Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN GIÁO DỤC CÔNG DÂN: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường THCS Đan Trường Hội, huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.45 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm

Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở Trường THCS Đan Trường Hội,
huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Hoàng Thị Dung
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015
1


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất lượng
giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn
giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện phát
triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao của
hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy học
tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối với giáo


viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp cũng
như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ thông
những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy học ở
nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học chay, truyền
thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm tăng
tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các vấn đề
thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là môn học có ý
nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp dụng phương
pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy
học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học môn
Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình huống
và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp dụng
phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục công dân
với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ, hành vi đúng
đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG

2


Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THCS
Đan Trường Hội, huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn
Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Đan Trường Hội,
huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường THCS Đan Trường Hội, huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công dân.
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Đan Trường Hội, huyện Nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn giảng
dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra, đo
đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn sâu,
tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy
học môn GDCD ở trường Trung học.
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới
mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của giáo
viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo cho trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò lĩnh
hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học có
mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác động

qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất này
phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương đối,
chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối
với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng lôgic
của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh giá) sự
học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó hữu cơ với
nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo
việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên

4


đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa
truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì
vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả
các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải tự
điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội dung
do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực chỉ đạo
sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ).
Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của
thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp
học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau,
bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học, và
đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền đạt và
chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối ưu phải là

sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc ba phép biện
chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó thành
học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong cả
ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:

5


“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn xung
đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải quyết
khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt truyện,
nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng một vấn
đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những tình huống
thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.

Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình huống
về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư
duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực
đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến thức và
cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là: tình
huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức được
vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì hy vọng
có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống
đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn
đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ
cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu và
giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức hành
động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
- Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.


6


- Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
- Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không đòi
hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó giáo
viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách quan của
bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả
năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được
kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các em
thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng thời
cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng thiếu sót
này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh. Từ
những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt được)
học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương pháp

dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về lý
luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra được
những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không sát thực
tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình huống, hoặc
giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống

7


Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm,
dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình trạng
“học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp giảng
dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình
giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá trình
tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong đó giáo
viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì phương
pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa
học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong
một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết
khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không
bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể

mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình
huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những
ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của
họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải vận
dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của nhiều
môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả năng
phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao giờ.
Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập,
sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người
học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho cả người học
lẫn người dạy.

8


Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể rèn
luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình”.
Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong tương lai.
Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản
thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá trình
giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận
và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp
người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch
lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng
linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm

cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt,
biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức
của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể đạt
được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của học
sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc phân tích
và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác nảy
sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có thể tự định hướng
học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của phần
lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh là
người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên cứu và
học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học vì nó kích
thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải
pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo
luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu
hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng tình
huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời họ
cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên để làm
giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học sinh có tư
duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo

9


viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có

những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống còn
có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng tình
huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau tùy
thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm của
người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con đường
và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là trong những
lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác nhau, và giáo
viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ
làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên, hiện
nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ không
có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định, giáo
viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho học
sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh phải tự
mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so
với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng
viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới.
Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một
cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây
dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì trong
khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý kiến sai
lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp hơn trong
giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến

khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là
những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học

10


Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng tình
huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết giảng
hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng bối cảnh
sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng các
ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ khoảng 4
- 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của giáo viên
nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích
học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm gợi
mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này cần được
giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình huống
không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ
những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất và
được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp dụng
các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực tiễn và
qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không những phải
nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của
giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học sinh

là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình
huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt
trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên
cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ mở
của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng các tình
huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó lời giải để
ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong việc kích thích
khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống
thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi
đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố
định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho

11


học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm
cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề nào
đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây dựng bài
tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải quyết bài
tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt tới
học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn học
sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là một

nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào thực
tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông
thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu. Việc
giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và
nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn
đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống hoàn chỉnh.
Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ
nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết một cách
sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà giáo viên
đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi điều
chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu không tìm được
vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong
trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây phải được
tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD
ở trường Trung học cơ sở Đan Trường Hội, huyện nghi Xuân, tĩnh Hà Tĩnh.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát.
* Về nội dung dạy học.

12


Nhiều giáo viên (GV) đã nghiên cứu những điểm mới của chương trình sách giáo
khoa (SGK) mới nên đã đảm bảo nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình môn
GDCD cấp THCS. Tuy nhiên, cũng còn khá nhiều GV chưa quán triệt yêu cầu dạy học
theo chuẩn chương trình nên chưa thực hiện đầy đủ các yêu cầu về nội dung dạy học ở
từng bài.
* Về đổi mới phương pháp dạy học .

