Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.44 KB, 5 trang )

Phân tích bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu

Thôi Hiệu (704-754) đỗ tiến sĩ, nổi tiếng là tài hoa, để lại khoảng 40 bài thơ, hay
nhất vẫn là những bài thơ vịnh cảnh. Hoàng Hạc lâu là bài thơ kiệt tác của Thôi
Hiệu. Tương truyền, thi tiên Lí Bạch đến vãn cảnh Hoàng Hạc lâu, thấy thơ Thôi
Hiệu đề lên vách, ông tấm tắc khen và viết:
"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu".
(Trước mắt có cảnh đẹp, nhưng nói không dược Vì đã có thơ của Thôi Hiệu đề ở
trên đầu)
Tản Đà (1889-1939) là nhà thơ nổi tiếng nhất những năm hai mươi của thế kỉ này,
với vốn Hán học uyên thâm, với hồn thơ lãng mạn bay bổng, về phương diện dịch
thơ Đường, ông vẫn là cây bút vô địch. Những bài thơ Đường do Tản Đà dịch đều
được đăng tải trên tạp chí Ngày nay và Tiểu thuyết thứ bảy. Tất cả có 84 bài, phần
lớn dịch thành thơ lục bát (70/84 bài). Ông đã dịch 38 bài của Bạch Cư Dị, 14 bài
của Lí Bạch, 4 bài của Đỗ Phủ, 28 bài của các nhà thơ khác. Bài Hoàng Hạc lâu
của Thôi Hiệu qua bản dịch thơ lục bát của Tản Đà là bản dịch thơ hay nhất, thể
hiện đẹp nhất cái hồn Đường, điệu Đường kì diệu.
Mạch thơ của Hoàng Hạc lâu được triển khai theo đúng đường đi của mọi lí thuyết
nói chung – cái đường đi xin tạm được đơn giản hóa như sau: thoạt đầu là sự ghi
nhận về một hiện thực; bước tiếp theo là triết lí về hiện thực đó, rút ra những vấn
đề có ý nghĩa quy luật; cuối cùng là đề nghị một thái độ ứng xử thích hợp.
Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
Bài thơ mở ra với những nét ghi nhận về cái tiêu vong. Như đối với mọi bài thơ
Đường khác, cái gây ấn tượng mạnh ở đây không phải là những hình ảnh cụ thể
cảm tính. Điều đáng chú ý là tác giả đã liên hệ đối sách hai thì của thời gian lịch
sử. Ở thì hiện tại, quang cảnh không phải hoàn toàn hòang phế. Còn đó lầu Hoàng


Hạc bên bờ sông, vẫn thường đón khách từ muôn phương viếng thăm. Nhưng thật
lạ, cái còn này lại nói lên rất rõ cái đã mất. Thì ra lầu Hoàng Hạc chỉ là một vế của
phương trình đã được cân bằng thuở trước, vì thế, nửa còn lại chơi vơi này cứ như


khêu tâm trí người ta nghĩ đến một nửa nào đã chìm khuất trong dòng thời gian
chảy xiết vô định.
Hai câu này được Tản Đà dịch:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.
Lời dịch thật hay, nhưng so với nguyên tác, sắc thái biểu cảm có khác, ở đây, tâm
trạng hụt hẫng và bâng khuâng của nhà thơ có vẻ lộ rõ hơn qua câu thơ có màu sắc
nghi vấn (ai, đi đâu) và qua chữ trơ đầy ấn tượng, tách đứng cuối câu với sức nặng
riêng của sự cô lập. Trong khi đó, lời thơ nguyên tác thể hiện một sự tiết chế những
biểu hiện quá mạnh của cảm xúc, tỏ ra điềm tĩnh để cảm nhận cho triệt để ý nghĩa
của hiện trạng. Đây chính là một vấn dề thuộc về thi pháp của thơ Đường. Hai câu
sau bắt đầu đi vào triết lí trực tiếp qua việc nêu lên một sự đối lập mới:
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du.
(Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay)
Đó lặ sự đối lập giữa một bên là cái tiêu trầm không thể vãn hồi (của những kiếp
người hữu hạn và của những triều đại thuộc về dĩ vãng chăng?) với một bên là cái
trường tồn của thiên nhiên, cái mạnh mẽ và vô tình của qui luật cuộc sống. Những
thanh trắc dày đặc ở câu thứ ba đã dựng nên trập trùng những trở ngại để chặn
đường về của quá khứ. Âm điệu câu thơ gợi cảm giác tấm tức, không thanh thản.
Thoắt đến câu thứ tư, mấy thanh bằng liên tiếp dẫn tâm tư người đọc theo áng mây
trắng nghìn năm trôi nhẹ vào cái xa xăm của miền suy tưởng. Sự chuyển điệu của
bài thơ ở đây cũng ngụ tính triết lí. Nhập vào nó, người đọc sẽ có cảm tưởng như
vừa trải qua một tiến trĩnh nhận thức có đột biến. Từ chỗ vật vã với những sự kiện


thực tế, cõi lòng bỗng chốc đã tìm được sự thanh thản trong việc nhận thức ra qui
luật, trong việc xác lập một chỗ đứng mới để thẩm định các giá trị ở đời.
Hai câu năm, sáu thoạt nhìn có vẻ là tả cảnh thuần túy:
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Song, ngẫm cho cùng, đây chỉ là một bức phong cảnh triết học, cũng như câu thứ

