CÁC
BÀI
VIẾT
NGHIÊN
CỨU
CÁC
CUỘC
KHỦNG
HOẢNG
TÀI
CHÍNH
TOÀN
CẦU
Nguồn:
Bài
1:
Bong
bóng
và
sụp
đổ
-
Đại
khủng
hoảng
1929
Khủng hoảng bất động sản Florida dường như không tác động quá nhiều đến niềm tin và sự kỳ
vọng của người dân Hợp Chủng Quốc vào một giai đoạn thịnh vượng. Thị trường chứng khoán vẫn
được coi là không có rủi ro, không phải tư duy, mọi thứ ở đó đều "đi lên". Đó là lý do mà rất nhiều
người đã đổ toàn bộ số tiền tiết kiệm của mình vào thị trường chứng khoán mà không cần phải tìm
hiểu xem hệ thống đó hoạt động thế nào và công ty mà mình mua cổ phiếu đang vận hành ra sao.
Với quá nhiều nhà đầu tư hoàn toàn thiếu kiến thức, thị trường cũng xuất hiện rất nhiều những
mánh khóe đầu tư, thậm chí cả lừa đảo. Chuyên viên ngân hàng đầu tư, nhà môi giới, chuyên viên
giao dịch và đôi khi cả người sở hữu chứng khoán hợp lại với nhau để kéo giá chứng khoán để rồi
thoát ra sau khi đã kiếm được lời. Mánh khóe mà họ thường sử dụng là khéo léo mua đi bán lại lẫn
nhau một loại chứng khoán ít được quan tâm, mỗi lần giao dịch, họ lại đẩy giá lên một chút. Khi
công chúng bắt đầu phát hiện ra quá trình giao dịch và tăng giá đều này, họ sẽ quay ra mua loại cổ
phiếu đang được làm giá. Khi đó, những người làm giá bán cổ phiếu, đang ở mức giá rất cao, để
kiếm lời. Vòng xoáy mua đi bán lại được lặp đi lặp lại, những nhà đầu tư thiếu hiểu biết tiếp tục
bán cho nhau, người bán được với giá cao hơn giá mua thì kiếm lời, người mua thì kỳ vọng cổ
phiếu sẽ tiếp tục tăng giá.
Những nguyên lý tâm lý hành vi tài chính cho thấy nhà đầu tư càng ít hiểu biết thì họ càng dễ bị
cuốn theo ý kiến đám đông (hiệu ứng bầy đàn). Hành vi này là con dao hai lưỡi bởi chính những
nhà đầu tư thiếu hiểu biết là những người dễ rơi vào tình trạng lo sợ, hoảng loạn nhất. Việc tham
gia hay tháo chạy khỏi thị trường của một người không có ảnh hưởng quá lớn tới thông tin hay chất
lượng thị trường. Tuy nhiên chính cả đàn đang chạy theo con bò chạy nhanh nhất sẽ "dẫm đạp" và
làm vỡ vụn thị trường
Trong suốt "cơn điên" trước khi xảy ra cuộc Đại Khủng hoảng, có rất nhiều chuyên gia và nhà
nghiên cứu, bao gồm cả Roger Babson, đã dự báo về một cuộc khủng hoảng nếu tình hình không
được làm dịu xuống. Điều đáng buồn là với mỗi Roger Babson, có đến bốn nhà nghiên cứu khác lại
khẳng định một cách mù quáng, đảm bảo sự tăng trưởng mãi mãi
của thị trường chứng khoán Mỹ
Vào những năm 1920, nền kinh tế Mỹ vận hành với chủ trương trở
thành nhà băng của thế giới, thành nhà sản xuất lương thực, sản
xuất đồ dùng cho toàn thế giới nhưng sẽ mua ít nhất có thể những
gì mà phần còn lại của thế giới sản xuất ra. Tất nhiên điều này tạo
nên trạng thái cán cân thương mại rất có lợi cho Mỹ, những nó
không thể tồn tại lâu. Mỹ thiết lập nhiều rào cản thương mại để bảo
vệ hoạt động kinh doanh của những doanh nghiệp Mỹ, nhưng vấn
đề ở chỗ nếu Mỹ không muốn mua hàng từ đối tác Châu Âu thì
những đối tác đó lấy đâu ra tiền để mua hàng từ các đối tác Mỹ. Cho đến khi mà những đối tác
Châu Âu thậm chí không còn đáp ứng được lãi suất cho những khoản vay từ nước Mỹ, họ không
1
thể mua hàng nữa, thì hoạt động xuất khẩu của Mỹ sụt 30% và tiếp tục sụt giảm trong thời gian sau
đó. Đây là một trong những yếu tố góp phần vào cuộc Đại khủng hoảng.
Hoạt động đầu cơ với quy mô lớn cũng hình thành nhiều vào những năm 1920. Chỉ trong năm
1929, đã có một lượng cổ phần kỷ lục là 1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm
1928 đến tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm.
Không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy. Có thể lấy ví dụ về công ty RCA,
công ty này có cổ phiếu tăng từ 85 lên 420 chỉ trong năm 1928, mặc dù cổ phiếu này chưa từng trả
cổ tức một lần nào. Nguy hiểm hơn, với sự tăng ổn định của giá cổ phiếu, người ta bắt đầu vay để
mua chứng khoán. Chẳng hạn nhà đầu tư A có thể có 10 USD và vay 75 USD từ người môi giới
của mình. Nếu anh ta bán cổ phiếu khi giá là 420$ ở thời điểm một năm sau, anh ta đã biến từ 10
USD đầu tư ban đầu thành 341.25 USD (420 trừ 75 và 5% lãi suất trả cho người môi giới). Tức là
lợi suất lên đến 3400%. Con số này càng thúc đẩy "cơn điên" cổ phiếu. Cho đến giữa năm 1929,
tổng lượng cho vay đang lưu hành của những đơn vị môi giới là hơn 7 tỷ USD, ba tháng sau con số
này là 8,5 tỷ USD. Lãi suất thanh toán cho các khoản vay này cũng tăng nhanh không kém, đạt
mức 20% vào năm 1929. Cơn bùng nổ đầu cơ này hoàn toàn chỉ dựa trên những niềm tin vô căn cứ,
và nó trái ngườ với sự sụp đổ khủng khiếp vài tháng sau đó cũng chính ở cơ sở, sụp đổ bắt nguồn từ
sự sợ hãi.
Giá bắt đầu giảm từ tháng chín, nhưng khi đó nhìn chung nhà đầu tư nói chung vẫn rất lạc quan.
Những nhà đầu cơ tiếp tục nhảy vào thị trường. Ngày thứ hai, 21/10/1929, giá bắt đầu giảm nhanh.
