Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Chuyên Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.58 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Chuyên
Hà Tĩnh

1


Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Lê thị Nhàn
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015
A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Môn GDCD là một bộ môn thuộc khoa học xã hội. Nó phản ánh nhiều
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Các tri thức khoa học trong môn GDCD
là tri trức về triết học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học, Đạo đức học, Pháp
luật học, đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam. Các kiến thức đó
được sắp xếp, bố trí hợp lí, cấu kết chặt chẽ, lô gíc phù hợp với học sinh THPT.
Môn GDCD vừa có vị trí thông thường của một môn học vừa có vị trí đặc biệt
của nó. Nó có nhiệm vụ như những môn học khác: trang bị tri thức, giáo dục tư
tưởng tình cảm, rèn luyện kỹ năng , kỹ xảo, phát triển trí tuệ học sinh.


Học sinh cấp THCS cũng như cấp THPT đã được làm quen với với nhiều
kiến thức của bộ môn GDCD. Mỗi nội dung của bộ môn GDCD đều góp một
phần không nhỏ trong việc hoàn thiện nhân cách của học sinh. Trong các kiến
thức được trang bị cho học sinh có nội dung về pháp luật. Đây là những kiến thức
cơ bản nhằm giúp học sinh có những hiểu biết nhất định trong việc định hướng
cho học sinh về mặt nhận thức cũng như hành động, biết sống tuân thủ pháp luật,
biết phát huy quyền công dân, biết phê phán và đấu tranh với lối sống xem
thường pháp luật nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Học sinh từ
cấp THCS lên cấp THPT bắt đầu được tiếp cận và đi sâu hơn về các kiến thức
pháp luật. Các em không chỉ nắm được nội dung cơ bản một số luật mà còn cao
hơn nữa là các em biết phát huy các quyền của mình cũng như ý thức trách
nhiệm trước pháp luật.

2


Trước yêu cầu đổi mới về chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đối với học sinh THPT nói riêng trong giai đoạn hiện nay thì môn
GDCD càng có vị trí rất quan trọng trong đó bao gồm cả giáo dục ý thức pháp
luật cho các em học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước.
Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà
trường phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến
phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân
trong nhà trường phổ thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo
lối truyền thống, dạy chay học chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng,
cho ghi chép.
Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học
tích cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả

cao, làm tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực
giải quyết các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo
dục công dân là môn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân
cách học sinh. Việc áp dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn
GDCD là cấp thiết. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng
phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông qua dạy học môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng của việc dạy và học pháp luật trong nhà trường đối với
học sinh cấp THPT từ đó đề xuất việc ứng dụng phương pháp dạy học tích
cực( phương pháp dạy học tình huống).
3. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy pháp luật ở
trường THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Việc dạy kiến thức pháp luật ở trường THPT hiện nay còn gặp nhiều khó
khăn, nếu giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các phương
pháp thích hợp và đặc biệt là biết vận dụng phương pháp tình huống khi dạy về

3


nội dung pháp luật thì hiệu quả chắc chắn sẽ được nâng cao.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tình huống trong
giảng dạy bộ môn GDCD, đặc biệt là kiến thức về Pháp luật ở nhà trường THPT.
- Đánh giá thực trạng giảng dạy kiến thức pháp luật ở trường THPT hiện nay.
- Đề xuất phương pháp dạy học bằng tình huống đối với các kiến thức pháp
luật ở chương trình GDCD lớp 12

5.2. Phạm vi nghiên cứu
Một số bài dạy về pháp luật ở chươg trình lớp 12 bộ môn GDCD.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu tôi đã sử dụng
các phương pháp sau:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyêt
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7. Đóng góp của đề tài
Giúp cho giáo viên biết xây dựng các tình huống vào giảng dạy kiến thức
pháp luật ở trường THPT.
8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, phần nội dung, phần kế luận
Phần nội dung gồm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn giảng dạy pháp luật ở trường THPT
Chương II: Vận dụng các tình huống phục vụ giáo dục pháp luật cho học sinh
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG
TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD

1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình
huống trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa
về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối

4



hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự
lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích
của giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm
đảm bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong
quá trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết
quả là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp
dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy
và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học,
chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về
mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học.
Trong sự thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp
học có tính độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng
phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp
học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và
bằng lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và
kiểm tra, đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức
năng này gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực
tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người
giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với
lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều
khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy
chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các giai đoạn
của sự học tập.

Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải
tiếp thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng
của thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự
thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm
bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo

5


lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ
đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai
mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với
học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt
động truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách
khác, dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo
đảm được cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương
pháp học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và
sơ bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến
nó thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.

Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là
vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo
trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ
đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu
thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các
phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn
với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp
được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế.
Tình huống dạy học là những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng
thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.

6


“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của
bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể
giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là
những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng
giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này
đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi
anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi
chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này
kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có
vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự

khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra
và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của
con người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi
sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức,
phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến
thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học
là: tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh
ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng
của mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết
vấn đề đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của
học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc
nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới
hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng
túng về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những

7


tri thức và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải
quyết vấn đề không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.

* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong
đó giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn
khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp
nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích
cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến
thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho
các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó
nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức
cần thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa
biết cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng,
phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên
nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp
nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học
sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục
đích cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong
những phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng
cả về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên
không đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với
nội dung hoặc không sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng
được cách giải quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống

1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm
trung tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:

8


Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu
và dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo
luận, người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những
kiến thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học
có thể rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất
mau quên thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn
đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền
thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và
học sinh, trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp
nhận tri thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường
học tích cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với
nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra
quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến
thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không bị phụ thuộc
vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà
có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình
huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học
được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú
hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết,
vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có

thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn
học hoặc của nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống
giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân
chưa đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không
loại trừ khả năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người
dạy chưa gặp bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi
gợi khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối
đa và không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới
làm bổ sung thêm kiến thức cho cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có
thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và

9


thuyết trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành
công trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những
ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh
với các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ
hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên
khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ
năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích
vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý
thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá
nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác
biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn
vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến
thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp

dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả
năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong
học tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”.
Thông qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và
giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin
và trở thành người có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt
nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống,
học sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần
được nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh
đối với việc học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu
vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để
bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục
tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo
luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học
bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh,
đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp
mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình,

10


nhất là từ những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng
dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những
điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình
huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình
huống còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy
bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm
khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và
kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ
không hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình
huống mong muốn, nhất là trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ
và đến từ những vùng miền khác nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong
việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học,
thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động.
Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học
bằng tình huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp
tác từ đó làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của
người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian
nhất định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh,
hệ thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học
bằng tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin
nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống.
Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực,
luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện
đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một cách
nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới
xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù
hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là
một ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ


11


năng phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng,
đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo
luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên
trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử
dụng tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá
trình thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy
thuộc vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp
của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới
dạng các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này
thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài
thuyết giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà
giáo viên vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội
dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ
thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số
vấn đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các
tình huống này cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để
học sinh đọc. Các tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng
cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học

sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc
trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu
học sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện
các bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ
để giải quyết tình huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên
là người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp
cao nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều
bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức
độ cao nhất”.

12


Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo
độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể
xây dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ
việc mà trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình
huống này rất tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho
học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt
không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại,
tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Học sinh vẫn có
thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho học sinh tới kiến
thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho học
sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn
đề nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình
xây dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy
trình giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả
bằng các bước sau:

Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt tới
học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn học
sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là một
nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào thực
tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông
thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu.
Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ
khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và
tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống
hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự
kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết
một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà
giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó
rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu không

13


tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định.
Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây
phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học
môn GDCD ở trường Trung học.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát

