Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở……..

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.82 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm

Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở……..

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Nguyễn Duy Long
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015


ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN (GỢI Ý)
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết nghiên cứu
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
5.2 Phạm vi nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Đóng góp mới của đề tài
8. Kết cấu của đề tài
NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học (Gợi ý)
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa
về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực
đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm
bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.

2


Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong
quá trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả
là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp
dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy
và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng
là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích,
tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống
nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập
tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh

hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp
học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra,
đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này
gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều
giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải
kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của
bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu
ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô
hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp
thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy
mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện,
tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được
lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của
bản thân. Vậy, trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó
3


chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng
một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với
học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động
truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác,
dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được
cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.

Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp
học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ
bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là
vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo
trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt
kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án
giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện
có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để
4


minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy
học là những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc
hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của

bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể
giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là
những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng
giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi
hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh
ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể
đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích
con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy
luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư
duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn
đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải
quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng
tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp
giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý
thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của
mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề
đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề
xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên
5


cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương
thức hành động mới đối với chủ thể.

Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng
về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức
và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề
không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn
khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận
và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng
tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng
đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết
nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết
cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương
pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên
nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp
nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học
sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích
cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
6



Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những
phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả
về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không
đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung
hoặc không sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải
quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và
dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận,
người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến
thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể
rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên
thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách
sâu sắc gắn liền với quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống,
quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh,
trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri
thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích
cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong
đó, học sinh được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải
quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình
để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định
của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án

giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có
7


thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm,
thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết,
vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có
thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học
hoặc của nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa
đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ
khả năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa
gặp bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và
không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ
sung thêm kiến thức cho cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công
trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu
điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với
các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học
hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác.
Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát
biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một
cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải
quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời
có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng

nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức của
mình.

8


Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức,
kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt
có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả
năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học
tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông
qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải
quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở
thành người có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được
nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với
việc học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần
nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan
điểm của mình. Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên
cứu vấn đề để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng
thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ
học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ
những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh
nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý
hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho

phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy
bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm
9


khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và
kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không
hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống
mong muốn, nhất là trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ
những vùng miền khác nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối,
dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học,
thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy
nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình
huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó
làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của
người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất
định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ
thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng
tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ
tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp
dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới,
cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện
về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi
thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình

huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một
ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng
phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu
hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận
xét, phản biện… Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá
trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
10


1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình
thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc
vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó
thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng
của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa
giảng và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức
tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ
thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn
đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình
huống này cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học
sinh đọc. Các tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học

sinh nghiên cứu và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học
sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc
trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học
sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các
bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để
giải quyết tình huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là
người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao
nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học
và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao
nhất”.
11


Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây
dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà
trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất
tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi
học sinh xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản
thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là
các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý
tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống.
Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội
dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình

giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng
các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên
muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay
cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và
áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên
những vấn đề mà thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến
thức cần học sinh tiếp thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải
giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được
xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết
12


sự kiện để hình thành một tình huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên
có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên
những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ
việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm
hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện
cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì
giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong trường hợp này
các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học cơ sở cương gian, nghi xuân, hà tĩnh

1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Đây là một đia phương thuộc vùng xa cúa huyện nghi xuân, tĩnh hà tĩnh. Về mặt
đia lý, cương gián là địa phương nằm giáp ranh giữa rừng và biến, cách xa trung
tâm thị trấn và thành phố, việc đi lại của dân cư trong địa phương đến Trung tâm
cũng như các vùng lân cận gặp nhiều khó khăn trắc trở. Do vậy, việc tiếp thu các
thông tin từ bên ngoài vào có phần hạn chế, đặc biệt là việc tuyên truyền kiền thức
về pháp luật đến với người dân phần nào gặp khó khăn.
Về mặt văn hóa:
Đây là địa phương có số lượng dân cư theo đạo thiên chúa tương đối đông đảo nên
người dân phần nào còn ít quan tâm đến những kiến thức về pháp luật. Mặt khác,
về trình độ học vấn nhân dân địa phương còn nhiều hạn chế.
Đa số phụ huynh các em học sinh chỉ học hết cấp 1, đến nửa chừng cấp 2 thì bỏ, rất
ít người theo học đến bậc THPT.
Bên cạnh đó, đây là địa phương có nhiều người dân đi lao động nước ngoài. Phần
lớn các em học sinh ở đây chỉ ở với ông bà hoặc ở với bố, hoặc ở với mẹ. Chúng
đều có chung tư tưởng học hết bậc phổ thông là đi xuất khẩu lao động, nên ít quan
tâm đến các vấn đề xã hội, vấn đề pháp luật mà xã hội yêu cầu.
13