Khối lượng giao dịch lớn khủng khiếp. Nhà đầu tư vô cùng hoang mang và sợ hãi. Nhận ra rằng giá
bẳt đầu"rơi", chứ không còn tính được giảm bao nhiêu, nhiều người lao ra bán. Điều này làm cho
sự sụp đổ diễn ra nhanh hơn. Giá có ổn định lại một chút vào ngày thứ ba và thứ tư, nhưng cho đến
Ngày thứ Năm Đen Tối, 24/10/1929, mọi thứ đều vỡ tan. Hầu hết những nhà đầu tư lớn đều mất
niềm tin vào thị trường. Tất cả nhà đầu tư đều đồng ý ở một điểm - đã hết tăng rồi. Thị trường có
hồi phục lại một chút vào thứ Sáu và thứ Bảy khi một nhóm các ngân hàng lớn tham gia tham gia
vào với nỗ lực cố gắng chặn lại sự sụp đổ của thị trường. Nhưng vào thứ hai tuần sau, ngày 28, giá
tiếp tục giảm 13%. Ngày hôm sau, Thứ Ba Đen Tối, khối lượng lên đến 16,4 triệu cổ phần đã được
giao dịch. Cổ phiếu giảm liên tục, thường xuyên không có người mua.
Cuộc đại khủng hoảng 1929 bắt đầu từ Mỹ nhưng tác động của nó ảnh hưởng trên toàn thế giới.
Những hoạt động kinh tế bắt đầu suy giảm từ mùa hè năm 1929 và đến năm 1933, GDP của Mỹ
giảm hơn 25%, xóa đi mọi thành quả kinh tế đạt được của 1/4 thế kỷ trước đó. Sản lượng công
nghiệp bị tác động mạnh nhất, giảm đến 50%. Nền kinh tế suy thoái liên tục đến năm 1933 thì bắt
đầu cải thiện trong vòng 4 năm cho đến 1937. Sau đó tiếp tục có những giai đoạn điều chỉnh lên
xuống nhưng cho đến 1940 mới đạt lại mức sản lượng kinh tế trước suy thoái.
Mức thất nghiệp, không có thống kê chính thức, nhưng được chấp nhận chung là ở vào khoảng
25% vào năm 1933 và duy trì trên 14% vào những năm 1940. Tuy nhiên những con số này vẫn
chưa phản ảnh hết sự thực bởi số lượng người không nhỏ, quá thất vọng, đã không còn động lực đi
kiếm việc và không được tính vào thất nghiệp. Những người này thường về các vùng quê để tự
kiếm sống.
2
Hệ thống ngân hàng cũng chứng kiến những con số "hoảng loạn" khi người gửi tiền đua nhau đi
rút. Nhiều nhà băng không chịu được sức ép này, một số khác buộc phải sáp nhập, số lượng ngân
hàng tại Mỹ giảm 35% trong giai đoạn 1929 đến 1933.
Tác động trực tiếp của cuộc đại khủng hoảng có thể chỉ nhằm vào một số vùng và ngành cụ thể, tuy
nhiên tác động gián tiếp của nó - suy thoái, giảm sản lượng, thất nghiệp,... là những tác động xuất
hiện ở tất cả các khu vực, ngành và lĩnh vực. Những người nông dân cũng phải chấp nhận giá nông
sản của họ giảm trung bình còn một nửa.
Mất nhiều năm từ thời điểm Babson cảnh bảo về sụp đổ, những nhà đầu tư thiếu kiến thức cuối
cùng cũng phải chấp nhận. Cuộc khủng hoảng - sụp đổ cả thị trường, kéo theo 12 năm khủng hoảng
trên phạm vi toàn thế giới và chỉ kết thúc khi người ta bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Cuộc khủng hoảng này được đánh giá là "tai họa tài chính" lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Bản
thân sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, dù có quy mô lớn, vẫn rất nhỏ so với hậu quả kế tiếp
của một thị trường được mô tả như một "nghĩa địa" và tác động hủy hoại của cuộc khủng hoảng.
Bài
2:
Khủng
hoảng
Hoa
Tu-líp
Thời gian: 1634-1637
Địa điểm: Hà Lan
Thị trường sụt từ đỉnh xuống đáy - nói như thế bởi khó có thể dùng một thước đo nào để xác định
chính xác mức đỉnh và mức đáy, tuy nhiên lịch sử ghi lại rằng ở mức đỉnh, người ta có thể đổi một
bông hoa tu-líp lấy một căn nhà, nhưng khi ở đáy, giá một bông hoa chỉ bằng một củ hành.
Hiện
tượng
đó
diễn
ra
như
thế
nào?
Năm 1593, hoa tu-líp được mang từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Hà Lan. Đặc trưng
mới lạ của loài hoa này làm rất nhiều người tìm kiếm để mua, do đó giá
cũng đắt dần lên. Một thời gian sau, hoa tu-líp mắc phải một loại virus
không gây hại có tên là thể khảm, loại virus này không gây hại đến loài
hoa mà tác động làm cho màu sắc trên những cánh hoa có ánh hồng tía.
Sự biến đổi màu sắc này làm cho loài hoa tu-líp vốn đã khó tìm càng trở
lên khan hiếm. Khi đó, giá hoa vốn cũng đã cao giờ càng cao hơn tùy
thuộc mức độ tác động của loại virus. Người ta bắt đầu giao dịch với nhau
bằng bộ củ hoa, bắt đầu hình thành hiện tượng đầu cơ trên thị trường, khi
đó ai cũng nghĩ rằng giá sẽ tằng không giới hạn.
Những người có nhu cầu mua củ cây thực (những người trồng hoa) bắt
đầu mua về và dự trữ củ tu-líp trong kho cho mùa hoa sau. Việc này càng làm giảm cung và tăng
cầu cũng như tính khan hiếm. Ngay sau đó, giá củ tu-líp tăng rất nhanh và rất cao, người ta dùng
đất, tiền tiết kiệm và bất cứ tài sản nào khác có thể chuyển thành tiền mặt để mua củ hoa tu-líp.
Nhiều người Hà Lan khi đó quả quyết rằng họ sẽ có thể bán được lượng củ mà họ đã thu mua về
cho những người ngoại quốc ít thông tin và kém may mắn, qua đó có thể mang lại lượng lợi nhuận
khổng lồ. Giá tu-líp khi đó đã tăng gấp 20 lần sau chỉ một tháng.
3
Quả bong bóng phình ra to nhất vào giai đoạn 1936-1937. Lái buôn Tu-líp là những người kiếm lời
nhanh chóng và đơn giản nhất. Một lái buôn thạo tay có thể kiếm 60.000 florin (tiền Hà Lan) trong
một tháng - tương đương xấp xỉ 61,710 đô la Mỹ. Với lợi nhuận
khổng lồ như thế, chính quyền hoàn toàn bất lực và không thể ngăn
chặn được hoạt động giao dịch náo nhiệt. Ai cũng thấy giá không
phản ánh được giá trị thực mỗi củ tu-líp. Hiện tượng bong bóng bắt
đầu xuất hiện trên nhiều thị trường nơi có hoạt động đầu cơ tu-líp,
những người cẩn trọng nhất đã bắt đầu tính đến việc bán và cầm chắc
lợi nhuận cho mình. Hậu quả của việc này là một hiệu ứng domino
khủng khiếp với mức giảm nhanh chóng mặt trong điều kiện tất cả
đều bán nhưng rất ít người mua. Giá giảm trầm trọng càng làm con
người ta hoảng loạn và bán bất kể lỗ bao nhiêu.
