Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

TIỂU LUẬN - HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH tế xã hội và sự lựa CHỌN CON ĐƯỜNG đi lên CNXH ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.1 KB, 31 trang )

HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ
HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ VẤN ĐỀ LỰA CHỌN
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Việt Nam sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất
nước đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tuy vậy, cho đến nay đất nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức và nguy
cơ không thể xem thường. Chính vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng để
nắm vững, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển di sản lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng lên chủ nghĩa
xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, mà cơ sở của nó là Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Đó là học thuyết khoa học và cách mạng trong
phân tích về lịch sử và nhận thức xã hội.
Hơn lúc nào hết, việc nhận thức đúng, bảo vệ và vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội hiện nay đang trở thành nhiệm vụ
chính trị cấp bách trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận tư tưởng đang diễn
ra rất gay go phức tạp giữa chủ nghĩa Mác - Lê nin với chủ nghĩa cơ hội các loại.
Đặc biệt, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, các thế lực thù địch và các
phần tử cơ hội cùng một số học giả tư sản thường xuyên vu cáo, xuyên tạc và
bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê nin. Trong đó Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội
là một trọng điểm lý luận thường bị công kích, phê phán từ nhiều phía. Hầu hết
những luận điểm phê phán này đều có chủ định nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin. Chúng cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin trong đó có học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu, cần phải được thay thế.


2
Ngoài ra, có quan điểm lại muốn giải thích Học thuyết hình thái kinh tế xã hội theo kiểu máy móc, vụ lợi để chứng minh rằng không nhất thiết phải làm
cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà cứ để xã hội đi vào con đường tư bản chủ nghĩa
như “quá trình lịch sử tự nhiên” theo quan điểm của Mác và sẽ tự động chuyển
sang xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Ở nước ta, thực tiễn của chặng đường sôi động và phức tạp trong những


năm vừa qua đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được làm sáng tỏ về mặt lý luận.
Mặc dù thắng lợi của sự nghiệp đổi mới là rất to lớn trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Song có quan điểm vẫn cho rằng, con đường xã hội chủ
nghĩa mà nước ta đã lựa chọn là “trái với quá trình lịch sử tự nhiên”, nó không
có khả năng thực hiện, nhất là trong điều kiện hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới
đã không còn tồn tại. Ngoài ra, trong điều kiện nền kinh tế mở với sự tác động
tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, sự triển khai chiến lược “Diễn biến hoà
bình” của chủ nghĩa đế quốc... luôn đặt ra nguy cơ đi chệch khỏi định hướng xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy, cần nhận thức sâu sắc học thuyết của C. Mác về hình thái
kinh tế - xã hội để tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta và củng cố cơ sở khoa học để tin rằng con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là tất yếu và có khả năng, đó là con
đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, là sự lựa
chọn tất yếu của lịch sử.
1. Một số vấn đề về học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa mác - lênin
1.1. Sự khác nhau về bản chất giữa phương pháp tiếp cận lịch sử
của chủ nghĩa mác - lê nin với các phương pháp tiếp cận khác.
Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội ra đời là một cuộc
cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử xã hội. Mác đã nhìn thấy động lực


3
của lịch sử không phải do một tinh thần thần bí nào, mà do hoạt động thực tiễn
của con người dưới tác dộng của các quy luật khách quan.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử tiếp cận xã hội bằng học thuyết hình thái kinh
tế xã hội, đây là phương pháp khoa học và hoàn bị nhất, là một cuộc cách mạng
trong nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của xã hội loài người.
C. Mác đã nghiên cứu xã hội từ nền sản xuất vật chất, đi từ nghiên cứu
tự nhiên, đem đối lập xã hội với tự nhiên để tìm ra những quy luật tự nhiên, từ đó

rút ra quy luật xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định quy luật tự nhiên
và quy luật xã hội đều có thuộc tính chung là tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, mặc dù quy luật xã hội vận động
thông qua hoạt động của nhân tố chủ quan là con người nhưng nó vẫn mang nội
dung khách quan. Mác đã tiếp cận lịch sử xã hội đi từ vật chất, đời sống vật chất
đến tinh thần và đời sống tinh thần của xã hội.
C. Mác cho rằng xã hội là một chỉnh thể có hệ thống và cấu trúc, trong
mỗi giai đoạn nhất định đều có các yếu tố cơ bản và phổ biến: lực lượng sản
xuất; quan hệ sản xuất; cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng tương ứng trên cơ
sở hạ tầng. Trong đó lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất của xã hội, là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các thời đại kinh tế, là yếu tố xét đến cùng quy
định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất là quan hệ
khách quan cơ bản hình thành trong quá trình sản xuất, là quan hệ quyết định chi
phối mọi quan hệ xã hội, là tiêu chuẩn để phân biệt bản chất các xã hội khác
nhau ở từng giai đoạn lịch sử.
Kiến trúc thượng tầng thể hiện bộ mặt tinh thần của đời sống xã hội, do
cơ sở hạ tầng quyết định, nhưng nó cũng có tính độc lập tương đối tác động trở
lại cơ sở hạ tầng. Sự tác động lẫn nhau của các yếu tố trong hình thái kinh tế- xã
hội, hình thành hai quy luật cơ bản, đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với


4
tớnh cht, trỡnh phỏt trin ca lc lng sn xut v quy lut v mi quan h
bin chng gia c s h tng v kin trỳc thng tng. S tỏc ng tng hp
ca hai quy lut y l ng lc thỳc y xó hi phỏt trin m suy n cựng do
yu t lc lng sn xut quyt nh.
Hc huyt Mỏc - Lờnin v hỡnh thỏi kinh t xó hi nhn mnh vai trũ
quyt nh, xột n cựng ca yu t kinh t, song khụng bao gi coi kinh t l
yu t quyt nh duy nht trong lch s: Ph.ngghen viết: theo quan điểm duy
vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là sự sản xuất và tái