Bản thân tôi là giáo viên giảng dạy bộ môn GDCD tại trường THPT
Chuyên Hà Tĩnh đến nay đã được 15 năm. Đây là ngôi trường có môi trường và
chất lượng được tuyển chọn đầu vào kỹ lưỡng gồm các em học sinh có tố chất
khắp mọi miền trong toàn tỉnh. Trường thành lập từ năm 1991, cho đến nay
trường đã có 26 lớp đào tạo theo từng môn chuyên: Toán, Toán – Tin, Sinh, Lý,
Hóa, Văn, Anh, Sử- Địa, Pháp.Với chất lượng giáo dục của mình nhà trường đã
đem về cho tỉnh nhà nhiều vinh dự. Hằng năm số lượng học sinh đạt giải học sinh
giỏi quốc gia luôn đạt trên 80%.
Nhà trường không chỉ chú trọng đến công tác mũi nhọn mà trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của mình trường luôn luôn quán triệt nhiệm vụ: Giáo dục
toàn diện cho học sinh ( Đức, Trí, Thể, Mỹ). Trong tương lai trường tiếp tục phát
huy truyền thống, thi đua dạy tốt và học tốt, nhanh chóng đưa nhà trường ngày
càng vững mạnh. Măc dù được giảng dạy ở một trường có chất lượng cao như
vậy nhưng cá nhân tôi khi dạy GDCD nói chung và pháp luật nói riêng có những
thuận lợi nhưng đồng thời cũng có không ít những khó khăn
+ Thuận lợi:
- Cán bộ nhà trường tạo điều kiện để giáo viên có thể giảng dạy tốt nhất( tài
liệu, các thiết bị dạy học, tổ chức các hoạt động ngoại khóa…)
- Chương trình sách giáo khoa có nhiều đổi mới nên tạo được sự hứng thú
cho học sinh.
- Tài liệu hỗ trợ công tác giảng dạy khá phong phú( thư viện nhà trường đã
trang bị khá đầy đủ các tài liệu về Luật cho giáo viên)
- Việc trang bị trang thiết bị dạy học đã hỗ trợ khá tốt cho công tác giảng dạy.
- Đội ngũ giáo viên được đạo tạo bài bản, có phương pháp tốt.
- Học sinh trường chúng tôi được tuyển lựa trong cả tỉnh thông qua kỳ thi

14


tuyển hàng năm do đó chất lượng học sinh đầu vào rất cao. Hầu hết các em đều

có ý thức học tập tốt, có ham muốn lĩnh hội tri thức, cần cù học tập( đây cũng là
truyền thống hiếu học của người dân Hà Tĩnh nói chung).
Nguyên nhân: Có được những thuận lợi trên là nhờ sự quan tâm của ngành,
nhà trường, đội ngũ giáo viên trong công tác giáo dục toàn diện cho học sinh.
+ Khó khăn:
- Một bộ phận nhỏ giáo viên ngại tự học, tự bồi dưỡng.
- Việc ứng dụng thiết bị hiện đại vào hoạt động dạy và học còn hạn chế.
- Việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống chưa được làm một
cách thường xuyên.
- Sách giáo khoa mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng nội dung một số bài còn
quá dàn trải, chưa đi sâu vào nội dung của một ngành luật cụ thể nên học sinh
cũng cảm thấy khó tìm hiểu.
- Ở cấp THPT học sinh khi lên lớp 12 mới được tìm hiểu cặn kẽ về pháp
luật, tuy nhiên đây là thời gian các em đang rất lo lắng cho kỳ thi đại học nên thời
gian nghiên cứu pháp luật của các em cũng bị ảnh hưởng. Các giờ học về pháp
luật bị chi phối ít nhiều.
- Một khó khăn nữa cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng của bộ môn đó là
cách nhìn nhận chưa thấu đáo từ phía gia đình cũng như xã hội đối với bộ môn.
- Nhiều học sinh đã nhận thức được ý nghĩa to lớn của bộ môn nên đã tiếp thu bài
học tốt. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số em xem việc học chỉ là sự đối phó. Vì
vậy đây cũng chính là trở ngại cho giáo viên khi giảng dạy bộ môn này.
Nguyên nhân của những khó khăn trên:
- Lâu nay bộ môn GDCD không tham gia vào các kỳ thi mang tầm quốc
gia do đó học sinh chưa thực sự mặn mà vơí môn học.
- Sự phân biệt đối với các môn học của học sinh và một bộ phận người
dân.
- Kiến thức SGK chưa đủ sức hấp dẫn đối với người học
- Một số giáo viên chưa mặn mà với bộ môn cũng như chịu khó đổi mới
phương pháp.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật


15


cho học sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học
Nội dung pháp luật ở chương trình lớp 12 bộ môn GDCD liên quan đến khá
nhiều luật( Luật Hiến pháp, Luật Khiếu nại và Tố cáo, Luật Hôn nhân và Gia
đình, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ...). Để học sinh hiểu
được kiến thức pháp luật một cách cặn kẽ không phải là chuyện dễ. Bởi kiến thức
pháp luật vốn dĩ đã khó lại khô khan cho nên khó hấp dẫn đối với các em. Để
khắc phục được điều này đòi hỏi mỗi giao viên phải thực sự nố lực trong việc
nghiên cứu tìm tòi và vận dụng các phương pháp, biết chắt lọc các thông tin
mang tính thời sự để xây dựng các tình huống có tính thuyết phục với các em.
Lâu nay một số giáo viên đã làm được điều này. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn
một số giáo viên ngại tìm tòi đổi mới phương pháp, vẫn sử dụng phương pháp
dạy học cũ là thuyết trình do đó không phát huy được tính tự học của các em, do
đó đã làm cho việc dạy và học diễn ra một cách thụ động theo kiểu: Thầy giảng trò nghe, thầy hỏi – trò trả lời, thầ đọc – trò ghi chép và học thuộc.
Dạy bộ môn GDCD nói chung và kiến thức pháp luật nói riêng phải theo
hướng phát huy tính tich cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng
cho học sinh năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí
vươn lên. Quá trình dạy học là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt
động học tập do giao viên thiết kế, tổ chức và hướng dẫn qua đó các em có thể tự
khám phá và chiếm lĩnh nội dung bài học. Học sinh sẽ hứng thú, thông hiểu và
ghi nhớ những gì các em nắm được qua hoạt động chủ động tích cực của chính
mình.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công:
Những năm gần đây cùng với việc dạy học tiếp cận với các phương pháp
mới ( phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, phương pháp dự án,
phương pháp điều tra khảo sát, phương pháp tình huống...) đã đem lại hiệu quả

cao cho việc giảng dạy. Học sinh không còn thụ động trong việc lĩnh hội tri thức.
Các em đã biết tự nghiên cứu học hỏi, giáo viên với tư cách chỉ là người hướng
dẫn. Nhiều giáo viên đã mạnh dạn đổi mới phương pháp, mạnh dạn tiếp cận công
nghệ thông tin nên đã thu hút được các em đối với bộ môn, phát huy đượctính
tích cực, tự giác chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh
thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau trong học
tập và trong thực tiễn.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi trên việc vận dụng các phượng pháp

16


dạy học hiện nay vào quá trình giảng dạy đặc biệt là giảng dạy pháp luật cũng
gặp không ít khó khăn.
1.2.3.2 Những hạn chế
Trong việc vận dụng phương pháp vào dạy học có thể nói đang gặp sự bất
cập đó là không phải giáo viên nào cũng mặn mà với việc này, bởi nó chiếm khá
nhiều thời gian cũng như công sức của người giáo viên. Bên cạnh đó điều kiện để
hỗ trợ cho việc vận dụng các phương pháp cũng có nhiếu khó khăn (kinh phí cho
làm các dự án, viết kich bản cho đóng vai, thời gian để xây dựng các tình
huống...). Một khó khăn nữa là sự hợp tác của học sinh. Một số em theo nếp học
cũ thụ động nghe thầy cô giảng, lười suy nghĩ, ỷ lại bạn bè do đó cũng gây khó
khăn cho việc đổi mới phương pháp.
1.2.3.3 Nguyên nhân: Có một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Giáo viên:
+ Không chịu học hỏi, lười suy nghĩ
+ Ngaị tiếp cận với công nghệ thông tin.
+ Chưa tự tin trong việc đổi mới các phương pháp dạy học
+ Việc xây dựng các tình huống còn gặp nhiều lúng túng
- Học sinh:

+ Vẫn quan niệm phân biệt đối với các môn học do đó việc còn học mang
tính đối phó
+ Thái độ ỷ lại thầy cô và bạn bè, không chịu hợp tác với thầy cô và các bạn
trong việc tự lĩnh hội tri thức. Đây cũng chính là lý do làm cho một số giáo viên
cảm thấy không mặn mà khi bỏ công sức và thời gian để vận dụng các phương
pháp khi dạy về kiến thức pháp luật.
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học tình huống
chúng ta có thể thấy được đây là phương pháp dạy học rất phù hợp đối với nội
dung pháp luật không chỉ đối với học sinh cấp THPT mà bao gồm cả học sinh
THCS.
Trong thực tiễn giảng dạy nhiều giáo viên đã mạnh dạn lựa chọn phương
pháp này. Tuy nhiên vẫn có giáo viên còn ngại ngần vì lý do này hay lý do khác.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng các phương pháp dạy học đặc
biệt là dạy pháp luật ở trường phổ thông tôi nhận thấy việc vận dụng phương
pháp dạy học bằng tình huống là điều thực sự cần thiết. Tuy nhiên để góp phần
thành công trong việc giảng dạy đòi hỏi giáo viên phải biết vận dụng phối hợp
cùng với các phương pháp khác một cách linh hoạt chứ không phải nhất nhất giờ

17


học chỉ vận dụng một phương pháp này. Nếu làm được điều đó chắc chắn bộ môn
GDCD nói chung đặc biệt là kiến thức pháp luật sẽ không còn là sự nhàm chán
với các em.
CHƯƠNG 2
XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH THPT

2.1. Căn cứ vào mức độ phức tạp để xây dựng một số tình huống khi
giáo dục pháp luật cho học sinh THPT

Loại 1: Tình huống giản đơn
Ví dụ: Chị Hoa và anh Đức yêu nhau đã được 3 năm. Hai người quyết định
sẽ tiến đến hôn nhân. Khi biết quyết định của con bà Hồng mẹ của chị Hoa đã
phản đối kịch liệt vi lý do anh Đức chưa có việc làm ổn định.
Hỏi: Theo em anh Đức và chị Hoa có quyền quyết định việc hôn nhân của mình
không? Tại sao?
Tình huống này có thể vận dụng vào Bài 2: Thực hiện pháp luật( cụ thể là
vận dụng vào nội dung “ Sử dụng pháp luật”.
Qua tình huống trên học sinh có thể biết được ngay đây là quyền của công
dân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trên cơ sở đó học sinh có thể kể thêm
được rất nhiểu quyền mà công dân, tổ chức cần phải phát huy. Với tình huống
giản đơn giáo vieen không cần mất quá nhiều thời gian để xây dựng tình huống
cũng như giải thích cho các em. Tự bản thân các em có thể giải quyết được tình
huống.
Loại 2: Tình huống phức tạp
Ví dụ: Chị Hạnh làm công nhân thổi thủy tinh theo hợp đồng lao động ký
với nhà máy là 3 năm sau khi được học nghề 6 tháng. Nay mới làm việc được
một năm thì chị có thai. Sợ công việc ảnh hưởng đến thai nên nhà chồng đã bàn
chị nên thôi việc ở nhà.
Câu hỏi:
Câu 1: Theo em chị Hạnh có quyền không đi làm theo hợp đồng có được
không? Chị có phải bồi thường tiền học nghề cho nhà máy không?
Tình huống này sẽ áp dụng vào bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong
một số lĩnh vực của đời sống xã hôi (nội dung “ bình đẳng trong lao động”).
Để trả lời được câu hỏi trong bài tập tình huống này đòi hỏi học sinh phải biết
được quy định cụ thể trong điều Luật của Bộ Luật lao động.