Nhiều giao dịch bị phá vỡ, người ta bắt đầu hiểu ra rằng họ đã dùng
nhà của mỉnh để đổi lấy một mẩu cây cỏ. Hoang mang và hỗn loạn là tình cảnh chung diễn ra trên
đất nước Hà Lan. Chính phủ cố gắng tiếp cận nhằm hạn chế và làm chậm lại hiện tượng đó bằng
cách đề nghị thực hiện những giao dịch đang bị từ chối thực hiện tại mức 10% mệnh giá. Tuy nhiên
kết quả là thị trường càng xấu hơn, những biện pháp trở lên vô nghĩa. Ngay cả những người đã
thoát ra và cất giữ được lợi nhuận cho riêng mình cũng chịu tác động từ đợt suy thoái kinh tế diễn
ra sau đó
Tác động của cuộc khủng hoảng Tu-líp làm cho Hà Lan tiến hành cấm toàn bộ các hoạt động đầu
cơ trong đầu tư suốt một thời gian dài
Bài
3:
Bong
bóng
và
sụp
đổ
-
Sụp
đổ
thị
trường
chứng
khoán
1987
Một sự sụp đổ được dự báo trước nhưng không thể giải thích liệu có phải do chính hoạt động của
Ủy Ban Chứng Khoán Mỹ (SEC), được thành lập theo yêu cầu của Tổng thống Franklin D.
Roosevelt sau khi kết thúc Đại khủng hoảng. SEC được hình thành nhằm ngăn chặn những khả
năng sụp đổ thị trường có thể xảy ra, ngăn chặn những hành vi lừa đảo đối với thị trường chứng
khoán. SEC đã hoạt động rất tốt, dần dần lấy được lòng tin nhà đầu tư và họ bắt đầu quay trở lại với
thị trường vào những năm 60.
SEC tuy có thể giúp nhà đầu tư tiếp cận được những thông tin cần thiết nhưng không thể giúp nhà
đầu tư suy nghĩ. Vào những năm đầu thập kỷ 60 và 70, nhà đầu tư rất ít quan tâm đến giá trị doanh
nghiệp mà họ quan tâm đến hình ảnh, sự tiếp cận của doanh nghiệp đến công chúng, đến những ý
kiến không chính thức về doanh nghiệp. Nhà đầu tư quan tâm đến những mẩu quảng cáo, mô tả ở
mức thái quá về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn mẩu tin ngắn về một công ty
Synergy Space-Bovubetribucs nào đó vừa tạo ra một thể sống để đưa lên mặt trăng:
"Synergy Space-Bovubetribucs forges a new frontier in the introduction of organic entities into the
ecosystem of the lunar-scape in order to promote greater synergy. This triumphant new paradigm
will be enacted through a leveraged advantaged momentum initiator."
Cho dù những dòng mô tả ngắn gọn và hết sức mù mờ, nhà đầu tư vẫn "mù quáng" đặt niềm tin,
với họ nó dường như biểu hiện của những ý tưởng cao siêu. SEC đã yêu cầu những công ty này
phải thông báo rõ ràng, chính xác rằng bản thân những công ty này không hề có tài sản đảm bảo
hay thậm chí không có một cơ may nào để thực hiện những ý tưởng đó, nhưng nhà đầu tư vẫn cứ
tin rằng tiềm năng của những công ty này là không có giới hạn. Tâm lý "tăng giá", ngoại trừ một số
vụ vỡ nợ, sập tiệm, vẫn còn tiếp tục đến thập kỷ 80.
4
Thập kỷ 80 cũng là giai đoạn mà những hoạt động tài chính diễn ra cực kỳ sôi động, đặc biệt là sự
hình thành của nhiều tập đoàn lớn, hoạt động sáp nhập, thâu tóm. Thâu tóm và sáp nhập diễn ra ở
khắp mọi nơi, ở mọi cấp độ, nhiều thương vụ được áp dụng kĩ thuật "Mua lại dựa trên vay nợ"
thông qua phát hành những loại trái phiếu chất lượng thấp cho nhà đầu tư. Áp dụng công thức toán
mang tên "nền kinh tế mới", tăng trưởng của những doanh nghiệp Mỹ sau sáp nhập được tính theo
cấp số nhân chứ không còn đơn giản là cộng hai doanh nghiệp hợp nhất với nhau nữa.
SEC không còn đủ khả năng để hạn chế những tập đoàn và những đợt phát hành ra công chúng mờ
ám, thị trường, do đó, tiếp tục tăng trưởng liên tục trong suốt thập niên 80. Thâm chí cả đến những
nhà đầu tư tổ chức và quỹ đầu tư, những đơn vị thường tin tưởng và những tính toán, phân tích trên
các công cụ giao dịch, cũng bắt đầu gắn mình với câu thần chú "nếu một cổ phiếu lâu không tăng
giá, hãy tìm một cổ phiếu khác."
Vào đầu năm 1987, SEC đẩy mạnh một cách vội vàng và theo nhiều chuyên gia là thiếu tính toán,
hoạt động điều tra các giao dịch nội gián. Ở vào thời điểm mà hầu hết nhà đầu tư bắt đầu quan tâm
đến khả năng Wall Street sẽ cần phải xem xét lại chính sự tăng trưởng hiện tại của nó, thì hoạt động
điều tra của SEC đã tạo lên không khí lo lắng đối với nhà đầu tư. Nhiều người bắt đầu quyết định
rời khỏi "cuộc chơi mờ ám" của với cổ phiếu để chuyển sang những hoạt động đầu tư ổn định hơn,
như trái phiếu.
Ngày thứ hai, 19/10/1987 - ngày thứ hai đen tối - đã xảy ra một "cuộc di cư tập thể" ra khỏi thị
trường cổ phiếu, nó tác động đến hệ thống quản lý giao dịch của NYSE. Hệ thống này tự đặt các
ngưỡng dừng lỗ (stop loss) cho cổ phiếu và chuyển lệnh tới hệ thống DOT của NYSE. Lượng bán
quá lớn được chuyển sang tức thì đã làm quá tải hệ thống máy in của DOT, làm trễ toàn hệ thống
và nhà đầu tư, ở mọi cấp độ (cá nhân hay tổ chức) rơi vào tình trạng mất thông tin.
DOT - Designated Order Turnaround - là hệ thống máy tính điện tử nhằm hỗ trợ hiệu quả giao dịch
lệnh bằng cách chuyển các lệnh với chứng khoán niêm yết trực tiếp, không đi qua những nhà môi
giới, tới các chuyên gia trên sàn của NYSE. Hệ thống này thường được áp dụng với những lệnh có
quy mô nhỏ, lệnh giới hạn và lệnh giao dịch theo chương trình.