sản xuất ra đời sống hiện thực. C Mỏc ln tụi cha bao gi khng nh gỡ hn
th. Do ú nu ai xuyờn tc cõu ú khin cho nú cú ngha l nhõn t kinh t
quyt nh duy nht thỡ nh vy h ó bin cõu ú thnh mt cõu trng rng,
tru tng, vụ ngha, tỡnh hỡnh kinh t l c s, nh mi yu t khỏc ca kin
trỳc thng tng... cng u nh hng n quỏ trỡnh ca nhng cuc u tranh
lch s v trong nhiu trng hp, li chim u th trong vic quyt nh hỡnh
thc ca nhng cuc u tranh ú1.
Khi nghiờn cu quan h sn xut trong mi quan h bin chng vi lc
lng sn xut, Mỏc tp trung lun gii ton din c ba mi quan h: quan h s
hu, quan h t chc qun lý v quan h phõn phi; trong ú quan h s hu v
t liu sn xut l quan h quyt nh chi phi cỏc quan h khỏc. T õy, Mỏc
tỡm ra mõu thun kinh t ú l s i lp gia s hu v s dng dn n mõu
thun v mt xó hi trong xó hi t bn, ú l k s hu t liu sn xut (giai cp
t sn) thỡ khụng s dng t liu sn xut, m ngi s dng t liu sn xut
(giai cp vụ sn) thỡ li khụng s hu. Trong ú, ngi no s hu t liu sn
xut dn n v trớ lm ch, cũn ngi no s dng t liu sn xut tt yu ri
vo v trớ lm thuờ v t õy biu hin ra mõu thun gia ngi ch v ngi lm
thuờ, trong xó hi t bn ú l mõu thun gia giai cp t sn v giai cp vụ sn.
1

C.Mác, Ph. Ăngghen. Tuyển tập. Tập 6. NXB ST. Hà Nội. 1984. Tr. 726.


5
Có thể nói đây là cách luận giải rất khoa học đi từ tất yếu của các quan hệ kinh tế
xã hội, từ mâu thuẫn kinh tế đến mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh
giai cấp và tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản. Mác coi đây là động lực trực
tiếp chủ yếu của sự phát triển xã hội loài người chuyển từ hình thái kinh tế - xã
hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
C. Mác không dừng lại khi tiếp cận lịch sử ở đời sống vật chất của xã hội

mà còn nghiên cứu đời sống tinh thần và chính trị từ một lĩnh vực mà Mác gọi là
kiến trúc thượng tầng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: toàn bộ
những quan điểm chính trị pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật...
Cùng với những thiết chế xã hội tương ứng của chúng như là: nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội... là cái được hình thành, được xây dựng trên
nền tảng của những cơ sở hạ tầng nhất định, hợp thành kiến trúc thượng tầng của
xã hội. Bởi lẽ, theo Ăngghen: vai trò của các yếu tố trong kiến trúc thượng tầng
rất quan trọng, “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật... là dựa trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả sự phát triển đó
đều tác động lẫn nhau và cũng tác động đến cơ sở kinh tế”1.
C. Mác nghiên cứu xã hội với tư cách là một chỉnh thể có cấu trúc, là
một hình thái kinh tế - xã hội, cái cơ sở để cắt nghĩa lịch sử. Cho nên xã hội có
đời sống vật chất tất yếu sẽ có đời sống tinh thần của con người. Theo Mác: “Xã
hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” 2. Ăngghen cũng
khẳng định: “Trong mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu sản xuất kinh tế
và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã cấu thành
cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ của thời
đại, cái cơ sở mà chỉ có xuất phát từ đó mời cắt nghĩa được lịch sử đó” 3. Mác và
Ăngghen đã chỉ rõ từ những sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa những quan hệ
C.M¸c, Ph. ¡ngghen. TuyÓn tËp. TËp 4. NXBST. Hµ Néi. 1984. Tr. 788.
C.M¸c, Ph. ¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi. 1996. T. 27 trang 657.
3
C.M¸c, Ph. ¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi. 1996. TËp 27. Tr. 657.
1
2


6
kinh tế của xã hội tất yếu sẽ nảy sinh những quan hệ chính trị tinh thần, từ quan
hệ trong đời sống kinh tế có quan hệ với tinh thần, trong xã hội có giai cấp và

nhà nước sẽ có quan hệ chính trị. Cho nên, khi nghiên cứu xã hội tất yếu phải
nghiên cứu vấn đề chính trị.
Ở mỗi chế độ xã hội có trình độ và cơ sở kinh tế nhất định sẽ được xây
dựng trên đó một kiến trúc thượng tầng tương ứng, giai cấp thống trị xã hội sẽ
gắn cho xã hội hệ tư tưởng của mình và tính chất giai cấp được thể hiện rất rõ ở
sự đối lập về quan điểm tư tưởng và cuộc đấu tranh về chính trị tư tưởng của giai
cấp đối kháng. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị xã hội về kinh tế thì nó cũng
chiếm luôn vị trí thống trị trong kiến trúc thượng tầng xã hội.
Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thì cơ sở hạ tầng với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực của xã hội không
chỉ sản sinh ra kiến trúc thượng tầng tương ứng, quy định tính chất mà còn kéo
theo sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng khi nó thay đổi. Vai trò quyết định
của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng không chỉ thực hiện trong giai
đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác, mà còn
được thực hiện ngay trong bản thân mỗi một hình thái kinh tế - xã hội. Mác nhận
định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ các kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị
đảo lộn ít nhiều, nhanh chóng”1. Theo Mác sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến
sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là cả một quá trình diễn ra hết sức phức
tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét cho cùng là do sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Tuy nhiên sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ trực tiếp gây ra sự
biến đổi của cơ sở hạ tầng, còn sự biến đổi của cơ sở hạ tầng, đến lượt nó mới
làm cho kiến trúc thượng tầng biến đổi một cách căn bản.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử luôn nhấn mạnh tính độc lập tương đối của kiến
trúc thượng tầng, vì kiến trúc thượng tầng có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ
1

C.M¸c, Ph. ¡ngghen. Toµn tËp. NXB CTQG. Hµ Néi. 1993. TËp 13. Tr. 15.


