Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.35 KB, 36 trang )

-1-

MỞ ĐẦU

-2-

trường Mỹ - một thị trường tiềm năng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn
mở rộng thị trường của mình.

Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu:

Phương pháp, phạm vi nghiên cứu:

Cạnh tranh trong giai đoạn mở cửa nền kinh tế thị trường là một yếu tố
quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp và của mỗi quốc
gia. Ngày nay những lợi thế riêng của một quốc gia không chỉ là những lợi thế
truyền thống về đất đai, nhân lực, nguồn lực v.v.. nữa mà phần lớn đó chính là
chiến lược phát triển, cạnh tranh của quốc gia và của từng doanh nghiệp. Ngành
chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của
Việt Nam nói chung thật sự chỉ mới khởi sắc và trở thành một trong những
ngành xuất khẩu dẫn đầu của Việt Nam trong những năm gần đây. Mặt khác
trong xu thế hội nhập kinh tế của Việt Nam ra thị trường thế giới, thị trường Mỹ

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là duy vật biện chứng, dựa vào quan
sát, phân tích và nhận định (thông qua các cơ quan chức năng, các chuyên gia,
các kết quả nghiên cứu đã công bố) về vai trò và vị thế cạnh tranh của các doanh
nghiệp, thông qua khảo sát một số doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận để tìm hiểu thêm
nguyên nhân, những khó khăn và dựa vào những kinh nghiệm thức tế mà người
viết có được trong nhiều năm liền hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu đồ gỗ để
từ đó tổng hợp ra, rút ra kết luận và đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất, khả


thi nhất để nâng cao năng lực cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường Mỹ.

là một thị trường rất lớn, đầy tiềm năng và cũng là thị trường tiêu thụ rất khó
tính đối với tất cả các nước và việc chiếm thị phần trên thị trường này chỉ được
quyết định bởi khả năng và năng lực cạnh tranh của từng quốc gia, từng doanh
nghiệp. Vấn đề cạnh tranh và tìm cách nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình
chính là yếu tố quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia và của từng doanh

Phạm vi nghiên cứu được gói gọn trong những doanh nghiệp sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm gỗ vừa và nhỏ ra thị trường thế giới (có thể bao gồm
hoặc không bao gồm thị trường Mỹ) và nằm trong khu vực thành phố Hồ Chí
Minh.

nghiệp. Chúng ta nên nhớ rằng “người chiến thắng hôm qua chưa chắc giành

Bố cục:

thắng lợi vào ngày mai”, do đó việc vận dụng các giải pháp, không ngừng nâng

Bài luận văn được chia ra làm 3 chương, nội dung từng chương như sau:

cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và của doanh nghiệp ngày hôm nay chính
là yếu tố quyết định đến chiến thắng ngày mai.
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn này chính là tìm hiểu, phân tích vị thế cạnh tranh
hiện tại của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh so với khu vực và thế giới và những nguyên nhân chủ yếu quyết
định đến lợi thế cạnh tranh của quốc gia và của từng doanh nghiệp để từ đó tìm
ra những giải pháp hữu hiệu cho từng doanh nghiệp và những kiến nghị để phát
triển ngành chế biến và xuất khẩu gỗ của thành phố Hồ Chí Minh sang thị


Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh, tình hình xuất khẩu hàng gỗ sang thị trường Mỹ
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp
xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Mỹ.


-3-

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
1.1.1. Khái niệm về lợi thế cạnh tranh

-4-

Lợi thế cạnh tranh tương đối được tính bằng tỷ lệ tiêu hao nguồn lực để
sản xuất ra sản phẩm A so với sản phẩm B của một quốc gia (quốc gia 1) thấp
hơn quốc gia khác (quốc gia 2) và ngược lại quốc gia 2 sẽ có tỷ lệ tiêu hao
nguồn lực giữa sản phẩm B so với sản phẩm A là thấp hơn quốc gia 1 mặc dù có

Lợi thế cạnh tranh là lợi thế so với các đối thủ khác có được bằng cách

thể quốc gia 1 có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối cả hai sản phẩm A và B so với

cung cấp cho người tiêu dùng những giá trị lớn hơn bằng hoặc là cung cấp với

quốc gia 2. Do đó quốc gia 1 tiến hành chuyên môn hóa sản xuất sản phẩm A và

giá thấp hơn hoặc cung cấp giá trị dịch vụ lớn hơn phù hợp với giá cao hơn.

Cần nên hiểu rằng cạnh tranh không phải loại trừ đối thủ cạnh tranh để từ

quốc gia 2 tiến hành chuyên môn hóa sản xuất ra sản phẩm B và hai quốc gia
tiến hành trao đổi cho nhau thì cả hai quốc gia đều có lợi.

đó không dẫn đến việc cạnh tranh không lành mạnh, dùng những thủ đoạn xảo

Tuy nhiên theo quan điểm của hai quốc gia thì việc cạnh tranh chỉ được

quyệt nhằm tạo cho mình một vị thế độc tôn tranh trên thị trường, để khách

xét trên hai quốc gia mà thôi. Trên thực tế, không chỉ có 2 quốc gia cạnh tranh

hàng không có thể có sự lựa chọn nào khác.

lẫn nhau mà thị trường thế giới có sự tham gia của tất cả quốc gia trên thế giới

Cạnh tranh là một tiến trình đổi mới không ngừng, nếu doanh nghiệp nào
bằng lòng với vị thế cạnh tranh hiện tại của mình thì chắc chắn sẽ rơi vào tụt
hậu. Do đó doanh nghiệp luôn luôn phải gia tăng không ngừng vị thế cạnh tranh
của mình, luôn luôn có sự biến đổi và đổi mới, ngày càng tạo ra những giá gia

và lý luận của David Recardo đã bỏ qua chi phí vận chuyển giữa 2 quốc gia.
Tuy nhiên đây là cơ sở cho việc mua bán trao đổi giữa hai hay nhiều quốc gia
trên thế giới.
1.1.2.3.

Quan điểm của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh Quốc gia –
Mô hình viên kim cương.


tăng thêm cho khách hàng.

Michael Porter là giáo sư quản trị kinh doanh tại khoa kinh doanh đại học

1.1.2. Các quan điểm về lợi thế và chiến lược cạnh tranh
1.1.2.1.

Quan điểm của Adam Smith

Theo quan điểm của Adam Smith, nguồn gốc của quá trình thương mại
giữa hai hay nhiều quốc gia là do quốc gia đó có lợi thế cạnh tranh tuyệt đối về
một ngành nào đó so với quốc gia khác. Lợi thế cạnh tranh có được tính bằng

Harvard và là chuyên gia hàng đầu về chiến lược kinh doanh và tính cạnh tranh
quốc tế.
Theo quan điểm truyền thống, các lý thuyết kinh tế đề cập các yếu tố sau
cho vấn đề tạo nên lợi thế cạnh tranh cho các khu vực và quốc gia:

thời gian hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra sản phẩm nào đó ngắn hơn so

-

Đất đai

với các quốc gia khác.

-

Vị trí địa lý


1.1.2.2.

-

Tài nguyên thiên nhiên

-

Lao động và

-

Dân số địa phương

Quan điểm của David Recardo

Theo học thuyết của David Recardo, các quốc gia không có lợi thế cạnh
tranh tuyệt đối vẫn có thể có lợi thế cạnh tranh tương đối, và việc mua bán trao
đổi giữa hai quốc gia vẫn có thể thực hiện được nhờ vào lợi thế cạnh tranh này.


-5-

-6-

Porter cho rằng sự phát triển lâu dài giữa các ngành công nghiệp khó có
thể dựa trên 5 yếu tố trên.

nguyên liệu tự nhiên, không gian v.v…), nguồn kiến thức, nguồn vốn và cơ sở
hạ tầng. Các yếu tố này cũng bao gồm các yếu tố như chất lượng nghiên cứu

trường đại học, sự bãi bỏ các quy định của thị trường lao động, khả năng chu
chuyển nhanh của thị trường chứng khoán của quốc gia v.v…

Chiến lược, cấu trúc,
cạnh tranh của doanh
nghiệp

Các yếu tố quốc gia này thường cung cấp những lợi thế cạnh tranh đầu
tiên và từ đó lợi thế cạnh tranh được xây dựng trên cơ sở này. Mỗi quốc gia có

Các điều kiện
yếu tố đầu vào

Các điều kiện
của cầu

một nhóm các điều kiện yếu tố cụ thể vì thế nên mỗi quốc gia sẽ phát triển
những ngành công nghiệp mà nhóm điều kiện các yếu tố đầu vào của nó là tối

Các ngành công nghiệp
hỗ trợ và liên quan

ưu. Điều này cũng giải thích được sự tồn tại của các quốc gia gọi là “quốc gia
có nguồn lao động rẻ”, các nước nông nghiệp (đất nước rộng lớn với nguồn tài
nguyên đất đai dồi dào).
Michael Porter chỉ ra rằng các yếu tố này không phải có từ thiên nhiên

Hình 1.1: Mô hình viên kim cương của Michael Porter
Michael Porter đã đưa ra mô hình phân tích tại sao một vài quốc gia lại
có lợi thế cạnh tranh hơn các quốc gia khác. Mô hình này đưa ra các yếu tố

quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia, các yếu tố này được xem

hay được thừa hưởng mà nó có thể thay đổi hay phát triển. Ví dụ như các sáng
kiến về chính trị, tiến bộ công nghệ hoặc thay đổi về văn hóa xã hội có thể hình
thành nên những yếu tố đầu vào của quốc gia.
-

như là “viên kim cương của Michael Porter – Porter’s Diamond”. Lý thuyết này
cho rằng điểm tựa quốc gia của một tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc
hình thành nên lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Điểm tựa này cung cấp các yếu tố cơ
bản, hỗ trợ các tổ chức trong việc xây dựng lợi thế cạnh tranh toàn cầu. Porter
đưa ra bốn yếu tố trong mô hình viên kim cương của mình như sau (xem hình
1.1):
-

Các điều kiện của cầu:
Các điều kiện của cầu ảnh hưởng đến việc hình thành nên các điều kiện

yếu tố đầu vào của quốc gia. Chúng tác động đến không gian, xu hướng cải tiến
và phát triển sản phẩm. Theo Porter các nhu cầu được thể hiện bởi ba đặc tính
chính sau: sự hỗn hợp (sự hỗn hợp giữa nhu cầu và sở thích người tiêu dùng),
phạm vi và tốc độ phát triển, phạm vi và tốc độ phát triển và các cơ chế mà nó
truyền những sở thích từ thị trường trong nước sang thị trường nước ngoài.

Các điều kiện của yếu tố đầu vào:
Hiện trạng của một quốc gia liên quan đến các yếu tố sản xuất như lao

động kỹ năng, cơ cấu hạ tầng v.v… chúng có liên quan đến cạnh tranh cho
những ngành riêng.
Các yếu tố này có thể chia thành các nhóm như nguồn nhân lực (trình độ

học vấn, chi phí lao động, sự cam kết v.v…), các nguồn nguyên liệu (nguồn

-

Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan:
Một ngành công nghiệp thành công trên toàn thế giới có thể tạo nên lợi

thế cạnh tranh cho các ngành hỗ trợ hoặc có liên quan. Những ngành công
nghiệp cung cấp có tính cạnh tranh sẽ tăng cường sức mạnh cho việc đổi mới và
quốc tế hóa các ngành ở những giai đoạn sau trong chuỗi hệ thống giá trị. Bên


-7-

-8-

cạnh những nhà cung cấp, những ngành công nghiệp có liên quan cũng rất quan

Phân tích chuỗi giá trị mô tả các hoạt động trong và xung quanh tổ chức

trọng. Đây là những ngành công nghiệp có thể sử dụng và phối hợp các hoạt

và liên hệ chúng tới việc phân tích các thế mạnh cạnh tranh trong tổ chức. Vì

động riêng lẻ với nhau trong chuỗi giá trị hoặc chúng có liên quan đến những

thế nó đánh giá các giá trị nào mà các hoạt động riêng rẽ sẽ tăng thêm cho sản

sản phẩm bổ sung (ví dụ như phần cứng, phần mềm v.v…)
-


Chiến lược, cơ cấu, đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp:
Đây là điều kiện của một quốc gia mà nó quyết định cách các công ty

được thành lập, được tổ chức và được quản lý và nó quyết định các đặc điểm
của cạnh tranh trong nước.
Ở đây các lĩnh vực văn hóa đóng một vai trò quan trọng. Ở các quốc gia

phẩm và dịch vụ của tổ chức. Ý tưởng này được xây dựng dựa trên các yếu tố
bên trong của tổ chức hơn là sự tập hợp các yếu tố về máy móc, thiết bị, con
người và tài chánh. Chỉ có những điều này được sắp xếp vào hệ thống và các
hoạt động hệ thống, thì điều hoàn toàn có thể xảy ra là khách hàng có thể trả cho
nó một cái giá cao hơn.
Porter cho rằng khả năng để thực hiện những hoạt động riêng biệt này và
để quản lý kết nối giữa các hoạt động này là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh.

khác nhau, các yếu tố như cơ cấu quản lý, đạo đức làm việc, các tác động qua
những lợi thế và bất lợi thế cho những ngành công nghiệp riêng.
Các mục tiêu tập thể tiêu biểu nhất liên quan đến các mô hình cam kết
của công nhân là một yếu tố tối quan trọng. Nó bị ảnh hưởng mạnh của cấu trúc
sở hữu và sự kiểm soát. Ví dụ như các công ty tư nhân hoàn toàn hoạt động

Cơ sở hạ tầng
Các hoạt động hỗ trợ

lại giữa các công ty được hình thành khác biệt nhau. Điều này sẽ cung cấp

Quản trị nguồn nhân lực
Phát triển công nghệ
Khả năng thu mua


khác biệt so với các công ty nhà nước.
Porter cho rằng các đối thủ cạnh tranh trong nước và việc tìm kiếm lợi
thế cạnh tranh trong một quốc gia có thể giúp cung cấp các tổ chức các cơ sở để
đạt được lợi thế cạnh tranh trên quy mô toàn cầu.
Porter cho rằng các ngành kinh tế của quốc gia sẽ thành công nếu “hệ
thống kim cương” này vận hành thuận lợi. Tác động tương hỗ của các nhóm
nhân tố này thúc đẩy sự phát triển của ngành và lợi thế của một yếu tố này sẽ
tạo điều kiện thuận lợi và phát triển các nhóm yếu tố khác.
1.1.2.4.

