Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (995.79 KB, 111 trang )

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÔ THỊ (tập 1)


Câu 1: Trình bày và phân tích những cơ sở hình thành, phát triển, và vai trò của đô thị trong quá
trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta.
Thế giới cổ đại ra đời vào lúc chế độ công xã thị tộc tan rã và xã hội chiếm hữu nô lệ hình thành.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ không ngừng củng cố và tập trung quyền lực vào tay tầng lớp thống trị là chủ
nô với sự hỗ trợ đắc lực của quân đội và tôn giáo. Hầu hết các quốc gia cổ đại đều hình thành và phát
triển tại những lưu vực các dòng sông lớn, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nông nghiệp,
ngư nghiệp, chăn nuôi, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đó là lưu vực sông Nil ở Đông Bắc châu Phi
với nền văn minh Ai Cập. Ở khu vực Tây Á, giữa 2 dòng sông Tigre và Euphrat có nền văn minh cổ đại
Babylone, Assyrie, Phenicie . . . Ở lưu vực sông Hằng có nền văn minh Nam Á cổ đại với Ấn Độ là đại
diện. Lưu vực Hoàng Hà, sông Dương Tử ở Đông Á là nơi xuất hiện nền văn minh Trung Quốc cổ đại.
Cùng với sự xuất hiện tổ chức xã hội và Nhà nước chiếm hữu nô lệ, bên cạnh hình thức làng nông
nghiệp, hình thức cư trú dạng đô thị hình thành. Khác với làng nông nghiệp, đô thị cổ đại nhanh chóng
trở thành trung tâm chính chi phối mọi hoạt đông xã hội và là địa bàn phát triển nền văn minh của nhân
loại. Cấu trúc đô thị phản ánh rõ nét sự phân chia giai cấp trong xã hội thông qua việc phân khu chức
năng tương ứng.
*Cơ sở hình thành và phát triển đô thị
Thứ nhất, sự phân công lao động
Trong quá trình phát triển của xã hội loại người, từ thửơ sơ khai, con người đã sống du mục, và họ
tồn tại bằng cách săn bắn hái lượm những sản vật sẵn có trong thiên nhiên, và dần dần thiên nhiên không
còn đáp ứng đủ nhu cầu của con người, nên con người phải định cư tự lao động sản xuất và họ tập hợp lại
sống trong 1 điểm dân cư, từ đây họ tự khai thác thiên nhiên và trồng cây, chăm nuôi ra các sản phẩm
nuôi sống mình.
Thứ hai, sự phát triển của dịch vụ; trao đổi buôn bán
Khi con người định cư họ đã sản xuất ra rất nhiều của cải vật chất, đủ đáp ứng nhu cầu hàng ngày
và còn dư thừa và 1 bộ phận lao động tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp để làm dịch vụ trao đổi hàng
hoá.
Bên cạnh đó do nhu cầu cuộc sống ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh và 1 bộ phận
lao động khác nữa cũng tách ra khỏi nông nghiệp để phát triển tiêu thủ công nghiệp và dịch vụ, quản lý


xã hội. Tất cả lao động này cùng gia đình của họ tập trung lại sinh sống ở 1 điểm thích hợp với công việc
sản xuất kinh doanh của họ và từ đó hình thành lên đô thị và ngày càng phát triển.
Tham khảo
1. Sự xuất hiện của đô (Thủ phủ, thành lũy)
Đây là kết quả của quá trình phát triển sản xuất khi con người còn sống dựa vào tự nhiên
bằng sản bắt và hái lượm thì lúc đó chưa có làng mạc và đô thị, khi con người biết trồng trọt và
tách một bộ phận để sản xuất định cư thì đó chính là cơ sở cho nông thôn sau này. Khi nền sản
xuất phát triển nghề thủ công ra đời đã tập trung dân cư thành các phường hội đó cũng là lúc đô
thị ra đời. Lúc này đô thị mang tính đặc trưng là đô(thành lũy) nhằm phục vụ quốc phòng.
2. Sự xuất hiện của chợ

2


Đô thị đầu tiên xuất hiện khi xã hội có giai cấp, lúc đầu chỉ là nơi giao lưu hàng hóa (chợ)
sau này giai cấp thống trị thường chon nơi đó để làm điểm tọa lạc của bộ máy chính quyền.
Những nơi giai cấp thống trị đóng thường xuất hiện sản xuất thủ công nghiệp để cung cấp sản
phẩm cho giai cấp đo. Vì thế hai khái niệm chợ và đô thường đi đôi với nhau tạo thành đô thị.
Ở những thời kì đầu mới xuất hiện, đô thị là nơi để trấn giữ khu vực cư trú của bộ phận
lãnh đạo của vùng đất mà đại diện hoặc là nơi giao lưu dưới hình thức của chợ hoặc phố.
Sơ đồ hình thành đô thị
Đô > Thị > Đô + Thị > Đô thị
*Vai trò của đô thị trong trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Khái quát về quá trình phát triển đô thị VN (có thể không viết vào bài)
VN là 1 quốc gia đang phát triển và có tốc độ đô thị hoá khá cao, và đô thị ngày càng có vai trò to
lớn đối với đời sống kinh tế xã hội của đất nước như cùng cấp hơn 60% nguồn thu ngân sách và chiếm
tới 23,5% dân số của cả nước. Đô thị của VN là những trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá quan trọng
của từng vùng.
-Thời kỳ phong kiến trước 1958 thì đô thị VN chủ yếu là các sở lỵ, trung tâm hành chính, cai trị
của vua chúa, quan lại, nó chưa có nhiều chức năng khác, nó chỉ có phát triển thương mại buôn bán ở các

đô thị có vị trí thuận lợi, chưa phát triển mạnh sản xuất, đô thị thời này chưa phát triển mạnh, và chưa có
vai trò to lớn.
-Thời kỳ thuộc địa và kháng chiến chống Pháp(1858-1954) xã hội VN là xã hội thuọc địa nửa
phong kiến, nên các đô thị này chủ yếu là trung tâm hành chính của bộ máy thực dân phong kiến, là trung
tâm buôn bán, giao lưu, chung chuyển tài nguyên khai thác được ở VN về chính quốc. Thời kỳ này đô thị
đã được nâng cao vai trò hơn thời kỳ phong kiến, nhưng nhìn chung sự phát triển đô thị vẫn còn kém.
-Thời kỳ 1954 đến nay: đô thị đã khá phát triển vì có vai trò quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới công nghiệp và dịch vụ phát triển nền nhiều đo thị và trung tâm công nghiệp mới hình thành, đô
thị được mở rộng và góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của cả nước,
đã tạo ra 51% tổng GDP/ 7000 của cả nước, thời kỳ này đô thị đã phát triển thành hệ thống với hơn 600
đô thị với bộ mặt ngày càng đẹp đẽ và văn minh.
Vai trò của đô thị
Có thể nói, đô thị là một hình thức quần cư đặc biệt của xã hội loài người. Hiểu một cách đơn giản,
đô thị là một tổ chức không gian cư trú, sinh sống tập trung với mật độ dân số cao của cộng đồng người
với các hoạt động chủ yếu trong những lĩnh vực phi nông nghiệp. Hệ thống đô thị là kết quả tất yếu của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt gắn bó hữu cơ với các cuộc cách mạng phát triển công
nghiệp, cách mạng khoa học và kỹ thuật. Vì vậy, vai trò của hệ thống đô thị trong quá trình phát triển lãnh
thổ thể hiện khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử.
Ngày nay, đô thị không chỉ đơn thuần là nơi tập trung dân cư đông đúc với các hoạt động mang
tính chất phi nông nghiệp; các trung tâm đơn chức năng về hành chính hoặc thương mại,...mà đô thị đã
trở thành một không gian cư trú của dân cư, là kết quả tất yếu của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
đóng vai trò là trung tâm tổng hợp hoặc về một số mặt: hành chính, kinh tế - xã hội... của một vùng hoặc
quốc gia, biểu hiện của nó là sự tập trung dân cư với mật độ cao với lối sống đô thị và các hoạt động phi
nông nghiệp chiếm ưu thế, có cơ sở hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại,...

3


Hệ thống đô thị là những “đại biểu” chủ yếu của quá trình đô thị hoá, phát triển đô thị. Do đó, phát
triển hệ thống đô thị như là một qui luật tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia trên

thế giới, nhằm tiến tới một xã hội văn minh và hiện đại. Hệ thống đô thị đóng vai trò như một hệ thống
“khung xương” phát triển của mỗi lãnh thổ, mỗi quốc gia.
Thứ nhất, đô thị có vai trò ổn dịnh chính trị
Trong phạm vi một quốc gia, các cơ quan chính trị quan trọng của đất nước thường được đặt ở
những đô thị lớn của đất nước, đặc biệt là ở thủ đô. Vì vậy, thông thường các thủ đô là các đô thị quan
trọng bậc nhất, chi phối toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị xã hội của đất nước. Ở Việt Nam, các cơ quan
chính trị quan trọng của Nhà nước thường được đặt ở hai đô thị lớn nhất cả nước là Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh, các cơ quan chính trị của tỉnh thường được đặt ở các thành phố và thị xã trực thuộc, các cơ
quan chính trị của huyện thường được đặt ở các thị trấn,…
Ví dụ như Hà Nội là thủ đô, đồng thời cũng là thành phố lớn thứ hai Việt Nam về dân số thuộc
đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ
những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Năm 1010, Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà Lý, quyết định
xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của những triều đại Lý,
Trần, Lê, kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc. Khi Tây
Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên
Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang
Đông Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh, Hà Nội là thủ
đô của miền Bắc rồi nước Việt Nam thống nhất và giữ vai trò này cho tới ngày nay.
Thứ hai, đô thị có vai trò to lớn trong phát triển kinh tế quốc dân
Vào bất kì giai đoạn nào trong lịch sử phát triển xã hội của loài người, thì các đô thị luôn được coi
là nơi nắm giữ các quyền lực về chính trị, kinh tế quan trọng của xã hội và có sức chi phối mạnh mẽ, ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của vùng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đóng góp của đô
thị về phương diện kinh tế là rất lớn. Các đô thị thường là các trung tâm và là động lực cho sự phát triển
kinh tế của đất nước, của vùng. Các đô thị là nơi đóng góp phần lớn giá trị GDP, giá trị ngành công
nghiệp - dịch vụ, và giá trị tăng trưởng nền kinh tế. Đặc biệt, trong xu thế toàn cầu hiện nay, trên thế giới
đã hình thành các trung tâm đô thị lớn được mệnh danh là “thành phố toàn cầu” chi phối nền kinh tế thế
giới như Niu-Iooc, Tô-ky-ô, Luân-đôn, Pa-ri, … Các thành phố này là nơi tập trung các trung tâm tài
chính, các văn phòng luật, các trụ sở quốc tế, các loại hình dịch vụ chuyên môn hóa phục vụ cho các công
ty và các tập đoàn xuyên quốc gia. Các tập đoàn, công ty có các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ
phân bố phân tán trên toàn thế giới nên sự ảnh hưởng của nó là rất lớn. Vì vậy, có thể coi các thành phố

toàn cầu này là trung tâm quyền lực chi phối nền kinh tế toàn thế giới.
Bên cạnh đó, có những đô thị không quá lớn về kinh tế nhưng lại có khả năng chi phối và điều
khiển đời sống xã hội, đời sống tâm linh của con người, đó là các đô thị có các trung tâm tôn giáo lớn như
Ro-me, Je-ru-sa-lem,…
Ở Việt Nam, khu vực đô thị đóng góp tới 70,4% GDP cả nước, 84% GDP trong ngành công
nghiệp – xây dựng, 87% GDP trong ngành dịch vụ và 80% trong ngân sách Nhà nước. Nước ta nhiều đô
thị lớn có vai trò là đầu tầu kinh tế, như thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội…