5
Khủng hoảng lây truyền theo đám đông và nhà đầu tư bắt đầu đổ ra bán cổ phiếu không cần biết sẽ
lỗ bao nhiêu hay liệu lệnh của họ có thể được thực hiện sớm hay muộn trong khi giá đang rơi thẳng
đứng. Chỉ số Dow tụt 508,32 điểm (22,6%) và 500 tỉ USD biến mất. Thị trường ở các quốc gia
khác trên toàn thế giới cũng sụp đổ theo cùng một kịch bản. Thậm chí có một số nhà môi giới vì
quá nhiều khách hàng, không thể nghe điện thoại của một vài khách hàng gọi đến, đã bị nhà đầu tư
đến đe dọa, thậm chí bắn, bị giết.
May mắn là vị Chủ tịch mới của FED, Alan Greenspan, đã đóng góp rất lớn trong việc chèo lái nền
kinh tế tránh khỏi một cuộc khủng hoảng nữa cho nền kinh tế Mỹ bằng cách hỗ trợ để các ngân
hàng thương mại và ngân hàng đầu tư không bị vỡ nợ. Thị trường hồi phục, NYSE cũng tiến hành
tinh chỉnh một số điểm nhỏ trong hệ thống giao dịch bao gồm cả hệ thống ngắt giao dịch khi thị
trường tụt đến một mức nhất định đặt trước.
Bài
4:
Bong
bóng
và
sụp
đổ
-
Bong
bóng
South
Sea
Bài này tôi xin giới thiệu về "Bong bóng South Sea"
Thời gian: 1711-1720
Địa điểm: Vương Quốc Anh
Mô tả ngắn gọn: Giá cổ phiếu công ty South Sea giảm từ đỉnh - khi đó được
giao dịch với giá 1.000 Bảng Anh, ở đáy của thị trường, giá cổ phiếu của công
ty này không còn một chút giá trị nào vào nửa cuối năm 1920. Một lượng tiền
khổng lồ cũng mất đi theo giá trị của cổ phiếu này.
Những năm 1700, Đế Quốc Anh là một thế lực vươn tầm trên toàn thế giới.
Thế kỷ 18 với người Anh là thời kỳ của thịnh vượng và giàu có, đồng nghĩa
với việc phần lớn người dân Vương quốc này có tiền để đầu tư và thường xuyên tìm kiếm những cơ
hội để đổ tiền của mình vào. Điều kiện đó trở thành mảnh đất tuyệt vời để các công ty nói chung và
South Sea nói riêng thu hút được đầu tư, với một IOU (một dạng giấy ghi nợ) với Chính phủ trị giá
10.000.000 bảng, công ty này mua toàn bộ quyền với tất cả hoạt động giao dịch thực hiện ở khu
vực biển Nam.
6
Có rất ít công ty phát hành cổ phiếu ở thời kỳ đó, nhưng đó đều là những khoản đầu tư rất tốt,
nhưng không phải ai cũng có cơ hội tham gia. Chẳng hạn, công ty Đông Ấn (East India) đã thanh
toán lượng cổ tức miễn thuế khá lớn cho chỉ 499 cổ đông. South Sea thời kỳ đó được coi là đơn vị
độc quyền có khả năng kiếm lời kếch xù nhất thế giới.
Đợt phát hành cổ phiếu đầu tiên của công ty này không
thể làm thỏa mãn từ những nhà đầu cơ khát hàng nhất cho
đến số đông công chúng đầu tư đang hoàn toàn tin tưởng
vào khả năng tăng trưởng của South Sea. Hầu như tất cả
mọi người đều tin rằng những người Mexico và Nam Mỹ
chỉ còn đang đợi có một đơn vị có thể đứng ra trung gian
mở đường cho họ lấy vàng, đá quý để đổi lấy những sản
phẩm xa xỉ và sang trọng làm từ len và lông cừu do người
Mỹ sản xuất. Đó là lý do mà không hề có một câu hỏi nào
được đặt ra khi South Sea tiếp tục phát hành cổ phiếu, họ
cứ tiếp tục mua chừng nào công ty này còn phát hành,
chấp nhận mức giá rất cao. Thậm chí việc công ty không
có một đội ngũ quản lý thiếu kinh nghiệm và năng lực
cũng không trở thành vấn đề được nhà đầu tư quá quan
tâm. Dẫu sao những người lãnh đạo South Sea thời kỳ đó dường như được sinh ra với năng lực làm
quan hệ công chúng (PR) tuyệt vời. Họ đã thiết kế và trang bị văn phòng của mình trở thành một
biểu tượng hoàn hảo về sự giàu có. Bất cứ ai, dù chỉ một lần nhìn vào sự thịnh vượng do South Sea
tạo ra cũng khó có thể ngăn được những đồng tiền của mình bị hút về phía nó.
Không lâu sau sự ra đời của South Sea Company (SSC), một công ty của Anh khác cũng được
thành lập, nhưng lại đặt trụ sở ở Pháp, với cái tên Mississippi
Company (MC). Công ty này do một người Anh lưu vong có
tên là John Law thành lập. Ý tưởng của John với công ty của
mình không nhắm đến mục tiêu kinh doanh thương mại mà
hướng đến việc chuyển hệ thống tiền tệ thời đó từ vàng và
bạc thành hệ thống tiền giấy. MC ngay lập tức thu hút được
sự quan tâm của những lái buôn lục địa và trở thành một nơi
đủ tin tưởng để họ đầu tư vào đó những đồng đô-la mồ hôi
nước mắt của mình. MC không mất quá nhiều thời gian để
tăng giá trị cổ phiếu của nó lên gấp 80 lần toàn bộ số vàng và
bạc hiện có lúc đó tại Pháp. Law cũng bắt đầu đi mua lại
những công ty đã sập tiệm để bành trướng tập đoàn của mình.
7
Thành công ngay lại lục địa này đã động chạm đến niềm tự hào của người Anh, và với niềm tin
rằng công ty của Anh không thể thất bại, những nhà đầu tư vương quốc sư tử đầu tư tiền của mình
một cách liều lĩnh. Họ dường như bị mờ mắt, không nhận ra được rằng SSC hoạt động quá yếu,
không thể đạt đến mức hòa vốn (hầu hết những chuyến hàng chở len đều đi nhầm hướng và hàng
hóa bị hỏng ở một cảng nước ngoài nào đó), nhà đầu tư vẫn muốn mua tiếp cổ phiếu. SSC và một
số công ty khác đã thỏa thuận việc cho nhà đầu tư cái họ muốn. Nhu cầu đầu tư làm cho hoạt động
IPO được xúc tiến nhiều đến mức không có một thước đo hợp lý nào có thể mang ra sử dụng, thậm
chí là nhữn công ty với những lời hứa về những sản phẩm ảo tưởng như sản xuất được loại rau có
thể phục chế lại ánh nắng mặt trời hay xây những tòa
nhà nổi để mở rộng đất đai Vương quốc Anh. Cổ
phiếu phát hành được bán với chỉ duy nhất một từ mô
tả là "điên".