Hệ thống chuỗi giá trị của Michael Porter:

Phân tích chuỗi giá trị mô tả các hoạt động mà tổ chức thực hiện, liên kết
chúng tới vị thế cạnh tranh của tổ chức.

Hậu cần
đầu vào

Hoạt động

Hậu cần
đầu ra

Tiếp thị và
bán hàng

Dịch vụ

Hình 1.2. Mô hình chuỗi giá trị của Michael Porter

Porter phân biệt các hoạt động chính yếu và các hoạt động hỗ trợ. Các
Các trực
hoạt động
chính
hoạt động chính yếu liên quan
tiếp đến
việc tạo ra và phân phối các sản
phẩm và dịch vụ. Chúng có thể phân thành 5 nhóm: hậu cần đầu vào (bao gồm
việc tiếp nhận, bảo quản, kiểm soát hàng tồn kho, vận chuyển v…), hoạt động
sản xuất (bao gồm vận hành máy móc, đóng gói, lắp ráp, bảo trì thiết bị, kiểm
tra và tất cả các hoạt động khác tạo nên giá trị mà nó truyền giá trị từ khâu đầu
vào đến sản phẩm cuối cùng), hậu cần đầu ra (hoạt động đòi hỏi việc cung cấp
thành phẩm đến tay khách hàng: kho bãi, hoàn tất đơn hàng, vận chuyển, quản
trị phân phối), tiếp thị và bán hàng (các hoạt động liên quan đến việc tìm cách


-9-

- 10 -

làm cho khách hàng mua hàng bao gồm lựa chọn kênh phân phối, quảng cáo,

Với chiến lược này, mục tiêu của doanh nghiệp, công ty là trở thành

khuyến mại, bán hàng, chính sách giá cả, quản trị bán lẻ v.v…) và dịch vụ (các

người sản xuất với giá thấp nhất trong ngành dựa vào quy mô sản xuất lớn.

hoạt động duy trì và gia tăng giá trị sản phẩm bao gồm hỗ trợ khách hàng, dịch


Nhiều phân khúc thị trường trong ngành được cung cấp với mục tiêu giảm thiểu

vụ sửa chữa, lắp đặt, đào tạo, phụ tùng, nâng cấp v.v…). Mỗi một yếu tố này sẽ

chi phí. Nếu giá bán được bằng hoặc gần ngang với mức trung bình của thị

được liên kết để giúp đỡ các hoạt động nhằm cải tiến hiệu quả. Có 4 lĩnh vực

trường thì nhà sản xuất với chi phí thấp sẽ có lợi nhuận cao nhất. Chiến lược

của hoạt động hỗ trợ: khả năng thu mua được (thu mua các nguyên liệu, dịch vụ,

này thường áp dụng cho các công ty hoạt động có quy mô lớn, cung cấp những

phụ tùng, văn phòng, máy móc v.v…), phát triển công nghệ thông tin (nhằm để

sản phẩm tiêu chuẩn với ít sự khác biệt hóa.
• Chiến lược tập trung vào sự khác biệt hóa (Differentiation Focus)

hỗ trợ cho các hoạt động của chuỗi giá trị như nghiên cứu và phát triển, tiến
trình tự động, thiết kế, tái thiết kế v.v…), quản lý nguồn nhân lực (các hoạt

Trong chiến lược tập trung vào sự khác biệt hóa, công ty nhắm vào sự

động liên quan đến tuyển dụng, phát triển, đào tạo, bồi thường cho nhân viên và

khác biệt hóa chỉ trong một hoặc một số nhỏ các phân khúc thị trường mục tiêu.

quản lý v.v…) và cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp (bao gồm quản trị tổng quát,


Nhà sản xuất sẽ có cơ hội cung cấp cho khách hàng đặc biệt cần phân khúc này

quản trị kế hoạch, luật pháp, tài chính, kế toán, đối ngoại, quản trị chất lượng

sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn khác so với các đối thủ cạnh tranh tập trung vào

v.v…)

nhóm khách hàng lớn hơn. Để thực hiện được chiến lược này, cần phải xác định

1.1.2.5.

Quan điểm của Michael Porter về chiến lược cạnh tranh

được khách hàng cần và muốn sự khác biệt này.

Khi bàn về lợi thế cạnh tranh của các công ty trong cùng ngành thì

• Chiến lược tập trung vào chi phí (Cost Focus)

Michael Porter đã đưa ra 4 chiến lược nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các
đối thủ như sau:

Với chiến lược này công ty tìm kiếm lợi thế về giá hạ chỉ trong một
lượng nhỏ phân khúc thị trường. Sản phẩm cơ bản và tương tự như các sản

• Chiến lược khác biệt hóa (Differentiation)

phẩm khác với giá bán cao hơn. Chiến lược này gọi là chiến lược ăn theo (me


Chiến lược khác biệt hóa tập trung vào chọn lựa một hay nhiều tiêu

too).

chuẩn được sử dụng bởi người tiêu dùng trên thị trường và định vị công việc

1.1.3. Cái nhìn mới về cạnh tranh.

kinh doanh duy nhất để đáp ứng được những tiêu chuẩn đó. Với chiến lược này

1.1.3.1.

Cách nhìn của Michael E. Porter

thường kết hợp với việc bán hàng hóa với giá cả cao hơn thông thường là để

Ngày nay với chiến lược ăn theo hầu như không còn phù hợp nữa, các

phản ánh chi phí sản xuất cao hơn và giá trị gia tăng tăng thêm cho người tiêu

công ty nên tìm ra con đường để phát triển và xây dựng lợi thế hơn là chỉ tìm

dùng.

cách xóa bỏ bất lợi thế.
Sự khác biệt hóa thường cung cấp với giá cao, phần tăng lên cao hơn chi

Các công ty với chiến lược giá hạ nghĩ rằng họ phải có được thị phần

phí sản xuất tăng thêm, điều này có thể tạo cho người tiêu dùng lý do chính


lớn, đó là cách để chiến thắng. Tuy nhiên vẫn có những công ty với thị phần nhỏ

đáng để mua sản phẩm có sự khác biệt hóa.
• Chiến lược sản xuất với giá thấp (Cost Leadership)

nhưng vẫn đạt được lợi nhuận lớn. Do đó cách nghĩ trên là sai lầm. Để một
chiến lược phát huy tác dụng tối đa của nó thì cần phải gắn liền với sự tiến hóa
của ngành đó.


- 11 -

- 12 -

Với chiến lược khác biệt hóa, điều quan trọng là phải tạo ra sự khác biệt

Khi bàn về chất lượng sản phẩm ông cho rằng đổi mới chất lượng sản

không chỉ bao hàm các tính chất bất lợi mà còn bao hàm tính chất bất lợi khi so

phẩm liên tục là một cách để chứng minh với thị trường thực lực của doanh

sánh với các chiến lược khác. Có nghĩa là công ty phải làm sao tạo ra sự khác

nghiệp vừa làm nản chí đối thủ cạnh tranh, hơn nữa việc đổi mới, nâng cao chất

biệt mà các công ty khác khó có thể sao chép được, nếu không thì sản phẩm của

lượng sản phẩm nhằm biến đổi ngày càng cao nhu cầu của khách hàng. Việc


công ty sẽ bị sao chép một cách dễ dàng.

thay đổi thường xuyên chất lượng và chi tiết sản phẩm cũng nằm trong nội dung

Ngày nay với nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, công ty cần

chiến lược khác biệt hóa của Michael Porter.

phải thích nghi với sự thay đổi, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, từ công

• Chất lượng thời gian:

nghệ đến phương pháp quản lý. Quan sát một số công ty lớn chúng ta cũng thấy

Thời gian là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, khi tung ra một sản

rằng họ thường không thay đổi chiến lược cạnh tranh của họ nhưng chúng ta

phẩm mới, doanh nghiệp cần thiết phải tiến hành nhanh, vì thời cơ không chờ

cũng nhận thấy rằng có sự thay đổi liên tục các chi tiết trong sản phẩm của họ,

một ai cả, nếu không sẽ không kịp với các đối thủ. Thời gian cần phải đảm bảo

chi tiết dịch vụ nhằm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.

để hàng hóa có mặt trên thị trường đúng thời điểm, đúng theo nhu cầu của khách

Tuy nhiên đôi khi cần thay đổi chiến lược cạnh tranh của mình khi nhu


hàng, đó là điều sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tuy nhiên cần

cầu của nhóm khách hàng lớn thay đổi, ví dụ như đời sống kinh tế của khách

phải đảm bảo rằng thời gian kịp lúc nhưng phải đảm bảo chất lượng sản phẩm

hàng ngày càng được tăng cao thì nhu cầu của người tiêu dùng về sản phẩm và

và dịch vụ tăng thêm.

dịch vụ tốt hơn ngày càng được nâng lên, do đó công ty cần phát hiện kịp thời
những phân khúc thị trường mới để thực hiện chiến lược cạnh tranh của mình
cho phù hợp.
Hiện nay vai trò của công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong quá

• Chất lượng không gian:
Không gian ở đây chính là không gian khách hàng cần để thỏa mãn nhu
cầu của mình chứ không phải không gian mà doanh nghiệp cần để trưng bày và
bán sản phẩm.

trình hoạch định chiến lược cạnh tranh của một công ty, công nghệ mới sẽ xóa

• Chất lượng dịch vụ

sạch những lợi thế tiềm năng và vì thế lợi thế còn lại sẽ ngày càng quan trọng

Nhằm để tạo nên lợi thế cạnh tranh cho công ty mình, chất lượng dịch vụ

hơn.


cần phải được chú trọng đúng mức, hãy luôn ghi nhớ khách hàng là thượng đế,

1.1.3.2.

do đó cần phải chú trọng 3 yếu tố chính trong chất lượng dịch vụ đó là cơ sở vật

Những vấn đề lưu ý về lợi thế cạnh tranh

Mục đích của các doanh nghiệp hiện nay là tìm cách để nâng cao vị thế
cạnh tranh của mình ở thị trường trong nước cũng như trên thế giới, theo trình
bày của Tôn Thất Nguyễn Thiêm – tiến sĩ xã hội học, kinh tế - trong giáo trình

chất, con người và dịch vụ hậu mãi. Trong đó cần quan tâm nhiều đến dịch vụ
hậu mãi và thực hiện đúng như những gì đã cam kết với khách hàng.
• Chất lượng thương hiệu

thị trường cơ cấu và chiến lược thì để gia tăng vị thế cạnh tranh của một doanh

Đó chính là tiếng tăm của thương hiệu, tiếng tăm của doanh nghiệp được

nghiệp, doanh nghiệp cần phải tập trung vào các vấn đề về: chất lượng về sản

định hình qua một quá trình mà doanh nghiệp chứng minh được với khách hàng

phẩm, thời gian, không gian, dịch vụ, thương hiệu và giá cả.

là sản phẩm dịch vụ của họ đã mang lại một giá trị gia tăng nhất định. Do đó các

• Chất lượng sản phẩm:


doanh nghiệp cần nâng cao thương hiệu của mình trên thị trường, xây dựng cho


- 13 -

- 14 -

mình hình ảnh thương hiệu của mình trên thị trường trong nước cũng như trên
thế giới.

Cần phải nói thêm rằng năng lực cạnh tranh thể hiện qua chỉ số cạnh
tranh tăng trưởng (GCI), chỉ số GCI của chúng ta cũng thua xa một số nước

• Chất lượng giá cả

Đông Nam Á như Singapore (xếp hạng 7 đạt 5.56 điểm), Malaysia (xếp hạng 31

Giá cả phải hợp lý và hợp thời, phù hợp với chất lượng sản phẩm và dịch

đạt 4.88 điểm), Thai Lan (xếp hạng 34 đạt 4.58 điểm), Indonesia (xếp hạng 69

vụ mà công ty cung cấp trên thị trường phù hợp với từng chiến lược cạnh tranh

đạt 3.72 điểm) và Philippines (xếp hạng 76 đạt 3.51 điểm). Năm 2003 năng lực

mà công ty đang theo đuổi.

cạnh tranh của Việt Nam đứng trên Philippines nhưng đến năm 2004 năng lực


1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VỊ THẾ CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM.

cạnh tranh của Việt Nam thì tụt hơn Philippines đến 7 bậc.

