Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Nghiên cứu đa dạng sinh học khu hệ cá đồng bằng sông cửu long và sự biến đổi của chúng do tác động của biến đổi khí hậu và sự phát triển kinh tế xã hội (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.49 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
------  ------

THÁI NGỌC TRÍ

NGHIÊN CỨU ĐA DẠNG SINH HỌC KHU HỆ CÁ
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
CHÚNG DO TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 62.42.01.20

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 2015


Công trình được hoàn thành tại:
Học viện Khoa học và Công nghệ
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Người Hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hoàng Đức Đạt
GS. TS. Richard Lee Mayden

Phản biện 1:


Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
nhà nước họp tại Viện Sinh học Nhiệt đới vào
……giờ……ngày……tháng……năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
2. Thư viện Quốc Gia Hà Nội

hồi


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những “vựa thủy
sản” lớn của cả nước, không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm trong
nước mà còn đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu, lưu giữ nguồn gen
quý hiếm và các loài cá có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện nay
nguồn lợi cá ở ĐBSCL chịu những tác động không nhỏ từ phương
thức quản lý, khai thác sử dụng, cùng với sự thay đổi bất thường của
điều kiện tự nhiên (Biến đổi khí hậu, Nước biển dâng), các hoạt động
phát triển Kinh tế - Xã hội: phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, giao thông,
thủy lợi, thủy điện, phương thức quản lý, khai thác nguồn lợi cá, v.v.
Trước tình hình đó, để đánh giá đúng về hiện trạng đa dạng sinh học
các loài cá, các nhân tố đã và đang tác động đến sự phát triển bền
vững của nguồn lợi cá, góp phần quản lý nghề cá thích ứng, bền
vững ở ĐBSCL, đồng thời bước đầu nghiên cứu về sinh học phân tử

của 20 loài cá thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes), góp phần xây dựng
cơ sở dữ liệu trong công tác bảo tồn nguồn gen của các loài cá ở
ĐBSCL, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu Đa dạng sinh học
khu hệ cá Đồng bằng sông Cửu Long và sự biến đổi của chúng do
tác động của biến đổi khí hậu và sự phát triển Kinh tế - xã hội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đa dạng sinh học (ĐDSH) và các yếu tố ảnh hưởng đến
khu hệ cá ĐBSCL, lồng ghép quản lý nghề cá thích ứng gắn với bảo
tồn ĐDSH.
3. Nội dung nghiên cứu
(1) Nghiên cứu đa dạng sinh học khu hệ cá ĐBSCL: thành phần loài,
đặc điểm sinh thái học của khu hệ cá ở ĐBSCL. Nghiên cứu sinh học
phân tử của 20 loài cá thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes);


2
(2) Nghiên cứu sự ảnh hưởng và tác động của Biến đổi khí hậu,
Nước biển dâng và các hoạt động phát triển Kinh tế - Xã hội đến sự
đa dạng sinh học khu hệ cá và hoạt động nghề cá ở ĐBSCL;
(3) Nghiên cứu Lồng ghép xây dựng mô hình Đồng quản lý nghề cá
gắn với bảo tồn Đa dạng sinh học ở vùng đất ngập nước Búng Bình
Thiên, huyện An Phú, tỉnh An Giang.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Kết quả đạt được của luận án trong nghiên cứu cơ bản về đa dạng
khu hệ cá và thực tiễn về quản lý nghề cá bền vững, có sự tham gia
của cộng đồng ngư dân - Đồng quản lý nghề cá, đóng góp cơ sở
khoa học và thực tiễn trong công tác bảo tồn nguồn lợi cá, quản lý
nghề cá thích ứng và cơ sở dữ liệu về gen (DNA), trong nghiên cứu
bảo tồn đa dạng nguồn gen các loài cá bản địa ĐBSCL.
5. Điểm mới của luận án

Điểm mới, đồng thời là lý do để NCS lựa chọn thực hiện đề tài
nghiên cứu này, trước NCS đã có nhiều công trình nghiên cứu về khu
hệ cá, hoạt động nghề cá, bảo tồn nguồn lợi cá ở ĐBSCL. Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu nào về lồng ghép giữa quản lý khai
thác, gắn với bảo tồn Đa dạng sinh học khu hệ cá có sự tham gia của
cộng đồng - Đồng quản lý nghề cá. Các công trình nghiên cứu trước
đây, chủ yếu đánh giá ảnh hưởng của sự phát triển Kinh tế - Xã hội
đến sự đa dạng khu hệ cá, chưa đánh giá các yếu tố cực đoan của
thiên nhiên (BĐKH, NBD). NCS đã thực hiện nội dung mới là xem
xét và đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố cực đoan (BĐKH, NBD)
đến sự đa dạng của khu hệ cá và hoạt động nghề cá vùng cửa sông
ven biển từ cửa Tiểu (Tiền Giang) đến cửa Cổ Chiên (Bến Tre), ở
các giai đoạn vào năm 2020, 2050 và 2100, kịch bản (B2 và A1F1).
Gần đây, đã có một số ít các công trình nghiên cứu về DNA của một