4


Đất nước ta đang chuyển mình trong thời kỳ hội nhập quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng. Vị thế
của dân tộc ngày càng được khẳng định trên trường Quốc tế và đang được bạn bè năm châu ghi
nhận và ủng hộ.
Góp phần quan trọng cùng với sự phát triển của Đất nước là sự phát triển nhanh chóng và
mạnh mẽ của các đô thị. Đến với các đô thị hôm nay của chúng ta đâu đâu cũng có các khu công
nghiệp, trung tâm thương mại, các khu đô thị mới mọc lên từng ngày. Nhiều dự án phát triển hạ
tầng đô thị được đầu tư, những tuyến đường mới, toà nhà cao tầng, sân bay, nhà ga, bến cảng
hiện đại đang làm thay đổi diện mạo đô thị. Sự phát triển đô thị đã mang lại cho người dân được
hưởng thụ chất lượng cuộc sống tốt hơn, dịch vụ xã hội được đáp ứng ngày càng đầy đủ. Kinh tế
đô thị phát triển, tăng thu nhập quốc dân và tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Đời
sống văn hoá tinh thần của cư dân đô thị ngày càng được nâng cao.
Thứ ba, đô thị có vai trò to lớn trong phát triển văn hóa, giáo dục, thúc đẩy cách mạng
KHCN của đất nước
Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và
động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ttrong đó, đô thị là nhân tố quan
trọng, đóng vai trò là trung tâm văn hóa, giáo dục thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ của đất
nước.

Văn hóa đô thị đang vận động và phát triển, tự làm đầy mình và loại bỏ để tiến tới nhũng chuẩn
mực văn hóa cao. Đô thị có sự tập trung cao độ về hành chính, van hóa giáo dục, công trình công cộng,
hệ thống thông tin, vui chơi, giải trí…khiến nhịp điệu sống cao và nhanh. Ở đô thị, khả năng để chúng ta
lựa chọn các hoạt động vui chơi, học tập rộng lớn…Bên cạnh đó, khoa học công nghệ được vận dụng với
tỷ lệ cao trong các gia đình, trường học, công ty…góp phần tạo nên sự phát triển chung đối với các mặt
khác của đời sống đô thị.
Thứ tư, đô thị là tấm gương của cuộc sống văn minh, hiện đại
Nếp sống văn hóa - văn minh đô thị là nếp sống theo các giá trị chuẩn mực của văn hóa dân tộc và
đáp ứng yêu cầu tổ chức cuộc sống tốt đẹp của cộng đồng trong môi trường sinh hoạt đô thị, công nghiệp
phát triển.
Văn minh đô thị là biểu hiện tập trung của văn hóa đô thị vừa nói lên trình độ phát triển
cao về kinh tế - xã hội của đô thị, vừa là một nguồn tài nguyên, vừa như tác nhân, như bộ phận
điều chỉnh, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đô thị.
Với những giá trị vĩnh hằng của Chân – Thiện – Mỹ, văn minh đô thị tác động tới con
người một cách tự nhiên, hình thành nên những phẩm chất văn hoá mới, điều chỉnh hành vi của
con người trong quá trình công nghiệp hoá - đô thị hoá. Tốc độ đô thị hoá càng nhanh, xã hội vận
động càng gấp gáp, đời sống đô thị càng cần đến văn minh đô thị như con người cần một bầu
không khí trong lành và ấm áp nghĩa tình.

5


Câu 2: Phân tích mục đích ý nghĩa và cơ sở khoa học thực tiễnrcủa phân loại, phân cấp quản lý đô
thị VN, theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP.
*Mục đích ý nghĩa:
- Mục đích:
+ Nhằm xác lập cơ sở cho việc tổ chức xắp xếp và phát triển hệ thống đô thị trong cả nước
+ Xác định cơ sở để phân cấp quản lý đô thị
+ Phân rõ trách nhiệm và quản lý Nhà nước cho các cấp chính quyền , phát huy quyền chủ động
sáng tạo cho cấp chính quyền quản lý Nhf nước về đô thị.

+ Lập và xét duyệt quy hoạch đô thị .
+ Quản lý đô thị nhằm xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật các tiêu chuẩn chính sách
và cơ chế quản lý phát triển đô thị
+ Nâng cao chất lượng đô thị và phát triển đô thị bền vững.
+ Xây dựng chính sách và cơ chế quản lý đô thị và phát triển đô thị.
-Ý nghĩa theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP của chính phủ thì sự phân cấp đô thị này có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn.
+ Nó xác định được các tiêu chí cơ bản của phân loại đô thị
Các tiêu chuẩn cơ bản để phân loại đô thị được xem xét, đánh giá trên cơ sở hiện trạng phát
triển đô thị tại năm trước liền kề năm lập đề án phân loại đô thị hoặc tại thời điểm lập đề án phân
loại đô thị, bao gồm:
1. Chức năng đô thị
Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp
tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định.
2. Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4 nghìn người trở lên.
3. Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị và được
tính trong phạm vi nội thành, nội thị và khu phố xây dựng tập trung của thị trấn.
4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu
vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động.
5. Hệ thống công trình hạ tầng đô thị gồm hệ thống công trình hạ tầng xã hội và hệ thống
công trình hạ tầng kỹ thuật:
a) Đối với khu vực nội thành, nội thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ và có mức độ
hoàn chỉnh theo từng loại đô thị;
b) Đối với khu vực ngoại thành, ngoại thị phải được đầu tư xây dựng đồng bộ mạng hạ
tầng và bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển đô thị bền vững.
6. Kiến trúc, cảnh quan đô thị: việc xây dựng phát triển đô thị phải theo quy chế quản lý
kiến trúc đô thị được duyệt, có các khu đô thị kiểu mẫu, các tuyến phố văn minh đô thị, có các

6



không gian công cộng phục vụ đời sống tinh thần của dân cư đô thị; có tổ hợp kiến trúc hoặc
công trình kiến trúc tiêu biểu và phù hợp với môi trường, cảnh quan thiên nhiên.
+Nó phản ánh được sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn đồng thời phù hợp với thực trạng và
định hướng phát triển của hệ thống đô thị VN cũng như điều kiện của từng vùng VN. Như các đô thị ở
vùng núi, vùng sâu, xa có các tiêu chuẩn thấp hơn( tối thiểu là 70%) mức tiêu chuẩn quy định đối với đô
thị ở vùng đồng bằng
+Phân loại đô thị đã phân rõ được trách nhiệm quản lý về mặt hành chính cho các cấp chính quyền
từ TW đến địa phương, chính vì vậy nó là cơ sở quan trọng để tổ chức quản lý xắp xếp và phát triển hệ
thống đô thị trong cả nước.
*Cơ sở khoa học và thực tiễn để phân loại đô thị:
-Là trung tâm tổng hợp hay chuyên môn có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của vùng
lãnh thổ.
-Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trong khu vực nội thành nội thị, nội trấn,
thuộc các ngành kinh tế không thuộc ngành sản xuất nông nghiệp.
+Cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động đời sống của dân cư tối thiểu phải đạt 70% tiêu chuẩn quy
định đối với từng loại đô thị.
+Quy mô dân số bao gồm số dân thường trú và tạm trú trên 6 tháng tại khu vực nội thành, nội thị,
nội trấn.
+1 đô thị dân số được xác định trên cơ sở quy mô dân số đô thị và diện tích đất đô thị.

Câu 3: Tại sao chúng ta phải định kỳ điêù chỉnh phân loại phân cấp quản lý Nhà nước về đô thị.
Những năm gần đây, chủ đề quy hoạch và phát triển đô thị luôn được quan tâm với việc tổ chức
các hội thảo trong nước và quốc tế. Đô thị giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của khu vực,
vùng và thậm chí cả nước. Vì vậy, việc xây dựng các tiêu chí để xác định và phân loại đô thị là một nhiệm
vụ rất quan trọng. Xác định không đúng, phân loại không phù hợp giữa các đô thị không chỉ làm kiềm
hãm sự phát triển mà còn lãng phí nguồn đầu tư. Chính vai trò quan trọng ấy đòi hỏi pháp luật về phân
loại đô thị phải thật chặt chẽ và thống nhất. Chúng ta phải phân loại, phân cấp quản lý Nhà nước về đô thị
là nhằm mục đích phù hợp với sự phát triển của các đô thị đang ngày càng gia tăng.

Thứ nhất, điều chỉnh này là căn cứ xác thực để Nhà nước hoạch định chính sách đầu tư phát triển
đô thị.
Thực tiễn cho thấy việc phân loại, phân cấp quản lý đô thị đã góp phần thúc đẩy phát triển hệ thống
đô thị Việt Nam. Nhà nước Việt Nam đã có các thể chế về phân loại, phân cấp đô thị để có định
hướng phát triển và quản lý thích hợp với mỗi giai đoạn.
- Năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành quyết định số 132/HĐBT ngày 05/5/1990 về
phân loại đô thị và phân cấp quản lý đô thị. Trong đó xác định để phân loại đô thị căn cứ 5 yếu tố
và đô thị được chia thành 5 loại (loại 1 đến loại 5). Đô thị loại 1 và loại 2 chủ yếu do Trung ương
quản lý, đô thị loại 3 và loại 4 chủ yếu do tỉnh quản lý và đô thị loại 5 chủ yếu do huyện quản lý.