Hiện tại năng lực cạnh tranh của Việt Nam được xếp vào thứ 77 trên 104

Ngoài chỉ tiêu này, năng lực cạnh tranh của quốc gia cũng được đo bằng

nước vào năm 2004, đều này có nghĩa là năng lực cạnh tranh của Việt Nam chỉ

chỉ số cạnh tranh kinh doanh (BCI), chiến lược và hoạt động của công ty và chất

đạt ở mức trung bình và đã tụt 17 hạng so với năm 2003 (đạt 3.23 điểm năm

lượng của môi trường cạnh tranh quốc gia. Trong các chỉ tiêu này thì Việt Nam

2004). So với nước dẫn đầu về năng lực cạnh tranh – Phần Lan đạt 5.95 điểm thì

cũng thua xa so với các nước trong khu vực.

năng lực cạnh tranh chúng ta càng thua xa.

Trong bảng 1.1 sẽ cho ta thấy năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với

Bảng 1.1.: So sánh năng lực cạnh tranh của một vài quốc gia trên thế giới
Quốc gia

Thứ tự
GCI2004


Điểm
2004

Thứ tự
GCI2003

Thứ tự
BCI

Thứ tự chiến
lược và hoạt
động công ty

các nước đứng đầu trên thế giới và ở trong khu vực.
Môi trường kinh doanh quốc gia của Việt Nam được đánh giá chưa phải

Thứ tự chất lượng môi
trường cạnh tranh quốc
gia

là môi trường kinh doanh tốt, chỉ xếp hạng 79 trên tổng cộng 103 nước được
xem xét. Môi trường kinh doanh cũng một phần ảnh hưởng đến năng lực cạnh

Phần Lan

1

5.95

1


2

1

5

Mỹ

2

5.82

2

1

2

2

Đức

13

5.28

13

3


1

5

Singapore

7

5.56

6

10

13

8

1.3. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM GỖ MỸ

Malaysia

31

4.88

29

23


28

23

1.3.1. Một vài thông số kinh tế của nước Mỹ.

Thái Lan

34

4.58

32

37

36

36

- Dân số: Theo nguồn U.S. Bureau of Economics Analysis thì dân số

Trung Quốc

46

4.29

44


47

39

47

hiện tại của nước Mỹ là 293.655.404 người (năm 2004), ước tính đến năm 2050

Indonesia

69

3.72

72

44

38

46

dân số đạt đến 403,943,147 người. Điều này cũng chứng tỏ được rằng Mỹ là

Philippines

76

3.51


66

70

50

77

một thị trường tiêu thụ lớn.

Việt Nam

77

3.47

60

79

81

79

Nguồn: Diễn đàn kinh tế Thế Giới (WEF) –
Global Information Technology report 2004-2005

tranh của một quốc gia.
(Để tham khảo vị thế cạnh tranh của các nước khác, xin xem phụ lục 1)


- Tổng diện tích: 9,629,091.00 km2, diện tích này bằng một nửa diện tích
của nước Nga, bằng 3/10 diện tích của Châu Phi, bằng một nửa diện tích của


- 15 -

- 16 -

Nam Mỹ, lớn hơn Trung Quốc một ít và rộng gấp 2.5 lần diện tích của Đông

lớn, như năm 1999, hàng tháng Mỹ nhập siêu khoảng 20 tỷ USD thì đến năm

Âu.

2005 có tháng Mỹ nhập siêu lên đến 60 tỷ USD.
- Tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ (GDP): 46.939,80 tỷ USD (năm 2004)
- Thu nhập bình quân đầu người được thể hiện qua bảng 1.2.

Cán cân thương mại về hàng hóa và dịch vụ
(hàng tháng, số liệu đã điều chỉnh) Đơn vị: Tỷ USD

Bảng 1.2: Thu nhập bình quân quốc dân trên đầu người của Mỹ
Năm

2001

Thu nhập- GDP /người (USD)

2002


2003

2004

30,575.00 30,804.00 31,472.00 32,937.00

- Cán cân vãng lai của Mỹ luôn luôn bị âm, xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ và các khoản thu nhập nước ngoài luôn luôn thấp hơn lượng nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ và các khoản chi thu nhập cho nước ngoài. Theo như sơ đồ bên
dưới, thì các giao dịch của cán cân vãng lai luôn luôn ở mức âm và ngày càng
tăng, ví dụ như năm 2000 âm 100 tỷ USD thì năm 2004 âm gần 200 tỷ USD.
Nguồn: Cục phân tích kinh tế Mỹ

Giao dịch tài khoản vãng lai của Mỹ
Đơn Vị: tỷ USD
Nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ và các khoản
thanh toán thu nhập

Hình 1.4. Sơ đồ cán cân thương mại về hàng hóa dịch vụ của Mỹ
1.3.2. Thị trường nhập khẩu sản phẩm gỗ của Mỹ.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường quan trọng nhất thế giới,

Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và các khoản thu nhập

triển vọng để buôn bán với thị trường Mỹ rất có ý nghĩa quan trọng đối với
những nhà xuất khẩu mặt hàng gỗ. Do đó các nhà xuất khẩu gỗ trên thế giới sẽ
có cơ hội rất lớn để gia tăng quan hệ làm ăn với đối tác Mỹ nếu họ biết nắm bắt


Cán cân vãng lai

được nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng Mỹ.
Chỉ giữa năm 1996 và 2000, tốc độ tăng trưởng tăng thêm của hàng nhập
khẩu Mỹ đối với mặt hàng tiêu dùng (furniture) tăng thêm 19.5%. Lượng hàng

Nguồn: Cục phân tích kinh tế Mỹ

Hình 1.3. Sơ đồ giao dịch tài khoản vãng lai của Mỹ
- Xét về chênh lệch giữa xuất và nhập hàng hóa thì Mỹ luôn luôn ở trong
tình trạng nhập siêu, theo như sơ đồ bên dưới, càng ngày Mỹ nhập siêu càng

nhập khẩu các sản phẩm gia dụng bằng gỗ đều gia tăng dần qua các năm, đặc
biệt là lượng hàng gia tăng từ các nước Đông Nam Á, trong đó Trung Quốc là
một trong những nước dẫn đầu và ngày một gia tăng thị phần của mình trên thị
trường Mỹ trong những năm gần đây.


- 17 -

- 18 -

Theo như các số liệu dự báo thị trường, lượng tiêu thụ hàng furniture ở
Mỹ sẽ gia tăng 25.5% từ năm 2005-2010 trong khi ở Liên Minh Châu Âu người
ta dự đoán tốc độ này chỉ gia tăng 12% (theo nguồn www.csilmilano.com)

(Lưu ý: Tiêu chuẩn NAICS là tiêu chuẩn “hệ thống phân loại công
nghiệp Bắc Mỹ, 321 là mã dành cho hàng gỗ - wooden furniture)
Nhìn chung thị trường tiêu thụ sản phẩm đồ gỗ của Mỹ rất lớn và là một


Việc chi tiêu vào các sản phẩm gia dụng của dân Mỹ khác nhau ở các

tiềm năng cho những nhà xuất khẩu, tính trong 4 tháng đầu năm năm 2005

bang, việc chi tiêu hàng năm cao nhất được ghi nhận ở các bang miền Tây nước

lượng hàng gỗ Mỹ nhập khẩu đạt 7,720,699,000 USD tăng 17.6% so với cùng

Mỹ, mức chi tiêu này cao hơn mức chi tiêu trung bình của nước Mỹ. Hiện tại

kỳ năm 2003, trong đó thị trường Mỹ nhập khẩu lớn nhất là Châu Mỹ (Canada,

California được xem là thị trường quan trọng nhất về furniture của nước Mỹ.

Mexico). Cũng theo số liệu tính toán từ bảng phụ lục 2 ta nhận thấy, lượng hàng

Hai bang Texas và Floria là hai bang lớn của Mỹ đang tăng trưởng một cách

nhập khẩu của Mỹ từ châu Á trong 4 tháng đầu năm 2005 chỉ đạt 12.86% so với

đáng kể và là những thị trường đang hấp dẫn các nhà xuất khẩu Furniture.
Theo số liệu thống kê ngoại thương Mỹ thì Canada là nước xuất khẩu

trên toàn thế giới. Trong khi đó lượng hàng nhập khẩu gỗ của Mỹ từ Châu Âu
chỉ đạt được 8.8%, chỉ tính riêng thị trường nhập khẩu từ Canada đã chiếm đến

sang Mỹ lớn nhất về mặt hàng gỗ, với 4 tháng đầu năm năm 2005 họ đã xuất

61.80%. (Vui lòng xem số liệu trong bảng phụ lục 2).


sang Mỹ tổng kim ngạch đạt 4,771,379,000 USD, tăng hơn cùng kỳ năm 2003 là

1.3.3. Một số lưu ý khi tham gia kinh doanh buôn bán với thị trường Mỹ.

11.39%, kế đến là Trung Quốc với tổng kim ngạch trong 4 tháng đầu năm 2005

Thị trường Mỹ là một thị trường tương đối khó tính, tuy nhiên nếu các

là 647,358,000 USD, tăng 42.14% so với cùng kỳ năm 2004. Như vậy có thể

doanh nghiệp biết được và tìm hiểu các quy định, yêu cầu của Mỹ khi xuất khẩu

nói rằng Trung Quốc là nước đang ngày một chiếm dần thị phần của Mỹ đối với

sản phẩm hàng hóa sang thì việc kinh doanh thì họ sẽ vượt qua được rào cản

mặt hàng gỗ. So với các nước Đông Nam Á, thì Việt Nam đứng sau Indonesia,

này. Ở đây người nghiên cứu xin đưa ra một số điểm mà các doanh nghiệp cần

Malaysia và Philippines. Trong 4 tháng đầu năm năm 2005 thì kim ngạch xuất

phải lưu ý như sau:

khẩu Việt Nam sang thị trường Mỹ đạt 13,312,000 USD tăng 35.45% so với
cùng kỳ năm 2004 và đứng ở vị trí thứ 29 trên thế giới (tính trong 4 tháng đầu
năm năm 2005).

- Các quy định về kê khai hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ, sự kê khai phải
chính xác, rõ ràng và đầy đủ thông tin.

- Những quy định về bao bì hàng hóa, nhãn mác, đóng gói và những lưu
ý khi sử dụng sản phẩm nếu sản phẩm có thể gây nguy hiểm trong sử dụng.

12.86%

16.54%

Châu Á
8.80%

Châu Âu
Canada

- Những quy định về hóa đơn thương mại, cách ghi tên hàng, hàng hóa và
những quy định về chất lượng, xử lý hàng hóa v.v…

Còn lai

(Để tìm hiểu thêm một vài quy định cụ thể về hàng hóa xuất sang thị

61.80%

Nguồn: Số liệu thống kê ngoại thương của Mỹ.

Hình 1.5. Sơ đồ thị trường nhập khẩu sản phẩm gỗ Mỹ - xếp theo tiêu
chuẩn NAICS-321

trường Mỹ, xin mời xem phụ lục 3 – Một số quy định của Mỹ về nhập khẩu sản
phẩm gỗ)



- 19 -

- 20 -

CHƯƠNG 2: ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC

Qua sơ đồ trên ta nhận thấy tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu gỗ của

DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU GỖ Ở THÀNH

Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng gia tăng một cách

PHỐ HỒ CHÍ MINH SANG THỊ TRƯỜNG MỸ

đáng kể, năm 2003 từ 177 triệu USD đã tăng lên 374 triệu USD trong năm 2004

2.1. Tình hình xuất khẩu các sản phẩm gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh vào thị

(tăng 111,23%)
Trong xu thế phát triển chung của toàn nước đối với mặt hàng xuất khẩu

truờng Mỹ trong thời gian qua.
Ngành chế biến gỗ của Việt Nam nói chung và của thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng thời gian gần đây đã vươn lên thành một trong bảy ngành dẫn
đầu kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm gỗ ra thị trường Mỹ.
Nhìn chung Mỹ là thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn cho các doanh
nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ cho cả nước nói riêng và cho các tỉnh phía Nam
nói chung. Hiện tại Bình Dương được xem là tỉnh có doanh số xuất khẩu các sản


sang thị trường Mỹ, có thể nói doanh số xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2005
đã tăng lên 119.35% so với cùng kỳ năm 2004. Kim ngạch xuất khẩu của các
tỉnh trọng điểm phía Nam theo đó cũng gia tăng đáng kể.
Bảng dưới đây liệt kê thị trường các nước mà doanh nghiệp Việt Nam đã
xuất khẩu sang trong 5 tháng đầu năm 2005 và so với cùng kỳ năm 2004.
Bảng 2.1. Thị trường xuất khẩu gỗ của Việt Nam.

phẩm gỗ cao nhất cả nước, kế đến các tỉnh có doanh số xuất khẩu gỗ cũng khá
cao đó là Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai.
Cùng với EU và Nhật Bản, Mỹ hiện tại là nhà nhập khẩu lớn nhất của
Việt Nam về mặt hàng gỗ (trong đó chủ yếu là khu vực thành phố Hồ Chí Minh
và Bình Dương, Đồng Nai). Trong năm 2004, xuất khẩu hàng furniture của Việt
Nam sang Mỹ đạt 374 triệu USD so với chỉ 1 triệu USD năm 1998, xếp hạng
thứ 10 những nhà xuất khẩu lớn nhất vào Mỹ
ĐV: Triệu USD

400

374

300
200
100

177
79
1

4


9

13

0
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004

Nguồn: US Department of Commerce

Hình 2.1. Sơ đồ kim ngạch xuất khẩu hàng furniture của Việt Nam sang Mỹ

Đơn vị: Nghìn USD

Thị trường
Mỹ
Nhật Bản
Anh
Đức
Pháp
Hà Lan
Trung quốc
Hàn Quốc
Tây Ban Nha
Đài Loan
Úc
Bỉ
Italy
Đan Mạch
Thuỵ Điển
Canada