7

tầng. Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng không trực tiếp và
không đơn giản, cũng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng, mà
chúng có khă năng tác động đến cơ sở hạ tầng một cách mạnh mẽ. Các bộ phận
của kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối, các bộ phận này cùng
tác động đến cơ sở hạ tầng, trong đó vai trò của nhà nước, đảng phái, hệ tư tưởng
có vai trò đặc biệt quan trọng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đến cơ
sở hạ tầng theo hai chiều hướng: nếu tác động cùng chiều với qui luật phát triển
kinh tế - xã hội, nó sẽ làm cho cơ sở hạ tầng vận động phát triển theo quy luật
khách quan; Ngược lại, nếu nó tác động ngược chiều với những quy luật khách
quan, nó sẽ là trở lực, gây tác hại cho sự phát triển của xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thông
qua chức năng xã hội cơ bản của nó là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ
tầng hiện tồn, chống lại những lực lượng cản trở, nguy cơ phá hoại sự tồn tại của
chế độ kinh tế - xã hội đang tồn tại. Trong đó nhà nước có vai trò đặc biệt quan
trọng chi phối, thậm chí trong những trường hợp nhất định nó quyết định khả
năng tác động của các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng đến toàn bộ đời
sống xã hội nói chung và cơ sở hạ tầng nói riêng. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật
lịch sử cũng không tuyệt đối hoá vai trò của kiến trúc thượng tầng, của các yếu
tố chính trị đến sự phát triển của xã hội mà trong mối quan hệ tác động qua lại đó
suy cho cùng vẫn là nhân tố kinh tế đóng vai trò quyết định.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã luận giải quy luật vận động đời
sống chính trị của xã hội trên cơ sở đời sống kinh tế, tạo thành điều kiện đủ khi
nghiên cứu, tiếp cận lịch sử xã hội. Đây là một phương pháp tiếp cận khoa học
dựa trên tư duy biện chứng trong luận giải các vấn đề về xã hội. Phương pháp
tiếp cận lịch sử bằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội giúp Mác nhìn thấy
động lực của lịch sử là do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của
các quy luật khách quan chứ không phải một thứ tinh thần thần bí nào. Xuất phát


8

t Cỏi s tht hin nhiờn... l trc ht con ngi cn phi n ung, v mc,
ngha l phi lao ng, trc khi cú th u tranh ginh quyn thng tr, trc
khi cú th hot ng chớnh tr, tụn giỏo, trit hc... 1. Chng no cỏi s tht hin
nhiờn ú vn tn ti thỡ chng ú quan nim duy vt v lch s vn khụng th
bỏc b c.
Hc thuyt hỡnh thỏi kinh t - xó hi l quan nim duy vt bin chng
c c th hoỏ trong vic xem xột i sng xó hi, trc ht hc thuyt ny gn
bú hu c vi vic m rng cỏc nguyờn tc ca ch ngha duy vt bin chng
vo s nhn thc cỏc hin tng xó hi. Chớnh vic m rng ch ngha duy vt
bin chng vo nhn thc lnh vc lch s xó hi ó cho phộp vch ra s thng
nht gia xó hi v t nhiờn, s thng nht ca ton b th gii vt cht.
Trong tt c mi quan h xó hi. Mỏc ó lm ni bt nhng quan h xó
hi vt cht, tc l nhng quan h sn xut, nhng quan h c bn, ban u v
quyt nh tt c mi quan h khỏc. Bng cỏch ny, ch ngha duy vt lich s
cung cp cho khoa hc xó hi mt tiờu chun hon ton khỏch quan thy
c cỏc quy lut xó hi. Do ú, cú th em nhng ch ca cỏc nc khỏc
nhau khỏi quỏt li thnh mt khỏi nim c bn duy nht l hỡnh thỏi xó hi. Ch
cú s khỏi quỏt ú mi cho phộp chuyn t vic mụ t (v t vic ỏnh giỏ theo
quan im lý tng) nhng hin tng xó hi sang vic phõn tớch hin tng ú
mt cỏch ht sc khoa hc2.
Vic xem xột lch s loi ngi theo ỳng quan dim duy vt ó giỳp
Mỏc tỡm ra nhng nột chung, c bn lp i lp li trong cỏc ch xó hi ca cỏc
nc khỏc nhau. Mỏc ó ch ra rng: xó hi loi ngi phi sn xut tn ti v
phng thc sn xut xut ra ca ci vt cht l cỏi quyt nh cỏc quan h chớnh
tr v phỏp lý hin hnh trong mt xó hi nht nh, cng nh quyt nh cỏc tro
1
2

C.Mác, Ph. Ăngghen. Toàn tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1993. Tập 19. Tr. 166.
V.I Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ. Mátxcơ va. 1983. Tập 1. Tr. 163.



9
lưu tư tưởng khác nhau của xã hội, tư tưởng học thuyết giá trị tinh thần đóng một
vai trò tích cực trong đời sống xã hội, nhưng xét đến cùng thì nhân tố khách quan
quyết định trong lịch sử vẫn là yếu tố kinh tế.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã khắc phục được quan niệm trừu
tượng về xã hội. Nó bác bỏ cách miêu tả một xã hội chung chung, phi lịch sử,
không thay đổi về chất. Do việc hình thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội mà
quan điểm phi lịch sử về xã hội đã phải nhường chỗ cho quan điểm lịch sử cụ thể.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở phương pháp luận của sự
phân tích khoa học về xã hội, là hòn đá tảng của khoa học xã hội, và do đó là
một trong những nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin nói chung và triết
học Mác - Lê nin nói riêng.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp cho chúng ta
những tiêu chuẩn thực sự duy vật về phân kỳ, và cho phép đi sâu vào bản chất
của quá trình lịch sử, hiểu được lô gích khách quan của quá trình đó. Học thuyết
giúp cho việc hiểu được sự vận động của xã hội theo các quy luật khách quan,
vạch ra sự thống nhất trong cái muôn màu, muôn vẻ của các sự kiện lịch sử ở các
nước khác nhau trong các thời kỳ khác nhau. Chính vì thế mà nó đem lại cho
khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả
để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Nó là cơ sở khoa học để
tiếp cận đúng khi giải quyết những vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã hội
rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện
tượng tinh thần, đều chỉ có thể hiểu đúng khi gắn nó với một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
Với các quan niệm của Mác đã đánh đổ hẳn quan niệm cho rằng xã hội
là một tổ hợp có tính chất máy móc, có thể tuỳ tiện biến đổi theo đủ mọi kiểu,
một tổ hợp sinh ra và biến hoá một cách ngẫu nhiên.