1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học cơ sớ cương gián.
Trên thực tế, ở các trường phổ thông nói chung vấn đề chất lượng dạy học luôn
được xem là yêu cầu hàng đầu đối với công tác giảng dạy nhưng nó chỉ chủ yếu
được xem trọng ở các môn Toán, Lý, Hóa, Văn, Ngoại ngữ. Môn GDCD được mặc
định như một môn phụ nên nó ít gây áp lực đối với người dạy và người học.
Về cấp quản lý, ít quan tâm đến chất lượng cũng như phương pháp dạy học môm
GDCD trong trường học nên ít có đầu tư về phương tiện và trang thiết bị dạy học
nên phần nào đã ảnh hưởng đến chất lượng chưa cao.
Về đội ngũ giáo viên, hầu hết chưa được đào tạo cơ bản về pháp luật nên hiểu biết

của họ còn phiến diện, điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến phương pháp dạy học
giáo dục pháp luật cho học sinh trong môn GDCD.
Học sinh là đối tượng có lứa tuổi còn nhỏ chúng sống và sinh hoạt phần lớn bị chi
phối bởi thói quen. Ngoài thói quen về tâm sinh lý lứa tuổi còn bị ảnh hưởng bởi
thói quen tâm lý vùng miền nên việc truyền thụ kiến thức pháp luật cho các em.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công
Qua việc vận dụng phương pháp dạy học pháp luật cho học sinh ở môn học GDCD
trong trường học chúng tôi nhận thấy: Các em đã bắt đầu có những biến chuyển
tích cực trong việc sinh hoạt và ứng xử với môi trường xung quanh. Cụ thể như là
việc tham gia giao thông, phòng chống cháy nổ, bảo vệ môi trường, hôn nhân và
gia đình… Việc xây dựng các tình huống của giáo viên gắn với từng nội dung bài
học cụ thể đã kích thích được sự say mê hứng thú đối với các em trong học tập.
Điều đó đã phần nào tạo ra hiệu quả chất lượng tốt trong từng tiết học cũng như
toàn bộ chương trình GDPL trong nhà trường phổ thông.
1.2.3.2 Những hạn chế
Phần lớn giáo viên không được đào tạo bài bản về kiến thức pháp luật nên quá trình
giảng dạy pháp luật còn hạn chế chưa đạt được kết quả cao. Sự đầu tư trang thiết bị
dạy học của cấp ngành chưa được đầy đủ. Môn học vốn dĩ đã khô khan lại khó
khăn hơn trong việc tạo hứng thú cho các em học sinh.
14


1.2.3.3 Nguyên nhân
Lứa tuổi học sinh còn nhỏ kiến thức pháp luật là những điều hoàn toàn mới mẻ với
các em nên việc truyền thụ của giáo viên đối với các e còn nhiều hạn chế. Trang
thiết bị dạy học chưa được đầu tư đúng mức, sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo nhà
trường, của phụ huynh học sinh và các ban ngành địa phương chưa thực sự đúng
mức đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự hạn chế trong việc giáo dục pháp luật đối
với học sinh trong trường học

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
2.1.
Ông A ở huyện C một lần kéo điện từ trong nhà ra để kích cá. Vì không cẩn thận
nên đã làm một người đi đường vướng vào dẫn đến hậu quả là người đi đường bị
điện giật chết.
2.2.
Bạn Lan học xong lớp 9 bị bố mẹ bắt nghỉ học không cho học lên lớp 10 vì quan
niệm con gái không nên học nhiều. Nghe theo lời bố mẹ, Lan đã nghỉ học ở nhà
theo mẹ ra chợ bán hàng tạp hóa. Hai năm sau, Lan đã có tình cảm với một người
bạn trai ở gần nhà. Mối quan hệ đó không có kiểm soát của gia đình . Vì vậy mà hai
người tự do đi lại với nhau. Do không kiểm soát được bản thân nên Lan đã có quan
hệ với bạn trai và đã có bầu. Sự việc xảy ra đã làm cho người lớn biết và kết quả là
Lan phải lấy chồng khi chưa đầy 18 tuổi.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương 2 đã đi vào phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sỏ lý luận cho đề tài như
trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu của vấn đề ở tren thế giới cũng như ở
Việt Nam, giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt tác giả
đã trình bày làm nổi bật các nội dung liên quan đến yêu cầu cũng như phương pháp
dạy học pháp luật trong môn GDCD ở trường phổ thông hiện nay nói chung và nơi
địa phương mình công tác....
15


KẾT LUẬN
Giáo dục công dân trong trường học phổ thông là một môn học có vai trò hết sức
quan trọng trong việc giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh. Nhận thấy
vai trò, chức năng to lớn của môn học trong việc đào tạo ra con người mới góp
phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ cho toàn xã hội nên Bộ giáo dục đã chú trọng

đưa giáo dục pháp luật cho học sinh trong Nhà trường phổ thông. Đây là dấu hiệu
tích cực để người dạy cũng như người học chú trọng hơn trong việc truyền thụ cũng
như tiếp thu những hiểu biết pháp luật cần thiết để xây dựng thế giới quan cho
những công dân tương lai của đất nước.
Đề tài đã đi vào nghiên cứu các phương pháp dạy học tích cực mà chúng ta đang sử
dụng để vận dụng vào việc giảng dạy kiến thức pháp luật trong môm học giáo dục
công dân ở trường phổ thông. Đặc biệt, đề tài đã đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề
thực tiễn ở từng cơ sỏ giáo dục để tìm ra phương pháp tốt nhất nhằm nâng cao hiệu
quả và chất lượng giảng dạy pháp luật trong môn giáo dục công dân ở trường phổ
thông.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa: Giáo dục công dân 6
Giáo dục côn dân 7
Giáo dục côn dân 8
Giáo dục côn dân 9

16



×