Hi Lạp
Phần Lan

Tháng 5/05
5 tháng 2005 5 tháng 2004
39.644
191.312
87.218
15.592
87.542
65.444
8.609
58.182
53.182
3.924
36.487
24.910
3.356
29.978
21.480
2.685
23.989
16.842
7.193
22.811
7.811
3.817
19.172
12.876
2.598

15.261
9.538
2.802
15.156
22.513
2.693
11.950
9.835
1.720
10.108
8.607
849
8.645
5.266
754
7.261
8.546
706
7.011
4.904
1.912
6.932
4.344
714
5.671
3.962
252
5.647
4.844


% thay đổi
119,35
33,77
9,40
46,48
39,56
42,44
192,03
48,90
60,00
-32,68
21,51
17,44
64,15
-15,03
42,97
59,57
43,13
16,58
Nguồn: Vinanet


- 21 -

Nhìn vào bảng trên ta cũng nhận thấy được rằng lượng tăng xuất khẩu
các mặt hàng gỗ của Việt Nam sang Mỹ đang ở mức rất cao, điều này cũng
khẳng định được rằng Mỹ là thị trường xuất khẩu rất có triển vọng mà Việt Nam
cần phải đầu tư và thâm nhập vào.
Theo thương vụ Việt Nam tại Mỹ, ước tính trong năm 2005 lượng hàng
gia dụng gỗ của Việt Nam sang Mỹ ước tính đạt khoảng 500-550 triệu USD,

tăng gần 50% so với năm 2004 (năm 2004, kim ngạch nội thất đồ gỗ nước ta
sang thị trường này là khoảng 360 triệu USD)
Hiện nay, nhiều nhà nhập khẩu Hoa Kỳ đã bắt đầu có xu hướng chuyển

- 22 -

thành phố Hồ Chí Minh và khu vực lân cận thì có đến 82% doanh nghiệp có
doanh số xuất khẩu tăng đều trong 3 năm gần đây.
Cũng theo số liệu điều tra này thì số doanh nghiệp xuất sang thị trường
Mỹ rất cao (121 doanh nghiệp chiếm 17.5%), chỉ sau các nước EU (158 doanh
nghiệp, chiếm 23.2%)
(Xem phụ lục 4, kết quả khảo sát các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu
gỗ trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh và khu vực lân cận)
Hiện nay trên cả nước có khoảng 1200 doanh nghiệp chế biến gỗ, trong
đó địa bàn thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến khoảng 50% và chiếm đến

nguồn cung cấp từ Trung Quốc sang Việt Nam. Với diễn biến mới này, tốc độ

khoảng 70% năng lực chế biến và tốc độ phát tăng trưởng trên 70%/năm. Do đó

tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của sản phẩm gỗ Việt Nam trong những tháng

có thể khẳng định rằng thành phố Hồ Chí Minh là một trong những khu vực

tới sẽ có bước đột phá mạnh.

đứng đầu về xuất khẩu gỗ sang thị trường Mỹ.

Thời gian qua, số lượng các nhà nhập khẩu gỗ Hoa Kỳ sang khảo sát tình
hình sản xuất gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tăng và nhiều doanh

nghiệp đã đặt hàng đem về Hoa Kỳ để giới thiệu và tìm hiểu phản ứng của thị
trường.

2.2. Ưu thế của thành phố Hồ Chí Minh, ưu thế khác biệt so với các khu
vực trong nước.
Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 6,6% dân số so với cả
nước. Qua 10 năm phát triển (1991 – 2000), tỷ trọng kinh tế của Thành phố Hồ

Sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ mới xâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ từ

Chí Minh vẫn tiếp tục gia tăng, điều này cho thấy Thành phố Hồ Chí Minh là nơi

cuối năm 2001 và hiện sản phẩm gỗ của Việt Nam chỉ đứng thứ 12 tại thị trường

hoạt động kinh tế năng động nhất của cả nước, là nơi có nhiều cơ hội để các doanh

này, chiếm 0,86% tỷ trọng trong khối lượng nhập khẩu đồ gỗ tại đây.

nghiệp phát triển.

Yêu cầu của đối tác Mỹ đặt ra cho hàng xuất khẩu rất cao. Họ thường
khảo sát thị trường xem xét nhà xưởng, năng lực sản xuất rồi mới đi đến quyết
định đặt hàng
Khi soạn thảo hợp đồng, hầu hết các doanh nghiệp Mỹ đều đưa ra những
quy định rất rõ ràng về chủng loại gỗ, kích cỡ sản phẩm...
Theo như kết quả khảo sát điều tra của tôi và một số bạn ở cơ sở II,
trường Đại Học Ngoại Thương thực hiện trong tháng 4 năm 2005, số lượng
doanh nghiệp điều tra là 370 doanh nghiệp của một số doanh nghiệp trên địa bàn

Bảng 2.2: So sánh một số chỉ tiêu kinh tế của Hồ Chí Minh so với cả nước

qua 5 năm.
Các chỉ tiêu so với cả nước
1. GDP
2. Giá trị sản xuất công nghiệp
3. Giá trị dịch vụ
4. Bán lẻ của Thành phố
5. Tổng thu ngân sách trên địa bàn

1990
13,66%
26,24%
20,09%
23,41%
22,6%

1995
16,67%
28,55%
22,12%
28,76%

2000
19,3%
29,69%
24,74%
28,32%
34%


- 23 -


- 24 -

Chỉ tiêu so với cả nước Chỉ tiêu so với cả nước
năm 1990
năm 1995

Chỉ tiêu so với cả nước
năm 2000

Bảng2.4: So sánh tốc độ tăng trưởng của Hồ Chí Minh so với các vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước và dự báo cho thời kỳ 2006-2010.
Giai đoạn

2001-2005

2006-2010

TPHCM

VKTTĐPN

Cả nước

TPHCM

VKTTĐPN

Cả nước


1. Tốc độ tăng GDP

11%

12%

7%

13%

2. Tốc độ tăng trưởng

13%

15%

10%

12,7%

14%

11%

9,6%

10%

-


13,5%

15%

-

8%

công nghiệp

Hình 2.2. Sơ đồ so sánh các chỉ tiêu của thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước
qua các năm

3. Tốc độ tăng dịch vụ

Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn

Cơ cấu khu vực kinh tế trong GDP của thành phố Hồ Chí Minh cũng rất
khác biệt so với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước, đây cũng là một
lợi thế cho các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh:

trọng điểm phía Nam và cả nước năm 1995 và 2000.
1995
TPHCM

VKTTĐPN

TPHCM

tương đối cao (thu nhập bình quân/ đầu người vào năm 2010 là trên 3.000USD),


VKTTĐPN

Từ nay đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là đầu mối xuất nhập
khẩu lớn nhất của cả nước với hệ thống cảng biển khá phát triển. Việc hình
thành các hệ thống giao thông quan trọng như tuyến đường Đông – Tây, đường

2000
Cả nước

Một Thành phố có số dân trên 7 triệu người vào năm 2010 và mức sống
Thành phố Hồ Chí Minh là nơi tiêu thụ hàng hoá lớn nhất của cả nước.

Bảng 2.3: So sánh cơ cấu kinh tế của Hồ Chí Minh so với vùng kinh tế

Khu vực kinh tế

Nguồn: www.dpi.hochiminhcity.gov.vn

Cả nước

Xuyên Á, cũng như việc mở rộng các tuyến đường trọng yếu trên địa bàn Thành
phố, … đã mở ra cơ hội gia tăng hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn

Khu vực I (Nông

3,3%

5,9%


27,2%

2,3%

5,3%

25,4%

38,9%

49,7%

28,8%

41,1%

55,5%

34,5%

lâm ngư nghiệp)
Khu vực II (Công

Thành phố Hồ Chí Minh, do tổng mức lưu chuyển hàng hoá gia tăng cũng như
gia tăng khách du lịch bằng đường bộ.

nghiệp – Xây dựng)

Với vị thế về vị trí địa lý và với vai trò là trung tâm phát triển của cả
nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ có rất nhiều ưu thế về lợi thế


Khu vực III (Dịch

57,8%

44,4%

44,1%

54,6%

39,2%

40,1%

vụ)

Tốc độ tăng trưởng GDP, công nghiệp và dịch vụ của TPHCM,
VKTTĐPN và cả nước giai đoạn 2001 – 2010

cạnh tranh so với các vùng khác trong nước.
2.3. Phân tích năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh.
2.3.1. Các yếu tố nội tại tác động đến năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ ở thành phố Hồ Chí Minh.


- 25 -

2.3.1.1. Chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ.

Hoạch định chiến lược là một quy trình xác định các định hướng lớn cho
phép doanh nghiệp thay đổi, cải thiện và củng cố vị thế cạnh tranh của mình.

- 26 -

- Do thiếu kỹ năng: các chủ doanh nghiệp nhỏ, do hạn chế về trình độ
nên thường thiếu những kỹ năng cần thiết để bắt đầu hoạch định một chiến lược,
ngoài ra họ cũng không muốn tốn tiền để thuê tư vấn.

Việc ứng dụng quy trình hoạch định chiến lược, hầu như cho đến nay mới chỉ là

- Do thiếu niềm tin: có nhiều chủ doanh nghiệp vốn rất nhạy cảm với

"mảnh đất riêng" của các doanh nghiệp lớn. Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chỉ

những thông tin quan trọng liên quan đến công việc kinh doanh của họ và họ

ra rằng hoạch định chiến lược có liên quan chặt chẽ đến hiệu quả tài chính của

thấy không thoải mái khi phải chia sẻ những tính toán chiến lược của mình cho

các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng cho đến nay vẫn còn rất nhiều doanh

nhân viên hoặc người ngoài.

nghiệp nhỏ và vừa chưa quan tâm đến công tác này.

Những lý do trên làm cho hoạch định chiến lược ngày càng trở nên mờ

Theo số liệu thống kê của diễn đàn kinh tế thế giới, trong bảng báo cáo


nhạt trong quan niệm của các nhà quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vậy làm

công nghệ thông tin toàn cầu 2004-2005, chiến lược và hoạt động công ty của

thế nào để hoạch định chiến lược thực sự có một chỗ đứng như nó cần phải có

Việt Nam đứng hạng 81 trên thế giới, thua xa Singapore xếp hạng 13, Malaysia

trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do không có chiến lược cạnh tranh rõ ràng

xếp hạng 28, Trung Quốc xếp hạng 39 và Phillipines xếp hạng 50.
Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ vừa và nhỏ không có
chiến lược cạnh tranh rõ ràng, có một số doanh nghiệp không có chiến lược

nên việc khẳng định và cũng cố vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường thế
giới là một vấn đề khó khăn và cần phải khắc phục.
2.3.1.2. Nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp

cạnh tranh, và chỉ làm hàng theo yêu cầu của khách hàng, theo những mẫu mã

Nguồn nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp chủ yếu là nguyên liệu gỗ,

đã có sẵn từ phía khách hàng. Tuy biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường lớn

nguyên liệu đầu vào tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm

và tiềm năng, các công ty vẫn cứ hoạch định là thâm nhập vào thị trường Mỹ

và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.


nhưng không có một chiến lược khả thi để thâm nhập vào thị trường này. Có thể
quy cho những nguyên nhân sau:
- Do không có thời gian: ở các doanh nghiệp nhỏ, người chủ doanh
nghiệp thường là người điều hành trực tiếp, do đó thời gian của họ chủ yếu được
giành cho việc giải quyết những vấn đề tác nghiệp hàng ngày và hầu như không
còn thời gian để quan tâm tới việc hoạch định dài hạn.
- Do không quen với việc hoạch định chiến lược: có nhiều chủ doanh
nghiệp chưa nhận thức được công dụng của hoạch định chiến lược hoặc họ cho
rằng chiến lược không có liên quan nhiều đến tình trạng kinh doanh của họ.

Nguồn nguyên liệu gỗ hiện tại có được từ nguồn nguyên liệu gỗ trong
nước (từ rừng trồng và rừng tự nhiên) và nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu.
Nếu như năm 1990 Việt Nam khai thác bình quân 1,8 triệu m3 gỗ một
năm thì từ năm 2000 đến nay khai thác bình quân 300.000m3 gỗ rừng tự nhiên.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thành phố Hồ Chí Minh chiếm khoảng
70% năng lực sản xuất các sản phẩm gỗ xuất khẩu trong cả nước, do đó nhu cầu
sử dụng nguồn nguyên liệu cũng rất cao (chiếm đến 70%)
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, diện tích rừng
tự nhiên hiện có của Việt Nam là 9.44 triệu ha, trữ lượng 720,9 triệu m3 gỗ. Để
bảo vệ môi trường và đảm bảo sự phát triển bền vững, Chính phủ đã giới hạn khai


- 27 -

- 28 -

thác gỗ từ những rừng tự nhiên tại địa phương chỉ khoảng 300.000 m3 mỗi năm

cách xa về địa lý nên giá thành nguyên liệu bị đội lên rất cao, giảm khả năng


trong giai đoạn 2000 đến 2010, chủ yếu để phục vụ cho nhu cầu xây dựng, sản xuất

cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam.

đồ gỗ trong nước (250.000 m3) và sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu (50.000 m3).