GV đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới PPDH. Tuy nhiên, số giờ thực sự đổi mới
PPDH chưa nhiều, hiện tượng lệ thuộc vào SGK, sách GV, dạy chay còn phổ biến. Việc
rèn luyện kỹ năng, giáo dục thái độ và hành vi của học sinh chưa đạt được yêu cầu của
chương trình.
*Về sử dụng thiết bị dạy học.
- Nhìn chung GV đã sử dụng khá hiệu quả các phương tiện dạy học, thiết bị dạy học tối
thiểu (theo danh mục thiết bị dạy học mà Bộ GD&ĐT đã ban hành). Tuy nhiên, nhiều
trường chưa coi trọng việc tự làm thiết bị, đồ dùng dạy học. Việc áp dụng công nghệ
thông tin vào dạy học bước đầu đã được thực hiện nhưng còn nhiều lúng túng, hiệu quả
chưa cao.
- Kênh hình ở sách giáo khoa thì nghèo nàn, không thu hút học sinh.
- Thông tin, sự kiện, chuyện đọc ở sách giáo khoa không cập nhật.
- Sách tham khảo trong thư viện lại khan hiếm
* Về đổi mới kiểm tra đánh giá (KTĐG) kết quả học tập của học sinh.
Nhiều GV đã cố gắng đổi mới KTĐG kết quả học tập của học sinh. Tuy nhiên, còn
phổ biến hiện tượng kiểm tra nặng về tái hiện kiến thức, chưa chú ý đến yêu cầu HS vận
dụng kiến thức đã học để giải quyết các vấn đề, tình huống thực tế. Việc kết hợp câu hỏi
tự luận và trắc nghiệm khách quan trong KTĐG ở nhiều nơi chưa hợp lí.
* Về đội ngũ giáo viên.
- Hiện nay, vẫn còn tình trạng bố trí GV môn khác dạy môn GDCD( dạy chéo môn, dạy
kiêm nhiệm). Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đối với GV GDCD chưa được
quan tâm đúng mức nên còn gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy
học môn GDCD.
- Bố trí giáo viên đứng lớp chưa cân đối GV, nên GV phải dạy nhiều tiết, dạy nhiều lớp,
chấm bài nhiều nên ít dành thời gian cho đổi mới PPDH.
- Đa số giáo viên chưa đầu tư xứng đáng cho môn học như vẫn còn chú trọng truyền thụ
kiến thức theo kiểu thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, giảng giải kiến thức, ít phát huy tính tích
cực và phát triển tư duy; chỉ khai thác những câu chuyện, thông tin, sự kiện, tình huống

13



có sẵn ở sách giáo khoa, chưa tự tìm tòi những điều mới để đưa vào bài giảng của mình
sao cho phù hợp và sinh động.
* Về quản lí chỉ đạo.
Cán bộ quản lí chưa thực sự quan tâm đến việc dạy học môn GDCD, coi đây là môn
phụ nên chưa tạo điều kiện bố trí giáo viên và các điều kiện cần thiết để GV nâng cao
chất lượng dạy học.
* Về phía phụ huynh, học sinh và xã hội.
- Đối tượng học sinh là vùng bãi ngang - nông thôn, kinh tế khó khăn,đa phần là con em
nông dân, ngư dân, chân lấm tay bùn, ngoài thời gian đi học phải phụ giúp bố mẹ việc
đồng áng nên thiếu thời gian tự học. Trình độ kiến thức của bố mẹ lại hạn chế nên không
có điều kiện để hướng dẫn con cái học tập ở nhà.
- Định hướng nghề nghiệp của phụ huynh là coi nhẹ các môn khoa học xã hội, môn phụ
mà coi trọng các môn học tự nhiên để sau này vào đời thuận lợi cho tìm kiếm việc làm
cũng là yếu tố khiến học sinh thờ ơ coi nhẹ với môn GDCD và mặc nhiên trong quan
niệm của các em và phụ huynh: môn Giáo dục công dân là một môn “phụ” nên chẳng
cần chú tâm vào nó. Vì thế học sinh chưa đầu tư công sức, chưa dành thời gian cho môn
học Giáo dục công dân.
Từ những lí do trên mà trong các giờ dạy - học Giáo dục công dân chưa gây hứng thú
cho học sinh, hiệu quả giáo dục chưa cao. Vì vậy để gây hứng thú cho học sinh trong dạy
- học Giáo dục công dân nói chung và dạy - học các chủ đề pháp luật nói riêng, góp phần
năng cao chất lượng môn GDCD, cả học sinh và giáo viên cần phải có những giải pháp
đúng đắn để thực hiện thành công.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh
trong dạy học môn GDCD ở trường THCS Đan Trường Hội .
Các PPDH cụ thể