Cuối cùng, ban quản trị của SSC cũng nhận ra rằng
giá trị của những cổ phiếu họ nắm giữ không còn
phản ánh được giá trị thực của công ty và nguồn
doanh thu èo uột mà SSC đang tạo ra. Họ quyết định
bán chính cổ phiếu của mình vào mùa hè năm 1720
với hy vọng rằng không ai sẽ làm lộ bí mật về hoạt
động kinh doanh kém cỏi của công ty với những
người khác có liên quan lợi ích đến công ty. Tuy nhiên thực tế không như họ mong muốn, cũng
giống như cách mà bất kỳ một tin xấu nào được lan truyền đi, tin tức về hành động của ban quản trị
công ty được lan truyền nhanh chóng, và hệ quả về một cuộc khủng hoảng bán tháo nững giấy tờ
vô giá trị kia là không thể tránh khỏi. Tác động khủng khiếp từ quả bong bóng vỡ SouthSea cũng
đồng thời chọc thủng quả bong bóng tưởng tượng về giá trị không có thực của MC, kéo theo sự sụp
đổ của Mississippi.
Một sự sụp đổ toàn diện, báo trước bởi sự bó tay của các ngân hàng, đã được vớt vát và tránh được
chỉ nhờ vào vị thế kinh tế quá mạnh của toàn Vương Quốc Anh và giúp đỡ của Chính phủ trong nỗ
lực ổn định lại hoạt động của hệ thống ngân hàng. Chính phủ Anh đã nghiêm cấm việc phát hành
cổ phiếu, mãi đến năm 1825, điều luật này mới được bãi bỏ.
8
Tóm tắt bằng đồ thị:
Một bài hát cổ ngày đó thường được đám đông hát với nhau về câu chuyện SouthSea như sau, tôi
để nguyên văn tiếng Anh, nhờ bạn nào có thể dịch tốt dịch giúp tôi:
There is a gulf where thousands fell,
There all the bold adventurers came;
A narrow sound, though deep as hell,
Change Alley is the dreadful name.
Then stars and garters did appear Among the meaner rabble;
To buy and sell, to see and hear The Jews and Gentiles squabble.
The greatest ladies thither came, And plied in chariots daily,
Or pawned their jewels for a sum To venture in the Alley.
Bài
5:
"Bong
bóng"
cổ
phiếu
trên
Nasdaq
Sau đợt đổ vỡ của thị trường Chứng khoán (TTCK) năm 1987, thị trường thế giới lấy lại đà tăng
trưởng về giá. Xu thế mạnh mẽ này được lái đi bởi công nghệ thông tin. Rất nhiều các cổ phần của
các công ty được niêm yết trên Sàn Chứng khoán Nasdaq - một sàn giao dịch điện tử.
Vào đầu những năm 1990, máy tính cá nhân đã nhanh chóng được sử dụng rộng rãi trong kinh
doanh và vào việc phục vụ cá nhân. Cuối cùng thì máy tính cũng đã được định giá hợp lí hơn và
các chức năng được thiết kế dễ sử dụng hơn. Máy tính không còn là "món ăn" chỉ dành riêng cho
9
những người đam mê. Nó thực sự là công cụ kinh doanh thiết yếu để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Các
ứng dụng trong kinh doanh của máy tính được phát minh ra để trợ giúp con người sử dụng trong Kế
toán, tính thuế và xử lý văn bản. Máy tính cũng bắt đầu cạnh tranh với Tivi như một hình thức giải
trí khi mà trò chơi trên máy tính tràn ngập các thị trường. Các tập đoàn như Microsoft đạt được
những thành công cực kỳ rực rỡ khi hầu hết các hệ thống máy tính trên thế giới đều sử dụng phần
mềm vận hành của họ.
Trong suốt thời gian này, ngành công nghiệp máy tính ở Mỹ tập chung hơn vào phần mềm máy
tính so với phần cứng. Điều này bởi vì phần mềm là sản phẩm cho giá trị thặng dư rất rất cao do nó
không phải là sản phẩm hữu hình thông thường, ví dụ như chips máy tính. Các công ty phần mềm
tăng giá trị thặng dư qua việc bán các thông tin đã được cấp bản quyền với chi phí sản xuất ra rất
thấp. Phần cứng máy tính trở thành hàng hoá thông thường theo đúng nghĩa, ví dụ khó mà phân biệt
được với các sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Các sản phẩm hàng hoá như vậy tạo ra lợi
nhuận rất thấp bởi vì các đối thủ cạnh tranh luôn luôn cạnh tranh bằng giá cả rẻ. Các công ty Châu
Á với chi phí sản xuất thấp hầu như cung cấp toàn bộ các thiết bị phần cứng vào thời điểm này. Tuy
nhiên, phần mềm được bảo vệ như quyền sở hữu trí tuệ với bằng sáng chế. Vì vậy, một sản phẩm
như Hệ điều hành Microsoft Windows là một sản phẩm như vậy. Nó tạo ra một hành lang chắc
chắn khó có thể thâm nhập, tạo ra lợi ích mà bất cứ công ty nào cũng thèm muốn tìm kiếm.
Giá cổ phần của các công ty phần mềm tiến lên các bậc cao hơn một cách nhanh chóng. Rất nhiều
các công ty phần mềm nhỏ khởi đầu bằng việc thuê các sinh viên đại học làm việc trong các gara,
trả họ lương bằng bánh piza và soda cho ăn thoả thích. Mọi công ty mới thành lập đều muốn trở
thành "Microsoft mới" trên thị trường.
Kết cục là, một vài trong số các công ty mới đi vào hoạt động đó bắt được sự chú ý của các nhà đầu
tư tư bản - những người đang tìm kiếm các công ty kiểu này để cung cấp vốn, phát hành cổ phiếu
và gặt hái cả đống lợi nhuận kếch xù. Sớm muộn gì những công ty non nớt chân ướt chân ráo trên
thị trường cũng sẽ trả cho các nhân viên đang hăng hái tràn trề hy vọng của mình cổ phiếu công ty.
Điều đó có ý nghĩa rằng khi công ty phát hành cổ phiếu ra công cộng, những cổ đông đầu tiên chắc
chắn sẽ trở nên giàu có. Phần lớn các công ty phần mềm khởi nghiệp ở Thung lũng Silicon, gần San
Franicsco, nơi được coi là một Thánh địa Mecca về công nghệ. Chỉ số Nasdaq về cổ phần của các
công ty công nghệ thông tin tăng cực kỳ nhanh, tạo ra rất nhiều các triệu phú.
Máy tính trở nên phổ biến hơn vào giữa những năm 1990, khi một tấn các trò chơi máy tính được
tạo ra như Sim City và Duke Nukem. Sự thay đổi này dẫn đến sự hiểu biết máy tính trong giới trẻ
khi mà máy tính đi từ sự khan hiếm sang phổ biến trên thị trường.
Kỷ
nguyên
của
mạng
toàn
cầu
Internet.
Vào khoảng năm 1994, một công nghệ mới ra đời với cái tên
Internet, lần đầu tiên được tạo ra cho nhu cầu của thị trường
tiêu dùng. Thực tế, hình thức nguyên thuỷ của Internet đã xuất
hiện từ năm 1969. Hình thức này được gọi là DARPANet và
được tạo ra bởi các cơ quan Chính phủ, có tác dụng như một
biện pháp hiệu quả để trao đổi thông tin khoa học và quân sự
giữa các máy tính ở các vùng khác nhau. Vào những năm 1990,
Internet phát triển hình thức giao tiếp bằng thư điện tử, sử dụng
chatroom và các websites thông tin.