Cho đến nay, nguồn gỗ nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là từ Malaysia

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng đang triển khai chương trình trồng

(60 triệu USD), Lào (36 triệu USD), Campuchia (29 triệu USD), Indonesia (18

mới 5 triệu ha rừng và cho đến năm 2010 Việt Nam sẽ có thêm 2 triệu ha rừng

triệu USD)... Song thực tiễn nhiều năm qua đã chỉ ra: các quốc gia có rừng tự

phòng hộ, rừng đặc dụng và 3 triệu ha rừng sản xuất.

nhiên trong khu vực như Indonesia, Myanmar, Lào, Campuchia v.v... ngày càng

Bảng 2.5. Sản lượng gỗ khai thác của Việt Nam qua các năm
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996

1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003

Tổng số ( Nghìn m3 )
3445.5
3209.6
2686.5
2883.8
2853.2
2793.1
2833.5
2480.0
2216.8
2122.5
2375.6
2397.2
2504.0
2500.0

Chỉ số phát triển
( Năm trước =100 ) - %
105.6
93.2
83.7
107.3

98.9
97.9
101.4
87.5
89.4
95.7
111.9
100.9
104.5
99.8
Nguồn: Tổng cục thống Kê

Để bù đắp sự thiếu hụt về nguyên liệu gỗ rừng tự nhiên, hàng năm Việt
Nam phải nhập khẩu khoảng 250.000 đến 300.000 m3 gỗ từ các nước lân cận và
tăng cường sử dụng gỗ rừng trồng, ván nhân tạo để sản xuất hàng xuất khẩu.
Nguồn gỗ nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á như Campuchia, Lào, Indonesia,
Malaysia thường không ổn định do chính sách lâm sản của các quốc gia này
luôn thay đổi, trong khi nguồn nhập khẩu từ các quốc gia khác như New
Zealand, Australia, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada, Mỹ, Châu Phi lại

hạn chế tối đa việc khai thác xuất khẩu gỗ do nguồn tài nguyên rừng ngày càng
cạn kiệt và do tác động từ các khuyến cáo của các tổ chức quốc tế. Hơn thế nữa,
thế giới trong xu thế quản lý rừng thương mại đã có hàng loạt biện pháp, trong
đó biện pháp hữu hiệu nhất là quản lý bằng hệ thống chứng chỉ được cấp với
rừng trồng và được thế giới công nhận như hệ thống FSC (Forest Stewardship
Council) với 28 triệu ha; hệ thống quản lý môi trường ISO 14001 với 103 triệu
ha; sáng kiến rừng bền vững Mỹ (the American Sustainable Forestry Initiative)
với 38 triệu ha và Hội đồng chứng nhận rừng Châu Âu Pan (Pan European
Forest Certification Council) với 43 triệu ha.
Sử dụng phổ biến nhất là hệ thống chứng chỉ của tổ chức FSC bởi các

tiêu chí của tổ chức phi chính phủ này là: quản lý tài nguyên thế giới bền vững,
vì lợi ích lâu dài các mặt: xã hội, môi trường, kinh tế nhằm đảm bảo rừng trên
thế giới được bảo vệ cho các thế hệ sau. Để vào được các thị trường lớn như:
EU, Mỹ, khối liên hiệp Anh, các sản phẩm gỗ xuất khẩu của các nước - trong đó
có Việt Nam phải có một trong những chứng chỉ trên và thuận lợi nhất là sử
dụng chứng chỉ FSC. Do đó, việc cân nhắc nhập khẩu hàng gỗ từ các quốc gia
có rừng FSC là một trong những tiêu chí lựa chọn thị trường nguyên liệu gỗ của
Việt Nam. Thị trường gỗ của Malaysia, New Zealand, Nam Phi và Mỹ chính là
các thị trường Việt Nam đang hướng tới. Bên cạnh đó, tiềm năng thị trường
nguyên liệu gỗ của một số quốc gia khác như Brazil cũng nên được định hướng.


- 29 -

- 30 -

Bảng 2.6. Kim ngạch nhập khẩu gỗ của Việt Nam từ các nước/khu vực

Nước/khu vực
Campuchia
Indonesia
Lào
Malaysia
Thái Lan
Singapore
Đài Loan
New Zealand
Mỹ
Các nước khác
Tổng cộng


cộng đồng quốc tế cũng như từng quốc gia đặc biệt quan tâm, kết hợp với các
giải pháp truyền thống nêu trên là cần phải thiết lập quản lý rừng bền vững và

(đvt:1.000 USD)
Năm
2000
11.698
20.431
36.024
27.560
9.295
11.018
4.361
2.796
745
27.654
151.582

Năm 2001

Năm 2002

Năm 2003

17.580
22.718
34.778
30.438
5.753

2.779
6.399
4.154
4.934
31.779
161.312

28.022
14.475
36.181
61.448
11.114
5.222
11.265
8.885
16.658
56.417
249.687

28.9000
17.3000
59.500

chứng chỉ rừng.
Chứng chỉ rừng (Forest Certification) chính là sự xác nhận bằng văn bản
– giấy chứng chỉ rằng một đơn vị quản lý rừng được cấp chứng chỉ đã đáp ứng
đầy đủ những tiêu chuẩn về quản lý rừng bền vững. Giấy chứng chỉ này là thông
điệp bảo đảm với người tiêu dùng và tất cả những ai quan tâm đến bảo vệ rừng
và môi trường rằng sản phẩm rừng của đơn vị được cấp chứng chỉ đã được sản
xuất trên cơ sở rừng được tái tạo lâu dài, không ảnh hưởng đến các chức năng


17.3000

sinh thái của rừng và môi trường xung quanh và không làm suy giảm tính đa

250.000

dạng sinh học.

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê

Hiện nay, nhiều người tiêu dùng đã nhận thức được tầm quan trọng của

Hiện nay, ở Việt Nam chưa có khu rừng nào có chứng chỉ rừng (FSC),

các mặt hàng đồ gỗ được cấp chứng chỉ rừng, thậm chí hội người tiêu dùng tại

trong khi đó nhu cầu sử dụng các sản phẩm có chứng chỉ nguồn gốc xuất xứ

Anh, Hà Lan còn có xu hướng tẩy chay sử dụng các loại hàng không có nguồn

ngày một cao ở hầu hết các thị trường lớn.
Do những tác động của con người như khai thác lâm sản (hợp pháp và
bất hợp pháp), chuyển đổi đất lâm nghiệp sang trồng trọt và chăn nuôi, xây
dựng, đô thị hóa v.v... nên diện tích rừng tự nhiên đã và đang bị giảm đi đáng
kể. Theo ước tính của FAO, hàng năm diện tích rừng tự nhiên trên toàn cầu mất
đi khoảng 9 triệu ha (FAO, 2001). Ở Việt Nam, năm 1943 tổng diện tích rừng cả
nước khoảng 14,3 triệu ha song đến năm 2001 diện tích rừng chỉ còn khoảng
11,3 triệu ha và diện tích đất không có rừng khoảng 8 triệu ha. Môi trường sống
của nhiều loài động, thực vật rừng cũng biến mất hoặc bị thoái hóa nghiêm

trọng.

gốc xuất xứ. Nhu cầu đối với gỗ nhiệt đới đã được chứng chỉ ở thị trường châu
Âu và Mỹ đã vượt quá cung. Hiện có hơn 8.000 sản phẩm trên khắp thế giới có
mang biểu trưng của chứng chỉ rừng (FSC) từ cửa gỗ đến lược chải đầu, từ văn
phòng phẩm đến giấy toilet. Ngày nay, mạng lưới lâm sản toàn cầu, một nhóm
các tổ chức và công ty cam kết sản xuất và buôn bán gỗ và lâm sản đã được
chứng chỉ, đã có mạng lưới ở 18 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới với hơn
600 thành viên. Theo kết quả thống kê nhu cầu sử dụng hàng có chứng chỉ rừng
đã gia tăng với tỷ lệ 2-3% mỗi năm ở Anh. Ở Hà Lan có 500 công ty cùng với
nhà nhập khẩu gỗ nhiệt đới lớn nhất ở châu Âu và lớn thứ 2 trên toàn thế giới,
hiện đã cam kết chỉ mua sản phẩm đã có FSC. Các mạng lưới bán lẻ rất lớn từ
Anh và Mỹ cũng hoạt động với vai trò xúc tác cho những thay đổi bởi họ đang

Thực tế cho thấy nếu chỉ có các biện pháp truyền thống như tăng cường
luật pháp, tham gia các công ước... thì không thể bảo vệ được diện tích rừng tự
nhiên hiện còn của nhân loại, nhất là rừng nhiệt đới tập trung chủ yếu ở các
nước đang phát triển. Một trong những biện pháp quan trọng hiện nay, được cả

gia tăng yêu cầu các nhà cung cấp của họ cung cấp cho họ gỗ đã được chứng
chỉ.


- 31 -

Có thể nêu đây mục tiêu dài hạn của IKEA, một tập đoàn đang hoạt động

- 32 -

v.v… Hiện nay theo quy định chung của các khách hàng Mỹ, độ ẩm của sản


mạnh tại Việt Nam, là đảm bảo rằng tất cả các sản phẩm gỗ tại IKEA đều có

phẩm gỗ thành phẩm an toàn là nhỏ hơn 12% cho sản phẩm trong nhà và nhỏ

nguồn gốc từ các khu rừng đã được xác định là quản lý tốt. Bước đầu tiên trong

hơn 16-17% cho sản phẩm ngoài trời (độ ẩm này tùy thuộc vào thỏa thuận giữa

việc đạt được mục tiêu này là yêu cầu tất cả những nhà cung cấp lâm sản thực

hai bên mua và bán). Do đó việc kiểm tra độ ẩm gỗ ngay từ khâu ra phôi là rất

hiện các yêu cầu tối thiểu sau: Gỗ sử dụng phải được sản xuất tuân thủ theo luật

quan trọng, vì giải pháp để khắc phục giảm độ ẩm của sản phẩm khi là thành

pháp và các quy định về hoạt động lâm nghiệp hiện hành; Gỗ sử dụng không

phẩm là rất khó khăn. Vấn đề này được giải quyết từ khâu sấy gỗ.

được khai thác từ các khu rừng cổ xưa hoặc có giá trị bảo tồn cao, trừ phi khu
vực rừng đó đã được chứng chỉ theo các nguyên tắc và tiêu chí của FSC hoặc
một hệ thống tương tự. Bước thứ 2 để đạt được mục tiêu này là nới rộng các yêu
cầu trên đối với các nhà cung cấp các lâm sản khác. Để kiểm tra các thành tựu

- Khâu kiểm tra từng khâu trong quá trình sản xuất, từng công đoạn
một.
- Khâu kiểm tra thành phẩm, đóng gói v.v…


đạt được sau khi thực hiện các bước trên, IKEA sẽ thiết lập một hệ thống cho

Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chú trọng nhiều đến khâu

phép theo dõi hành trình gỗ trong sản phẩm nó tạo thành đến các đơn vị quản lý

kiểm tra chất lượng cho từng công đoạn và các sai sót trong quá trình sản xuất

rừng cụ thể.

trong từng khâu là khó phát hiện được.

2.3.1.3. Chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp
Có thể nói rằng chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn
vào nguồn nguyên liệu gỗ. Chất lượng nguồn nguyên liệu tốt thì sẽ dẫn đến chất

Ngoài ra chất lượng của các thành phần phụ (accessories) cũng ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm mà vấn đề này chưa được các doanh
nghiệp đặc biệt quan tâm.

lượng của sản phẩm tốt. Theo đánh giá của các đối tác nước ngoài thì sản phẩm

Với nhu cầu sử dụng các sản phẩm gỗ FSC ngày một lớn không chỉ ở các

gỗ của Việt Nam so về chất lượng và kiểu dáng thì không thua kém gì so với

nước Châu Âu mà là ở Mỹ là một nhu cầu và đòi hỏi ngày càng cao, trong khi

các sản phẩm của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia, Indonesia


số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ có được chứng chỉ này không nhiều, đây

v.v…

là lý do khiến cho việc thâm nhập vào thị trường Mỹ khó khăn so với các doanh
Tuy nhiên vấn đề quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ

nghiệp lớn khác như Scancom, Ikea v.v… và các nước trong khu vực.

không được thực hiện một cách chặt chẽ. Chất lượng sản phẩm được hình thành

Với cùng một loại gỗ như gỗ dầu (Keruing), nhưng loại gỗ có nguồn gốc

từ các khâu riêng biệt của quá trình sản xuất, các khâu của quá trình sản xuất

FSC luôn luôn mắc hơn gỗ không có nguồn gốc FSC (đôi khi mắc hơn đến 1.5

thường bao gồm:

lần) nhưng các công ty nước ngoài sẵn sàng mua với loại gỗ FSC.