7


- Năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 72/2001/NĐ-Cp ngày 05/10/2001 về phân
loại đô thị, phân loại đô thị theo 5 tiêu chí với 6 loại đô thị: đặc biệt và loại 1 đến loại 5.
- Năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 42/2009/NĐ-CP ngày 05/01/2009 về phân
loại đô thị. Trong đó xác định đô thị gồm 6 loại: đặc biệt, loại I, II, III, IV, V với 6 tiêu chí để xét
phân loại. So với Nghị định 72/2001 có bổ sung tiêu chí về kiến trúc cảnh quan.
- Luật Quy hoạch đô thị có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 quy định đô thị phân thành 6 loại:
đặc biệt, loại I đến loại V theo các tiêu chí cơ bản: Vị trí, chức năng, trình độ phát triển; Quy mô
dân số; Mật độ dân số; Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp; Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng.
Phân loại đô thị, phân cấp quản lý đô thị luôn được gắn với tổ chức chính quyền địa
phương của mỗi quốc gia, song tuỳ theo kinh nghiệm lịch sử và hệ thống chính trị của mỗi quốc
gia mà có sự phân loại, phân cấp đô thị khác nhau. Việt Nam ngay từ sau thời kỳ “Đổi mới” đã
nhận thấy cần phải chấn chỉnh công tác quản lý đô thị và đặt ra một số nhiệm vụ cấp bách là:
- Nhận thức rõ vị trí chiến lược và vai trò quan trọng của hệ thống đô thị.
- Đổi mới công tác quy hoạch và quản lý đô thị.
- Huy động mọi nguồn tài chính vào phát triển đô thị, xoá bỏ bao cấp tràn lan nhưng phải
đảm bảo các chính sách xã hội.
- Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng đô thị.

Thứ hai, trình bày quy trình thực hiện điêù chỉnh phân loại đô thị khi có nhu cầu điều chỉnh loại đô
thị
UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW tổ chức nghiên cứu lập hồ sơ, đề án để phân loại đô thị, trình
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
+ Đối với các đô thị loại 1,2, đặc biệt tiến trình này được tiến hành theo quy trình sau:

 Trường hợp đô thị là thành phố thuộc TW, thì UBND thành phố giao cho cơ quan quản lý kiến trúc quy
hoạch thành phố chủ trì và lập hồ sơ đề án phân loại đô thị, trình UBND thành phố thuộc TW xem xét và
trình HĐND cùng cấp thông qua trước khi trình chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ theo quy định tại
NĐ72/CP Bộ xây dựng sau đó sẽ tổ chức thẩm định đề án phân loại đô thị trước khi trình chính phủ hoặc
thủ tướng chính phủ quyết định, công nhận loại đo thị.

 Trong trường hợp đô thị là thành phố thuộc tỉnh thì UBND tỉnh giao cho UBDN thành phố lập hồ


trình duyệt đề án phân loại đô thị, trình hội động ND cùng cấp thông qua trước khi trình UBND tỉnh.
UBND tỉnh xem xét trình HĐND tỉnh thông qua bằng nghị quyết trước khi trình thủ tướng chính phủ, Bộ
xây dựng tổ chức thẩm định dự án trước khi trình thủ tướng chính phủ xem xét quyết định loại đô thị.

8


+ Đối với đô thị loại 3,4 UBND tỉnh, thành phố trục thuộc TW giao cho UBND cấp huyện lập đề
án phân loại đô thị, trình HĐND cùng cấp thông qua trước khi trình UBND cấp tỉnh. Cơ quan quản lý
kiến trúc, quy hoạch cấp tỉnh tổ chức thẩm định trước khi trình UBND tỉnh, UBND cấp tỉnh xem xét và
trình HĐND cùng cấp thông qua trước khi trình Bộ xây dựng, Bộ xây dựng tổ chức thẩm định đề án
trước khi quyết định công nhận loại đô thị.
+ Đối với đô thị loại 4, UBND cấp tỉnh giao cho UBND cấp huyện lập hồ sơ trình duyệt đề án,
trình HĐND huyện thông qua trước khi trình UBND cấp tỉnh, cơ quan quản lý quy hoạch cấp tỉnh tổ
chức thẩm định đề án trình UBND tỉnh xem xét quyết định công nhận đô thị.

Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn
Thực tiễn trên cho thấy việc phân loại, phân cấp quản lý đô thị đã góp phần thúc đẩy phát
triển hệ thống đô thị Việt Nam, chất lượng đô thị từng bước được nâng lên, diện mạo đô thị có
nhiều thay đổi và nhất là khẳng định đô thị có vai trò động lực phát triển kinh tế - xã hội, song
cũng bộc lộ một số tồn tại là:
- Nhiều đô thị được xem xét để công nhận hoặc nâng loại còn linh hoạt, còn nợ các tiêu chí
như: tỷ lệ lao động phi nông nghiệp, chất lượng cơ sở hạ tầng… và sau đó chưa có chế tài kiểm
tra, giám sát để khắc phục.
- Trong các tiêu chí để xem xét có tiêu chí chưa được định lượng như về kiến trúc cảnh
quan, về cơ sở hạ tầng hoặc xác định giới hạn tính toán chỉ tiêu theo ranh giới đô thị (gồm nội đô
hay cả ngoại thành, ngoại thị).
- Chưa có tiêu chí để xác định đặc thù đô thị về điều kiện tự nhiên (vùng núi, hải đảo) về
chức năng (trung tâm hành chính, du lịch, khoa học…) về đặc khu hành chính…
- Phân loại đô thị chưa gắn với quy định cấp quản lý hành chính để phù hợp với quy định
về tổ chức chính quyền địa phương, nhất là với đô thị hiện hữu được mở rộng.
Phân loại, phân cấp quản lý đô thị có vai trò quan trọng là động lực để phát triển hoàn chỉnh hệ
thống đô thị Việt Nam có chất lượng và để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương, do
vậy rất cần xác định rõ định lượng thích hợp của từng tiêu chí (như số dân, tỷ lệ % tương ứng…) để
khuyến khích phát triển các đô thị vừa và nhỏ (loại III, IV và V) và đô thị đặc thù (du lịch, khoa học, giáo
dục…). Để làm được yêu cầu này rất cần cơ quan nghiên cứu soạn thảo phải có nhiều kịch bản để thích
hợp với giai đoạn phát triển mới đưa Việt Nam tiếp tục phát triển không mắc bẫy “thu nhập trung bình”.
Câu 4: Lộ trình phân định đô thị
1. Đô thị hóa tiền công nghiệp (pre-industrial urbanization)

9


- Đô thị hóa theo đúng nghĩa của nó đã xuất hiện đầu tiên vào thời điểm khi sản xuất thủ
công nghiệp chuyển thành dạng sơ khai của sản xuất hàng hóa và cùng với nó là sự dịch cư của
những người thợ thủ công và thương nhân về các trung tâm đô thị.

- Đô thị hóa thời kì tiền công nghiệp phát triển mang đặc trưng của nền văn minh nông
nghiệp. Các đô thị phân tán, quy mô nhỏ phát triển theo dạng tập trung, cơ cấu đơn giản. Tính
chất đô thị lúc bấy giờ chủ yếu là hành chính, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
- Tác động chủ yếu của giai đọan này là cuộc Cách Mạng Kỹ Thuật (CMKT) I, được gọi là
Cách mạng nông nghiệp với biểu tượng là cái cuốc (hay cái cày hoặc cái xa quay)
2. Đô thị hóa Thời kỳ công nghiệp (industrial urbanization)
- Dưới tác động của cuộc CMKT II (cách mạng công nghiệp)với biểu tượng là chiếc máy
hơi nước do ông J.WATT (Anh) phát minh năm 1780, đô thị phát triển mạnh do nhiều người
chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Sự tập trung sản xuất và dân cư đã làm
xuất hiện nhiều đô thị mới và mở rộng các đô thị đã có, tạo nên các đô thị lớn và cực lớn, đây là
giai đọan của đô thị hóa mở rộng.
- Cấu trúc đô thị trở nên phức tạp hơn, (vào nửa sau thế kỷ 20) các thành phố mang nhiều
chức năng khác nhau như thủ đô, thành phố cảng… Đặc trưng của thời kỳ này là sự phát triển
thiếu kiểm soát của các thành phố
3. Đô thị hóa Thời kỳ hậu công nghiệp (post-industrial urbanization)
- Nền văn minh giai đọan này (được gọi là văn minh khoa học-kỹ thuật) đã đưa quá trình
đô thị hóa đi vào chiều sâu với đặc trưng là cuộc CMKT III với biểu tượng là chiếc máy tính
điện tử phát minh năm 1949,
- Văn minh khoa học-kỹ thuật đã làm thay đổi cơ cấu sản xuất, phương thức sinh họat ở
các đô thị. Không gian đô thị có cơ cấu tổ chức phức tạp có quy mô lớn. Hệ thống tổ chức dân cư
đô thị phát triển theo cụm, chùm và chuỗi.
Tham khảo: Một số vấn đề về Đô thị hóa
Đô thị hóa là tiến trình kinh tế-xã hội thể hiện bằng việc tăng dân thành thị, tập trung một
số lượng lớn con người tại các thành phố, đặc biệt là tại những siêu đô thị, bằng việc phổ biến lối
sống thành thị tới toàn bộ hệ thống dân cư của cà một vùng rộng lớn.
Siêu đô thị hóa (super-urbanization) là việc tăng dân thành thị một cách không thể kiểm
soát và dẫn đến quá tải cho môi trường thiên nhiên, phá vỡ sự cân bằng sinh thái.
Đô thị hóa giả tạo (false urbanization) là tình trạng điển hình tại các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh này sự đô thị hóa vừa không gắn với việc phát triển các chức năng thành phố,
vừa liên quan tới việc “lôi” người dân ra khỏi vùng nông thôn, dẫn đến việc phân bố lại một cách

tương đối cư dân nông nghiệp.