10
Ngày nay, thực tiễn lịch sử có nhiều phát triển mới nhưng những cơ sở
khoa học mà quan niệm duy vật về lịch sử đã đem đến cho khoa học xã hội thì
vẫn nguyên giá trị. Giá trị không thể bác bỏ của học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội chẳng những ở tính khoa học mà còn ở tính cách mạng khi phân tích quy luật
vận động của một hình thái nhất định, học thuyết này chỉ ra những mâu thuẫn
bên trong và chính sự vận động của mâu thuẫn này cuối cùng dẫn đến sự chuyển
hoá từ một hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác.
Giá trị khoa học của việc nghiên cứu lịch sử chính là ở chỗ nó giải thích
rõ những quy luật đặc thù chi phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong
của một cơ cấu xã hội nhất định và sự thay thế nó bằng một cơ cấu xã hội khác
cao hơn. Vì vậy, trong quan niệm duy vật về lịch sử, tính khoa học và tính cách
mạng là thống nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự thoái trào của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nhiều nước, và đặc biệt trước những thành tựu kỳ diệu của khoa học và công
nghệ, khuynh hướng tuyệt đối hoá cách tiếp cận theo nền văn minh tăng lên
nhằm hạ thấp, thậm chí loại bỏ cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội. Họ cho
rằng lý luận về hình thái đang mất đi cả ý nghĩa nhận thức luận lẫn cơ sở bản thể
luận. Vì thế nó không thể áp dụng vào bức tranh thế giới hiện đại. Đây là một
quan điểm không có cơ sở khoa học, bởi vì:
Họ cho rằng, cách tiếp cận theo nền văn minh đứng ở đỉnh cao hơn cách
tiếp cận hình thái, vì nó xuất phát từ nền văn minh hậu công nghiệp, trong khi
cách tiếp cận hình thái chỉ dựa trên nền văn minh công nghiệp.
Nhận định này không đúng, vì bản thân phương pháp tiếp cận hình thái
của Mác không hề giới hạn mình trong phạm vi một nền văn minh nhất định và
nó luôn đánh giá cao vai trò cách mạng của lực lượng sản xuất và công nghệ, tức
là vai trò của những trình độ văn minh vật chất.


11

Họ cho rằng, cách tiếp cận hình thái để nhấn mạnh yếu tố kinh tế. Trong
khi đó cách tiếp cận theo nền văn minh coi mọi yếu tố đều có tác động lớn đến
sự phát triển xã hội. Lập luận này là sự xuyên tạc trắng trợn, bởi những lý do
sau: một là, cách tiếp cận hình thái không bao giờ chỉ coi kinh tế là nhân tố duy
nhất quyết định. Trái lại, nó thừa nhận mọi yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng
đều có tác động qua lại lẫn nhau và tất cả đều ảnh hưởng đến quá trình phát triển.
Hai là, dù các yếu tố chính trị, tư tưởng, văn hoá có ảnh hưởng to lớn đến đâu
chăng nữa thì những quan hệ kinh tế xét đến cùng vẫn là quan hệ quyết định.
Thật ra, cách tiếp cận theo nền văn minh đã phạm sai lầm căn bản là chỉ
coi trình độ phát triển của khoa học công nghệ là yếu tố quyết định nhất, bỏ qua
vai trò các quan hệ kinh tế, giai cấp, chế độ chính trị. Họ cho rằng, cách tiếp cận
hình thái xem xét thế giới theo cách nhìn “lưỡng phân” chỉ dẫn đến những xung
đột đối kháng. Cách tiếp cận theo nền văn minh tránh được sai lầm đó, vì nó lấy
sự thống nhất, hoà hợp làm nguyên lý cơ bản. Lập luận này sai, bởi lẽ thế giới
hiện nay có lưỡng phân hay không, có xung đột đối kháng hay không, đó là thực
tế lịch sử, đâu phải do cách xem xét tạo ra. Hiện nay, trên thế giới số nước tiên
tiến và phát triển rất ít, còn lại là đa số những nước chậm phát triển thuộc thế
giới thứ ba và có nhiều nước rất nghèo khổ. Trong từng nước phát triển và đang
phát triển cũng có sự phân cực rất sâu sắc. Giải quyết vấn đề này không thể chỉ
bằng tiến bộ khoa học kỹ thuật, điểm mấu chốt là quan hệ kinh tế, vấn đề chế độ
xã hội nào, tức là vấn đề hình thái kinh tế - xã hội.
Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế xã hội đòi hỏi phải phân tích
sự phát triển của các xã hội như một quá trình tổng hợp các nhân tố và các quy
luật khách quan. Còn cách tiếp cận theo các nền văn minh thường chỉ tách ra một
vài đặc trưng để phân biệt nền văn minh này với nền văn minh khác, có khi chỉ
là trình độ của lực lượng sản xuất, hoặc công cụ lao động; có khi là những nét
đặc thù về văn hoá, về cộng đồng chủng tộc, dân tộc, mà bỏ qua quan hệ sản


12

xut, kt cu giai cp xó hi, do ú b qua tớnh cht xó hi ca nn vn minh ú.
c bit, gn õy cỏc lý thuyt ca S.Huntingtn li thi phng vai trũ ca s
ng cỏc nn vn hoỏ i vi s phỏt trin xó hi. Thc ra, cỏch gii thớch xó
hi ch bng xung t gia cỏc nn vn hoỏ l cỏch gii thớch na vi. Hc
thuyt hỡnh thỏi kinh t- xó hi ngay t thi Mỏc v ngghen ó khụng chp
nhn s na vi ú, v tỡm n nhng nguyờn nhõn cn bn hn - nhng nguyờn
nhõn vt cht: phng thc sn xut.
Túm li, phng phỏp tip cn cỏc nn vn minh, hay s ng ca
cỏc nn vn hoỏ... i vi s phỏt trin ca xó hi tuy cng cú nhng giỏ tr nht
nh, nhng cỏc cỏch tip cn ny thng khụng chỳ ý n ngun gc, bn cht
cỏc ng lc ca s vn ng v phỏt trin ca lch s, b qua vai trũ ca quan
h sn xut, mi quan h bin chng gia lc lng sn xut v quan h sn xu,
cỏc mi quan h giai cp v u tranh giai cp nờn khụng th em cỏc phng
phỏp tip cn ny thay th Hc thuyt Mỏc - Lờnin v hỡnh thỏi kinh t - xó hi.
Vỡ, õy l hc thuyt khoa hc v cỏch mng phõn tớch lch s v nhn thc
cỏc vn xó hi.
1.2. S phỏt trin ca cỏc hỡnh thỏi kinh t - xó hi l mt quỏ trỡnh
lch s t nhiờn.
Hc thuyt hỡnh thỏi kinh t - xó hi xem xột xó hi trong mt quỏ trỡnh
bin i v phỏt trin khụng ngng. Mỏc vit tụi coi s phỏt trin ca nhng
hỡnh thc kinh t - xó hi l mt quỏ trỡnh lch s, t nhiờn 1. iu ny c
Lờnin gii thớch rừ: ...chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ
sản xuất và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lợng sản
xuất thì ngời ta mới đợc một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái kinh t - xã hi là một quá trình lịch sử - tự nhiên1
1
1

C.Mác, Ph. Ăngghen. Tuyển tập. NXB CTQG. Hà Nội. 1993. Tập 23. Tr.21.
V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ. Mátxcơva. 1974. Tập 1. Tr.163.