- Khâu kiểm tra nguồn nguyên liệu gỗ, kiểm tra chất lượng sản phẩm

Điều kiện để doanh nghiệp có thể sản xuất và cung cấp sản phẩm với loại

gỗ, các số liệu kỹ thuật của sản phẩm gỗ từ khâu sấy gỗ, ra phôi v.v…. Các vấn

gỗ FSC (thông thường sản phẩm được đóng biểu tượng FSC lên) thì bắt buộc

đề mà hầu hết các doanh nghiệp không đạt được về mặt chất lượng như độ ẩm


doanh nghiệp phải có chứng chỉ công nhận của quốc tế - chứng chỉ COC (Chuỗi

của sản phẩm, độ đồng màu của sản phẩm, các số liệu kỹ thuật của sản phẩm

hành trình của sản phẩm) và phải có số COC. Ngoài cạnh được công nhận


- 33 -

- 34 -

chứng chỉ COC, doanh nghiệp phải kiểm soát chuỗi hành trình sản phẩm qua

Đài Loan, Hồng Kông, Singapore v.v… Một số lượng rất lớn các doanh nghiệp

các khâu sau:

xuất khẩu trực tiếp sang thị Trường Mỹ là doanh nghiệp nước ngoài như Đài
Loan, Singapore v.v… họ qua Việt Nam để tận dụng lợi thế cạnh tranh giá lao

-

Thu mua nguyên liệu gỗ

-

Đầu vào tốt

-


Kiểm tra trong sản xuất

-

Hàng hóa thành phẩm và lưu kho.

của Việt Nam tương đối rẻ. Ở thành phố Hồ Chí Minh, giá thuê công nhân chỉ

-

Việc bán hàng

khoảng 1.5USD- 2 USD một ngày trong khi đó giá thuê nhân công ở các tỉnh miền

Ngoài ra doanh nghiệp phải có chứng từ phù hợp chứng minh thành
phẩm có nguồn gốc từ rừng trồng và được xuất trình cho cơ quan thẩm tra khi
có yêu cầu.
Theo kết quả thống kê của tôi và sinh viên Trường Đại Học Ngoại
Thương thực hiện trên các doanh nghiệp phía Nam, chỉ có khoảng 40% số
doanh nghiệp cho rằng chất lượng sản phẩm gỗ là một trong những lợi thế cạnh
tranh của họ.
2.3.1.4. Khả năng cạnh tranh về mặt giá cả của doanh nghiệp

động rẻ.
Tuy nhiên với thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay chỉ ở
mức khoảng trên 500 USD/năm, thì điều này cũng chứng tỏ được rằng giá lao động

Trung lại càng thấp hơn chỉ khoảng 1USD/ngày. Thu nhập đầu người của Việt
Nam thua xa các nước Việt Nam đang đối đầu trong cạnh tranh quốc tế trong khu

vực như Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan, v.v…
Chỉ số GNI cũng một phần nào phản ánh được giá cả lao động của các nước
trong khu vực, mức độ phát triển của một quốc gia và thu nhập của mỗi người dân
và tất nhiên là chi phí lao động luôn luôn gắn liền với thu nhập bình quân trên đầu
người. Qua bảng thống kê trong phụ lục 5 có thể dễ dàng nhận thấy GNI/người của
Việt Nam (năm 2003) chỉ có 480 USD/năm, trong khi Trung Quốc là 1,094 USD,
Malaysia là 4,164 USD và cũng dễ dàng nhận thấy rằng so với các nước trong khu

Có thể nói giá cả là một yếu tố quan trọng trong việc tạo nên lợi thế cạnh

vực (trừ Campuchia, Lào và Myanma), GNI/người của Việt Nam thấp hơn nhiều

tranh của doanh nghiệp. Giá cả của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào giá

các nước này, điều này cũng phản ánh chi phí lao động của Việt Nam so với các

thành để sản xuất ra sản phẩm. Đối với những mặt hàng gỗ tiêu dùng thông

nước này rất cạnh tranh, đặc biệt là nguồn lao động thủ công. Ở đây cũng xin nói rõ

dụng, những mặt hàng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể làm được thì giá

rằng chi phí lao động thủ công chính là yếu tố chính cấu thành nên chi phí của sản

cả là công cụ cạnh tranh chủ yếu giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như

phẩm đối với mặt hàng gỗ, đều này cũng là một yếu tố chính quyết định khả năng

nước ngoài. Các yếu tố đầu vào quyết định đến tính cạnh tranh của giá cả bao


cạnh tranh của ngành hàng chế biến và xuất khẩu gỗ của Việt Nam nói chung và

gồm:

của Hồ Chí Minh nói riêng.
- Nguồn nhân công của doanh nghiệp:

- Giá cả nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp:

Có thể nói nguồn lực lượng lao động của cả nước nói chung và của thành

Theo như phân tích ở trên, nguồn nguyên liệu gỗ của Việt Nam phụ

phố Hồ Chí Minh nói riêng tương đối rẻ, đây là một lợi thế cạnh tranh cho các

thuộc nhiều vào gỗ nhập khẩu. Có đến 80% nhu cầu về gỗ phải nhập khẩu từ các

doanh nghiệp đối với các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Malaysia,

nước láng giềng như Indonesia, Malaysia, Lào, Cam pu chia v.v… và hầu như


- 35 -

- 36 -

tất cả gỗ mang nguồn gốc rừng trồng (FSC) phải được nhập từ Bắc Mỹ, Ba Lan,

khi nhu cầu về gỗ trên thị trường thế giới ngày một tăng nhanh, đẩy giá nhập


Phần Lan, Châu Phi, v.v… Do đó có thể khẳng định rằng giá cả nguyên liệu của

khẩu gỗ tăng cao.

Việt Nam cao hơn hẳn so với các nước trong khu vực và điều này cũng ảnh
hưởng nhiều đến giá cả sản phẩm và giảm tính cạnh tranh so với các nước trong
khu vực.

+ Tốc độ trồng rừng chậm hơn nhiều so với tốc độ gia tăng nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm trên thế giới, do đó nhu cầu gỗ vượt xa khả năng cung cấp.
+ Hai nước xuất khẩu đồ gỗ lớn nhất là Trung Quốc và Hàn Quốc gia

Trong những năm gần đây theo đánh giá của các doanh nghiệp ở phía

tăng số lượng nhập khẩu nguyên liệu, sự tăng trưởng nhanh kinh tế ở Trung

Nam, giá nhập khẩu gỗ tăng từ 10-30%, điều này sẽ tăng thêm giá thành sản

Quốc và Hàn Quốc khiến cho nhu cầu sản phẩm tăng nhanh, do đó làm tăng

xuất sản phẩm, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ.

nhanh lượng cầu trong khi cung không đổi.

Theo thời báo kinh tế ngày nay (ngày 19/05/2005), giá các loại gỗ MDF
tăng từ 210 USD lên 250 USD/m3. Các loại gỗ thông mua từ Bắc Âu tăng từ 180
USD lên 205 USD/m3. Các loại ván, gỗ nguyên liệu khác như Falcat tăng từ 265
USD lên 330 USD/m3, PB tăng từ 130 USD lên 160 USD/m3…
Mặt khác với nhu cầu sử dụng gỗ FSC ngày càng cao trong khi đó ở Việt
Nam chưa có khu rừng nào đạt được chứng chỉ FSC, cho nên tất cả nguyên liệu

gỗ FSC phải được nhập từ nước ngoài, do đó giá cả nguyên liệu rất cao do phải
tốn tiền vận chuyển, chi phí nhập khẩu v.v…
Cũng theo kết quả khảo sát các doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh,
có đến 64% doanh nghiệp cho rằng giá cả nguyên liệu gỗ nhập khẩu cao hơn so
với trong nước.
Có thể quy cho việc tăng giá gỗ gồm một số nguyên nhân sau:
- Đa số khách hàng nước ngoài chỉ ưa chuộng các sản phẩm có nguồn gỗ
đặc chuẩn nên các loại gỗ trong nước không đáp ứng được yêu cầu.
- Cầu đang vượt cung về nguyên liệu gỗ xuất khẩu, do các nguyên nhân

- Giá cả nhiên liệu ngày một leo thang dẫn đến chi phí vận chuyển tăng
lên, chi phí vận chuyển tăng lên từ 10-20 USD/m3.
- Giá cả các yếu tố liên quan đến giá thành/giá cả sản phẩm:
Giá các sản phẩm hỗ trợ cho các sản phẩm gỗ cũng tăng lên trong thời
gian qua. Không chỉ giá các loại nguyên liệu gỗ tăng cao, giá các phụ liệu kèm
theo như sắt, thép sử dụng trong chế biến đồ gỗ nội thất cũng tăng chóng mặt,
giá inox tăng hơn 40% so cùng kỳ. Với mức tăng này giá thành sản phẩm gỗ
xuất khẩu tại các công ty tăng thêm 15% - 20%. Nơi nào chế biến mặt hàng sử
dụng nhiều phụ liệu, mức tăng có thể lên đến 30%.
Ngoài ra các chi phí khác như chi phí điện nước, chi phí điện thoại, chi
phí thuê văn phòng v.v…. cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá cả sản phẩm và lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Hiện tại chi phí điện thoại đường dài và quốc
tế của Việt Nam thuộc loại cao so với các nước trong khu vực, trong khi đó điện
thoại nội hạt theo thống kê của ngân hàng Thế Giới thì Việt Nam thuộc loại
thấp, thấp hơn so với mức trung bình của Châu Á Thái Bình Dương và thế giới.
Tuy nhiên Philippines vẫn là nước ưu đãi về chi phí điện thoại nội hạt, theo số

sau:
+ Trên khắp thế giới người ta ngày càng quan tâm đến việc khai thác bất
hợp lý rừng, đặc biệt là việc phá huỷ rừng nhanh chóng từ các rừng nhiệt đới.

Điều này có nghĩa là việc cung cấp gỗ cứng từ những rừng này giảm dần trong

liệu thống kê của ngân hàng Thế Giới, năm 2003 chi phí điện thoại nội hạt của
Việt Nam tương đương với Malaysia và Singapore (0.02 USD/3’), trong khi đó
Thái Lan là nước có chi phí điện thoại mắc nhất trong khu vực (0.07USD/3’)


- 37 -

- 38 -

Còn về chi phí điện, giá điện kinh doanh ở Việt Nam tuy không cao

Nguyên nhân các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chưa chú trọng

nhưng chất lượng của dịch vụ cung cấp còn bị hạn chế, trung bình gây thêm tổn

nhiều đến thương hiệu là do các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức đúng

thất về chi phí điện của doanh nghiệp từ 10-15%

mức về thương hiệu, do đó họ còn gặp khó khăn về việc xây dựng và phát triển

Chi phí cho thuê mặt bằng của Việt Nam cũng thuộc loại không cao lắm

thương hiệu. Mặt khác nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp này chưa có

so với các nước khác trong khu vực, ví dụ, mức giá thuê ở khu vực thành thị có

nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng thương hiệu, kinh phí để đầu tư cho việc


5 hạng từ khoảng mức trần sàn 0,18-2,16 USD/m2/năm lên tới 1-12

xây dựng thương hiệu còn ít.

USD/m2/năm, đây là mức giá tuy không cao lắm nhưng có sự khác biệt rất

Người tiêu dùng (hay người nhập khẩu Mỹ) họ thích mua những mặt

nhiều về khả năng tiếp cận giữa các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI

hàng có thương hiệu là vì họ cảm thấy an tâm về xuất xứ hàng hóa, uy tín của

với doanh nghiệp Nhà nước.

thương hiệu đó, sự an tâm về chất lượng hàng hóa, giảm rủi ro v.v…

Ngược lại, chi phí văn phòng vào loại cao so với các thành phố lớn ở các

Trong khi đó ở Việt Nam, trên 90% các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu

nước khu vực. Tại thành phố Hồ Chí Minh giá thuê văn phòng loại tốt lên tới

gỗ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và không có một thương hiệu rõ ràng, người

15- 20 USD/m2/tháng.

Mỹ rất e ngại khi làm việc với doanh nghiệp không danh tiếng hay không

Nhìn chung xét yếu tố cạnh tranh về mặt giá cả, với ưu thế về mặt chi phí

nhân công (một yếu tố chính quyết định giá cả), mặt hàng gỗ của Hồ Chí Minh
hoàn toàn có khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực như Trung

thương hiệu, họ không bao giờ làm việc với ai khi không hiểu rõ về đối tác của
mình.
Do đó, xét về mặt thương hiệu, mặt hàng gỗ của Việt Nam nói chung và

Quốc, Đài Loan v.v…

của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là kém cạnh tranh hơn hẵn so với các

2.3.1.5. Thương hiệu của doanh nghiệp

nước trong khu vực như Đài Loan, Malaysia, Trung Quốc v.v… và một số

Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ đều không chú trọng
nhiều đến thương hiệu. Hiện tại có hơn đến 90% đồ gỗ xuất khẩu của Hồ Chí
Minh mang thuơng hiệu nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là phần lớn các
doanh nghiệp xuất khẩu qua trung gian và mang nhãn hiệu của công ty trung
gian hay nhãn hiệu nước ngoài.

doanh nghiệp ở nước ngoài tận dụng cạnh tranh về mặt giá cả của Việt Nam với
thương hiệu của mình đã thiết lập nhà máy sản xuất tại Việt Nam hoặc mua các
sản phẩm gỗ của Việt Nam để xuất sang thị trường Mỹ.
2.3.1.6. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp phản ánh trình độ, mức độ chuyên

Do đó về vấn đề thương hiệu, Việt Nam thua xa Đài Loan nơi mà họ có

môn của doanh nghiệp và nó cũng là yếu tố tác động lên chuỗi giá trị của doanh


thế mạnh rất lớn về xuất khẩu gỗ trong khi đó nguồn nguyên liệu trong nước của

nghiệp theo mô hình của Porter và ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của

họ không phải là thế mạnh, tuy nhiên họ biết liên kết lại với nhau để bảo vệ

doanh nghiệp.

thương hiệu của mình. Do đó một phần lớn lượng xuất khẩu của chúng ta sang
Mỹ đều bán qua nước trung gian là Đài Loan.