10


Siêu đô thị hóa đặc trưng cho các nước phát triển còn sự đô thị hóa giả tạo đặc trưng cho
các nước đang phát triển. Việt Nam đang phải đối mặt với tình trạng đô thị hóa giả tạo và đô thị
hóa theo chiều rộng chứ không theo chiều sâu.
Ưu thế của đô thị hóa
Tiến trình đô thị hóa thúc đẩy việc tăng năng suất lao động, giúp giải quyết nhiều vấn đề xã
hội. Trong thập niên 50 của thế kỷ 20 cư dân thành thị của Trái đất chiếm 29%, thập niên 70 –
37% và thập niên 90 – 42%. Hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn đầu tiên của tiến trình đô thị
hóa và chuyển dần sang giai đoạn giữa và nước ta có 34% dân số đang sống tại các thành phố.
Khoảng 20-30 năm nữa, tỷ lệ dân cư sống ở thành thị sẽ tăng lên 50%.
Xu hướng đô thị hóa hay đô thị hóa vùng ngoại ô (suburbanization) trên thế giới thể hiện
mong muốn của người dân được sống trong thành phố hay các vùng phụ cận. Sống ở đô thị có
mặt mạnh là sự tiện lợi của các dịch vụ xã hội, giải trí, thu nhập cao, nhiều việc làm, đường xá
tốt…
Mặt trái của đô thị hóa
Trong những năm gần đây số dân thành thị tăng rất mạnh. Việc đô thị hóa đi kèm với sự
hình thành các siêu thành phố lên đến nhiều triệu dân, gây ô nhiễm môi trường xung quanh tại
các trung tâm công nghiệp, làm suy giảm điều kiện sống trong khu vực.
Cuộc sống ở thành thị bị tách khỏi thiên nhiên, con người phải đi làm xa nơi ở, giá cả đắt
đỏ, chi phí thuê nhà cao, tắc nghẽn giao thông… Trái lại ở nông thôn có vẻ đẹp của thiên nhiên,
không khí trong lành, con người không phải đi xa để làm việc. Tuy nhiên cuộc sống ở đó phần
nào biệt lập, có nhiều công việc nặng nhọc, ít trò giải trí. Trong thời gian gần đây ở các nước
phát triển đã hình thành xu hướng “trở về nông thôn” (counter urbanization) – nhiều người muốn
được hưởng không khí trong lành và hòa mình vào thiên nhiên.
Tại Việt Nam
Báo cáo Đánh giá Đô thị hóa tại Việt Nam do Ngân hàng Thế giới thực hiện, cho thấy tốc

độ tăng trưởng hàng năm của dân số đô thị là 3,4% - nhanh nhất tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.
Hai thành phố này cũng tập trung các ngành công nghiệp chính và quyết định nhịp độ phát triển
kinh tế của cả nước.
Quá trình đô thị hóa mang lại nhiều lợi ích và không nước nào có thể đạt mức thu nhập cao
mà trước đó không phải đô thị hóa. Trên thực tế hầu hết cá quôc gia đều phải đô thị hóa ít nhất
50% trước khi đạt mức thu nhập trung bình. Tại Việt Nam quá trình đổi mới tạo ra những chuyển
biến mạnh mẽ về kinh tế, tiến trình đô thị hóa cũng củng cố tăng trưởng kinh tế nhưng lại đặt ra
nhiều thách thức về môi trường, dịch vụ xã hội và giao thông. Nhiệm vụ đặt ra trước các nhà
hoạch định chính sách, nhà quản lý và các chuyên gia là làm thế nào hạn chế những mặt hạn chế
và tăng cường các ưu thế của việc đô thị hóa.

11


Đô thị hóa là quá trình tất yếu diễn ra không chỉ đối với nước ta mà còn đối với các nước trên thế
giới, nhất là các nước châu Á. Nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ ngày
càng nhanh. Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội của khu vực, nâng cao đời sống
nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều vấn đề cần
giải quyết như: vấn đề việc làm cho nông dân bị mất đất, phương pháp đền bù khi giải phóng mặt bằng,
cách thức di dân, dãn dân… Nếu không có một chiến lược và giải pháp cụ thể, chung ta sẽ gặp nhiều
vướng mắc và lúng túng trong quá trình giải quyết, đôi khi làm nảy sinh những vấn đề ngày càng phức
tạp.
Trong những năm qua, tốc độ đô thị hóa ở nước ta diễn ra khá nhanh. Vì vậy, việc đánh giá những
vấn đề phát sinh trong quá trình đô thị hóa, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết vấn đề một
cách cơ bản là việc làm cần thiết. Đó là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu hoạch định chính sách phát
triển kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay.
Đô thị hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đô thị hóa . Trên quan điểm kinh tế quốc dân,
đô thị hóa là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí
dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu.
Đô thị hóa là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư. Đô thị

hóa nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối
sống thành phố cho nông thôn. Đô thị hóa ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành
phố do kết quả phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng… Đô thị hóa giả tạo là sự phát triển thành phố
do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến Tóm lại, đô thị hóa là quá trình biến đổi
và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các
hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở
hiện đại hóa khoa học kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
Xu hướng đô thị hóa ở Việt Nam
Hình thành các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ trong các đô thị lớn: sự hình thành
trung tâm có tính chất chuyên ngành trong các đô thị lớn là xu thế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
đô thị, là biểu hiện của tính chuyên môn hóa cao trong sản xuất. Hình thành các trung tâm công nghiệp,
thương mại, dịch vụ ở các vùng ngoại ô: sự hình thành các trung tâm của mỗi vùng có tính khách quan
đáp ứng những nhu cầu của sản xuất và đời sống ngày càng tăng lên của chính vùng đó. Đó là biểu hiện
của tính tập trung hóa trong sản xuất. Mở rộng các đô thị hiện có: góp phần tạo sự ổn định tương đối và
giải quyết các vấn đề quá tải do đô thị hiện có. Chuyển một số vùng nông thôn thành đô thị: đây là một xu
hướng hiện đại được thực hiện trong điều kiện có sự đầu tư lớn của Nhà nước. Vấn đề cơ bản là tạo
nguồn tài chính để cải tạo đất, xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại.
Ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến nông thôn
Ảnh hưởng của đô thị hoá đến sự phát triển hạ tầng kỹ thuật
a) Tác động tích cực
- Quá trình đô thị hoá tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và hệ thống kinh tế vùng nông
thôn ngoại thành
+ Thúc đẩy đầu tu xây dựng các tuyến đường từ liên thôn, liên xã, liên Huyện và Tỉnh. Nên thuận
lợi cho phát triển snả xuất và lưu thông hàng hoá.

12


+ Phát triển nhanh mạng lưới điện .
+ Cung cấp nguồn nước sách.

b) Những vấn đề đặt ra
- Tuy cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng nông thôn đã được đầu tư nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu.
- Với đầu tư cho công trình hạn tầng của nông thôn hầu hết là từ ngân sách, việc huy động vốn của
các thành phần kinh tế còn bị hạn chế.
- Việc quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở các xã, các làng nghề truyền thống chưa được chú
trọng đúng mức.
- Hệ thống hạ tầng kinh tế đô thị còn lạc hậu
Ảnh hưởng của đô thị hoá đến môi trường sinh thái vùng nông thôn
a) Ô nhiễm nước
- Quá trình đô thị hóa cùng với việc hình thành nhiều khu công nghiệp dẫn đến lượng nước thải từ
các khu công nghiệp này tăng lên.
- Ngoài ra dân số tăng dẫn đến nguồn nước thải sinh hoạt cũng tăng, hầu hết được thải xuống
sông , hồ.
- Do tình trạng khai thác nước ngầm một cách bừa bãi và nước bẩn ngấm xuống mạch nước ngầm
dẫn đến làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước ngầm.
b) Ô nhiễm không khí:
Đô thị hoá ô nhiễm không khí do
- Khí thải từ các khu công nghiệp, các nhà máy.
- Tại các khu vực đông dân, lượng khí thải từ xe cộ cũng rất nhiều.
c) Rác thải: Tăng nhanh cùng quá trình đô thị hoá
Việc xử lý những ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn phải theo hướng thúc đẩy quá trình đô
thị hóa diễn ra thuận lợi, bởi vì:
Thứ nhất, xuất phát từ vai trò của đô thị đối với nền kinh tế và quá trình phát triển kinh tế – xã
hội.
Đô thị hóa có tác động kích hoạt kinh tế – xã hội nông thôn ngoại thành phát triển theo hướng hiện
đại hóa: cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng tiên tiến; trình độ thâm canh
sản xuất nông nghiệp ngày càng cao; hiệu quả sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng. Đồng thời, đô thị
hóa cũng làm thay đổi từng giờ, từng ngày diện mạo đời sống xã hội ở nông thôn ngoại thành, làm thay
đổi các nội dung của đời sống xã hội nông thôn ngoại thành theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, bên cạnh những tác động tích cực và toàn diện của đô thị hóa đến nông nghiệp, nông
thôn, quá trình đó cũng gây ra một số tác động tiêu cực.
Tuy nhiên, nếu so sánh lợi ích do nhiều tác động tích cực đem lại với chi phí do những tác động
tiêu cực gây ra, thì phần lợi ích là to lớn và cơ bản. Do vậy, không thể vì một số khó khăn do tác động tiêu
cực của đô thị hóa gây ra mà hạn chế quá trình đô thị hóa.
Những giải pháp xử lý ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn phải đảm bảo cho quá trình đô thị
hóa diễn ra trong tầm kiểm soát của Nhà nước Quá trình đô thị hóa chỉ đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao

13


khi nó diễn ra phù hợp với quy luật. Tính phù hợp này phải được xem xét cả về xu thế, quy mô và tốc độ.
Cả ba khía cạnh đó, thông thường đã được nhà nước nhận thức và được thể chế hóa trong các văn bản.
Điều đó có nghĩa là quá trình đô thị hóa phải phù hợp với các văn bản pháp quy của nhà nước, phải nằm
trong tầm kiểm soát của nhà nước.
Phương hướng xử lý những ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn
Xử lý những vấn đề của đô thị hóa đến nông thôn theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Hiện nay nền kinh tế ở nước ta đã cơ bản chuyển sang kinh tế thị trường, trong đó các bộ phân cấu
thành cũng như cơ chế vận hành của nền kinh tế đã cơ bản theo kinh tế thị trường. Tuy nhiên một số
người vẫn cho rằng Nhà nước phải chịu trách nhiệm giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hóa theo
phương thức bao cấp, một số khác lại cho rằng cần giải quyết hoàn toàn theo cơ chế thị trường.
Xử lý ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn một cách đồng bộ, có trọng điểm, có trạt tự
Đô thị hóa là quá trình ảnh hưởng toàn diện đến tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn ngoại thành. Do vậy, khi đề xuất và thực hiện giải pháp nào đó, cần phải đặt nó trong
tổng thể các vấn đề của quá trình đô thị hóa để giải quyết. Tuy vậy, cũng cần lưu ý rằng, tính đồng bộ ở
đây không có nghĩa là tiến hành song song nhất loạt ngang nhau bằng mọi giải pháp,
Xử lý những ảnh hưởng của đô thị hóa đến nông thôn theo hướng huy động tổng hợp mọi nguồn
lực của xã hội
Để huy động mọi nguồn lực của xã hội trong quá trình giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hóa,
trước hết cần tạo ra được cơ chế để huy động các nguồn lực tài chính của nhiều thành phần kinh tế. Do

vậy cần huy động các cấp, các ngành có liên quan tham gia vào quá trình giải quyết ảnh hưởng của đô thị
hóa đến nông nghiệp, nông thôn ngoại thành. Điều đó cho phép phát huy tốt những tác động tích cực và
hạn chế tác động tiêu cực của quá trình đó đến nông nghiệp, nông thôn
Câu 5: Tại sao cần phân loại đô thị ? Cách phân loại đô thị ở Việt Nam
Vai trò của phân loại đô thị:

-

Việc phân loại đô thị sẽ góp phần tổ chức, sắp xếp và phát triển đô thị
Phân loại đô thị nhằm hoàn chỉnh hệ thống đô thị, cải cách quản lý công tác hành chính
trên toàn bộ các thị xã, thị trấn…
Nếu quản lý tốt thì chất lượng đô thị sẽ từng bước được nâng lên và diện mạo đô thị sẽ có
sự thay đổi. Tuy nhiên khi đã thực hiện công việc này cần phải đi vào thực chất, bởi lâu nay
chúng ta làm không tốt việc này nên có những thị xã không bằng một thị trấn ở những nơi khác.
Nếu nhận định rằng việc phân loại đô thị không có lợi gì cho người dân là không đúng, bởi
khi nâng loại đô thị lên thì chất lượng đô thị cũng khác đi và người dân được hưởng thụ theo chất
lượng đô thị đó.
“Có thể đất đai sẽ đắt lên, người dân được hưởng lợi cái này thì nhà đầu tư sẽ khó khăn cái
kia… Nhưng rõ ràng, việc đầu tư vào hệ thống đô thị sẽ khiến cả người dân và chính quyền đô

14


thị đều được hưởng lợi, tạo ra chất lượng đô thị mỗi ngày tốt hơn. Khi đô thị được tăng hạng thì
giá trị về đất đai cũng khác đi, doanh thu trong từng khu vực đô thị cũng sẽ có sự thay đổi. Nếu
chúng ta xây dựng được hệ thống đô thị đúng với chất lượng thì người dân sẽ được hưởng lợi
theo chất lượng đô thị và các đô thị cũng sẽ cạnh tranh nhau để làm tốt hơn, xứng với thị xã hay
thành phố… và cũng được hưởng lợi từ ngân sách nhà nước”, ông Chính phân tích.

-


Là tiêu chí để lập lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị
Nâng cao chất lượng đô thị và phát triển đô thị bền vững

Là cơ sở để xây dựng cơ chế và chính sách quản lý, phát triển đô thị bền vững

-

Đảm bảo phù hợp với yêu cầu phát triển

Mỗi đất nước lại có cách để quản lý, phát triển đô thị riêng, nhưng cũng không có quốc gia
nào phân cấp đô thị như Việt Nam. Khi mình đưa ra đô thị các loại 1, 2, 3, 4 hay 5 thì người ta
cũng không hiểu. Nhưng với quá trình đô thị hóa như iện nay ở Việt Nam, việc phân loại đô thị
cũng là tính khoa học để phù hợp với yêu cầu phát triển của chúng ta.
Tuy nhiên, để đạt được loại đô thị như mong muốn thì việc một số địa phương “xin” các cơ
quan chức năng chiếu cố đến sự thiếu hụt một vài tiêu chí không phải là không có bởi việc phân
loại đô thị vẫn rất quan trọng, hữu ích với Việt Nam, tạo nên cơ hội cạnh tranh cho các địa
phương, chính quyền đô thị cũng luôn phải chăm lo vị thế của mình. Muốn vậy, các địa phương
phải đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, chăm lo cho bộ máy quản lý tốt lên để nâng cấp
lên loại đô thị của mình.
* Những quy định hiện hành về phân loại đô thị
1. Quy định tại Luật Quy hoạch đô thị
Một là, Quy định về các tiêu chí cơ bản để phân loại đô thị
Theo quy định tại khoản 1 điều 4 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 thì phân loại đô thị dựa vào 5
tiêu chí sau:
- Vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu và tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đô thị
- Quy mô dân số
- Mật độ dân số
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
- Trình độ phát triển cơ sở hạ tầng

Hai là, quy định về mối quan hệ giữa cấp hành chính và loại đô thị.
Tại khoản 2 điều 9 Luật Quy hoạch đô thị quy định cụ thể:
- Thành phố trực thuộc trung ương phải là đô thị loại đặc biệt hoặc đô thị loại I
- Thành phố thuộc tỉnh phải là đô thị loại I hoặc loại II hoặc loại III
- Thị xã phải là đô thị loại III hoặc loại IV
- Thị trấn phải là đô thị loại IV hoặc loại V
2. Quy định tại Nghị định số 42/2009/NĐ-CP
Thứ nhất, các tiêu chí cơ bản về phân loại đô thị

15


Quy định chi tiết tại điều 6 Nghị định số 42/2009/NĐ-CP, bao gồm 6 tiêu chí:
- Chức năng đô thị (tiêu chuẩn này cũng quy định những vấn đề về vị trí, chức năng, vai trò, cơ cấu
và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đô thị)
- Quy mô dân số
- Mật độ dân
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
- Hệ thống công trình hạ tầng đô thị
- Kiến trúc, cảnh quan đô thị: là việc xây dựng phát triển đô thị phải theo quy chế quản lý kiến trúc
đô thị được duyệt, có các khu đô thị kiểu mẫu, các tuyến phố văn minh đô thị, có các không gian công
cộng phục vụ đời sống tinh thần của dân cư đô thị; có tổ hợp kiến trúc hoặc công trình kiến trúc tiêu biểu
và phù hợp với môi trường, cảnh quan thiên nhiên.
Loại đô thị

Loại đặc biệt

Loại I

Loại II


Chức năng
trung tâm Quốc gia, giao
vùng ảnh lưu quốc tế
hưởng

Quốc gia,
giao
lưu
quốc tế, ùng
liên tỉnh

Vùng trong
Vùng liên
tỉnh, tỉnh,
tỉnh, quốc
Vùng trong Huyện,
từng lĩnh
gia về lĩnh
tỉnh, tỉnh
cụm, xã
vực
liên
vực
tỉnh

Quy mô dân
số
>5000
(Người)


>1000 (Tp
trực thuộc
>800
TW)
>300
>500 (các
tỉnh, Tp)

>150

>50

>4

>12000
>10000

>10000
>8000

>6000

>4000

>2000

>85

>80


>75

>70

>65

Mật độ dân
số
>15000
(Người/km2
)
Tỷ lệ lao
động
phi
>90
nông nghiệp
(%)

HTKT

Loại III

Loại IV

Đã, đang
Nhiều mặt Xây dựng Từng mặt xây dựng
Xây
dựng
sở

xây dựng nhiều mặt xây dựng từng mặt
đồng bộ, hoàn
đồng
bộ, đồng
bộ, đồng
bộ, tiến
tới
chỉnh
hoàn chỉnh hoàn chỉnh hoàn chỉnh đồng
bộ,
hoàn chỉnh

Kiến trúc >60%
cảnh quan
minh

văn

>50

>40

16

>40

Loại V

Từng mặt
đang xây

dựng tiến
tới đồng bộ

Từng bước
Quy
chế theo
quy
quản lý kiên chế quản lý
trúc đô thị
kiến trúc đô
thị


Thứ hai, quy định mối quan hệ giữa cấp hành chính và loại đô thị
Điều 4 Nghị định qđ:
- Đô thị loại đặc biệt là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội thành, huyện ngoại thành
và các đô thị trực thuộc.
- Đô thị loại I, loại II là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội thành, huyện ngoại thành
và có thể có các đô thị trực thuộc; đô thị loại I, loại II là thành phố thuộc tỉnh có các phường nội thành và
các xã ngoại thành.
- Đô thị loại III là thành phố hoặc thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thành, nội thị và các xã ngoại
thành, ngoại thị.
- Đô thị loại IV là thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thị và các xã ngoại thị.
- Đô thị loại IV, đô thị loại V là thị trấn thuộc huyện có các khu phố xây dựng tập trung và có thể có
các điểm dân cư nông thôn.
*Những hạn chế trong quy định về phân loại đô thị
Thứ nhất, sự không đồng nhất trong tiêu chí cơ bản phân loại đô thị
Qua liệt kê hai quy định trên ta thấy rằng tại Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 đã không xuất hiện
tiêu chí về kiến trúc, cảnh quan đô thị; mặc dù vậy nhưng theo quy định tại Thông tư số 10/2010/TTBXD ngày 11/8/2010 quy định hồ sơ của từng loại quy hoạch đô thị lại yêu cầu thể hiện các bản vẽ liên
quan đến kiến trúc, cảnh quan đô thị, cụ thể: trong quy hoạch chung yêu cầu có sơ đồ định hướng phát

triển không gian toàn đô thị: trong quy hoạch phân khu thì yêu cầu sơ đồ tổ chức không gian kiến trúc
cảnh quan; còn trong quy hoạch chi tiết yêu cầu có sơ đồ tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan của đô
thị .
Từ quy định phản ánh chính trong những văn bản quy định về quy hoạch đô thị cũng thiếu chặt
chẽ, Luật không đặt ra tiêu chí về kiến trúc, cảnh quan đô thị nhưng trong hồ sơ về quy hoạch đô thị thì lại
yêu cầu có những nội dung liên quan đến kiến trúc, cảnh quan đô thị. Nhưng Nghị định số 42/2009/NĐCP có quy định cụ thể về tiêu chí kiến trúc, cảnh quan đô thị và hiện nay thực tiễn áp dụng khi xét quyết
định công nhận đô thị vẫn xét tiêu chí này
Chính trong khái niệm về kiến trúc đô thị tại khoản 12 điều 3 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 và
cảnh quan đô thị tại khoản 14 điều 3 Luật Quy hoạch đô thị năm 20092cũng thể hiện sự rộng lớn của tiêu
chí kiến trúc, cảnh quan đô thị. Vì vậy không thể xem kiến trúc cảnh quan đô thị là một phần trong tiêu
chí về trình độ phát triển cơ sở hạ tầng. Việc quy định chặt chẽ các tiêu chí phân loại đô thị, đặc biệt là
tiêu chí cơ sở hạ tầng và kiến trúc, cảnh quan đô thị là góp phần rất lớn xây dựng một hệ thống đô thị
đúng mực và hiện đại, xóa bỏ tình trạng đô thị chỉ là “cái tên”. Đồng thời đảm bảo sự thống nhất giữa
Luật và Nghị định về các tiêu chí cơ bản phân loại đô thị.
Thứ hai, sự chồng chéo về loại đô thị của thành phố trực thuộc trung ương
Căn cứ quy định tại điểm a khoản 2 điều 4 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 thì thành phố trực
thuộc trung ương chỉ có thể là đô thị loại đặc biệt hoặc loại I. Trong khi đó, quy định tại điều 4 Nghị định
số 42/2009/NĐ-CP thì thành phố trực thuộc trung ương có thể là đô thị loại đặc biệt, loại I hoặc loại II.
Như vậy, giữa Luật và Nghị định đã có sự mâu thuẫn về xác định loại đô thị cho thành phố trực thuộc
trung ương.