Mức độ vận dụng
Thường

Thỉnh

Không

xuyên

thoảng

bao

(%)

(%)

(%)

14

giờ


1. PP thuyết trình

50%

40%

10%

2. PP vấn đáp


70%

30%

0%

3. PP trực quan

30%

65%

5%

4. PP phân vai

50%

45%

55%

5. PP hợp tác làm việc theo nhóm

60%

30%

10%


6. PP dạy học tình huống (Nghiên cứu

20%

70%

10%

40%

45%

5%

50%

30%

80%

tình huống)
7. PP project
8. Các phương pháp khác
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công:
- Qua việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống tôi nhận thấy học sinh nâng
cao mức độ nhận thức bài học ở mức vận dụng, các em có cơ hội để vận dụng các kiến
thức đã học được, nâng cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của các em. Học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc các em phải ra quyết định để giải quyết tình huống và

các em phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ
quyết định đó. Học sinh không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi
giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo.
- Giáo viên còn có nhiều điều kiện trao đổi, quan tâm , tiếp xúc với học sinh, hiểu rõ hơn
về nhận thức, thái độ, tình cảm của các em. Trong phương pháp giảng dạy truyền thống,
quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, thì
phương pháp giảng dạy tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác
giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Các em có thể chia sẻ tri thức,
kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học
khác làm phong phú hơn vốn tri thức của mình.
- Phương pháp dạy học này còn làm tăng giá trị thực tiễn của môn học giúp học sinh có
thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra và rèn cho các em một số kỹ năng cơ bản
như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình, kỹ năng phát biểu trước đám
đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; kỹ năng phân tích vấn đề một cách logic;
kỹ năng tìm kiếm thông tin, có kỹ năng tự học, tự nghiên cứu. Vì vậy sử dụng phương
pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú đối với môn học, kích thích người
học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh
luận và lý giải các vấn đề được giao.
1.2.3.2 Những hạn chế

15


Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, khi giảng dạy phương pháp này tôi cũng gặp một
số hạn chế nhất định như:
- Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ làm việc
nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động của học sinh. Nếu các em
không có sự hợp tác, không tập trung chú ý, không tích cực, không chuẩn bị bài thì sẽ
làm giảm hiệu quả của phương pháp này trong giảng dạy.
- Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người học. Trong

phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định, giáo viên có thể
cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho học sinh. Cùng
lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh phải tự mình tìm
kiếm thông tin và giải quyết tình huống nên sẽ tốn thời gian hơn so với phương pháp dạy
học truyền thống.
Song nếu chúng ta biết hạn chế những nhược điểm của phương pháp này thì đây là một
phương pháp dạy học tích cực mang lại hứng thú cho học sinh có hiệu quả.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam, giải
thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả đã trình bày làm nổi
bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học như khái niệm, cấu trúc tiến trình
thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả năng vận dụng vào giảng dạy môn
Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ thông hiện nay.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD NHẰM
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THCS ĐAN TRƯỜNG HỘI .
2.1. Vận dụng các phương pháp dạy học theo định hướng đổi mới một cách linh hoạt và
nhuần nhuyễn như:
- Phương pháp thảo luận nhóm: giúp cho học sinh tham gia một cách chủ động vào quá
trình học tập, tạo cơ hội cho các em có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học, tạo cơ hội cho các em được giao lưu,
học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hợp tác giải quyết những nhiệm vụ chung; giúp học sinh
học được cách trình bày ý kiến của mình, biết lắng nghe có ý kiến phê phán của bạn, tạo
cho các em tính tự tin, hứng thú trong học tập và sinh hoạt; vốn hiểu biết và kinh nghiệm
xã hội của học sinh thêm phong phú, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của học sinh được
phát triển
- Phương pháp giải quyết vấn đề: là xem xét, phân tích vấn đề/tình huống cụ thể thường
gặp phải trong đời sống hàng ngày và xác định cách giải quyết xử lí vấn đề/tình huống đó