13
C. Mác coi lực lương sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng là những yếu tố hợp thành không thể thiếu được của hình thái
kinh tế - xã hội; đồng thời ông cũng coi mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố
đó chính là những quy luật phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội với tư
cách là quá trình lịch sử tự nhiên. Trong quan niệm, coi sự vận động xã hội như
một quá trình lịch sử - tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin
nêu lên những tư tưởng sau đây:
Một là, Xã hội vận động theo những quy luật không những phụ thuộc
vào ý thức, ý chí và ý định của con người mà ngược lại còn quyết định cả ý chí,
ý thức và ý định của họ nữa.
Lịch sử là lịch sử hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản
thân mình, nhưng không thể hoạt động tuỳ tiện, mà phải tuân theo những quy
luật khách quan. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được coi như một cơ thể xã hội,
tự phát triển theo những quy luật vốn có của nó, một cơ thể xã hội riêng biệt có
những quy luật riêng về sự ra đời, về hoạt động và bước chuyển của nó lên một
hình thái cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác.
Hai là, các quy luật xã hội nói riêng, xét về bản chất thì khác với các quy
luật của giới tự nhiên. “Mỗi thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó...
Một khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai đoạn
này bước sang giai đoạn khác thì nó cũng bắt đầu bị quy luật khác chi phối”2.
Ba là, những quy luật của xã hội như: quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất; quy luật về mối quan
hệ biện chứng giữa cơ sở hạ với tầngkiến trúc thượng tầng... đều thể hiện xu
hướng vận động của xã hội xét trong phạm vi rộng và trong thời gian dài, tức là
xét dưới dạng khái quát, trừu tượng hoá. Vì vậy, sự vận động cụ thể của một xã
2


C.M¸c, Ph. ¡ngghen. Toµn tËp. NXBCTQG. Hµ Néi. 1994. TËp 23. Tr.34.


14
hội cụ thể trong những thời gian và không gian nhất định thường có những biểu
hiện dường như không trùng khớp với quy luật phổ biến.
Chẳng hạn, Mác đã nhận xét: “Đối với nghệ thuật... những thời kỳ hưng
thịnh nhất định của nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển chung của xã
hội, do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội,
cơ sở này dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội... khó khăn
chỉ là ở chỗ đưa ra được một công thức chung về mâu thuẫn đó... giải thích được
những mâu thuẫn đó”1.
Như vậy, có thể nói lịch sử là hoạt động của con người theo đuổi mục
đích của bản thân mình, nhưng đó không thể là hoạt động tuỳ tiện, mà là hoạt
động có ý thức hoặc vô thức tuân theo những quy luật khách quan. Do đó, lịch
sử - tự nhiên nghĩa là quá trình lịch sử nhưng mang tính tự nhiên, tiếp tục lịch sử
của giới tự nhiên, vận động theo quy luật và xét đến cùng thì không thể phụ
thuộc vào ý muốn con người. Chính là dựa vào tư tưởng vĩ đại này, dựa vào
những định hình khách quan của các quan hệ kinh tế - xã hội tạo ra cơ cấu kinh
tế của xã hội. Mác đã phân ra thành các hình thái kinh tế - xã hội: Cộng sản
nguyên thuỷ; chiếm hữu nô lệ; phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Mỗi hình thái
kinh tế - xã hội đó được coi là một cơ chế tự phát triển theo những quy luật vốn
có của nó, một cơ chế xã hội riêng biệt, có những quy luật riêng về sự ra đời của
nó, về hoạt động của nó bà bước chuyển biến của nó lên một hình thức cao hơn,
tức là biến thành một cơ chế xã hội khác.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội: xã hội cộng sản
nguyên thuỷ được thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu nô lệ
được thay thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội
tư bản chủ nghĩa... tạo nên trục đường tiến triển trong lịch sử loài người.


1

C.M¸c, Ph. ¡ngghen. NXB CTQG. Hµ Néi. 1993. TËp 12. Tr 889 - 890.


15
Khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung và nhất là
chủ nghĩa tư bản nói riêng, Mác và Ăngghen đã dự đoán sự xuất hiện một hình
thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa, một hình thái kinh
tế - xã hội không có đối kháng giai cấp và không có tình trạng bóc lột người.
Theo Mác, sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái
kinh tế - xã hội khác được thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên sâu xa
của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, đặc biệt là khi quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản
xuất. Trong thời kỳ cách mạng, cơ sở kinh tế thay đổi thì tất cả kiến trúc thượng
tầng đồ sộ cũng thay đổi theo cho phù hợp. Từ những cơ sở khoa học luận giải
như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê nin đã kết luận hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế được
thực hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề quan trọng nhất
của nó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của giai cấp
công nhân. Với những đặc điểm như vậy làm cho sự phát triển giữa các quốc gia
thường diễn ra không đều, kể cả khả năng phát triển bỏ qua một hoặc vài hình
thái kinh tế - xã hội nào đó.
Nhìn chung, cho đến nay lịch sử nhân loại đã và đang trải qua bốn hình
thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ sang chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, không phải
quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội theo một sơ

đồ chung. Lịch sử cho thấy, có những nước do những điều kiện khách quan và
chủ quan; bên trong và bên ngoài chi phối nên đã bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó trong tiến trình phát triển của mình. Chẳng hạn ở một số nước (Ita-