Hầu hết khả năng chuyên môn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt
Nam thấp, có nhiều doanh nghiệp cán bộ quản lý thiếu kỹ năng về ngoại ngữ.


- 39 -

Tuy nhiên trong những năm gần đây, chất lượng nguồn nhân lực trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày một cải tiến. Theo kết quả khảo sát qua

- 40 -

Chí Minh có 2.503.213 người đang làm việc, năm 2004 là 2.561.104 người,
trong đó có trên 1 triệu người làm việc trong các ngành sản xuất.

một số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận thì có đến
73% các cán bộ quản lý, kinh doanh đã qua khóa đào tạo nghiệp vụ ngoại

Nhìn chung nguồn nhân lực, lao động của doanh nghiệp có các đặc điểm

sau:

thương, trình độ học vấncủa đội ngũ quản lý là 11% trên đại học, 69% ở bậc Đại
học và cao đẳng, còn lại là bậc phổ thông.

- Trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa đồng đều, nhiều công ty chế biến
hàng xuất khẩu vẫn chưa áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng toàn diện như

Còn về trình độ ngoại ngữ thì theo khảo sát tỷ lệ người biết ngoại ngữ

tiêu chuẩn ISO, sản xuất theo các tiêu chuẩn Quốc tế phù hợp với chất lượng

khá cao, chiếm đến 96%, trong đó có 56.2% cán bộ có trình độ C và trên C,

hàng xuất khẩu vì vậy mà chuyên môn của các chuyên viên kỹ thuật ở các công

27.3% cán bộ có trình độ B, 4.1% cán bộ có trình độ A và có 12.4% cán bộ biết

ty cũng đòi hỏi khác nhau.

2 ngoại ngữ.
Còn về trình độ vi tính thì theo kết quả điều tra thì có đến 94% cán bộ
biết sử dụng vi tính, trong đó có 51% cán bộ có trình độ C.
Tuy nhiên khi so sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á thì trình
độ tiếng Anh của Việt Nam chỉ đứng hạng thứ 6 (đứng đầu là Singapore)

- Các kỹ sư được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật ở nước ta chưa phổ
biến
- Chất lượng tay nghề của thợ ở các doanh nghiệp không ổn định, đều
này chủ yếu do nguyên nhân mức độ ổn định của nguồn nhân lực của công nhân

không được đảm bảo.

Đối với các doanh nghiệp, tỷ lệ người biết chữ là một yếu tố khách quan

- Các công ty chủ yếu sản xuất dựa trên kinh nghiệm là chính mà không

đối với họ, tuy nhiên đối với phạm vi vĩ mô của một quốc gia, nó cũng phản ánh

theo một quy trình kỹ thuật nào, đều này hạn chế việc nâng cao trình độ của các

trình độ nguồn nhân lực và năng lực cạnh tranh của quốc gia đó.

cán bộ kỹ thuật

Theo số liệu thống kê trên thì tỷ lệ biết chữ của Việt Nam tương đương
đối với các nước trong khu vực, năm 2002 là 93.9% (xem phụ lục số 6)

2.3.1.7. Chất lượng dịch vụ, khả năng đáp ứng yêu cầu khách hàng của các
doanh nghiệp.

Tuy nhiên có thể khẳng định rằng nguồn lao động của Việt Nam rất khéo

Trong chuỗi giá trị của Porter, vai trò của dịch vụ là một trong những yếu

léo và chịu khó học hỏi, nhiều sản phẩm cần đến sự khéo léo của tay nghề mà

tố quan trọng trong việc gia tăng lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, dịch vụ

máy móc khó có thể thực hiện được đều được sản xuất tốt dựa vào bàn tay khéo


mà các doanh nghiệp cần quan tâm trong việc xuất khẩu gỗ sang thị trường Mỹ

léo của nhiều thợ Việt Nam. Đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của ngành của

là dịch vụ tiếp thị và bán hàng, dịch vụ hậu mãi v.v…

Việt Nam so với các nước trong khu vực.

Hiện tại có thể nói rằng chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp vừa và

Xét về lực lượng lao động, theo cục thống kê thành phố Hồ Chí Minh,

nhỏ chưa cao, họ hoạt động còn thiếu hệ thống, thiếu tính khoa học, thiếu tính

lao động của thành phố Hồ Chí Minh khá dồi dào. Năm 2003 ở thành phố Hồ

chuyên nghiệp, đây cũng là lý do khiến do giảm năng lực cạnh tranh khi tham
gia vào thị trường Mỹ.


- 41 -

- 42 -

Chất lượng dịch vụ ở đây còn bao hàm chất lượng đảm bảo đúng lúc, kịp

lên. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam hàng năm rất cao so với các nước

thời. Khách hàng luôn luôn thích được đáp ứng những việc đáp ứng nhu cầu kịp


trong khu vực, năm 2004 đạt 7.7% đứng thứ nhì trong các nước Đông Nam Á,

lúc. Đa số nguồn nguyên liệu của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào nguồn

đứng thứ 2 sau Singapore và ước tính là tốc độ phát triển GDP trong năm 2005

nhập khẩu, do đó doanh nghiệp không chủ động được nguồn nguyên liệu của

là 7.5% (so với dự báo năm 2005 là 8.5%). Tốc độ phát triển của ngành chế biến

mình và khó có khả năng kiểm soát chặt chẽ thời gian sản xuất để đáp ứng cho

và xuất khẩu gỗ tăng trưởng rất cao trong những năm gần đây và là một trong

khách hàng.

bảy ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam và ngành chế biến và xuất khẩu gỗ

Uy tín là một yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
việc giao hàng đúng lúc là một yếu tố quan trọng nhằm nâng cao chất lượng

đã lọt vào câu lạc bộ “1 tỷ USD” về doanh số xuất khẩu trong năm 2004.
Sự tăng trưởng của ngành của đạt được mức cao, tính đến tháng 10 năm

dịch vụ, sản xuất của công ty mình. Tuy nhiên, theo như hàng năm, đối với mặt

2005, doanh số xuất khẩu ngành chế biến gỗ đạt được 1,211 tỷ USD (tăng

hàng xuất khẩu gỗ, mùa cao điểm (mùa khách hàng đặt hàng nhiều) bao gồm từ


43.1% so với cùng kỳ năm ngoái) và ước tính trong năm 2005 đạt được doanh

tháng 11 năm này đến tháng 5 năm sau, do đó trong mùa cao điểm các doanh

số 1,37 tỷ USD và là ngành có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao thứ ba so với

nghiệp thường luôn luôn giao hàng không đúng trong hợp đồng (trung bình trễ

than đá (80.3%) và gạo 49%) (Theo DB Research Report, World Bank, IMF &

từ 1-2 tuần/đơn hàng). Đã có không ít doanh nghiệp giao hàng trễ và bị phạt hợp

ADB Reports, Publications by Ministry of Planning and Investment)

đồng hoặc là bị hủy hợp đồng.
Một nghịch lý là ngày nay vấn đề giao dịch hoàn toàn được thực hiện qua
email là chủ yếu, nhưng một số doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn rất xa lạ với
việc sử dụng email trong giao dịch hằng ngày.

Nằm trong ngành có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao, các doanh nghiệp
chế biến và xuất khẩu gỗ ở Hồ Chí Minh có cơ hội thuận lợi để phát triển và mở
rộng thị trường xuất khẩu của mình sang Mỹ.
Với giá dầu thế giới ngày một leo thang dẫn đến chi phí vận chuyển ngày

Các công cụ bán hàng và tiếp thị cho thị trường Mỹ của các doanh

càng cao làm cho giá cả tăng lên khi nhập vào Mỹ, làm giảm tính cạnh tranh về

nghiệp đa số là chưa hoàn chỉnh, đa số các doanh nghiệp bán hàng qua trung


mặt giá cho cho các doanh nghiệp. Hơn nữa giá cả nguyên liệu gỗ trên quốc tế

gian, sản xuất theo đơn hàng và mẫu mã của khách hàng.

ngày càng gia tăng chủ yếu do giá vận chuyển trên thế giới đang tăng do sự gia

2.3.2 Các yếu tố từ môi trường bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh

tăng của giá dầu, nạn cháy rừng, và các nước xuất khẩu nguyên liệu gỗ hạn chế

của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu gỗ ở Tp. Hồ Chí Minh.

xuất khẩu gỗ thô làm cho nguồn nguyên liệu gỗ ngày càng khan hiếm.

2.3.2.1. Các yếu tố môi trường vĩ mô:

b. Yếu tố của môi trường văn hóa, xã hội.

a. Yếu tố của môi trường kinh tế.
Môi trường kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển của một
ngành. Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế phát triển năng động nhất của cả
nước và là một đầu tàu, mũi nhọn trong việc đưa nền kinh tế của đất nước đi

Những mặt hàng gỗ xuất khẩu chủ yếu sang thị trường Mỹ là mặt hàng
trang trí nội thất, trong nhà bếp như bàn ghế, giường, tủ, kệ bếp, cửa v.v… và
bàn ghế ngoài trời, đòi hỏi bởi sự khéo léo và đôi tay tài hoa của người thợ. Việt
Nam vốn được biết đến như là một quốc gia giàu truyền thống văn hóa và những


- 43 -


- 44 -

sản phẩm họ tạo ra cũng rất khéo léo và thu hút được sự chú ý của thị trường

phạm vi một quốc gia mà lan rộng ra trên phạm vi toàn cầu. Đây cũng vừa là cơ

Mỹ.

hội và cũng là thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ trên địa bàn thành
Hơn nữa người Việt Nam được xem là người cần cù, chịu khó học hỏi,

đặc biệt là Hồ Chí Minh là nơi tập trung nhiều người tài giỏi, sẽ là một yếu tố
thuận lợi cho các doanh nghiệp trong vùng thu hút được nhân tài.
c. Yếu tố của môi trường luật pháp, chính trị
Việt Nam đang chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu
gỗ tập trung vào thị trường Mỹ nói riêng, do đó các thủ tục pháp luật ngày càng
được cải tiến và tinh giản gọn nhẹ, thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc xuất khẩu

phồ Hồ Chí Minh.
d. Ảnh hưởng của công nghệ
Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất và nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và của quốc gia nói riêng. Sự phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ sẽ làm giảm chi phí sản xuất, giảm giá
thành, rút ngắn thời gian sản xuất và vì thế lợi thế cạnh tranh sẽ được nâng lên.
Nằm ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các doanh nghiệp có nhiều cơ

gỗ ngày một dễ dàng. Hơn nữa, Hồ Chí Minh được xem là một nơi có điều kiện

hội tiếp cận với công nghệ hiện đại áp dụng trong sản xuất. Thành phố Hồ Chí


thuận lợi và chế độ chính trị tương đối ổn định, do đó các đối tác Mỹ cũng cảm

Minh là một trung tâm lớn về khoa học kỹ thuật, do đó việc tiếp cận các tiến bộ

thấy an tâm khi làm ăn với chúng ta.

khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp khá dễ dàng.

Ở Hồ Chí Minh cũng đang đưa đặt cao vấn đề thương hiệu hàng hóa xuất

Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thiếu vốn và do đó kỹ thuật

khẩu, do đó về vấn đề thương hiệu, các doanh nghiệp có cơ hội nhận được sự hỗ

chưa được đầu tư đúng mức, đặc biệt là máy móc thiết bị phục vụ trong sản

trợ của cơ quan có thẩm quyền để phát triển thương hiệu của mình trên thị

xuất. Các đối tác Mỹ rất quan trọng công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, trước

trường Mỹ.

khi tiến hành làm ăn với một doanh nghiệp nào, họ cũng tiến hành khảo sát khả

Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã tạo cơ hội tiếp cận thị

năng cung cấp, tiêu chuẩn nhà xưởng, chất lượng nhà xưởng, máy móc kỹ thuật

trường rất lớn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là những sản


v.v… Một khi các yếu tố trên đủ những tiêu chuẩn cơ bản của họ thì họ mới tiến

phẩm chế tạo sử dụng nhiều lao động, trước đây chịu mức thuế quan cao tới

hành kinh doanh.

40%, nay Việt Nam được hưởng Quy chế tối huệ quốc (MFN), Quy chế thương

Cũng theo kết quả khảo sát trên 370 doanh nghiệp ở các tỉnh phía Nam,

mại bình thường (NTR) nên mức thuế suất nhập khẩu chỉ còn 3 - 4%. Điều này

100% doanh nghiệp xem trọng vai trò của công nghệ áp dụng trong sản xuất.

đã mở đường cho sự tăng trưởng của ngoại thương giữa hai nước trong năm

Hầu hết các doanh nghiệp nhận thức rằng việc đầu tư công nghệ sẽ gia tăng

2002 và tiếp tục từ đó tới nay.

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Việt Nam đang trên đường gia nhập tổ chức thương mại quốc tế (WTO),
đây là cơ hội rất lớn khi trở thành thành viên chính thức của WTO, đây là cơ hội
cho các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ ở Hồ Chí Minh cọ xát với các doanh
nghiệp khác trong khu vực, do đó vấn đề cạnh tranh không chỉ gói gọn trên

Đúng thế công nghệ có những vai trò quan trọng sau trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:



- 45 -

9 Công nghệ chế biến là nhân tố chính quyết định chất lượng mặt hàng
gỗ.Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay chất lượng hàng hoá cao

- 46 -

yếu khách quan mà bất cứ một doanh nghiệp xuất khẩu nào cũng phải thực hiện
để có thể tiến xa hơn.