16



một cách có hiệu quả giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết tích
cực, hiệu quả đối với những khó khăn, thách thức của cuộc sống thực tiễn để có một cuộc
sống có chất lượng, an toàn, lành mạnh; giúp học sinh phát triển tư duy phê phán và kĩ
năng ra quyết định.
- Phương pháp động não: là phương pháp giúp học sinh trong một thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên được cổ
vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng.
- Phương pháp trò chơi: là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thể
hiện những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó.
Qua trò chơi, học sinh có cơ thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính nhờ sự thể
nghiệm này sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực,
tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống; học sinh sẽ được
rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong
tình huống; học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét,
đánh giá hành vi. Bằng trò chơi việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh
đônh; không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuối vào quá trình luyện tập một
cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt
mỏi, căng thẳng trong học tập.
2.2. Giáo viên xây dựng những tình huống cụ thể vào các bài dạy pháp luật như sau :
Ví dụ: Bài 18: QUYỀN KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
(GDCD8 - đây là một bài khó dạy nhất trong chương trình GDCD ở THCS)
+ Để khai thác nội dung quyền khiếu nại, tố cáo theo chuẩn kiến thức tôi đã xây dựng
những tình huống trên cơ sở những câu chuyện, vụ án có thật, có tính thời sự.
- GV cho HS theo dõi đoạn phim có nội dung sau:
Bác Tâm là người tàn tật nhưng phòng thuế của phường lại định mức đóng thuế cho cửa
hàng của bác bằng mức thuế của những người bình thường khác. Bác Hải khuyên bác
Tâm làm đơn khiếu nại vì người tàn tật là đối tượng được xét miễn giảm thuế
Hỏi: - Em hãy cho biết nội dung đoạn phim nói điều gì?

Theo em, bác Hải khuyên bác Tâm như vậy là đúng hay sai? Vì sao?
HS: trả lời cá nhân.
GV: kết luận: bác Hải khuyên bác Tâm như vậy là đúng vì người khuyết tật được quyền
đề nghị xem xét miễn giảm thuế kinh doanh đối với mình.
- GV nêu tình huống và yêu cầu học sinh suy nghĩ (động não) trả lời.

17


Tình huống: Ông Hiệu trưởng trường THCS A ra quyết định kỉ luật với hình thức đuổi
học đối với học sinh Nguyễn Văn B vì đã có hành vi quay cóp trong khi làm bài thi học
kì I vừa qua
Hỏi: Nếu em là B, sau khi nhận được quyết định trên thì em sẽ là gì?
- HS: trả lời cá nhân
? Em hiểu thế nào là quyền khiếu nại?
HS: trả lời cá nhân
GV: kết luận: Quyền khiếu nại là quyền của công dân đề nghị với cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền xem xét lại các quyết định, các việc làm của cán bộ công chức nhà nước khi
thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật, quyết định kỉ luật, khi cho rằng, quyết
định hoặc hành vi đó trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình
GV cho HS quan sát đoạn phim bạo hành trẻ em của người giữ trẻ.
? Đây là đoạn phim nói về vụ án gì? Khi thấy hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm
nghiêm trọng đến thân thể, sức khỏe, tính mạng của công dân thì các em làm gì?
HS: trả lời cá nhân.
GV: Đây là hành vi vi phạm pháp luật. Hành vi này của bà giữ trẻ đã bị pháp luật xử lí
nghiêm minh, đúng người, đúng tội.
HS: trả lời cá nhân
? Em hiểu thế nào là quyền tố cáo?
HS: trả lời cá nhân
GV: kết luận: Quyền tố là quyền của công dân, báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có

thẩm quyền biết về một vụ, việc vi phạm pháp luật vụ, việc vi phạm pháp luật của bất cứ
cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
+ Để khai thác trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền khiếu
nại và tố cáo theo chuẩn kiến thức tôi đã xây dựng những tình huống trên cơ sở vụ tai nạn
giao thông xảy ra trên địa bàn huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, có tính thời sự: là
địa bàn xảy ra nhiều vụ tai nạn giao thông nhất của tỉnh nhà.
GV nêu tình huống và yêu cầu học sinh suy nghĩ (động não) trả lời
Tình huống: Lúc 14g 5phút ngày 1/1/2010 Tài xế Lê Văn Cương điều khiển xe ôtô
mang BS: T12-6559 đi trên QL1A theo hướng Huế-ĐN trên địa phận huyện Phú lộc thì
đâm vào xe môtô mang BS: 75T-6601 do anh Lê Văn Hai điều khiển chạy phía trước
cùng chiều làm anh Hai bị thương nặng. Sau khi gây tai nạn Cương điều khiển xe ôtô
chạy vào phía nam.
Hỏi: - Khi em chứng kiến vụ tai nạn trên với tư cách là công dân thì em sẽ làm gì?