16
li-a, Phỏp, Tõy Ban Nha...), ch phong kin ó bt u hỡnh thnh trong lũng
ch chim hu nụ l; ch phong kin ra i khụng phi t ch chim
hu nụ l nh (Nga, Ba Lan, c); M: ch ngha t bn hỡnh thnh trong iu
kin xó hi khụng tri qua ch phong kin. õy l s phỏt trin rỳt ngn b
qua mt hoc vi hỡnh thỏi kinh t - xó hi.
Tt c s phỏt trin tun t qua cỏc hỡnh thỏi kinh t - xó hi ln phỏt
trin rỳt ngn, b qua mt hoc vi hỡnh thỏi kinh t - xó hi trong trng hp
no ú u l quỏ trỡnh lch s t nhiờn, u do nhng quy lut v nhng iu
kin c th khỏch quan quy nh.
Mt s nc khụng qua hỡnh thỏi ny hay hỡnh thỏi khỏc l mt s tht
lch s v l quỏ trỡnh lch s - t nhiờn i vi quc gia ú. S d nh vy l vỡ
s vn ng ca xó hi din ra khụng ng u gia cỏc quc gia, cỏc vựng.
Trong lch s thng xut hin nhng trung tõm phỏt trin cao hn v sn xut
vt cht, v k thut, hay v vn hoỏ, v chớnh tr... S giao lu, xõm nhp, tỏc
ng qua li vi cỏc trung tõm ú lm xut hin kh nng mt s nc i sau cú
th rỳt ngn tin trỡnh lch s m khụng lp i lp li tun t cỏc quỏ trỡnh phỏt
trin ca nhõn loi. Lờ nin vit: Tớnh quy lut chung ca s phỏt trin trong lch
s ton th gii ó khụng loi tr m trỏi li, cũn bao hm mt s giai on phỏt
trin mang nhng c im hoc v hỡnh thc, hoc v trỡnh t ca s phỏt trin
ú1.
Mỏc nờu lờn mt lun im quan trng: Mt xó hi, ngay c khi ó phỏt
hin c quy lut t nhiờn ca s vn ng ca nú, cng khụng th no nhy
qua cỏc giai on phỏt trin t nhiờn hay dựng sc lnh xoỏ b nhng giai
on ú. Nhng nú cú th rỳt ngn v lm du bt c nhng cn au . Cú
quan im da vo im ny ó cho rng: Mỏc ó ph nhn kh nng b qua cỏc

giai on phỏt trin t nhiờn, do ú cng ph nhn con ng phỏt trin b qua
1

V.I.Lênin. Toàn tập. NXB Tiến bộ Mátxcơ va. 1978. Tập 45. Tr. 431.


17
một hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Đây là hoàn toàn không đúng. Mác chỉ bác
bỏ việc dùng ý chí hoặc sắc lệnh để nhảy qua một giai đoạn phát triển nào đó
đang bị quy định bởi những điều kiện và quy luật khách quan xác định. Trái lại,
khi đã xuất hiện những điều kiện khách quan mới thì việc nhảy qua một giai
đoạn phát triển nào đó lại được đặt ra và có khả năng thực hiện, do đó có thể rút
ngắn và làm dịu bớt những “cơn đau đẻ”.
Lênin vận dụng quan điểm của Mác, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa và đã nêu lên khả năng không phải trải
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa ở các nước
lạc hậu. Nghĩa là trong những điều kiện nhất định, ở các nước lạc hậu không
nhất thiết phải diễn ra một cách tuần tự như lịch sử ra đời và phát triển của chủ
nghĩa tư bản, như các nước tư bản đã từng trải qua. Lênin viết: “Với sự giúp đỡ
của giai cấp vô sản ở các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ
Xô Viết và qua những giai đoạn nhất định tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không
phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”1.
Theo Lênin, đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc bị áp bức bởi chủ
nghĩa đế quốc thì sau khi tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc phải tiến ngay
lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua hình thái kinh tế tư bản
chủ nghĩa trong những điều kiện cần và đủ: Các nước đó phải giành được độc lập
dân tộc, thiết lập chuyên chính về tay công - nông, phải có Đảng cộng sản lãnh
đạo, lực lượng cách mạng phát triển dựa trên khối liên minh công - nông vững
chắc. Hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đã trở nên lỗi thời lạc hậu, hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản đã xuất hiện trong lịch sử. Theo đó, chủ trương phát

triển rút ngắn để đi lên chủ nghĩa xã hội ở những quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa
chẳng những không mâu thuẫn với quá trình lịch sử tự nhiên, mà còn là biểu hiện
sinh động của quá trình lịch sử tự nhiên ấy. Cũng như trong lịch sử đã từng diễn
1

V.I.Lªnin. Toµn tËp. NXB TiÕn bé M¸txc¬va. 1979. TËp 42. Tr. 266.


18
ra, một số nước bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ hay chế độ phong kiến để tiến lên
chế độ tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào và chỉ ai chủ trương thực hiện “rút ngắn”
một cách duy ý chí, bất chấp quy luật thì lúc đó mới trở nên đối lập với quá trình
lịch sử tự nhiên.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải rõ sự phát triển của xã hội
là sự thay thế các hình thái kinh tế - xã hội và quá trình thay thế là một quá trình
lịch sử tự nhiên, và chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà
còn bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội nhất định trong
những hoàn cảnh kịch sử cụ thể nhất định. Do đó, đây là cơ sở phương pháp luận
khoa học và cách mạng, cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng cho Đảng cộng sản Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn con đường cách mạng của
dân tộc mình.
2. Vấn đề lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam
2.1. Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của cách
mạng Việt Nam.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt nam rơi vào tình trạng
khủng hoảng về đường lối. Hàng loạt phong trào yêu nước theo lập trường phong
kiến và tiểu tư sản đều bị dập tắt và đều chịu chung số phận thất bại. Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học,
Phạm Hồng Thái... lớp lớp sỹ phu hào kiệt đầy nhiệt huyết, không sợ gông cùm,
không tiếc máu xương vì sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc nhưng đều

thiếu một sự dẫn dắt của đường lối chính trị đúng đắn, do đó sự nghiệp của họ
đều không thành công. Trong bối cảnh đó, với lòng yêu nước nồng nàn, thương
dân sâu sắc và sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, người thanh niên Nguyễn Tất
Thành đã đi tìm đường cứu nước, trải qua bao gian khổ hy sinh, Người đã đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đó con đường cứu nước đúng đắn nhất.