18



Điều 112 Bộ luật Lao động quy định: Người lao động nữ có thai có quyền
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không phải bồi thường theo quy
định tại Điều 41 của Bộ Luật này, nếu có giấy của thầy thuốc chứng nhận tiếp tục
làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. Trong trường hợp này, thời hạn mà người
lao động nữ phải báo trước cho người sử dụng lao động tùy thuộc vào thời hạn do
thầy thuốc chỉ định.
Căn cứ vào nội dung mà giáo viên muốn chuyển tải đến học sinh để xây
dựng tình huống phù hợp. Ngoài việc đưa ra tình huống giáo viên phải chuẩn bị
các điều Luật để các em hiểu thêm về các kiến thức pháp luật thông qua các
nghành luật cụ thể. Tình huống này liên qua đến nghành Luật Lao động, qua đó
trang bị một số hiểu biết cho các em và hình thành ở các em thái độ biết tôn trọng
người lao động trong đó bao gồm cả lao động nữ.
Loại 3: Tình huống đầy đủ
Ví dụ: Tại khoa xét nghiệm máu của bệnh viện Đa khoa Hoài Đức( Hà
Nội), Trưởng khoa cùng các kỹ thuật viên đã thực hiện việc “ Nhân bản kết quả
xét nghiệm máu”. Đây là hành vi vô cùng nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến niềm
tin của nhân dân. Chị Hoàng thị Nguyệt cán bộ khoa xét nghiệm đã rất bất bình vì
việc này.
Câu hỏi:
Câu 1: Em hãy chỉ ra hành vi vi phạm pháp luật trong tình huống trên?
Hành vi đó thuộc loại vi phạm nào?
Câu 2: Hãy cho biết các trình tự chị Nguyệt tiến hành để ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật trên?
Tình huống này được áp dụng vào bài 7: Công dân với các quyền dân chủ
(mục 3: Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân)
Đây là một tình huống được xây dựng dựa trên một vi phạm pháp luật đã
xẩy ra trong đời sống xã hội. Có thể sẽ có nhiều học sinh biết được nội dung này.
Tuy nhiên để các em biết một cách cặn kẽ và đầy đủ thì điều đó lại càng có ích
cho các em. Những tình huống được xây dựng dựa trên cơ sở có thực sẽ có tính
thuyết phục cao đối với các em. Tuy nhiên để làm được bài tập tình huống này

đòi hỏi học sinh phải sử dụng các kiến thức của nhiều bài học( kiến thức về vi
phạm pháp luật, các loại vi phạm pháp luật, quyền và nghĩa vụ của công dân...)
Nếu em nào quá trình học nghiêm túc sẽ trả lời được bài tập này.
Những tình huống như thế này có cái khó nhưng cũng có sự hấp dẫn đối với
các em, nó sẽ phát triển được trí tuệ của các em, khắc phục được việc học thụ

19


động như lâu nay.
Trên đây là các tình huống được xây dựng dựa trên cơ sở từ đơn giản đến
phức tap. Giáo viên tùy vào nội dung bài dạy, tùy vào đối tượng học sinh để vận
dụng sao cho đạt hiệu quả cao nhất - đó là trách nhiệm của mỗi giáo viên.

2.2.Bài dạy thực nghiệm
Bài 2
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Về kiến thức:
Nêu được khái niệm thực hiện pháp luật và các hình thức thực hiện pháp luật
2. Về kỹ năng:
Biết cách thực hiện pháp luật phù hợp với lứa tuổi
3. Về thái độ.
Có thái độ tôn trọng pháp luật
Ủng hộ những hành vi thực hiện đúng pháp luật
II. PHƯƠNG PHÁP
Thuyết trình, vấn đáp, thảo luận nhóm, tạo tình huống, trực quan
III. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
- Tranh, ảnh, sơ đồ, giấy khổ to
- Tình huống pháp luật

