc chương trình phổ thông chưa dành
thời lượng thích đáng cho giáo dục đạo dức và pháp luật. Vẫn chỉ giáo dục chủ yếu

qua môn GDCD. Ít có thời gian tổ chức các chuyên đề, hoạt động ngoại khóa về
đạo đức và pháp luật. Quy định thầy, cô giáo không được xúc phạm đến thân thể ,
nhân cách của học sinh, trường học thân thiện…, ngoài những ưu điểm không thể
phủ nhận thì cũng có những trở ngoại cho các nhà trường trong việc giáo dục
những học sinh hư.
Cơ chế thị trường và những đổi thay của xã hội làm cho ranh giới giữa thầy và trò
ngày càng mờ nhạt, hình ảnh người thầy ngày càng phai mờ trong học sinh và phụ
huynh. Ở đâu đó, giáo dục đã bị thương mại hóa khiến giáo dục nhiều khi bị mang
ra trao đổi. Môi trường sống, môi trường xã hội hiện nay có nhiều cám dỗ, lôi kéo,
các kênh thông tin quá đa dạng và sự tiến bộ của những trang thiết bị hiện đại mà
chúng ta không kiểm soát được cũng tác động xấu đến đạo đức và ý thức pháp luật
của học sinh. Nhiều gia đình học sinh có quan điểm lệch lạc, thiếu sự quan tâm đến
con em mình, thiếu sự hợp tác với các nhà trường. Sự sẵn sàng vào cuộc của gia
đình, xã hội với nhà trường trong việc giáo dục đạo đức pháp luật cho học sinh
chưa cao. Những chuẩn mực về đạo đức, thẩm mỹ chưa được hình thành và giáo
dục một cách bài bản và hệ thống.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học ...

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

19

Xuất phát từ thực trạng ý thức của học sinh học môn Giáo dục Công dân dẫn đên
thực trạng giảng dạy Giáo dục Công dân nói riêng và pương pháp dạy học nhằm
giáo dục pháp luật cho học sinh trong trương THCS còn nhiều hạn chề. Trong thời

gian gần đây, phương pháp dạy dọc môn GDCD đã có nhiều đổi mới song phần
lớn giáo viên vẫn còn nặng về truyền đạt kiến thức một chiều. Đặc biệt đối với các
tiết có nội dung pháp luật, do việc giáo viên hiểu còn hạn chế về nội dung luât nên
phương pháp dạy học chưa có nhiều đổi mới. Dạy học bằng tình huống còn đơn
giản, giáo vên chưa sử dụng hết các loại tình huống trong quá trình dạy học.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công
Tuy nhiên trong những năm gần đây, ý thức của học sinh trong việc tuân thủ các
nội dung ở trường THCS Nguyễn Tuấn Thiện – Hương Sơn- Hà tĩnh đã gặt hái
được những thành công đáng kể: Khonng có hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật
như học sinh tham gia giao thộng có văn hóa, học sinh đã nhận thức sâu sắc các
nội dung của các tiết học về pháp luât. Không xẩy ra hiện tượng bạo lực học
đường. Kết quả phân loại hạnh kiểm của học sinh trong các năm học đạt loại ttots
khá cao.
1.2.3.2 Những hạn chế
Ý thức học môn GDCD nói chung vá các tiết có nội dung pháp luật ở một bộ
phận học sinh chưa cao .
1.2.3.3 Nguyên nhân
Do xu thế của xã hội trong việc nhìn nhận vị trí của từng môn học, đặc biệt
là môn GDCD.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
NGUYỄN TUẤN THIỆN.
2.1. Xây dựng tình huống đơn giản:
Giáo viên có thể xây dựng tình huống đơn giản cho các tiết học:
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL


20

Lớp 6: Bài 12: CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN TRẺ EM.
Lớp 7: QUYẾN ĐƯỢC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM
VIỆT NAM.
Với các tình huống như sau:
2.1.1. Có ý kiến cho rằng: chỉ có những trẻ em da trắng và da vàng mới có
những quyền trẻ em được quy định trong công ước quốc tế về quyền trẻ em, còn
trẻ em da đen ở những nước châu Phi thì không có những quyền này. Xin hỏi
nhận định như thế có đúng không?
Trả lời:
Công ước Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em là một công ước quốc tế quy định
các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Công ước có
hiệu lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều
đã tham gia công ước (193 quốc gia, trừ Hoa Kỳ và Somalia). Các quốc gia phê
chuẩn công ước này chịu ràng buộc của các quy định công ước này theo luật quốc
tế. Điều 2 của công ước khẳng định rằng các quốc gia thành viên phải tôn trọng và
bảo đảm những quyền trẻ em được nêu ra trong công ước mà không có sự phân
biệt, đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân
tộc….
Như vậy, trẻ em ở bất cứ quốc gia nào đã tham gia công ước đều được
hưởng những quyền trẻ em được ghi nhận trong công ước, không phụ thuộc vào
màu da của các em. Trẻ em da đen cũng như trẻ em da trắng, đều có các quyền
bình đẳng như nhau.
Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới tham gia Công ước liên hợp quốc về
quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Ngay sau đó, Quốc hội Việt Nam đã
ban hành Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào năm 1991 để ghi nhận các
quyền trẻ em trong công ước này.


Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

21

2.1.2 Chú Khang là hàng xóm nhà Tuyết. Bé Bi, con trai của chú Khang
vừa mới tròn 2 tuổi. Tuyết thường hay sang chơi với bé Bi. Có một lần Tuyết
nghe thấy bố mình hỏi chú Khang: “Em đã đăng ký khai sinh cho cháu Bi
chưa?” Chú Khang cười rồi trả lời: “ Em chưa anh ạ. Đợi đến lúc bé Bi đi học
tiểu học thì đăng ký cũng được. Vội gì!”
Hỏi: Trẻ em có quyền được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời không?
Pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em như
thế nào?
Trả lời:
Được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời là một quyền cơ bản của trẻ em.
Khoản 1, Điều 7 Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em ghi nhận rằng: "Trẻ
em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có
quốc tịch ngay từ khi chào đời…"
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam đã khẳng
định rằng: Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Cha mẹ, người giám
hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn; UBND cấp xã có trách
nhiệm thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em, vận động cha mẹ, người giám hộ
khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn. Trẻ em của hộ nghèo không phải nộp lệ phí
đăng ký khai sinh.
Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2005 của Chính
phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch cũng quy định rõ : “Trong thời hạn 60 ngày, kể
từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không

thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ
em”.
Bé Bi đã tròn 2 tuổi mà chú Khang chưa đi đăng ký khai sinh cho bé là không
đúng. Việc này có thể làm ảnh hưởng đến các quyền lợi khác trong tương lai của
bé Bi.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

22

3. Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em được pháp luật quy định như
thế nào?
Trả lời:
Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ,
tinh thần và đạo đức.
Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em được Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục năm 2004 (Điều 24) quy định như sau:
- Cha mẹ, người giám hộ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm
sóc, nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em; khi
gặp khó khăn tự mình không giải quyết được, có thể yêu cầu và được cơ quan, tổ
chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em.
- Cha mẹ, người giám hộ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình phải
gương mẫu về mọi mặt cho trẻ em noi theo; có trách nhiệm xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triên toàn
diện của trẻ em.

- Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm chăm lo chế độ dinh dưỡng phù hợp
với sự phát triển về thể chất, tinh thần của trẻ em theo từng lứa tuổi.
- Trong trường hợp ly hôn hoặc các trường hợp khác, người cha hoặc người
mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng con chưa thành niên phải có nghĩa vụ đóng góp để
nuôi dưỡng con đến tuổi thành niên, có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục con theo
quy định của pháp luật.
2.1.3 "Sáng ngày 25/5, trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi của quận H thấy
một cháu bé khoảng 3 tuần tuổi bị bỏ rơi trước cửa trung tâm. Khắp người cháu
bé bị bầm tím và sưng tấy do bị kiến cắn. Manh mối duy nhất để lại là một mảnh
giấy ghi tên và ngày sinh của cháu. Công an đã nhanh chóng điều tra và tìm ra