18


- Vì sao em phải báo vụ tai nạn trên đúng sự thật?
HS trả lời bằng sự hiểu biết của mình
GV: kết luận: Các em sẽ báo với cơ quan có thẩm quyền (Công an…) về vụ tai nạn trên
đúng sự thật. Vì đây là hành vi vi phạm pháp luật, để cơ quan có thẩm quyền xử lý khách
quan, đúng người đúng tội nhằm đảm bảo sự công bằng của mọi công dân trước pháp luật
+ Để củng cố và khắc sâu kiến thức bài học.
GV nêu tình huống và yêu cầu học sinh làm ở phiếu học tập.
Tình huống: Cơ sở sản xuất bún của bà Lài ở cạnh trường học, khu dân cư có mùi hôi
thối đặc trưng do nước thải trong cơ sở sản xuất bún thải ra làm ô nhiễm môi trường học
tập, sinh sống của chúng ta
Hỏi: Trứơc sự việc đó thì các em sẽ làm gì?
2.3. Giáo viên yêu cầu học sinh tự tìm tòi, chuẩn bị trước các câu chuyện, các vụ án có

thật, có tính thời sự mà em biết hoặc qua tivi, báo,…; giáo viên hướng dẫn học sinh tự
xây dựng tình huống để đưa vào bài học sao cho phù hợp.
Ví dụ: Bài 16: QUYỀN ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO HỘ VỀ TÍNH MẠNG, THÂN
THỂ, SỨC KHỎE, DANH DỰ VÀ NHÂN PHẨM (Giáo dục công 6)
+ Để phân tích, đánh giá những tình huống liên quan đến quyền được bảo hộ về tính
mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của công dân tôi đã xây dựng những
tình huống có tính thời sự.
- GV tổ chức thảo luận nhóm.
- GV chia lớp thành 6 nhóm, giao tình huống và giao cho mỗi nhóm thảo luận về một
tình huống sau 5 phút các nhóm cử đại diện trình bày.
- HS các nhóm tiến hành thảo luận và cử người trình bày
- HS các nhóm lắng nghe, nhận xét, bổ sung
GV: nhận xét, bổ sung và kết luận sau khi mỗi trình bày.
Tình huống 1: Trên đường đi học, Mai bị một nhóm bạn trai lớn hơn trêu ghẹo và có
hành vi sàm sỡ, đụng chạm vào người
Hỏi: Em có nhận xét gì về hành vi của nhóm bạn trai? Theo em, Mai nên ứng xử như thế
nào trong tình huống đó?
Trả lời: - Hành vi của nhóm bạn trai là không đúng, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm
của người khác?
- Theo em, Mai nên ứng xử: phản đối lại, báo cho nhà trường và cơ quan công an về sự
việc trên, hành vi của nhóm bạn trai đó phải bị phê bình, cảnh cáo
Tình huống 2: Vì không thích Nam làm lớp trưởng nên một nhóm bạn nữ tung tin đồn,
bịa đặt, nói xấu Nam.

19


Hỏi: Theo em, hành vi của nhóm bạn nữ có vi phạm quyền được bảo hộ về danh dự,
nhân phẩm không? Vi phạm như thế nào? Bạn Nam nên làm gì trong tình huống đó?
Trả lời: - Hành vi của nhóm bạn nữ đã vi phạm quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự

và nhân phẩm. Nhóm bạn nữ đã tung tin đồn, bịa đặt, nói xấu Nam – hành vi đó là vu
khống người khác.
- Nam sẽ giải thích cho các bạn biết hành vi của các bạn như vậy là không tốt và vi phạm
pháp luật, nếu các bạn thấy mình không đủ năng lực làm lớp trưởng thì đề nghị lớp bầu
lại lớp trưởng đồng thời Nam báo sự việc với thầy cô giáo chủ nhiệm biết
Tình huống 3: Trong lúc ăn sáng ở quán, cho là Quang “nhìn đểu” mình nên tan học,
Mạnh đã dùng dao đón đường đâm Quang làm Quang bị thương tổn hại 15% sức khỏe.
Hỏi: Theo em, hành vi của Mạnh đã vi phạm điều gì?
Trả lời: - Mạnh đã vi phạm pháp luật xâm hại bất hợp pháp đến sức khỏe của người khác
(sức khoẻ của Quang), Mạnh đã phạm tội cố ý gây thương tích (theo điều 104- tội cố ý
gây thương tích)
Tình huống 4: Dũng và Sơn là 2 học sinh lớp 6 ngồi cạnh nhau. Một hôm Sơn bị mất
một cái máy tính vừa mới mua. Tìm mãi không thấy, Sơn đỗ tội cho Dũng lấy cắp. Dũng
và Sơn to tiếng, tức quá Dũng đánh Sơn chảy máu mũi. Cô giáo kịp thời mời 2 bạn lên
phòng hội đồng kỉ luật.
Hỏi: Em hãy nhận xét cách ứng xử của 2 bạn? Nếu là Dũng thì em sẽ xử lí như thế
nào? Nếu là bạn cùng lớp của Dũng và Sơn thì em sẽ làm gì?
Trả lời: - Cả 2 bạn Sơn và Dũng đều sai
+ Sơn sai: Vì chưa có đủ chứng cứ đã khẳng định Dũng ăn cắp, hành vi đó đã xâm hại
đến danh dự, nhân phẩm của Dũng - vu khống người khác.
+ Dũng sai: Vì không giải quyết khéo léo mà đánh Sơn chảy máu mũi, hành vi đó đã xâm
hại bất hợp pháp đến thân thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của Sơn.
Tình huống 5: Lợi dụng lòng tin và sự tín nhiệm của bạn hàng, Đạt vay nợ 30.000.000
đồng để tiêu dùng phung phí và không còn khả năng trả nợ nên đã bỏ trốn. Không chờ
các cơ quan chức năng Nhà nước, Nam là một trong những chủ nợ đã tự đi tìm Đạt bắt về
giao nộp cho cơ quan Công an.
Hỏi: Em hãy cho biết hành động của Nam đúng hay sai? Vì sao?
Trả lời: - Hành động của Nam sai. Vì: theo quy định tại điều 71 Hiến Pháp năm 1992
“Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”. Hành vi của Nam sẽ bị truy tố trước pháp luật theo