Hầu như ngay lập tức, các công ty kinh doanh nhận thấy internet là một cơ hội tạo ra lợi nhuận
khổng lồ. America Online tạo ra dịch vụ Internet sẵn có cho việc sử dụng của vô số khách hàng.
10
Công cụ tìm kiếm Yahoo khởi động năm 1994 là một danh bạ cho toàn bộ các website toàn cầu.
Amazon trở thành cửa hàng sách trực tuyến vào năm 1994. Ebay bắt đầu vào năm 1995 hoạt động
như một website bán đấu giá. Khi internet chuyển từ lãnh địa chỉ dành cho người đam mê máy tính
mở rộng ra cho cả thị trường, những chủ kinh doanh mạng trở nên giàu có hết sức. Rất nhiều các
công ty công nghệ hiện nay đang bán cổ phần IPO trên trị trường sơ cấp. Những cổ đông đầu tiên,
gồm có cả các nhân viên, trở thành triệu phú chỉ qua một đêm. Các công ty tiếp tục trả cho nhân
viên của mình quyền chọn mua cổ phần, tạo ra lợi nhuận rất lớn nếu cổ phần chỉ cần lên giá một
chút. Cuối những năm 1990, thậm chí cả các thư ký cũng có trị giá quyền chọn lên đến hàng triệu
đôla. Rất nhiều công ty ban phần thưởng là BMW! Đây đúng là một ví dụ cho sự thái quá.
Cơn
cuồng
cổ
phiếu
Công
nghệ
Một vài nhà kinh tế còn mặc nhiên công nhận rằng chúng ta đang ở trong một nền Kinh tế mới, nơi
mà lạm phát hầu như sẽ không xảy ra và hiện tượng thị trường Chứng khoán sụp đổ sẽ không xảy
ra nữa! Thậm chí tệ hơn, họ đã từng nói rằng thu nhập từ cổ phiếu hồi phục cũng sẽ không tương
đương. Từ Nền kinh tế cũ ám chỉ Cổ phần công nghiệp, như là các chỉ số trung bình trên Dow
Jones. Một từ thông dụng khác là "Paradigm Shift" (cú chuyển hoàn toàn) cũng là một từ đồng
nghĩa với tên Nền kinh tế mới. Các nhà đầu tư bị ham mê những từ này bởi vì họ mơ màng mô tả
nó là thứ gì đó mỡ màng, hấp dẫn và sôi động.
Từ năm 1996 đến năm 2000, thị trường CK Nasdaq tăng từ 600
lên 5000 công ty niêm yết. Các công ty Dot-com được điều hành bởi những người chỉ
vào quãng 30-40 tuổi, phát hành cổ phần, và tạo ra hàng trăm triệu đôla tiền vốn.
Những công ty này cũng chẳng có kế hoạch kinh doanh gì nhiều, và tất nhiên
cũng chẳng có những khoản thu nhập gì cả từ kinh doanh. Ví dụ, Pets.com
chẳng thu nhập được gì từ công việc kinh doanh nhưng lại phát hành cổ
phiếu và thu được hàng tỷ đôla. Các công ty Dot-coms lãng phí hàng triệu
đôla mỗi tối vào những bữa tiệc phung phí phù phiếm. Làm việc chăm chỉ
chưa bao giờ là nhiệm vụ của chủ các công ty dot-coms. Có rất nhiều các câu
chuyện về nhân viên của các công ty dot-coms đi đi lại lại trong phòng bằng chân
đất và chơi đá bóng cả ngày. Có lúc cứ mỗi 60 giây lại tạo ra một triệu phú.
Rất nhiều các nhà triệu phú "ăn liền" này nghĩ rằng họ thật thông minh và sáng
suốt, là tất cả những gì họ phải làm là chơi và kiếm tiền. Không bao giờ được phạm sai lầm cho
rằng giá cả cổ phiếu tăng là do có các vụ đầu tư khôn ngoan.
Bong
bóng
Vào đầu những năm 2000, tình hình bắt đầu lắng
xuống. Các nhà đầu tư sớm nhận ra rằng giấc mơ
Dot-com thực sự là một giấc mơ bong bóng. Trong
vòng vài tháng, TTCK Nasdaq sụt xuống từ 5000
xuống 2000 công ty. Hàng trăm cổ phần như cổ
phần của Pet.com trị giá hàng tỷ đôla, đã rút khỏi
bản đồ Chúng khoán cũng nhanh như khi nó xuất
hiện. Hốt hoảng - các nhà đầu tư mất hàng nghìn tỷ
đôla. Thị trường CK tiếp tục sụt xuống còn 800 công
ty vào năm 2002. Giá cổ phiếu của Microstrategy đã
từng "bay cao" lên tận 3500$ đã giảm xuống chỉ còn
4$. Hàng tá các vụ xcăngđan về kế toán bị đưa ra
ánh sáng, vạch trần biện pháp thổi phồng giả tạo của các công ty về những khoản thu nhập của
mình. Các cổ đông trở nên tê liệt. Vào năm 2001, nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái khi Cục
11
dữ trữ Liên Bang cắt giảm lãi suất, nhằm cố gắng chấm dứt nạn "chảy máu." Hàng triệu công nhân
bị mất việc và mất đi các khoản tiết kiệm.
Chẳng cần phải nói thêm, Nền kinh tế mới là một trò khôi hài, và quy luật kinh tế truyền thống vẫn
giữ vai trò chủ chốt. Điều đáng buồn là cách mà những bong bóng sẽ tiếp tục xảy ra trong tương
lai. Khi nó xảy ra thật, những nhà đầu tư kém tỉnh táo sẽ nói rằng "lần này sẽ khác!"
Bài
6:
Khủng
hoảng
Kinh
tế
Châu
Á
1997
-
Một
góc
nhìn
Trong những năm gần đây, nhiều thị trường mới nổi đã trải qua những cuộc khủng hoảng tài chính,
có thể nhắc đến như khủng hoảng Mexico năm 1994, khủng hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng
hoảng Argentine 2001. Có rất nhiều băn khoăn xung quanh sự xuất hiện của những cuộc khủng
hoảng này, tuy nhiên có lẽ băn khoăn lớn nhất và cũng cần giải đáp tốt để có thể tránh được những
cuộc khủng hoảng khác là làm thế nào một đất nước từ trạng thái tăng trưởng cao ngay trước cuộc
khủng hoảng có thể biến chuyển rất nhanh chóng sang trạng thái khủng hoảng, sụt giảm kinh tế
trầm trọng.
Trên góc độ kinh tế, Frederic Mishkin, tác giả cuốn sách The Economics of Money, Banking and
Financial Markets, đã tiếp cận giải thích trên khía cạnh vấn đề thông tin bất cân xứng. Chúng ta thử
đi theo dòng phân tích của ông để hiểu về cơ chế cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997.