3
số loài cá ở ĐBSCL, nhưng rải rác ở nhiều bộ cá khác nhau. NCS
nghiên cứu DNA của 20 loài cá thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes),
nhằm đóng góp cơ sở dữ liệu về gen từng bước đầy đủ và đồng bộ.
6. Những đóng góp của luận án
1. Trong nghiên cứu cơ bản: Xây dựng cơ sở dữ liệu về đa
dạng sinh học khu hệ cá ĐBSCL, các yếu tố đã và đang tác động đến
khu hệ cá, góp phần bảo tồn ĐDSH khu hệ cá ĐBSCL.
2. Trong nghiên cứu ứng dụng thực tiễn: Kết quả xây dựng
kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) và nước biển dâng (NBD) ở 5 cửa
sông vùng ven biển; Và xây dựng thành công mô hình Đồng quản lý
nghề cá (ĐQL), làm cơ sở khoa học và thực tiễn trong lồng ghép
quản lý nghề cá thích ứng gắn với bảo tồn Đa dạng sinh học (ĐDSH).
7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận - Kiến nghị, Luận án có 3 Chương:
-

Chương 1. Tổng quan;

-

Chương 2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu;

-

Chương 3. Kết quả nghiên cứu.

Không tính các trang thuộc: Danh mục công trình tác giả, Tài liệu
tham khảo và các trang phụ lục, Luận án được trình bày trong 150
trang, với 53 biểu bảng và 49 hình ảnh, bản đồ, đồ thị minh họa.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đặc điểm địa lý tự nhiên
ĐBSCL gồm 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc Trung ương, với ổng
diện tích tự nhiên 39.734 km 2 chiếm 12% diện tích tự nhiên của cả
nước. Dân số vùng ĐBSCL tính đến năm 2013 là 17.478.900 người,
mật độ dân số 431 người/km 2 [Tổng cục Thống kê, 2013].


4
ĐBSCL là phần hạ lưu của châu thổ sông Mê Công, một miền trũng
Kainozoi Mê Công, được lấp đầy chủ yếu bằng các trầm tích hỗn
hợp sông - biển. Ngoài ra, còn có các trầm tích nguồn gốc khác nhau
như bồi tích, trầm tích trên các giếng cát có nguồn gốc biển, trầm

tích nguồn gốc hồ và trầm tích hỗn hợp đầm lầy - sông, đầm lầy biển. Quan tâm của Việt Nam tại ĐBSCL về tài nguyên nước là lũ,
lụt, xâm nhập mặn, xói lở bờ, biến đổi khí hậu, nước biển dâng v.v.
Lưu vực sông Mê Công và vùng ĐBSCL: Sông Mê Công là sông lớn
nhất Đông Nam Á và là một trong những con sông lớn trên thế giới,
bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng, có độ cao 5.500 m so với mực
nước biển và đổ ra biển Đông. Sông Mê Công có chiều dài 4.880 km,
diện tích lưu vực 795.000 km 2, chảy qua lãnh thổ của 6 Quốc gia
gồm các nước: Trung Quốc 21%, Myanmar 3%, Thái Lan 23%, Lào
25%, Campuchia 20% và Việt Nam 8%. Hạ lưu vực Mê Công, từ
Chiang Saen đến biển dài 2.400 km với diện tích 600.000 km 2. Sau
Kratie, sông Mê Công đi vào vùng đồng bằng ngập lũ và nối với
Biển Hồ qua Tonle Sap.
Lưu vực sông Mê Công ở Việt Nam có diện tích khoảng 71.000 km 2,
chiếm 20% diện tích lưu vực cả nước. Lưu vực sông Mê Công ở Việt
Nam có các sông gồm: (1) Sông Nậm Rốm và Nậm Núa, bắt nguồn
từ Bắc huyện Điện Biên và chảy sang Lào; (2) Một số sông suối phía
tây huyện Hương Hóa (tỉnh Quảng Trị); (3) Sông Sêkong bắt nguồn
từ dãy núi Trường Sơn (vùng Aso), huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế; (4) Lưu vực sông Mê Công ở Tây Nguyên gồm các sông Sê
San và sông Srepok; (5) Sông Mê Công khi chảy xuống hạ lưu
Pnompenh vào Việt Nam được chia thành hai nhánh chính là sông
Mê Công (sông Tiền) và sông Bassac (Sông Bassac bên hữu ngạn
vào lãnh thổ Việt Nam gọi là sông Hậu, sông Mê Công bên tả ngạn,