điều 123 Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội bắt người trái pháp luật

20


? Từ các tình huống trên, các em thấy đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của người khác chúng ta cần phải có thái độ xử sự như thế nào cho phù hợp với quy định
của pháp luật
Trả lời: Chúng ta cần phải tôn trọng với tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
người khác
? Mỗi khi các quyền đó của mình bị xâm hại thì chúng ta phải làm gì
Trả lời: Chúng ta cần phải phản đối và tìm sự giúp đỡ của mọi người ngăn chặn những
hành vi xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm (báo cho cha mẹ,
thầy cô, những người có trách nhiệm biết).
GV kết luận: Khi tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm bị xâm hại thì
cần biết phản đối và thông báo, tìm sự giúp đỡ của những người có trách nhiệm
+ Để củng cố nội dung bài học, rèn luyện cho học sinh kĩ năng tư duy sáng tạo, trình bày
suy nghĩ, ý tưởng, ứng phó trong những tình huống bị xâm hại đến tính mạng, thân thể,
sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
GV tổ chức trò chơi “Tư vấn pháp luật”
- GV mời một nhóm tham gia đóng vai các “Luật sư” để tư vấn pháp luật cho các công
dân (sử dụng kĩ thuật dạy học Tư vấn chuyên gia). Giáo viên cung cấp thêm tư liệu
( Điều 20 Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Hình sự từ Điều 93 đến Điều 123) cho
nhóm“Luật sư”. Số học sinh còn lại trong lớp đóng vai các công dân muốn tư vấn pháp
luật
GV yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị 1 - 2 câu hỏi / tình huống hoặc câu chuyện, vụ án có
thật, có tính thời sự (vụ án Huỳnh Thanh Giang và Mã Ngọc Thơm ở tỉnh Cà Mau chủ
trại tôm giống Minh Đức hành hạ cháu Nguyễn Anh Hào, 14 tuổi làm công cho vợ chồng
Giang, Thơm; vụ án trộm cắp tài sản ở thành phố Huế trong thời gian qua,…) đã sưu tầm
được có liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền được pháp luật bảo

hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm để hỏi các “Luật sư”.
Khi các “Công dân” nêu câu hỏi / tình huống…, các “Luật sư” có thể trao đổi và cử đại
diện trả lời.
Trò chơi cứ tiếp tục cho đến khi các “Luật sư” trả lời hết câu hỏi của “Công dân”.Dưới
đây là một số tình huống, vấn đề mà học sinh đã chuẩn bị cho tiết học của mình
1. Ở nước ta văn bản pháp luật nào quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
công dân?
Trả lời:

21


- Ở nước ta văn bản pháp luật quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân là Hiến Pháp năm 2013, Điều 20 điểm 1,2. Pháp luật nước ta bảo vệ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân cụ thể như thế nào
Trả lời:
- Công dân được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Mọi hành vi
xâm hại bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác đều
bị pháp luật trừng trị.
- Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định tại chương 12 các
tội xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân - gồm 30 điều (từ
Điều 93 đến điều 122)
Tình huống: Ông Nguyễn Văn C bị mất 1 chiếc máy tính xách tay trị giá 15 triệu đồng.
Ông C trình báo với Công an phường A, Công an phường A nghi ngờ P lấy trộm của ông
C nên bắt giữ P để tra hỏi 1 tuần. Một tuần sau ông C đến báo với Công an phường A là
chiếc máy tính của ông do con trai ông trộm cắp đem bán để lấy tiền cá độ bóng đá.
Hỏi: Công an phường A có vi phạm pháp luật không? Vi phạm như thế nào?
Trả lời:
Công an phường A vi phạm pháp luật. Vì P không lấy trộm tài sản của ông C mà bị Công
an phường bắt giữ và giam 7 ngày