17


Cảnh quan đô thị là không gian cụ thể có nhiều hướng quan sát ở trong đô thị như không gian
trước tổ hợp kiến trúc, quảng trường, đường phố, hè, đường đi bộ, công viên, thảm thực vật, vườn cây,
vườn hoa, đồi, núi, gò đất, đảo, cù lao, triền đất tự nhiên, dải đất ven bờ biển, mặt hồ, mặt sông, kênh,
rạch trong đô thị và không gian sử dụng chung thuộc đô thị. Qua phân tích, thấy rằng quy định tại Nghị
định số 42/2009/NĐ-CP đã mâu thuẫn với Luật Quy hoạch đô thị và không còn phù hợp với thực tiễn; do
đó cần được sửa đổi kịp thời theo hướng thành phố trực thuộc trung ương chỉ là đô thị loại đặc biệt hoặc

loại I.
Thứ ba, sự thiếu sót về phân loại đô thị cho thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương
Theo quy định tại điều 4 Nghị định số 42/2009/NĐ-CP về mối quan hệ giữa các đơn vị hành chính
và loại đô thị thì trong đó không đề cập đến một đơn vị vẫn còn tồn tại trên thực tế đó là: thị xã thuộc
thành phố trực thuộc trung ương. Hiện nay trên thực tế vẫn còn tồn tại một thị xã thuộc thành phố trực
thuộc trung ương, chính là thị xã Sơn Tây thuộc Thành phố Hà Nội, Sơn Tây là đô thị loại III.
Mặc dù thực tế chỉ còn tồn tại một đơn vị hành chính này trong các thành phố trực thuộc trung
ương, nhưng không vì lý do đó mà chúng ta lại không điều chỉnh trong văn bản quy phạm pháp luật.
Nghị định số 42/2009/NĐ-CP cần nhanh chóng bổ sung điều chỉnh loại đô thị cho đơn vị hành chính này
để đảm bảo phù hợp với thực tế và tính pháp lý của quy trình công nhận đô thị cho thị xã thuộc thành phố
trực thuộc trung ương. 3
Từ những phân tích trên cho thấy những điểm thiếu thống nhất và thiếu sót trong quy định về phân
loại đô thị của pháp luật hiện hành, mặc dù đây chỉ là một lĩnh vực nhỏ trong các quy định về đô thị.
Nhưng tầm quan trọng của quy định về phân loại đô thị là rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài đến sự
phát triển của hệ thống đô thị Việt Nam. Trước những chồng chéo, thiếu thống nhất trên theo quan điểm
cá nhân người viết cho rằng chúng ta cần nhanh chóng thực hiện đồng bộ các giải pháp đã nêu, cụ thể:
- Bổ sung Luật Quy hoạch đô thị về các tiêu chí cơ bản phân loại đô thị; đồng thời thể hiện tầm
quan trọng của quy định về kiến trúc, cảnh quan đô thị trong luật.
- Sửa đổi, bổ sung Nghị định 42/2009/NĐ-CP theo tinh thần phù hợp với Luật Quy hoạch đô thị và
sát thực tiễn. Cụ thể, bãi bỏ quy định thành phố trực thuộc trung ương là đô thị loại II; bổ sung phân loại
đô thị cho thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Trước tốc độ phát triển rất nhanh của hệ thống đô thị Việt Nam thì những quy định pháp lý về phân
loại đô thị đóng vai trò vô cùng quan trọng; ngăn chặn tình trạng “đô thị mọc lên tràn lan” và thiếu bền
vững. Sự quy định chặt chẽ, thống nhất trong pháp luật về phân loại đô thị là xây dựng nền tảng vững
chắc cho công tác quản lý đô thị cũng như đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ thống đô thị Việt Nam.
Câu 6: Phân tích thực trạng phát triển hệ thống đô thị và quản lý đô thị VN hiện nay.
Việt Nam đang trong tiến trình phát triển thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm
2020. Đô thị hóa mạnh mẽ tại các đô thị lớn đang tạo hiệu ứng thúc đẩy đô thị hóa nhanh lan toả
diện rộng trên phạm vi các tỉnh, các vùng và cả nước. Nhiều đô thị mới, khu đô thị mới được
hình thành phát triển; nhiều đô thị cũ được cải tạo, nâng cấp hạ tầng cơ sở: đường xá, điện nước,

cơ sở giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường…Các đô thị Việt Nam đang nỗ lực phát triển, nâng tầm
cao với kiến trúc hiện đại.

18


Thực trạng hệ thống đô thị Việt Nam
Trong những năm qua, mạng lưới đô thị phân bổ hợp lý trên 6 vùng kinh tế - xã hội của đất
nước. Đô thị phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng tăng từ 629 đô thị năm 1999 lên 755
đô thị năm 2011
Đô thị phát triển cả về quy mô dân số, diện tích đất đai và đầu tư xây dựng công trình hạ
tầng đô thị đạt các quy định theo phân loại đô thị và nhiều đô thị được Chính phủ có quyết định
công nhận nâng loại. Một số đô thị loại IV và loại III được Chính phủ công nhận là TX và TP
thuộc tỉnh, đã ngày càng hoàn thiện và nâng cao năng lực quản lý đô thị.
Theo phân cấp quản lý đô thị, cả nước có 5 TP trực thuộc Trung ương, 55 TP trực thuộc
tỉnh, 40 TX thuộc tỉnh, còn lại là các thị trấn. Trên địa bàn cả nước đã và đang thành lập trên 220
KCN tập trung, 10 ĐTM và 28 KKT cửa khẩu, KKT đặc thù góp phần mở rộng mạng lưới đô thị
quốc gia, tạo ra tiền đề cho sự tăng trưởng đô thị tại các vùng ven biển và biên giới.
Các đô thị lớn như ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng đã có nền tảng phát triển kinh
tế vững chắc, số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại cũng tăng mạnh
hơn. Tại đây, các động lực phát triển mới đang chuyển dịch mạnh mẽ sang các lĩnh vực giáo dục,
dịch vụ tài chính – ngân hàng, bất động sản, viễn thông và truyền thông… Các nơi có điều kiện
tự nhiên đặc biệt như Hạ Long, Nha Trang, Đà Lạt, Sa Pa, Phú Quốc… hay các đô thị có di sản
văn hóa - lịch sử tầm cỡ quốc gia và quốc tế như Huế, Hội An, Hạ Long, Côn Đảo,…thì du lịch
đã trở thành động lực phát triển chính.
Các khu kinh tế cấp quốc gia như: Khu kinh tế Vân Đồn (Quản Ninh), Đình Vũ – Cát Hải
(Hải Phòng), Nghi Sơn (Thanh Hóa), Nghệ An (Bắc TP Vinh), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Hòn La
(Quảng Bình), Chân Mây – Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), Chu Lai (Quảng Nam), Dung Quất
(Quảng Ngãi), Nhơn Hội (Bình Định), Văn Phong (Khánh Hòa), Nam Phú Yên (Phú Yên), đảo
Phú Quốc (Kiên Giang), là các khu kinh tế tổng hợp đa ngành có quy mô sản xuất lớn, có hạ tầng

quan trọng là cảng biển có diện tích đất đai rất lớn là nền tảng để hình thành và phát triển các đô
thị mới.
Hạ tầng xã hội đô thị như: Các công trình công cộng như bệnh viện, trường học, công viên,
công trình văn hoá đã được quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng sống của người dân đô thị
Hiện cả nước có trên 630 KĐTM (có quy mô từ 20ha trở lên, trong đó: Có 538 dự án có
quy mô nhỏ hơn 200ha, có 80 dự án quy mô từ 0,2 - 1 nghìn ha và có 14 dự án có quy mô lớn
hơn 1 nghìn ha) với tổng quy mô diện tích trên 100 nghìn ha đã giải quyết từng bước nhu cầu
nhà ở của người dân đô thị. Tại khu vực đô thị hiện hữu, các khu chung cư cũ việc cải tạo, chỉnh
trang đã được quan tâm lập quy hoạch và từng bước đưa vào thi công xây dựng.
Giao thông liên vùng, liên đô thị và nội đô đã được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhằm
từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị. Chất lượng phục vụ của giao thông công cộng
tại các đô thị ngày càng tốt hơn. Hệ thống tàu điện ngầm và tuyến đường sắt trên cao đã bắt đầu
triển khai thực hiện tại cácTP lớn như Hà Nội, TP.HCM.