Tiến trình xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á rất khác với những gì đã xảy ở nước Mỹ, sự khác biệt
này đến từ những đặc trưng khác nhau của cách thức tổ chức thị trường vốn và thị trường nợ. Hình
dưới mô tả các giai đoạn xảy ra cuộc khủng hoảng Châu Á.
Một trong những yếu tố căn bản dẫ đến cuộc khủng hoảng là tình trạng xấu đi nhanh chóng của
bảng cân đối kế toán ngân hàng mà nguyên nhân trực tiếp là từ những khoản vay không có khả
năng thanh toán ngày càng tăng. Khi những quốc gia, đặc biệt ở khu vực Đông Á, bắt đầu nới lỏng
các quy định với thị trường tài chính vào đầu những năm 1990, một làn sóng vay dâng lên rất cao,
trong đó, hoạt động cho vay tín dụng với các khu vực kinh doanh phi tài chính tư nhân tăng đặc biệt
nhanh. Cũng đồng thời do khả năng giám sát yếu của các cơ quản điều hành pháp lý ngân hàng, bản
thân ngân hàng thiếu chuyên gia trong việc theo dõi và giám sát hành vi của đối tương vay, những
khoản lỗ do nợ xấu bắt đầu tăng lên, tác động tiêu cực đến cả nguồn vốn thực của ngân hàng.
Nguồn lực bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho vay, khi hoạt động cho vay không
còn được tiếp tục, các hoạt động của nền kinh tế bị thu hẹp là điều dễ hiểu và tất yếu.
12
Tuy có nhiều điểm khác với những cuộc khủng hoảng va suy thoái xảy ra cuối thế kỷ 19 và đầu thế
kỷ 20 ở Mỹ, vẫn có một số điểm chung quan trọng ta có thể đưa ra so sánh, một trong những điểm
chung đó là sự biến động tăng giảm bất thường và bất ổn của thị trường chứng khoán ở giai đoạn
trước khi diễn ra cuộc khủng hoảng và đóng góp vào làm trầm trọng hơn tác động của nó, những
quốc gia diễn ra điểm này rõ nhất là Thailand, Nam Triều Tiên. Những quốc gia như Indonesia,
Malaysia, và Philipines, tình trạng sụt giảm thị trường lại xảy ra đồng thời khi diễn ra cuộc khủng
hoảng. Tại Thailand và Hàn Quốc, trước khi cuộc khủng hoảng diễn ra, nền kinh tế những nước
này đã chứng kiến sự sụp đổ của những tập đoàn tài chính và phi tài chính lớn, những vụ sụp đổ
này tác động tiêu cực và làm tăng tính bất ổn chung của thị trường tài chính trong nước.
Theo F.Mishkin, khi mà sự bất ổn tăng lên và giá trị ròng toàn thị trường chứng khoán (TTCK) suy
giảm thì vấn đề thông tin bất cân xứng sẽ phát sinh. Đối với ngân hàng, sẽ có nhiều khó khăn trong
việc xác định đâu là đối tượng cho vay tốt và đâu là không tốt. Suy giảm giá trị ròng toàn thị trường
cũng đồng nghĩa với việc suy giảm giá trị của tài sản thế chấp, ký quỹ, đồng thời tăng khả năng đối
tượng nhận vay nợ thực hiện các khoản đầu tư có mức độ rủi ro cao do lượng tài sản họ mất đi nếu
khoản đầu tư không thành công sẽ nhỏ hơn. Sự gia tăng mức độ bất ổn và suy giảm TTCK xảy ra
trước khi thực sự diễn ra cuộc khủng hoảng, cộng với các bảng cân đối tài sản của ngân hàng ngày
một xấu đi, tất cả góp phần làm nảy sinh nhiều hơn vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức.
Tất cả sẽ góp phần làm cho nền kinh tế tiến ngày càng gần hơn đến một cuộc khủng hoảng tài chính
trầm trọng.
13
Đến giai đoạn này, hoạt động đầu cơ nở rộ, xuất hiện đặc biệt nhiều trên các thị trường ngoại hối,
đẩy nền kinh tế vào cuộc khủng hoảng trên mọi phương diện. Với Thailand, sự lo lắng về tình trạng
thâm hụt tài khoản vãng lai và suy yếu của hệ thống tài chính, đẩy lên đỉnh điểm bởi sự sụp đổ của
một một công ty tài chính lớn - Finance One, đã đưa đến một "cuộc chiến đầu cơ" lớn, tác động làm
cho Ngân hàng Trung ướng Thailand phải cho phép thả nổi đồng Baht vào 7/1997. Không lâu sau,
lại xuất hiện một "cuộc chiến đầu cơ" khác tác động vào những quốc gia còn lại trong khu vực và
kết quả là sự sụp đổ dây chuyền của đồng Peso Philipines, đồng Rupiah Indonesia, đồng Ringgit
Malaysia và đồng Won Hàn Quốc.
Cấu trúc tổ chức thị trường nợ khu vực Đông Á, tương tác với tình
trạnh phá giá tiền tệ đẩy nền kinh tế khu vực tới cuộc khủng hoảng toàn
diện. Có quá nhiều doanh nghiệp ở những quốc gia này có các khoản nợ
phát hành bằng ngoại tệ như đồng USD hay Yen Nhật, sự mất giá đồng
tiền trong nước làm cho tình trạng vay nợ, xét trên góc độ đồng nội tệ,
thêm trầm trọng, ngay cả khi trên thực tế giá trị tài sản của họ không hề
thay đổi. Vào tháng 3/1995, khi đồng Peso mất nửa giá trị, tiền của các
quốc gia như Thailand, Philipine, Malaysia và Hàn Quốc cũng mất
trong khoảng từ một phần ba đến một nửa giá trị vào thời điểm đầu năm
1998, thì bản cân đối kế toán của hầu hết các doanh nghiệp đều đã xuất
hiện những khoản lỗ lớn, vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức
trở lên trầm trọng. Trầm trọng nhất là Indonesia với đồng tiền mất giá
đến 75% dẫn đến tình trạng vỡ nợ đối với những khoản nợ bằng ngoại
tệ và giá trị những khoản nợ này không hề nhỏ, thậm chí rất lớn.
Một kết quả tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng đều tăng, từ
đó lãi suất trên thị trường cũng tăng chóng mặt. Doanh nghiệp và các hộ gia đình do đó cũng phải
thanh toán lãi suất rất cao, tác động tiêu cực đến bảng cân đối tài sản của họ. Thị trường nợ ở các
quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng là những hợp đồng nợ có kỳ hạn rất ngắn, thường là
dưới một tháng. Do đó lãi suất ngắn hạn tăng lên ở những quốc gia này đồng nghĩa với tác động rất
lớn đến dòng tiền và bảng cân đối kế toán của các đơn vị trong nền kinh tế. Theo phân tích về tình
trạng thông tin bất cân xứng của Mishkin, tác động xấu tới bảng cân đối tài sản, tiêu hao tài sản của
doanh nghiệp và hộ gia đình làm cho các lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức đối với thị trường
vay nợ cũng tăng theo và những tổ chức cho vay trong và ngoài nước không còn muốn tiếp tục cho
vay nữa. Khi mà hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm thì cũng đồng nghĩa với việc các hoạt
động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng GDP thực cũng sẽ sụt giảm theo.