+ Theo quy định của pháp luật hình sự, Công an phường không có quyền bắt giam người
(trừ người phạm tội quả tang, truy nã).
+ Vì vậy việc bắt và tạm giữ người nêu trên của Công an phường A có dấu hiệu phạm tội:
“Bắt giữ người hoặc giam người trái pháp luật” được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình
sự năm 1999
Tình huống: Ông A và ông N tranh chấp nhau lối đi chung và dẫn đến xô xát, đánh
nhau. Ông N dùng gậy gỗ đánh ông A gãy chân bị thương, tổn hại 15% sức khỏe
Hỏi: Ông N có vi phạm pháp luật không? Vi phạm như thế nào?
Trả lời: Hành vi của ông N đã phạm tội: “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại Điều
104 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tình huống: Vợ chồng G và T là chủ trại tôm đã nhận A về làm thêu. Họ đã hành hạ A
bằng nhiều hình thức dã man như dùng bàn là nóng ấn vào người; dùng kìm bẻ răng, kẹp
môi; dùng gậy đánh; dùng dây trói rồi mang phơi nắng…
Hỏi: Hành vi của G và T có vi phạm pháp luật không? Vi phạm tội gì?
Trả lời: Hành vi của G và T đã phạm tội: “Hành hạ người khác”, quy định tại Điều 110
Bộ luật Hình sự năm 1999.

22


GV liên hệ vấn đề thực tế liên quan quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (bạo hành trong học đường hiện nay)
1.Em có suy nghĩ gì về nạn bạo hành học đường, đặc biệt là nạn bạo hành trong học sinh
nữ hiện nay? Địa phương em có tình trạng đó không? Nếu có, hãy nêu một vài trường
hợp?
Trả lời: Bạo hành học đường đang là vấn đề gây nhức nhối hiện nay. Đó không chỉ là
hành vi vi phạm pháp luật mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, mà lại xảy ra ở
lứa tuổi học sinh, là lứa tuổi được chăm sóc giáo dục từng ngày.
- Nữ sinh đáng lẽ phải dịu dàng, duyên dáng, nhân hậu. Một số nữ sinh đã không còn giữ
được nét đẹp truyền thống của dân tộc, có những việc làm trái với đạo đức, rất phản cảm,

đáng lên án.
- Mỗi HS chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc và có hành động thiết thực để góp phần
cùng người lớn ngăn chặn nạn bạo hành học đường.
2. Nếu chứng kiến hành vi bạo lực giữa học sinh với nhau, em và các bạn phải làm gì?
Trả lời: Nếu chứng kiến hành vi bạo lực trong học sinh, chúng ta phải:
+ Không được xúi giục hoặc thờ ơ vì đó chính là biểu hiện của cái xấu, cái ác.
+ Phải tìm cách ngăn cản hành động đó.
+ Nếu không ngan cản được thì phải tìm sự giúp đỡ của người lớn và những người có
trách nhiệm.
Kết luận: GV chốt lại kết thúc bài học
Chúng ta có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự
và nhân phẩm thì chúng ta cần phải biết tôn trọng sức khoẻ, tính mạng, danh dự và nhân
phẩm của người khác; biết bảo vệ thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của mình;
phản đối những hành vi xâm phạm đến tính mạng, thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm của người khác.
3. Kết quả
Để gây được sự hứng thú, khơi dậy lòng say mê học tập môn học, thu hút của các em
vào hoạt động dạy - học trong môn Giáo dục công dân ở trường THCS. Trong năm học
2012 - 2013 tôi đã vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm giáo dục
pháp luật cho học sinh vào dạy - học các chủ đề pháp luật môn Giáo dục công dân 8 đem
lại kết quả cao. Trong các tiết thao giảng các đồng nghiệp trong tổ bộ môn đã đánh giá
cao tiết dạy của tôi với bài: “Quyền khiếu nại, tố cáo”, đây là một bài dạy được xếp vào
loại khó dạy nhất trong chương trình Giáo dục công dân ở THCS. Trong năm học 2013 2014 tôi đã áp dụng kinh nghiệm trên vào dạy học các chủ đề pháp luật trong môn Giáo
dục công dân 6 và đã đạt kết quả tốt. Ban giám hiệu cùng một số giáo viên trong tổ bộ