19


Kiến trúc cảnh quan đô thị: Đã được cải thiện rõ rệt, quy chế quản lý kiến trúc đô thị đang
từng bước được nghiên cứu lập để quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch đô thị được duyệt.
Tuy nhiên, một số đô thị, công trình xây dựng còn thiếu bản sắc, các đô thị đặc thù ven sông, hồ,
biển và miền núi chưa thể hiện rõ ý tưởng khai thác không gian. Phát triển đô thị chưa phản ánh
rõ nét bản sắc văn hoá, đặc trưng của từng vùng, miền, các đặc thù sinh thái nhân văn trong quy
hoạch và kiến trúc đô thị.
Đánh giá chung phát triển đô thị hóa Việt Nam trong giai đoạn vừa qua có nhiều chuyển
biến số lượng. Năm 1999 cả nước có 629 đô thị đến nay có 772 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc
biệt, 15 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 47 đô thị loại III, 64 đô thị loại IV và 630 đô thị loại V.
Trong 6 tháng đầu năm, có TP. Thanh Hóa nâng lên đô thị loại I, các TP. Rạch Giá, TP. Bạc
Liêu, TP. Ninh Bình, TP. Thái Bình nâng lên loại II, 3 đô thị loại V hình thành mới và 1 đô thị
(thị trấn Cầu Diễn thuộc huyện Từ Liêm cũ sát nhập vào quận mới).
Về dân số thành thị (gồm dân số nội thành, nội thị và thị trấn) đạt khoảng 30,4 triệu người,

tập trung tại 2 đô thị loại đặc biệt và 15 đô thị loại I khoảng 14,8 triệu người chiếm 49% dân số
các đô thị trên toàn quốc). Tỷ lệ đô thị hóa trung bình cả nước đạt khoảng 34%, tăng trung bình
1% năm. Đô thị hóa tập trung cao nhất tại vùng Đông Nam Bộ (64,15%), thấp nhất tại vùng
Trung Du miền núi phía Bắc (21,72%). Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có tỷ lệ dân số
thành thị cao, cao nhất cả nước là TP. HCM 83%, Bình Dương 71,6%, Quảng Ninh 68,86%,…
Các tỉnh có tỷ lệ dân số thành thị thấp nhất cả nước gồm: Thái Bình 10,7%, Tuyên Quang
12,41%, Sơn La 13,7%, Bắc Giang: 13,05%...
Về đất đô thị, tổng diện tích cả nước 331.698 km2, diện tích đất đô thị không có biến động
so với năm 2013, đến nay, tổng diện tích đất tự nhiên toàn đô thị đạt 34,017 km2 chiếm khoảng
10,26% diện tích đất tự nhiên của cả nước, nội thành nội thị 14.760 km2 chiếm khoảng 4,42%
diện tích đất tự nhiên của cả nước. Nhiều khu vực nội thành nội thị vẫn còn 50-60% diện tích đất
nông nghiệp hoặc để trống chưa sử dụng phát triển đô thị. Hiện tượng chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuêu thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đặc biệt vùng ven đô đang rất cần
quản lý chặt chẽ.
Các vấn đề tồn tại
Tuy nhiên hệ thống đô thị Việt Nam đang phát triển nhanh về số lượng nhưng chất lượng
đô thị còn đạt thấp. Đặc biệt, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội chưa đồng bộ; trình độ
và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu; Tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng
ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội. Tình trạng phát triển đô thị
hiện nay chưa đáp ứng với sự đổi thay về tư duy đô thị hóa, phát triển đô thị theo hướng CNH,
HĐH, phát triển đô thị gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia tầm nhìn Đại Dương với 1 triệu km2
chủ quyền biển của Việt Nam và hàng trục cửa khẩu suốt chiều dài 4500 km biên giới.

20


Phát triển đô thị và đô thị hóa trên phạm vi toàn quốc hiện chưa thể hiện rõ bản sắc địa
phương và đặc điểm khí hậu vùng, miền, tạo sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn. Bộ mặt kiến
trúc cảnh quan đô thị còn lộn xộn, thiếu thẩm mỹ. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để để xây
dựng đô thị, diện tích cây xanh và mặt nước bị thu hẹp, nhu cầu sản xuất, dịch vụ ngày càng tăng

làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Hệ thống hạ tầng đô thị bị quá tải gây
nên các hiện tượng tắc nghẽn giao thông, úng ngập và vệ sinh môi trường đô thị hóa lan rộng làm
các khu vực này lại nằm lọt vào giữa khu dân cư đông đúc. Việc mở rộng đô thị dẫn đến chiếm
dụng đất nông nghiệp ảnh hưởng đến an toàn lương thực quốc gia. Năng lực thu gom xử lý rác
thải rắn đặc biệt là các chất thải rắn nguy hại chưa được thực hiện đúng quy định.
Đặc điểm thói quen sử dụng giao thông cá nhân gây lãng phí nghiêm trọng nguồn thiên
nhiên, ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn. Về kinh tế, tài chính đô thị còn hoạt động kém
hiệu quả, công tác điều phối vốn đầu tư xây dựng còn bị dàn trải, việc huy động vốn từ các
nguồn vốn vay, khối kinh tế tư nhân và từ cộng đồng chưa tạo động lực kích hoạt quá trình phát
triển. Phát triển các khu kinh tế, đặc khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung cấp quốc gia, cấp
tỉnh còn giàn trải chưa có sự lựa chọn thích hợp cho thành công.
Đối với công tác quy hoạch, bất cập hiện nay là chưa xác định rõ mối quan hệ giữa quy
hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng. quy hoạch đô thị, quy hoạch các ngành. Chưa có
nhiều đồ án, dự án cải tạo, chỉnh trang đô thị được thực hiện do loại hình dự án này khá phức tạp
thiếu quy định luật pháp, các nhà đầu tư chưa thực sự quan tâm.
Về quản lý đô thị còn chưa theo kịp thực tiễn, chưa đáp ứng xu thế phát triển đô thị. Đầu tư
phát triển đô thị, khu dô thị mới chưa có kế hoạch nhiều nơi làm sai, chậm muộn so với quy
hoạch. Chính quyền chưa có giải pháp điều hòa các lợi ích nhà nước - chủ đầu tư và người dân,
công tác khớp nối hạ tầng kỹ thuật, không gian, kiến trúc đô thị chưa được thực hiện do thiếu
quy chế quản lý kiến trúc cảnh quan hoặc có quy chế nhưng triển khai áp dụng còn hạn chế. Kết
nối hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội triển khai chậm, thiếu đồng bộ, công tác quản lý môi
trường đô thị chưa chặt chẽ.
Tình trạng lãng phí đất đai trong các đô thị chưa được khắc phục, hiệu quả đầu tư xây dựng
còn thấp ảnh hưởng đến phát triển bền vững và diện mạo đô thị. Nguồn lực cho phát triển đô thị
còn dải trải. Nhu cầu vốn đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật đô thị lớn, việc xã hội hóa, huy động các
nguồn lực trong xã hội còn hạn chế. Tỷ lệ dân đô thị được cấp nước sạch còn thấp. Tình trạng
úng ngập cục bộ trong mùa mưa, ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông, lấn chiếm đất công,
xây dựng không phép, sai phép còn diễn ra ở nhiều đô thị. Xử lý nước thải chưa được chú trọng
tại hầu hết các đô thị, thiếu sự đồng bộ trong xây dựng và khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật dọc
các tuyến đường tại các đô thị. Hệ thống cây xanh công viên ở nhiều đô thị chưa được quan tâm,

thiếu quy hoạch và kế hoạch triển khai đầu tư. Hệ thống cây xanh, mặt nước (sông, hồ) trong
nhiều đô thị bị suy giảm.

21


Hiện nay đô thị Việt Nam còn đang phải đối mặt với các vấn đề biến đổi khí hậu. BĐKH
gây bão, lũ lụt và nước biển dâng tác động đến phát triển hệ thống đô thị ven biển và các vùng
đồng bằng lớn, trên 40 tỉnh có nguy cơ ngập cao (ĐBSCL, ĐBSH, duyên hải ven biển miền
Trung, Đông Nam bộ) với khoảng 128 đô thị có nguy cơ ngập cao, 20 đô thị có nguy cơ ngập
nặng; BĐKH gây mưa lớn, lũ quét, sạt lở đất tác động đến phát triển hệ thống đô thị vùng núi
phía Bắc, Tây Nguyên và miền Trung, 31 tỉnh (thuộc các vùng: Trung du và miền núi phía Bắc,
Bắc trung Bộ và duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ) với khoảng 139 đô thị chịu
ảnh hưởng 15 đô thị có khả năng chịu tác động mạnh.
Giải pháp đổi mới trong phát triển đô thị tại Việt Nam
Để tạo sức mạnh, tốc độ phát triển cho đô thị cần quan tâm đổi mới quy trình, công nghệ
kỹ thuật, tiếp cận dần từng bước cân nhắc trình độ phát triển hạ tầng công nghệ thông tin nhanh,
nghiên cứu triển khai (R&D) và mức độ hợp tác giữa theo ngành và thiết định mạng lưới.
Về pháp luật, phải tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung hoặc đề xuất các cấp có thẩm quyền sửa
đổi bổ sung để hoàn thiện các cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư vào đô thị. Đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, giảm tối đa chi phí về thủ tục hành chính cho nhà đầu tư. Đổi mới
chương trình xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch theo chiều sâu. Đồng thời, tiếp tục tranh thủ
các nguồn vốn từ Trung ương. Tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần sử dụng vốn ngân sách thì thành phố
sẽ khó đạt được mục tiêu, do đó, đô thị sẽ tăng cường mời gọi đầu tư, tăng hợp tác phát triển
trong và ngoài nước theo mô hình PPP, BTO…nhằm đảm bảo mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng
và mục tiêu phát triển của các nhà đầu tư. Trong quá trình phát triển, việc xây dựng chính quyền
đô thị là điều cần thiết để đảm bảo công tác quản lý đô thị hiệu quả. Đô thị cần có sự chuẩn bị
chu đáo, đồng bộ về pháp lý và nguồn nhân lực, bộ máy đủ sức đảm đương nhiệm vụ, tận dụng
các nguồn lực để phát triển đô thị có trọng điểm, hài hòa về lợi ích.
Để kiểm soát quá trình đô thị hóa công tác quy hoạch xây dựng đô thị phải có giá trị thực

tiễn cao, quy chế và thể chế luật lệ phải thích hợp với tình hình phát triển kinh tế -xã hội ứng với
từng địa phương. Quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và quản lý đô thị phát triển là nội dung
cần được ưu tiên và nâng tầm nhìn dài hạn. Các định hướng phát triển không gian lãnh thổ, mà
còn là diễn đàn để các thành phần trong toàn xã hội tham gia đóng góp trí tuệ, vật chất, và tự giác
thực hiện các nội dung phát triển ở phạm vi, địa bàn của từng đô thị.
Quy hoạch cần được đặt trong hệ thống phối hợp toàn diện với nhiều ngành liên quan và
địa phương chủ quản, để đảm bảo tính khả thi của quy hoạch. Tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý đô thị, bảo vệ phòng chống
suy thoái ô nhiễm môi trường. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển đô thị bền vững. Để bám sát thực tiễn, quy
hoạch cần được xem xét điều chỉnh kế thừa các nhân tố tích cực và khắc phục các yếu tố tiêu