5
chảy vào lãnh thổ Việt Nam gọi là sông Tiền). Sông Hậu và sông
Tiền chảy trong lãnh thổ Việt Nam gọi là sông Cửu Long, chia ra 5
sông và đổ ra biển với chín cửa gồm: Sông Hậu đổ ra biển qua ba
cửa (Định An, Ba Thắc - Bassac và Trần Đề), hiện nay cửa Ba Thắc
đã bị bồi lắng hoàn toàn nên chỉ còn hai cửa. Sông Tiền chia thành 4

sông và đổ ra biển qua sáu cửa. Sông Mỹ Tho đổ ra biển qua cửa Đại
và sông cửa Tiểu (nhánh nhỏ của sông Mỹ Tho) đổ ra cửa Tiểu. Sông
Hàm Luông đổ ra cửa Hàm Luông, sông Ba Lai đổ ra cửa Ba Lai.
Sông Cổ chiên đổ ra biển bằng hai cửa Cổ Chiên và Cung Hầu.
Khí hậu
ĐBSCL nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nền khí hậu quanh năm
nắng và sự phân mùa khô - ẩm rất sâu sắc, tùy theo hoạt động của
hoàn lưu gió mùa. Mùa khô thường trùng với mùa ít mưa, đây cũng
là thời kỳ khống chế của gió mùa Đông Bắc (GMĐB) kéo dài
khoảng từ tháng XI đến tháng IV năm sau, có khí hậu đặc trưng là
khô, nóng và ít mưa. Mùa ẩm trùng với mùa mưa, là thời kỳ khống
chế của gió mùa Tây Nam (GMTN) kéo dài từ tháng V đến tháng X.
Khí hậu ở ĐBSCL là khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa cận xích đạo,
nắng nhiều, nhiệt độ cao quanh năm. Bức xạ tổng cộng trung bình
năm khoảng từ 150 - 160 kcal/cm2. Số giờ nắng trung bình năm
khoảng từ 2.200 - 2.800 giờ. Nhiệt độ không khí trung bình năm biến
đổi trong phạm vi 26 - 29oC.
HỆ SINH THÁI THỦY VỰC NỘI ĐỊA ĐBSCL
Hệ sinh thái thủy vực nước ngọt
ĐBSCL có hệ thống sông, kênh, rạch chằng chịt. Hệ sinh thái vùng
nước ngọt ở ĐBSCL, ngoài hệ thống đầu nguồn của sông Cửu Long,
còn có hệ thống các sông: Vàm Cỏ Tây, với chiều dài trong lãnh thổ
Việt Nam khoảng 110 km. Sông Sở Thượng, Sở Hạ, Cái Cỏ -

Long


6
Khốt chạy dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc các tỉnh
Đồng Tháp, Long An, v.v. Cùng với hệ thống hồ tự nhiên, vùng đất

ngập nước và vùng đất bán ngập nước theo mùa, các cánh đồng
ruộng trũng, bãi bồi ven sông, các khu bảo vệ, khu bảo tồn đặc trưng
của vùng ĐBSCL, còn có hệ thống kênh đào, công trình thủy lợi
phục vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp và giao thông đường
thủy, đường bộ.
Hệ sinh thái thủy vực nước lợ, mặn
ĐBSCL có hai hệ sinh thái thủy vực đặc trưng gồm: nước ngọt và
nước lợ, mặn. Sự tương tác của thủy triều biển và hệ thống sông Cửu
Long tạo ra vùng nước lợ, vào thời điểm tương tác của thủy triều
mạnh hơn sông làm cho độ mặn tăng cao. Từ cửa Tiểu (Tiền Giang)
đến Hà Tiên (Kiên Giang) có nhiều sông, kênh, rạch đổ ra biển, trong
đó 17 sông và 3 kênh lớn đổ ra biển Đông và biển Tây, có tác động
mạnh đến vùng ven bờ. Hệ sinh thái thủy vực mặn, lợ ở ĐBSCL có
vai trò quan trọng cũng không kém so với hệ sinh thái thủy vực nước
ngọt ở ĐBSCL.
Hệ sinh thái thủy vực nước lợ là hệ sinh thái chuyển tiếp, tạo nên sự
phong phú và đa dạng, là vùng chuyển tiếp các quần thể và tạo cơ hội
cho các loài sống rộng sinh thái, các loài di cư kiếm ăn, sinh sản. Hệ
sinh thái vùng CSVB ở ĐBSCL là một phần của vùng hạ lưu hệ
thống sông Mê Công, chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều biển Đông
và biển Tây, sự tương tác, giao thoa mạnh giữa sông và biển.
Các tiểu vùng sinh thái đồng bằng sông Cửu Long
Vùng ĐBSCL có hệ sinh thái thủy vực phong phú và đa dạng, gồm
hệ sinh thái nước ngọt, lợ, mặn. Mang tính đặc trưng của vùng ngập
lũ, bán ngập, chịu tác động của thủy triều biển Đông, biển Tây. Có
nhiều quan điểm khác nhau về phân chia vùng sinh thái ở ĐBSCL,