VI. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP

20


1. Ổn định tổ chức lớp
2. Kiểm tra bài cũ:
Em hãy sưu tầm 3 đến 5 câu ca dao, tục ngữ, châm ngôn về đạo đức đã được Nhà
nước ghi nhận thành nội dung các quy phạm pháp luật, qua đó phân tích mối
quan hệ giữa đạo đức với pháp luật:
3. Giảng bài mới
Pháp luật là phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên do điều kiện khách quan và chủ quan mà việc thực hiện pháp luật của
công dân có thể đúng có thể sai. Vậy Nhà nước với tư cách là chủ thể làm ra pháp
luật và dùng pháp luật làm phương tiện quản lý xã hội sẽ làm gì để đảm bảo quá
trình đưa pháp luật vào đời sống xã hội đạt hiệu quả và xử lí các vi phạm pháp
luật nảy sinh như thế nào? Nội dung bài 2 chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.
Phần làm việc của thầy và trò
Tiết 1
Đơn vị kiến thức 1
Khái niệm, các hình thức thực hiện pháp
luật

Nội dung chính của bài
1. Khái niệm, các hình thức thực
hiện pháp luật.

Mức độ kiến thức:
Học sinh nêu được các nội dung cơ bản
Khái niệm thực hiện pháp luật

Thực hiện pháp luật là quá trình thường
xuyên trong cuộc sống của cá nhân, tổ chức,
cơ quan, bao gồm 4 hình thưc cụ thể: Sử
dụng pháp luật, thi hành pháp luật, tuân thủ
pháp luật, áp dụng pháp luật.
a, Cách thực hiện
GV yêu cầu HS đọc 2 tình huống ở SGK
Trong tình huống 1: Chi tiết nào trong tình
huống thể hiện hành động thực hiện Luật
Giao thông đường bộ một cách có ý thức(tự
giác), có mục đích? Sự tự giác đó đem lại
kết quả thế nào?
Trong tình huống 2: Để xử lý 3 thanh niên
vi phạm pháp luật CSGT đã làm gì?
Mục đích của việc xử phạt đó là gì?
.

21

a, Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động
có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành
những hành vi hợp pháp của các cá nhân,


GV giảng mở rộng:

tổ chức. .


Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức. Vậy thế nào là
hành vi hợp pháp?
Hành vi hợp pháp là hành vi không trái,
không vượt quá phạm vi các quy định của
pháp luật mà phù hợp với các quy định của
pháp luật, có lợi cho Nhà nước, công dân.
- Làm những việc mà Nhà nước cho phép
làm
- Làm những việc mà pháp luật quy định
phải làm
- Không làm những việc mà pháp luật cấm
Trong hệ thống pháp luật quốc gia, có rất
nhiều loại quy phạm của pháp luật khác
nhau, với những cách thức thực hiện khác
nhau. Có thể đó là cách xử sự chủ động:
Làm những việc mà pháp luật quy đinh
được làm hay nghĩa vụ phải làm.
* Các hình thức thực hiện pháp luật

GV kẻ bảng: Các hình thức thực hiện pháp
luật. Chia lớp thành 4 nhóm, phân công
nhiệm vụ từng nhóm Yêu cầu mỗi nhóm
trong thời gian 3 phút phải nêu ra nội dung
và ví dụ minh họa cho hình thức thực hiện
mà mình được giao. Sau đó lần lượt các
nhóm điền vào bảng do giáo viên kẻ sẵn.
Nhóm 1: Em hiểu thế nào là hình thức sử
dụng pháp luật? cho ví dụ?
Nhóm 2: Em hãy cho ví dụ để làm rõ hình

thức thi hành pháp luật?
Nhóm 3: Tuân thủ pháp luật là gì? Cho ví
dụ?
Nhóm 4: Áp dụng pháp luật là gì? Ý nghĩa

22


ca hỡnh thc ny?
HS: C i din nhúm lờn trỡnh by
GV: Nhn xột v kt lun
GV: Cho hc sinh lm bi tp tỡnh hung
nm vng thờm v kin thc
+ Sửỷ duùng phaựp luaọt
Tỡnh hung1: Ch Hng v anh c ó
quyt inh tin n hụn nhõn sau ba nm
tỡm hiu. M ca ch Hng kch lit phn
i cuc hụn nhõn ny vỡ lý do anh c
hin cha cú vic lm n nh.
Cõu hi:
1. Theo em ch Hng v anh c cú quyn
quyt nh vic hụn nhõn ca mỡnh khụng?
Ti sao?
2. M ch Hng cú quyn cn tr hụn nhõn
ca con mỡnh khụng? Nu em l ch Hng
em s núi gỡ vi m?