22


cực. Vấn đề này cần lồng ghép tăng cường trong giai đoạn hàng năm và 5 năm. Dài hạn quy định
các nội dung hạn chế.
Để tăng cường chất lượng đô thị việc thiết lập lại trật tự trong quản lý đất đai, quản lý đô
thị. Thực trạng nhiều dự án trong quá trình thực thi đang bị điều chỉnh, chia nhỏ làm vụn vỡ quy
hoạch. Vì vậy, đòi hỏi các địa phương phải có các biện pháp mạnh để tạo chuyển biến trong vấn
đề quản lý đất đai, xoá dần hình ảnh quy hoạch “treo”, dự án bỏ hoang… đưa đất vào sử dụng
đúng mục đích, nhằm thiết lập trật tự trong quản lý đất đai.
Đối với các vùng đô thị lớn, phải thúc đẩy hơn nữa mục tiêu tập trung phát triển các đô thị
hạt nhân cốt lõi cấp vùng; Phát triển đô thị gắn với các trung tâm công nghiệp cấp quốc gia nơi
có thể huy động một số lượng lớn công nhân người lao động. Các thành phố vệ tinh nằm cách
trung tâm 40 km cần được quan tâm kết nối bằng hệ thống tàu điện ngầm, đường sắt nhanh và
đường cao tốc để cùng phát triển, tránh hiện tượng quá tập trung vào đô thị lớn. Đô thị được xây
dựng dựa trên hệ thống pháp luật chặt chẽ và năng động, quy hoạch, chương trình và kế hoạch
triển khai được thực hiện bài bản. Đầu tư cải tạo đô thị và xây dựng mới song hành.
Đối với từng đô thị, để tránh được những “khiếm khuyết trong phát triển đô thị” chính

quyền đô thị cần được quan tâm nhiều hơn đến cơ cấu, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, vị thế đô
thị trong hệ thống đô thị quốc gia và khu vực… Phát triển đô thị bền vững, có trọng tâm, trọng
điểm tạo đột phá thành công.
Mở rộng đô thị và tăng tỷ lệ đô thị hóa trên cơ sở phát triển dân số lành mạnh, nâng cao
sức khoẻ cộng đồng, ổn định định cư đô thị - nông thôn, đẩy mạnh các chương trình nhà ở, đặc
biệt nhà ở cho người thu nhập thấp; thực hiện các dự án nâng cấp đô thị, cải tạo và làm mới đồng
bộ các khu ở hiện có tại các khu vực nội và ngoại thành. Phân bổ, kết nối và hoàn thiện các trung
tâm công cộng, các khu nghỉ ngơi vui chơi giải trí và hệ thống cây xanh, mặt nước trong đô thị
để tạo các không gian mở, tạo cảnh quan chung và điều hoà môi trường không khí đáp ứng nhu
cầu về môi trường ở, làm việc, đi lại, nghỉ ngơi giải trí cho các cá nhân và toàn xã hội.
Về phát triển nhà ở, mô hình xây dựng, đầu tư và quản lý nhà ở xã hội đã và đang được
Chính phủ thực hiện. Tuy nhiên, cần có biện pháp tăng cường đầu tư vốn vào các tổ chức phát
triển nhà để biến các cơ quan này thành một tổ chức phát triển nhà để biến các cơ quan này thành
một tổ chức cung cấp nhà ở xã hội chính cho Việt Nam. Tăng cường huy động các nguồn quỹ tư
nhân để phát triển thêm chương trình nhà ở. Chính phủ cần có thêm những cam kết về bình ổn
thị trường nhà ở cho người thu nhập thấp bằng cách tăng cường nguồn cung nhà, siết chặt hoạt
động đầu cơ BĐS…
Thúc đẩy việc lập và thực hiện quy hoạch bảo vệ môi trường, đề xuất các giải pháp, kế
hoạch, lộ trình thực hiện quy hoạch xây dựng kết hợp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước.
Pháp luật về môi trường ở Việt Nam đang được xây dựng hoàn thiện, tuy nhiên vẫn cần bổ sung
các văn bản pháp luật về các lĩnh vực: Tăng trưởng xanh; Chất lượng nước và hệ sinh thái dưới

23


nước; cấp thoát nước - đất - nước ngầm, không khí và biến đổi khí hậu; Chất thải và tái chế; Y
tế/ hoá chất; Thiên nhiên và vườn quốc gia; Hợp tác quốc tế…
Thực hiện các chính sách như: Phân loại rác thải tại nguồn, giúp tái chế rác thải, tiết kiệm
tài nguyên, tạo năng lượng mới, sản phẩm có ích như phân bón, khí metal phục vụ sản xuất điện.
Khuyến khích áp dụng các biện pháp giảm thiểu khí CO2: như tiết kiệm năng lượng điện, than

đá, dầu mỏ hay dùng các công nghệ ít tạo ra khí thải. Hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp, cộng
đồng tham gia thực hiện các chính sách, công cụ kinh tế trong quản lý và bảo vệ môi trường.
Đối với phát triển giao thông đô thị, tăng cường đầu tư phát triển giao thông công cộng, áp
dụng kỹ thuật quản lý giao thông thông minh có chức năng điện tử, viễn thông, truyền phát, điều
khiển đường bộ và phương tiện giao thông; đây là cơ sở hạ tầng giao thông thông minh, xử lý
các thông tin về giao thông được cập nhật trực tiếp để tối ưu hóa trang thiết bị phục vụ cho giao
thông và giải toả tắc nghẽn giao thông.
Đô thị được xác định động lực phát triển kinh tế của tỉnh, vùng quốc gia, các đô thị cần nỗ
lực để khẳng định vai trò chức năng được giao. Để làm được điều này, các cấp chính quyền địa
phương và trung ương phải thay đổi từ nhận thức, tránh trùng lặp, dàn trải, không áp đặt độc
đoán nhưng nghiêm túc tuân thủ theo quy hoạch xây dựng đô thị và có kế hoạch cụ thể. Hơn bao
giờ hết phát triển đô thị Việt Nam phải phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất
nước. Khi Việt Nam đã có tỷ lệ đô thị hóa đạt từ 50% trở lên đồng nghĩa với việc Việt Nam đã
vượt ngưỡng thu nhập trung bình và có điều kiện bứt phá trong phát triển nền kinh tế và chuyển
sang giai đoạn mới, có thu nhập cao tương đồng với quốc tế và khu vực.
Phát triển đô thị bền vững là việc cần thiết. Quy hoạch phải kết hợp hài hoà giữa bảo tồn,
cải tạo và xây dựng mới, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên và áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới để xây dựng đô thị hiện
đại, ứng phó và thích nghi kịp thời với các tác động của biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, cần quan tâm xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phát triển đô thị toàn quốc làm
cơ sở hỗ trợ công tác quản lý xây dựng cơ chế chính sách kịp thời với yêu cầu thực tế. Tăng
cường công tác hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học, học tập kinh nghiệm, mở rộng điều kiện
và cơ hội thu hút đầu tư hợp lý cho phát triển đô thị theo hướng phát triển đô thị Việt Nam thân
thiện môi trường và phát triển bền vững. Cần huy động nhiều nguồn lực của xã hội trong và
ngoài nước. Việc nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực của chính quyền, người dân trong
việc tham gia quản lý đầu tư và thực hiện quy hoạch cần được tiếp tục tuyên truyền phổ biến và
nhân rộng bằng nhiều hình thức khác nhau.
Việt Nam là quốc gia có vị trí quan trọng ở Đông Nam Á và Châu Á. Hơn 35 năm sau
chiến tranh, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Xây dựng và phát

triển bền vững đô thị Việt Nam trong thời kỳ hội nhập là một nhiệm vụ trọng tâm, các chính
quyền các địa phương và từng người dân đô thị cần phát huy hơn nữa trách nhiệm và có ý nghĩa

24


xây dựng đô thị mới tươi đẹp, hiện đại có bản sắc phục vụ nhu cầu sống ngày một cao của người
dân.
Câu 7: Mối quan hệ giữa đô thị hóa và sự phát triển kinh tế của quốc gia
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô
thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối
sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống,...
Đô thị hóa tác động mạnh mẽ nền kinh tế quốc dân
+ Các đô thị lớn có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng và các
địa phương trong nước. Đô thị hóa làm ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đến
số lượng, chất lượng dân số đô thị. Quá trình này còn làm thay đổi nhu cầu sử dụng đất đô thị và ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế xã hội của vùng và quốc gia.
Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động, thay đổi sự phân bố dân cư.
+ Các thành phố, thị xã là các thị trường lớn, sức mua đa dạng, nơi tập trung nguồn lao
động đông đảo. Các đô thị không chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà
còn là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng
cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài.
Đô thị hóa có khả năng tạo ra nhiều việc làm mới, trong các lĩnh vực như công nghiệp, xây dựng,
thương mại và dịch vụ, nó còn tạo ra những việc trong khu vực không chính thức. Một hình thức nữa là
đô thị hóa tạo việc làm tạm do quy hoạch mở rộng không gian đô thị; tăng khả năng tự tìm kiếm việc làm
của người lao động, tạo cơ hội chuyển đổi nghề nghiệp từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Nhưng
kèm theo đó cũng gia tăng các công việc đòi hỏi có trình độ cao mà người nông dân khó đáp ứng được.
Mặt trái của nó là làm gia tăng thất nghiệp ở một số bộ phận người lao động; làm giảm việc làm của
người làm nông nghiệp, tăng sức ép tìm kiếm việc làm, nhất là đối với người lao động trong lĩnh vực

nông nghiệp.
Tiêu cực
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa cũng cần khắc phục những hậu quả vê môi trường, an ninh,
trật tự, an toàn, xã hội. Đô thị hóa làm sản xuất ở nông thôn bị đình trệ do lao động chuyển đến thành
phố. Thành thị phải chịu áp lực thất nghiệp, quá tải cho cơ sở hạ tầng, ô nhiễm môi trường sống, an ninh
xã hội không đảm bảo, các tệ nạn xã hội ví dụ như thiếu việc làm sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đè như nghèo
đói lạc hậu,mù chữ,tệ nạn như trộm cắp
Sự phát triển kinh tế góp phần thức đẩy mạnh mẽ quá trình đô thị hóa
+ Lao động nông nghiệp giảm dần và chuyển dang các ngành có năng suất cao, kỹ thuật
tiên tiến làm cơ sở của kinh tế đô thị.
Ví dụ: Tác động dễ nhận thấy của đô thị hóa đến kinh tế vùng ven đô là việc chuyển mjc
đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp như xây dựng các khu công nghiệp, khu
dân cư, khu dịch vụ và vui chơi giải trí. Sự thay dổi quy mô và nội dung hoạt động sản xuất nông
nghiệp dẫn tới việc đòi hỏi phải có một cơ cấu ngành nghề thích hợp ở các vùng ven đô.

25


×