19
Nguyễn ái Quốc đã nói: Muốn giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác
là con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới ra
khỏi ách nô lệ. Đồng thời Người khẳng định, con đường cách mạng Việt Nam là
giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Sự lựa chọn của Người là sự lựa
chọn của giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam, của dân tộc ta phù hợp với
xu thế của thời đại mới - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Con đường cách
mạng Việt Nam mà Nguyễn ái quốc đã lựa chọn được thực thi trong thực tiễn
bằng công tác tuyên truyền, vận động cách mạng và gắn với việc thành lập Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân ở nước ta. Trên cơ sở tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, chính cương và sách lược vấn tắt, sau đó là cương lĩnh năm 1930
của Đảng lần lượt ra đời vạch ra đường lối đúng đắn cho đường lối cách mạng
Việt Nam.
Trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin mà trong đó
nổi bật là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta
đã chỉ ra con đường cách mạng Việt Nam là con đường bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội qua hai giai đoạn, cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối cách mạng đó đã đặt nền
móng cho sự tiếp tục làm rõ và phát triển hơn nữa về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta trong quá trình cách mạng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sáng suốt nhận thức đúng đắn về thời đại, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp công nhân, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam để lựa chon con đường cách

mạng vô sản, đi theo con đường của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại.
Với sự kết hợp hài hoà giữa bản lĩnh chính trị vững vàng và trí tuệ khoa
học, giữa sự trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, lý luận
hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện Việt Nam. Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi


20
khác: Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và thành lập nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội ở nước ta.
Thắng lợi của các cuộc chiến tranh oanh liệt giải phóng dân tộc, bảo vệ
tổ quốc. Đặc biệt là cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược có ý nghĩa lịch sử không chỉ đối với dân tộc ta, mà còn có ý nghĩa thế giới.
Đó là kết quả sự kết tinh của sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo tài
tình của Đảng, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trí thông minh sáng tạo của
quân và dân ta đánh thắng thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng nước ta, mà còn đối với
phong trào cách mạng thế giới.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới từng bước đưa nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đây là một kỳ tích của Đảng, nhân dân và dân tộc Việt Nam trong
hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Đông Âu, tan rã ở Liên Xô và tạm thời đi
vào thoái trào. Chính các thành tựu đổi mới trong kinh tế, chính trị, văn hoá,
khoa học... đã làm cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những vượt qua
khủng hoảng mà còn tạo ra thế mới, lực mới để tiếp tục phát triển. Đảng ta qua
quá trình tìm tòi, khảo nghiệm để đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
bối cảnh quốc tế mới.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được chứng minh bằng

những thắng lợi to lớn, nó đã làm thay đổi căn bản thế và lực của dân tộc Việt
Nam. Từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, Việt Nam trở thành quốc gia độc
lập, tự do phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vị thế quốc tế của Việt
Nam ngày càng tăng trong quan hệ với tất cả các nước. Nhân dân ta đang làm


21
chủ đất nước, làm chủ xã hội, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Con đường đi tới chủ nghĩa xã hội không phải một sớm một chiều. Quá
trình vượt qua và phủ định chủ nghĩa tư bản để tiến tới một xã hội văn minh chắc
chắn sẽ có những giai đoạn, những nấc thang đa dạng hoặc bất ngờ. Hiện nay với
sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cho nên có quan điểm
cho rằng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là
không đúng nữa, là sai lầm. Đây là quan điểm sai trái bởi vì sự sụp đổ đó bắt
nguồn từ nguyên nhân sâu xa là trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên
cạnh những thành tựu có ý nghĩa lịch sử, đã có những khuyết điểm to lớn chậm
được phát hiện và khắc phục, gây ra tình trạng trì trệ về kinh tế - xã hội rồi đi tới
khủng hoảng. Đồng thời có nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp là: trong cải tổ,
Đảng cộng sản đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thực hiện trước hết ở những người người lãnh đạo cao nhất, hơn nữa
chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp một cách toàn diện, vừa tinh vi và trắng trợn, ráo
riết thực hiện “diễn biến hoà bình” trong nội bộ. Do vậy sự sụp đổ chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là do sai lầm về mô hình, sai lầm về
nhận thức về mặt chủ quan. Còn lý luận chủ nghĩa Mác - Lê nin về hình thái kinh
tế - xã hội vẫn còn nguyên giá trị và xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội tốt đẹp, mơ
ước của nhân loại tiến lên để nhằm giải phóng con người toàn diện.
Trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh thích nghi, có
những biện pháp kinh tế - xã hội nhằm phát triển sản xuất, đồng thời để làm dịu
những xung đột trong nội bộ từng nước cũng như giữa các nước tư bản với nhau.

Nhưng những biện pháp đó không thể nào vượt qua khỏi khuôn khổ của chế độ
tư bản chủ nghĩa, cho nên không thể ngăn chặn được xu hướng ngày càng gay
gắt của mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản. Đồng thời, quá trình phát triển của
chủ nghĩa tư bản hiện đại càng làm bộc lộ rõ những khuyết điểm, yếu kém của


22
nó. Chính Brêdinski cũng phải thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản hiện mang trong
nó hàng chục ung nhọt không thể khắc phục được. Trong khi đó có những nhà tư
tưởng lớn của thế kỷ cho rằng: thế kỷ tới đây sẽ là thế kỷ thắng thế của những tư
tưởng cộng sản chủ nghĩa. Bởi lẽ, sang thế kỷ XXI, không có học thuyết chính trị
- xã hội nào có đủ khả năng vượt lên trên chủ nghĩa Mác - Lê nin trong việc công
khai và triệt để chống áp bức bóc lột, bất công, kiên quyết và nhất quán bênh vực
người nghèo, người lao động, thực sự tôn trọng con người và có khả năng to lớn
trong việc bảo vệ môi sinh. Vì vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là xã hội vĩnh
hằng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là tất yếu khách quan. Chúng
ta đã giành được độc lập từ bao nhiêu xương máu của đồng bào để có, chúng ta
không thể thấy chủ nghĩa tư bản hiện nay mà ngộ nhận, lơ là, mất cảnh giác.
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê nin về hình thái kinh tế - xã hội, đã lựa chọn và luôn kiên định
với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.2. Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự
phát triển rút ngắn và hợp quy luật của cách mạng Việt Nam.
Với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin về con đường phát triển xã
hội có thể bỏ qua một, hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội để tiến lên một hình
thái kinh tế - xã hội khác cao hơn khi có đủ các điều kiện cần thiết mà không
nhất thiết phải tiến hành tuần tự. Đây là cơ sở lý luận để nước ta đi lên chủ nghĩa
xã hội, không qua phát triển tư bản chủ nghĩa.
Vận dụng một cách sáng tạo những tư tưởng của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lê nin vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,

trước hết cần quán triệt một cách sâu sắc trên tinh thần khoa học là con đường
phát triển của xã hội loài người, dù quá độ trực tiếp hay quá độ gián tiếp cũng sẽ
tất yếu đi tới chủ nghĩa xã hội, xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ phải chuyển