HS: Tr li
GV: Nhn xột v b sung
Ch Hng v anh c cú quyn quyt nh

vic hụn nhõn ca mỡnh nu nh hai ngi
khụng nm trong cỏc iu cm kt hụn theo
quy nh ca Lut Hụn nhõn v gia ỡnh.
C th ti iu 9 khon 2: Vic kt hụn do
nam v n t nguyờn quyt nh, khụng bờn
no c ộp buc, la di bờn no; khụng
ai c cng ộp hoc cn tr
b, Cỏc hỡnh thc thc hin phỏp lut

+ Thi hnh phỏp lut
* S dng phỏp lut:

Tỡnh hung 2:

C tun nay m m nng, b i cụng tỏc xa. Cỏc cỏ nhõn, t chc s dng ỳng n

23


Hùng thay bố thường xuyên ở bên chăm sóc các quyền của mình, làm những gì mà
mẹ. Vì không có thời gian hoàn thành bài pháp luật cho phép.
tập ở lớp nên Hùng đã bị cô giáo phê bình.
Nhưng khi biết Hùng đang còn phải chăm
sóc mẹ trong bệnh viện cô giáo đã phân
công các bạn trong lớp bố trí thời gian để
giúp Hùng hoàn thành các bài tập. Hùng
rất biết ơn cô và các bạn.
Câu hỏi:
Câu 1: Em có suy nghĩ gì về việc làm của Hùng và
các bạn?

Câu 2: Theo em việc con cái chăm sóc bố mẹ có
phải là nghĩa vụ pháp luật không? Tại sao?

Đặc điểm của hình thức sử dụng pháp luật:
Chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc
không thực hiện quyền được pháp luật cho
phép theo ý chí của mình mà không bị ép
buộc phải thực hiện.

HS: Thảo luận và trả lời
GV: Nhận xét và kết luận
Việc Hùng tận tình chăm sóc mẹ là thể hiện
nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ, đặc
biệt là khi cha mẹ đau ốm.
Qua tinh huống này giáo dục cho học sinh
tình cảm đối với gia đình, đó là sự hiếu thảo
của đạo làm con. Việc con cái biết yêu
thương và chăm sóc cha mẹ điều đó không
chỉ là quy định của đạo đức mà đó còn là
quy định của pháp luật.
Giáo viên đọc cho học sinh Điều luật trong
Luật Hôn nhân và gia đình
Điều 35: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”.

Thi hành pháp luật: Các cá nhân , tổ chức
thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, làm
những gì mà pháp luật quy định phải làm.

24



Tuân thủ pháp luật
Giáo viên cho học sinh liệt kê những hành
vi bị pháp luật cấm.
Ví dụ: Không tự tiện chặt cây phá rừng;
không săn bắt độngvật quý hiếm; không
khai thac sđánh bắt cá ở sông, biển bằng
công cụ hủy diệt;không được trộm cắp,
không được đánh người, không được trốn
thuế…

+ Áp dụng pháp luật
GV: Đưa ra một số ví dụ
Thứ nhất cơ quan, công chức Nhà nước có
thẩm quyền ban hành các quyết định cụ thể.
Ví dụ: Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình
ông An.
Thứ hai, cơ quan Nhà nước ra quyêt định xử
lý người vi phạm pháp luật hoặc giải quyết
tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức.
Ví dụ: Tòa án ra quyết định tuyên phạt cải
tạo không giam giữ và yêu cầu bồi thường
thiệt hại đối với người có hành vi đốt rừng,
phá rừng trái phép.
Để khắc sâu kiến thức, phát triển tư duy
học sinh, GV yêu cầu các em phân tíchđiểm
giống và khác nhau giữa 4 hình thức thực
hiện pl.

GV lưu ý:

25


×