23


môn cũng đã dự giờ bài: “Quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, thân thể, sức khỏe,
danh dự và nhân phẩm” và ở bài dạy này của tôi được đánh giá cao.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.
Việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho
học sinh phổ thông trong dạy học môn GDCD ở trường THCS là thể hiện sự sáng tạo
của giáo viên và học sinh nhằm gây sự hứng thú trong học tập, tránh nhàm chán, khô
khan; khơi dậy lòng say mê, yêu thích môn học Giáo dục công dân của học sinh. Nên
chất lượng dạy - học bộ môn ngày càng được nâng cao: 100% học sinh đạt từ trung bình
trở lên, trong đó khá, giỏi chiếm trên 70%.
III. KẾT LUẬN:
1. Kết quả đạt được:
Lớp 8A
Sỉ số lớp học: 32 học sinh.
GV chỉ sử dụng phương pháp: thuyết trình, đàm thoại.
Lớp 8B:
Sỉ số lớp học: 32 học sinh.
GV sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống phối hợp nhiều phương pháp giảng
dạy khác như: thuyết trình, đàm thoại, đặt vấn đề, thảo luận, tranh luận, sắm vai…
Các mặt khảo sát
Lớp 8A
Số học sinh tham gia ý kiến 10/32HS

Lớp 8B
27/32HS

xây dựng bài.
Số học sinh hứng thú học 12/32HS

25/32HS

tập.
2. Để sử dụng phương pháp này có hiệu quả, tôi nghĩ cần chú ý những vấn đề sau:

- Khi lựa chọn tình huống chúng ta nên lựa chọn những tình huống nào phù hợp với nội
dung bài học, khả năng của người học và chất liệu của tình huống nên là các vụ việc có
thật đã diễn ra trong cuộc sống xã hội . Tuy nhiên, trên cơ sở một vụ án có thật diễn ra
trong cuộc sống, chúng ta có thể “gọt dũa” lại những chi tiết trong tình huống này để phù
hợp với bài dạy nhằm đạt được hiệu quả cao nhất mà vẫn phản ánh được thực tế cuộc
sống.
- Nguồn thông tin dữ liệu để giúp cho giáo viên có thể xây dựng tình huống là giáo viên
có thể khai thác từ sách giáo khoa, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nguồn dữ liệu từ
các cơ quan nhà nước phản ánh chân thực và sống động thực tế xã hội. Chúng ta có thể
thu thập thông tin ở Tòa án hoặc ở phòng cảnh sát hoặc ở Viện kiểm sát nhân dân. Nhưng

24


có một khó khăn là các cơ quan nhà nước thường không muốn cung cấp thông tin vì có
những thông tin thuộc bí mật nhà nước. Do vậy chúng ta có thể tìm kiếm những tình
huống trên truyền hình như chương trình “ Chuyện không của riêng ai”, hoặc trên báo chí
như các báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Công an …hoặc từ thực tế của học sinh mà các em
được biết để phục vụ cho công tác giảng dạy.
- Giáo viên cần tạo không khí thoải mái, cởi mở để học sinh tranh luận tình huống để tạo
cho tiết học thêm sinh động, hấp dẫn.
- Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi người giáo viên phải là người tích cực
cập nhật thông tin, đầu tư bài giảng, biết cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu
hỏi, tổ chức và khuyến khích học sinh thảo luận, nhận xét, phản biện với nhau...
- Phương pháp dạy học bằng tình huống cũng cần phối hợp có hiệu quả với các phương
pháp khác để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tóm lại: Việc sử dụng các phương pháp dạy học bằng tình huống là vô cùng cần thiết
nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, phát huy được tính tích cực, chủ động,
hứng thú của người học theo xu thế đổi mới hiện nay. Phương pháp này có thể áp dụng
trong Ngành, trong trường học dù trường học đó ở thành thị hay nông thôn vẫn có thể

thực hiện được mà không đòi hỏi gì nhiều về tiền của, thiết bị. Phương pháp dạy học này
còn có ý nghĩa sư phạm rất lớn vì nó sinh động, thực tế đồng thời giúp giáo viên kịp thời
phát hiện được những chỗ mạnh, chỗ yếu của học sinh để điều chỉnh, kích lệ các em
khiến các em yêu thích, hứng thú với bộ môn Giáo dục công dân và cũng để góp phần
hình thành nhân cách tốt đẹp của các em, trở thành người có ích trong xã hội mới.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi đã đúc kết được khi “Vận dụng phương
pháp dạy học bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong
dạy học môn GDCD ở trường THCS”. Tôi hi vọng phương pháp này sẽ được giáo viên
sử dụng thường xuyên và có hiệu quả hơn nữa. Tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp chân tình của quý thầy, cô và đồng nghiệp nhằm giúp tôi sử dụng phương pháp
dạy học bằng tình huống trong giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân ngày càng hiệu quả,
thuần thục, sinh động hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

25


×