Hình vẽ trên cho ta thấy tình trạng "xói mòn" tài sản trong nền kinh tế hình thành do các hoạt động
trong nền kinh tế bị đình trệ và tình trạng xấu đi trong bản cân đối tài sản và xói mòn tài sản của
từng doanh nghiệp, hộ gia đình, kết quả là tác động tiêu cực hơn đến cuộc khủng hoảng trong hệ
thống ngân hàng. Những vấn đề mà các doanh nghiệp và hộ gia đình đang phải đối mặt là phần lớn
trong số những đơn vị cơ bản của nền kinh tế này đã không
còn khả năng thanh toán nợ, điều này quay trở lại gây thiệt
hại cho ngân hàng. Hệ thống ngân hàng còn phải đối mặt với
một vấn đề trầm trọng khác là khối lượng rất lớn những
khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ, trong khi đồng tiền trong
nước bị phá giá, giá trị của những khoản nợ này tăng lên vùn
vụt, điều này tiếp tục làm tiêu hao đi lượng tài sản thực đang
còn rất ít của các ngân hàng. Trong tình trạng đó, lẽ ra toàn
bộ hệ thống ngân hàng đã có thể sụp đổ nếu không có sự hỗ
trợ từ phía Chính phủ - giống như những gì Chính phủ Mỹ đã
làm trong cuộc Đại khủng hoảng - nhưng không phải với nội
14
lực của từng quốc gia mà nhờ sự giúp đỡ của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế), nhờ sự giúp đỡ này mà
các quốc gia Đông Á tránh được một vụ sụp đổ với hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, với lượng vốn
mà các ngân hàng đã mất thì sự can thiệp của Chính phủ nhằm chống đỡ cho hệ thống ngân hàng
cũng không thể ngăn được năng lực cho vay của các ngân hàng sụt giảm mạnh. Mishkin giải thích
khủng hoảng của hệ thống ngân hàng với những đặc tính như mô tả tạo lên một rào cản và gây khó
khăn đối với các họat động cho vay của ngân hàng, làm trầm trọng thêm các vấn đề về lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính, ngân hàng mất dần vai trò truyền thống trung
gian tài chính.
Một
số
thông
số
về
biến
động
các
quốc
gia
Đông
Á
trong
khủng
hoảng:
Philippines
Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất lên1.75 điểm phần trăm
và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Khi cuộc khủng hoảng bắt đầu diễn ra tại Thailand
vào ngày 2/7/1997 thì một ngày say đó, ngày 3/7/1997, NHTW Philippines bị buộc phải can thiệp
sâu vào thị trường nhằm bảo vệ đồng peso, tăng mức lãi suất vay qua đêm từ 15% lên 24%. Giá trị
đồng peso giảm mạnh từ 26 peso ăn một USD lên 38 peso vào năm 2000, và lên 40 peso khi kết
thúc cuộc khủng hoảng.
Hong
Kong
Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trả Hong Kong lại cho Trung Quốc.
Tháng 10/1997, tỉ giá đô-la Hong Kong được cố định so với đô-la Mĩ là 7,8:1, tuy nhiên chịu sức
ép rất lớn từ hoạt động đầu tư bởi lạm phát của Hong Kong đã cao hơn rất nhiều so với lạm phát
của Mĩ và tình trạng này kéo dài nhiều năm. Cơ quan quản lý tiền tệ Hong Kong đã chi hơn một tỉ
USD để bảo vệ đồng tiền trong nước. Tuy giữ được tỉ giá đồng tiền, TTCK Hong Kong trở lên cực
kỳ bất ổn, chỉ số Hang Seng tụt 23% chỉ trong vòng ba ngày từ 20-23/10/1997. Lãi suất tiền vay
qua đêm được nâng lên chóng mặt, đứng trước sức ép từ hoạt động đầu cơ, Chính phủ Hong Kong
khẳng định tuyên chiến với hoạt động đầu cơ. Chính phủ đã kết thúc cuộc chiến này bằng việc bỏ
ra xấp xỉ 120 tỉ đô-la Hong Kong (khoảng 15 tỉ USD) để mua lại cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp,
trở thành cổ đông lớn trong một số công ty, chẳng hạn tại HSBC Chính phủ năm 10% cổ phần.
Hàn
Quốc
Hàn Quốc được xếp hạng thứ 11 trong số những nền kinh tế lớn trên thế giới. Khi khủng hoảng xảy
ra, với tình trạng kém cỏi sẵn có của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ những khoản nợ kém hiệu
quả rất lớn, Moody's đã hạ bậc tín dụng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3 vào tháng 11/1997 và tiếp
tục hạ xuống B2 vào tháng 12. Sự kiện này góp phần làm thị TTCK Hàn Quốc sụt giảm mạnh hơn,
giảm 4% vào 7/11/1997, giảm tiếp 7% vào ngày 8/11 và 7.2% vào ngày 24/11/2997 khi có tin IMF
yêu cầu Hàn Quốc thực hiện cải tổ hệ thống tài chính. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia
Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5 tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh
của cuộc khủng hoảng, tiếp đó Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors.
Đồng won Hàn Quốc giảm từ 1000 xuống 1700 won đổi một USD. Dù có nhiều nỗ lực trong việc
cải thiện GDP trên đầu ngườ, sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với
trước đó.
15
Malaysia
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc g
ia nhận được
nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn giao dị
ch chứng khoán
chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên thế g
iới (tổng giá
trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường thấp hơn
rất nhiều.) Ở
thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng
và trở thành
nước phát triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng, KLS
E Index đang ở
mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi suất qua
đêm dưới 7%. Lãi
suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín dụng tụt xu
ống và xảy ra làn
sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Cuối năm 1997, mức đánh giá tín dụng tụt xuố
ng dưới mức
bình quân cho các khoản đầu tư không đảm bảo, KLSE mất 50% điểm, tụt xuốn
g dưới 600, đồng
ringgit cũng mất 50% giá trị, còn 3.8 đồng đổi 1 USD. Năm 1998, GDP giảm 6,
2%, đồng ringgit
mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
Nước
Mỹ
và
Nhật
Bản
Dịch cúm Châu Á cũng có ảnh hưởng đến nước Mỹ và Nhật Bản. Nền kinh tế
tuy không sụp đổ
nhưng cũng bị tác động nặng nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công nghiệp giảm
554 điểm, tương
đương 7,2%, NYSE tạm ngừng giao dịch trong thời gian ngắn
Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều nước
Châu Á khác
ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng
hoảng, đồng yen
Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra ồ ạt. Tốc độ tăng trưở
ng GDP của Nhật
giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng hoảng Châu Á cũng làm một số do
anh nghiệp ở Nhật
phá sản.