tư không chỉ có ý nghĩa ở phương diện gợi tả. Vấn đề là nhà thơ không triết lí bằng
ngôn ngữ luận lí khô khan, mà bằng ngôn ngữ thiên nhiên, hay nói cách khác là đã
bố trí cho thiên nhiên tự phát biểu triết lí của mình. Điều này làm tăng tính thuyết
phục cho vấn đề có giá trị như sự khám phá quy luật đã được nói rõ ỏ' các câu
trước. Nó cũng làm cho điệu thơ trở nên mềm mại và gợi cảm hơn. Quả đây là một
cách “luận” độc đáo và có hiệu quả, nếu đúng thuở xưa các nhà thơ định dành
riêng hai câu năm, sáu để ‘luận”.
Khi dịch hai câu thơ này, nhất quán với phong cách thơ mình và phong cách thơ
của thời đại mới, Tản Đà đã đưa thêm vào bức tranh những đặc tính cá biệt:
Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Những từ “bày”, “xa”, “dày”, “non” đã làm tăng tính chất tri giác cảm quan của
câu thơ, trong khi, theo thi pháp của thơ Đường, những “tình xuyên”, “phương
thảo”, “lịch lịch”, “thê thê” rất ít màu sắc cụ thể mà lại nặng tính chất khái quát.
Ba phần tư bài thơ nói chung quanh câu chuyện ngồi lầu. Đến câu thứ bảy, một câu
hỏi xuất hiện, khá lạ: Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Sao ở chỗ này lại có sự băn khoăn ấy? (Chiều tối rồi, quê hương ở nơi đâu?) Rõ
ràng ở đây nhà thơ không phải đang lâm vào tình cảnh như Đỗ Phủ: “Cô chu nhất
hệ cố viên tâm”, cũng không phải có tâm trạng như tâm trạng của Lí Bạch khi vị
“thi tiên” này “đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài” để ngóng vọng Trường An và
than “Trường An bất kiến sử nhân sầu”.
Thực ra, như đã nói ở trên, hai câu cuối này chủ yếu xuất hiện theo lôgic của việc
lập thuyết. Càng nhận thức được cái nghiệt ngã của qui luật, cái khoảnh khắc phù


du của đời người trên cái nền trường tồn của thiên nhiên, người ta càng dễ có cảm
giác ớn lạnh, cô đơn. Đây chính là lúc hình ảnh quê hương hiện lên, xoáy vào tâm
trí một nỗi niềm da diết. Tất nhiên, quê hương ở đây không chỉ giới hạn trong ý
nghĩa là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi có gia đình, có mồ mả cha ông… mà chính là
một điểm tựa của cõi lòng, là nơi trú ẩn cuối cùng của những tâm hồn không tìm
được bình an khi hướng ngoại và là đối cựu cua những cái vạn biến trong cuộc đời.

Ý nghĩa của vấn đề càng được khẳng định mạnh mẽ qua việc tác giả nêu lên một
hoàn cảnh không thuận chiều: hoàng hôn đã xuống mà hình bóng quê hương chẳng
thấy. Trên sông, khói sóng nổi lên…
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
Có thể xem hai câu cuối của bài thơ là lời đề nghị một thái độ sông (ở cấp độ triết
học). Sở dĩ thấm thìa vì nó được nói ra như là sự bộc lộ một cảm xúc riêng tư trong
một hoàn cảnh thật xác định và cá biệt.
Đọc Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, ta dễ liên tưởng tới bức tranh “Trên cái yên
tĩnh muôn thuở” của họa sĩ Nga J. Lêvitan. Dù ra đời cách nhau hơn một nghìn
năm, hai tác phẩm thuộc hai loại hình nghệ thuật khác nhau nhưng lại có cách phát
biểu triết lí xem ra rất giống nhau. Trong tranh Lêvitan: một dòng sông nước trôi
vào cõi vô tận dưới mây trời; một quả gò cao ngợp gió bên trên có thánh đường
nhỏ bé leo lét ánh lửa; đằng sau thánh dường là một nghĩa địa với những cây thánh
giá xiêu vẹo và những thản cây oặt mình vì gió. Cũng như bài thơ của Thôi Hiệu,
bức tranh bằng sức mạnh u buồn của nó, đã giúp cho chúng ta biết nhìn sâu hơn
vào bản chất của cuộc đời, có thể từ đó mà biết sống hơn – sống nhân hậu và coi
trọng tình người.
Tìm hiểu “cấu trúc triết lí” củạ Hoàng Hạc lâu là một cách nhìn nhận về nét riêng
của bài thơ vốn được sáng tác theo những nguyên tắc thi pháp của thơ Đường. Nó
là sự kết tinh trong suốt vẻ cao điệu của loại thơ trong đó có những bài như Đăng


Vương các của Vương Bột, Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng đài của Lí Bạch… bởi
thế, nó xứng đáng được người xưa đánh giá là một trong những bài thơ đường luật
hay nhất của thời Đường.
Bài thơ nguyên tác thật tuyệt diệu. Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà cũng thường
được ca tụng là một tuyệt tác dịch thuật. Tuy nhiên, không vì thế mà khi tìm hiểu
Hoàng Hạc lâu là có thể bỏ rơi nguyên tác. Quả thực người ta thường nói, bản dịch
rất Tản Đà. Chính vì rất Tản Đà nên có một sự đối chiếu thường xuyên giữa hai bài

lại là công việc có ý nghĩa, giúp ích cho việc tìm hiểu những nguyên tác của Thôi
Hiệu và cá tính thơ Tản Đà cùng với sự khác biệt trong phong cách thơ của hai thời
đại. Tính chất biểu cảm chỉ có thể được cảm nhận đầy đủ một khi ta đã nắm được
toàn bộ triết lí của bài thơ.



×