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

23

bố mẹ của cháu. Được biết, vì khi sinh ra, cháu đã bị teo não, bố mẹ không
muốn nuôi nên đành bỏ cháu vào trung tâm".
Đọc xong tin trên, Minh (13 tuổi) thắc mắc, muốn biết những quyền trẻ
em nào đã bị vi phạm và hành vi bỏ rơi trẻ em như trên có bị pháp luật trừng trị
không?
Trả lời:
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, hành vi bố mẹ bỏ
mặc trẻ em vì lý do trẻ em bị bệnh nói trên đã vi phạm đến nhiều quyền cơ bản của
trẻ em bao gồm:
- Quyền được sống chung với cha mẹ: Trẻ em có quyền sống chung với cha
mẹ. Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để trẻ em được sống chung với

mình.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Cha mẹ là người
trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện
tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em.
- Quyền được chăm sóc sức khoẻ: Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ
sức khoẻ. Cha mẹ có trách nhiệm thực hiện việc chữa bệnh cho trẻ em.
Theo Điều 9, Nghị định 91/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 17
tháng 10 năm 2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em thì cha mẹ, người giám hộ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Sau khi sinh con, cha hoặc mẹ bỏ con, không chăm sóc, nuôi dưỡng;
- Cha, mẹ bỏ mặc con, người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ em ở nơi công cộng hoặc
ép buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan
tâm chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, để trẻ em này rơi vào hoàn cảnh đặc
biệt theo quy định tại Điều 40 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

24

- Cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cắt đứt quan
hệ tình cảm và vật chất với trẻ em, trừ trường hợp cho trẻ em làm con nuôi hoặc bị
buộc phải cách ly trẻ em theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, để khắc phục hậu quả, pháp luật buộc cha, mẹ, người giám hộ
thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em theo quy định của

pháp luật do thực hiện hành vi nói trên.
2.1.4. Khi Mai học hết tiểu học thì bố quyết định cho Mai nghỉ học để phụ
giúp mẹ bán hàng. Khi các cô bác ở hội phụ nữ phường đến động viên cho Mai
được đi học thì bố Mai cho rằng: bố mẹ có quyền quyết định việc học của con
cái.
Xin hỏi; Bố mẹ có quyền quyết định việc học của con cái hay không? Trách
nhiệm bảo đảm quyền học tập của trẻ em được pháp luật Việt Nam quy định
như thế nào?
Trả lời:
Đối với trẻ em, học tập có ý nghĩa quan trọng. Trẻ em cần được học tập để trở
thành con ngoan, trò giỏi, người hữu ích cho gia đình, xã hội và tương lai sẽ trở
thành công dân tốt, người lao động tốt góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì
vậy, Điều 16, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã khẳng định
rằng: "Trẻ em có quyền được học tập."
Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập
của trẻ em. Trách nhiệm này được Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy
định tại Điều 28 như sau:
- Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em được thực hiện
quyền học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em
theo học ở trình độ cao hơn.
- Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục
toàn diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

25


cho trẻ em; chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần
thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để đảm bảo chất lượng
giáo dục.
- Người phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường
phải được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe, phẩm chất
đạo đức tốt, yêu nghề, yêu trẻ, được tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ.
Như vậy, theo các quy định của pháp luật, cha mẹ không có quyền bắt con cái
bỏ học mà phải tạo điều kiện để con cái thực hiện quyền được học tập của mình.
Suy nghĩ và hành động của bố Mai như thế là không đúng. Gia đình, nhà trường và
xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập của trẻ em.
2.1.5 “Ngày 23 tháng 10, trước cửa bệnh viện X, có một bé gái 5 tuổi nhăn
nhó vì đau ruột thừa. Em đã ngồi đây từ sáng nhưng vẫn chưa được vào khám
vì em không mang theo thẻ bảo hiểm y tế và mẹ em thì không có tiền để đóng
phí khám bệnh. Thật may mắn là sau khi được thông báo, Giám đốc bệnh viện
đã ra giải quyết vụ việc và tạo điều kiện cho em được khám bệnh. Em gái được
phẫu thuật và cứu sống ngay sau đó. Những nhân viên bệnh viện cản trở việc
khám bệnh của em cũng đã bị xử phạt theo pháp luật.”
Cường rất bức xúc khi đọc được tin tức trên và biết rằng hành vi đó đã vi
phạm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Em muốn biết hành vi cản trở,
không khám chữa bệnh cho trẻ em sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ bản của trẻ em được ghi
nhận trong Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em năm 2004 cũng khẳng định : trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



×