đóng góp hơn 70% năng lực cạnh tranh của sản phẩm
9 Công nghệ chế biến hiện đại còn là nhân tố quyết định mẫu mã sản

9 Một mặt hàng gỗ chứa hàm lượng công nghệ cao sẽ dễ xâm nhập vào
nhiều thị trường khác nhau, tìm được các kênh phân phối mới…

phẩm .Mẫu mã sản phẩm là nhân tố không thể thiếu trong một sản phẩm , đặc
biệt là mặt hàng gỗ xuất khẩu.

9 Ngành xuất khẩu gỗ Việt Nam còn non trẻ, chưa có thương hiệu trên
trường quốc tế và thị trường riêng. Cho nên để có thể cạnh tranh được với sản

9 Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ

phẩm các doanh nghiệp nước ngoài vốn đã có mặt lâu năm trên thương trường

trong và ngoài nước luôn chú ý đầu tư công nghệ chế biến , xem nó là nguồn lực


quốc tế, Việt Nam chỉ còn có cách đem "chất lượng" thông qua việc đầu tư công

chính cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mình.Việt Nam muốn hội nhập

nghệ mới có thể đưa doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam lên trên hàng rào

tốt thì không thể đứng ngoài cuộc chơi "công nghệ"này.

cạnh tranh chất lượng mà các thị trường yêu cầu…

9 Vòng đời sản phẩm có giới hạn. Trong hội nhập ngày nay với sự bùng

e. Ảnh hưởng của các quy định của Mỹ về hàng nhập khẩu gỗ.

nổ của chủng loại hàng hoá (mặt hàng gỗ), vòng đời sản phẩm có xu hướng

Có thể nói Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam, việc Mỹ

ngày càng rút ngắn nên các doanh nghiệp nhất thiết phải liên tục đầu tư công

đã áp đặt thuế chống bán phá giá của Trung Quốc đối với mặt hàng gỗ trong

nghệ hiện đại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn đáp ứng nhu cầu

năm 2004 làm cho các sản phẩm gỗ của Trung Quốc kém cạnh tranh về giá, đã

ngày càng cao của thị trường, người tiêu dùng…
9 Trong hội nhập, nâng cao chất lượng sản phẩm kèm theo hạ giá thành

tạo cho các nhà nhập khẩu đồ gỗ Mỹ chuyển hướng sang làm ăn tại Việt Nam.

Do đó đây là cơ hội tốt các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng và đón nhận.

sản phẩm là nhân tố quyết định tới khả năng tiêu thụ của sản phẩm. Mặt hàng gỗ

Tuy nhiên cần cũng lưu ý rằng việc cạnh tranh bằng giá chưa phải là

cũng thế, chỉ có con đường đầu tư công nghệ hiện đại kèm với tuân thủ nghiêm

chính sách cạnh tranh tối ưu sang thị trường Mỹ. Trung Quốc đã từng nổi tiếng

ngặt quy trình quản lý chất lượng mới làm được điều nói trên.

là nước xuất khẩu với giá rẻ liền bị Mỹ áp đặt mức thuế nhập khẩu nhằm chống

9 Đầu tư công nghệ thể hiện quyết tâm của doanh nghiêp trong việc

bán phá giá cho mặt hàng này. Hiện tại Việt Nam cũng là một trong những nước

nâng cao uy tín thương hiệu của doanh nghiệp. Thương hiệu doanh nghiệp ngày

bán giá rẻ (do nguồn nhân công rẻ), nguy cơ bị Mỹ kiện bán phá giá đối với mặt

nay là nguồn sống cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp.

hàng gỗ rất lớn. Các doanh nghiệp cũng cần nên chuẩn bị đối phó với nguy cơ

9 Cạnh tranh trong môi trường khốc liệt như hiện nay, công nghệ là một
nguồn năng lượng cho sự tồn vong của sản phẩm gỗ. Đặc biệt là khi các doanh
nghiệp xuất khẫu gỗ Trung Quốc đang ra sức chiếm lĩnh thị trường thế giới.


này.
Việc quy định chặc chẽ và khắc khe của Mỹ về những tiêu chuẩn chất
lượng hàng hóa, nguyên liệu sản phẩm gỗ cũng là những rào cản kỹ thuật mà

9 Doanh nghiệp không chỉ tồn tại mà còn phát triển, mở rộng quy mô

các doanh nghiệp cần nên lưu ý như mức độ an toàn khi sử dụng sản phẩm, chất

hoạt động. Nghiên cứu công nghệ và ứng dụng công nghệ hiện đại là một tất

lượng gỗ phải không có độc tố, những quy định nghiêm ngặt về xuất khẩu, bao


- 47 -

- 48 -

bì, nhãn mác v.v… và các doanh nghiệp cần phải đáp ứng được những kiểm

hơn ở Hồ Chí Minh, đó chính là những bất lợi mà các doanh nghiệp ở Miền

định cần thiết cho sản phẩm xuất khẩu.

Trung gặp phải.

2.3.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường vi mô
a. Ảnh hưởng của sản phẩm thay thế.
Ngành chế biến và xuất khẩu gỗ hiện tại vẫn đang đứng một vị trí nhất
định trên thị trường Mỹ. Tuy nhiên, với nhu cầu đa dạng hóa của người tiêu
dùng, các sản phẩm gỗ kết hợp với các nguyên liệu khác như sắc, gốm, thép

v.v… đang được khách hàng Mỹ ưa chuộng. Do đó, đối với những mặt hàng có

Tuy nhiên nhìn trên phương diện cạnh tranh rộng hơn, ra khỏi phạm vi
quốc gia, so với các nước trong khu vực, các doanh nghiệp sản xuất và xuất
khẩu gỗ ở Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói chung, chịu sự cạnh tranh
gay gắt của các nước trong khu vực, ở đây có thể kể đến một vài nước mà chúng
ta chịu sự cạnh tranh gay gắt như Đài Loan, Indonesia, Trung Quốc.
Bảng 2.7: Ma trận hình ảnh cạnh tranh của Hồ Chí Minh so với các
nước trong khu vực.

sự kết hợp giữa gỗ và sắt thì Việt Nam gặp sự cạnh tranh rất gay gắt từ Đài
Loan, Trung Quốc. Trên thị trường hiện tại, đối với một số hàng nội thất lúc
trước được sản xuất bằng gỗ, hiện tại người tiêu dùng đang có xu hướng chuyển
sang các nguyên liệu thay thế như sắt, thép không gỉ, nhựa v.v…, nếu các nhà

DN ở Hồ Chí
Minh

b. Ảnh hưởng của các đối thủ cạnh tranh, ma trận hình ảnh cạnh tranh.
Các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ ở Hồ Chí Minh cần phải xác định đối thủ
cạnh tranh của mình là ai và thế mạnh, điểm yếu của họ là gì. Tìm hiểu được

Trung Quốc

Mức
độ
quan
trọng

Phân

loại

Tổng số
điểm
quan
trọng

Phân
loại

1. Chiến lược phát
triển/ Chiến lược
quảng bá/ tính đa dạng
của sản phẩm

0.2

1

0.2

4

0.8

2

xuất khẩu của Hồ Chí Minh không tự đa dạng hóa sản phẩm của mình thì có thể
khó đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng Mỹ.


Indonesia

Các yếu tố chính ảnh
hưởng đến lợi thế
cạnh tranh của doanh
nghiệp

Tổng số
điểm
quan
trọng

Phân
loại

Tổng số
điểm
quan
trọng

Ấn Độ
Phân
loại

Tổng s
điểm qu
trọng

0.4


4

0.8

2. Giá cả sản phẩm

điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp có chiến lược phát triển đúng đắn, tìm

- Giá cả nguồn nguyên
liệu

0.1

2

0.2

4

0.4

2

0.2

4

0.4

được lợi thế cạnh tranh cho mình.


- Giá cả nhân công

0.1

4

0.4

1

0.3

4

0.4

2

0.2

- Thuế nhập khẩu của
Mỹ chống bán phá giá.

0.1

4

0.4


4

0.4

1

0.1

4

0.4

3. Thương hiệu sản
phẩm

0.1

1

0.1

3

0.3

2

0.2

4


0.4

4. Chất lượng dịch vụ/
nguồn nhân lực của
doanh nghiệp

0.1

1

0.1

3

0.3

2

0.2

3

0.3

đối rẻ. Mặt khác với vị trí địa lý không được thuận lợi, việc tiếp xúc và đàm

5. Chất lượng sản
phẩm


0.3

3

0.9

3

0.9

2

0.6

3

0.9

phán với khách hàng gặp nhiều khó khăn, chi phí vận chuyển ở Miền Trung cao

Tổng cộng

1.0

Ở đây có thể kể ra những công ty đang là đối thủ cạnh tranh chính của
các doanh nghiệp ở Hồ Chí Minh là các doanh nghiệp ở Bình Dương và ở khu
vực Miền Trung. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Miền Trung (Quy Nhơn) đang
là ba khu vực sản xuất và xuất khẩu gỗ hàng đầu sang thị trường Mỹ. Ở mỗi khu
vực có một lợi thế riêng của mình, ví dụ khu vực Bình Dương và Miền Trung
với lợi thế về giá rẻ (do chi phí nhân công, chi phí thuê mặt bằng v.v…) tương


2.4

3.4

2.1

3.4


- 49 -

Ở đây tôi xin được đưa ra bảng so sánh hình ảnh ma trận cạnh tranh của
Hồ Chí Minh (Việt Nam) và các nước Indonesia, Trung Quốc và Ấn Độ qua
bảng 2.7 (bảng này được thu thập trên cơ sở đánh giá của văn phòng đại diện

- 50 -

cung cấp và đủ sức cạnh tranh với các nước khác trong khu vực như Trung
Quốc, Đài Loan v.v…
Yếu tố đầu tiên góp phần tạo nên năng suất sản xuất đó là máy móc thiết

mua hàng KarstadtQuelle Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực mua hàng xuất

bị phục vụ trong sản xuất. Hầu hết máy móc thiết bị sử dụng ở các nhà xưởng

khẩu gỗ ở Việt Nam và các nước trong khu vực).

được nhập từ các nước trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc v.v… và là


Lưu ý và nhận xét:

những máy móc thiết bị hầu hết đã qua sử dụng. Do đó có thể nói rằng chi phí

1. Trong bảng phân tích hình ảnh cạnh tranh trên, các yếu tố cấu thành

sản xuất góp phần từ tài sản cố định (máy móc) ở Hồ Chí Minh là khá cao.

nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cho điểm trọng số (mức độ

Các ngành công nghiệp hỗ trợ bổ sung cho sản phẩm gỗ như các vật liệu

quan trọng) tùy theo mức độ quan trọng của từng yếu tố quyết định nên năng

bằng sắt, nhôm, inox v.v… không phải bao giờ cũng dễ tìm kiếm ở Việt Nam,

lực cạnh tranh của sản phẩm, điểm trọng số này được nhiều người đồng tình

hầu hết các sản phẩm, nguyên liệu này đều được nhập từ Đài Loan, Trung Quốc,

nhất và tổng của nó là 1.

Hàn Quốc v.v… và Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh đối với những nguồn

2. Phân loại được chia thành 4 cấp bậc, với 4 là yếu tố mà doanh nghiệp
đó có ưu thế nhiều nhất, 3 là có ưu thế trên trung bình, 2 là ở mức trung bình và
1 là ở mức kém.

nguyên liệu này.
Đối với gỗ thô, Việt Nam cũng phải nhập từ các nước trong khu vực như

Indonesia, Ấn Độ, Đài Loan v.v… nên khá bị thụ động và nguồn cung cấp này

3. Việc cho điểm và trọng số ở đây chỉ mang tính chất tương đối và theo

không được ổn định. Chính những khó khăn về các ngành công nghiệp có liên

chủ quan và nhận xét của người đánh giá, tuy nhiên việc cho điểm được đưa ra

quan và sự bất ổn định của nhà cung cấp nguyên liệu là một trong những lý do

trên cơ sở đánh chung của nhiều người. Và cũng qua bảng so sánh hình ảnh

khiến cho các doanh nghiệp ở Hồ Chí Minh kém cạnh tranh hơn so với một vài

cạnh tranh của các doanh nghiệp ở Hồ Chí Minh này, chúng ta có thể dễ dàng

nước trong khu vực.

nhận ra được những điểm nào ta có thế mạnh và những điểm nào chúng ta chưa

2.4. Đánh giá chung năng lực cạnh tranh của Việt Nam qua ma trận

mạnh so với đối thủ cạnh tranh.

SWOT.

4. Kết quả cuối cùng cho thấy Hồ Chí Minh có khả năng cạnh tranh hơn

Tóm lại, qua phân tích trên, có thể tóm tắt một vài điểm mạnh, điểm yếu,


so với Trung Quốc nhưng so với Indonesia và Ấn Độ thì cạnh tranh của Hồ Chí

cơ hội và thách thức và một số giải pháp cơ bản của các doanh nghiệp chế biến

Minh không bằng hai quốc gia này.

và xuất khẩu gỗ của thành phố Hồ Chí Minh qua ma trận SWOT như sau (những

c. Ảnh hưởng của các ngành công nghiệp hỗ trợ, các nhà cung cấp.

giải pháp cụ thể, chi tiết sẽ được trình bày trong chương 3):

Để có thể có một sản phẩm cạnh tranh trên thị trường thì các ngành công
nghiệp hỗ trợ phải tốt để tạo thêm sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ở
thành phố Hồ Chí Minh, các ngành công nghiệp hỗ trợ thật sự chưa đủ điều kiện


×