23
biến thành xã hội xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, con đường phát triển rút ngắn hay
như cách nói của lênin, phát triển không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa chính là
con đường phát triển của xã hội Việt Nam.
Hiện nay, trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và
Đông Âu cùng với sự tiến công quyết liệt của những tư tưởng phi Mác xít vào
học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Có quan điểm
cho rằng: trong thời đại hiện nay, việc đi lên chủ nghĩa xã hội theo con đường bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là không thể thành công; con đường bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa chỉ xảy ra sau khi chủ nghĩa xã hội đã thành công ở những nước
tư bản tiên tiến nhất ở Tây Âu...
Những quan điểm trên là không đúng và vô căn cứ. Bởi vì chúng đã viện
dẫn một cách sống sượng quan điểm của Mác và Ăngghen về khả năng diệt vong
của một hình thái kinh tế - xã hội nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng, cũng
như điều kiện và khả năng của những nước lạc hậu bước vào chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chưa xuất hiện... để xuyên tạc chủ nghĩa Mác mà
không thấy tính lịch sử của vấn đề đó là không tính đến các yếu tố quan trọng.
Chúng ta biết rằng, thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Mở đầu bằng cách mạng
tháng Mười Nga năm 1917, thời đại mà với những đặc điểm mới đó là xã hội
hoá sản xuất, xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá lực lượng sản xuất, cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại nó vừa thúc đẩy mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản phát triển, vừa tạo điều kiện cho
các nước chưa qua tư bản chủ nghĩa vận dụng, tìm thấy điều kiện, cơ sở để đi tắt
đón đầu, thông qua sự giao lưu, hợp tác quốc tế để họ có thể bước vào con

đường phát triển “rút ngắn” ngay cả khi chủ nghĩa tư bản còn đang có khả năng
tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, chúng ta khẳng định rằng: Con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt nam vẫn có đủ khả năng


24
và điều kiện vì đó là một tất yếu, phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử,
bởi những lý do sau đây:
Nếu như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin cho rằng đối với
các nước tiền tư bản chủ nghĩa cần phải có tấm gương của một cuộc cách mạng
vô sản đã thắng lợi để làm bài học mẫu cho việc rút ngắn con đường đi tới chủ
nghĩa xã hội, thì đối với Việt Nam, cho đến nay tấm gương của các cuộc cách
mạng vô sản đã phong phú đến mức bao hàm trong đó nhiều bài học sinh động
về sự thành công và thất bại, sâu sắc và chi tiết đến mức có thể nêu ra được
những tình huống và những giải pháp điển hình cho sự lãnh đạo và thực hiện tiến
trình cách mạng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ ra rằng, cần phải có sự
giúp đỡ tích cực của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước tiền tư bản chủ
nghĩa mới có thể rút ngắn được con đường đi tới chủ nghĩa xã hội thì ở nước ta
hiện nay, có thể nói rằng Đảng và nhà nước ta hơn bao giờ hết đã có đủ kinh
nghiệm và bản lĩnh trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng xã hội tiến
bộ trên thế giới, cũng như của giai cấp vô sản quốc tế để xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ sau thời kỳ chiến tranh lạnh, xu thế chung của thời đại đã mở ra một
giai đoạn mới cho những quan hệ quốc tế. Đảng ta đã sớm nắm bắt và xử lý
thành công các quan hệ của mình với thế giới bên ngoài theo xu thế mới này. Và
đây chính là một nguyên nhân tạo nên thành tựu bước đầu trong sự nghiệp xây
dựng đất nước. Chính sách mở cửa, hợp tác đa dạng, đa phương cùng có lợi là
một nhân tố quan trọng của sự nghiệp xây dựng đất nước ta theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.



25
Chúng ta có điều kiện quốc tế khác cực kỳ quan trọng, đó là cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng này tạo thời cơ thuận lợi
nếu ta biết vận dụng thì sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc phát triển đất nước.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê nin luôn nhấn mạnh vai trò của
Đảng vô sản trong việc lãnh đạo cách mạng nói chung và trong việc thực hiện quá
trình phát triển rút ngắn ở các tiền tư bản nói riêng. Trong tiến trình cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt nam là nhân tố có vai trò quyết định đối với việc
đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Chỉ có Đảng Cộng sản Việt nam mới có đủ
khả năng lãnh đạo để thực hiện sứ mệnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam.
Vấn đề ở chỗ, Đảng thực hiện phương thức nào để thực hiện quá trình
phát triển rút ngắn. Với những thành công và thất bại trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đã trở thành bài học kinh nghiệm quý để chúng ta
tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đến đích thắng lợi trên các mặt được biểu
hiện cụ thể:
Về kinh tế, ở nước ta hiện nay Đảng và Nhà nước chủ động thực hiện mô
hình kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu với vai trò chủ đạo thuộc
về kinh tế Nhà nước, việc nhà nước nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ
yếu, chi phối và điều tiết toàn bộ nền kinh tế xã hội là những biểu hiện cụ thể của
đường lối phát triển “rút ngắn” để đi tới chủ nghĩa xã hội. Cùng với việc củng cố
và tăng cường khu vực kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, việc sử dụng khả
năng và khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế khác như: Kinh tư nhân;
đặc biệt là kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay và trong khoảng thời gian
không phải là ngắn vẫn là cần thiết để thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác, thực hiện nền kinh tế nhiều thành
phần bao gồm nhiều loại hình sở hữu với vai trò chủ đạo thuộc về kinh tế Nhà
nước cần được coi là mô hình kinh tế trên con đường phát triển rút ngắn.



×