7
tuỳ theo mục đích và đối tượng nghiên cứu (theo ngành, lĩnh vực

chuyên môn), như: phân vùng sinh thái theo địa lý, môi trường, nuôi
trồng thủy sản, v.v. Theo Nguyễn Văn Hảo và Nguyễn Văn Trọng
(2001), phân chia vùng sinh thái nuôi trồng thủy sản ven biển
ĐBSCL thành các vùng, gồm: Vùng I, từ cửa sông Soài Rạp đến cửa
sông Bồ Đề; Vùng II, từ cửa sông Bồ Đề đến sông Đồng Cùng; Vùng
III, từ cửa sông Đồng Cùng đến Hà Tiên. Theo Lương Quang Xô,
phân chia vùng ĐBSCL thành 5 vùng chính gồm: Bán đảo Cà Mau
(BĐCM); Tứ giác Long Xuyên (TGLX); vùng giữa sông Tiền và
sông Hậu; vùng Đồng Tháp Mười (ĐTM) và tiểu vùng Vàm Cỏ.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁ NƯỚC NGỌT VÀ
HIỆN TRẠNG NGUỒN LỢI CÁ ĐBSCL
Công trình nghiên cứu đầu tiên liên quan đến phân loại về cá nước
ngọt ở Việt Nam của H.E. Sauvage (1881) “Nghiên cứu về khu hệ cá
Á Châu và mô tả một số loài mới ở Đông Dương”. Công trình đã
thống kê 139 loài cá chung cho toàn Đông Dương và mô tả 2 loài
mới ở miền Bắc Việt Nam. Kế tiếp là các công trình nghiên cứu của
G. Tirant (1883), H.E. Sauvage (1884), L. Vallant (1891), J.
Pellegrin (1906, 1907, 1928, 1932); P. Chabanaud (1924), v.v. Kế
tiếp là các công trình nghiên cứu của một số các nhà khoa học trong
nước và nước ngoài như: Đào Văn Tiến và Mai Đình Yên (1958,
1959); Đào Văn Tiến và cs (1961); Mai Đình Yên (1962); Hoàng
đức Đạt (1964); Nguyễn Văn Hảo (1964); P. Bănărescu (1967, 1970,
1971); Mai Đình Yên (1978); Nguyễn Hữu Dực (1982); Mai Đình
Yên, Nguyễn Hữu Dực (1991); Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Hữu Dực
(1994), v.v. Ở miền Nam, trước năm 1975 có một số công trình
nghiên cứu của các tác giả: Trần Ngọc Lợi và Nguyễn Cháu (1964);
Fourmanir (1965); M. Yamarmura (1966); Kawamoto và cs (1972);


8

Y. Taki (1975); Từ sau năm 1975 đến nay, được biết thêm một số tài
liệu của các tác giả: Akihito và Merguro (1976); Mai Đình Yên
(1982); Mai Đình Yên và cs (1992), Trương Thủ Khoa và Trần Thị
Thu Hương (1993); Hoàng Đức Đạt và Thái Ngọc Trí (2001), v.v.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu về khu hệ cá ở ĐBSCL, còn có
một số công trình nghiên cứu về sinh học cá thể, sinh sản nhân tạo,
cá bột, cá con, sinh học phân tử, có thể kể một vài tác giả: Phạm Văn
Khánh (1996); Nguyễn Bạch Loan và Nguyễn Hữu Phụng (2002);
Nguyễn Tuần (2000); Nguyễn Văn Trọng (1997); Bùi Lai và cs
(2002, 2012); Hoàng Đức Đạt và cs (2003); Thái Ngọc Trí và cs
(2011, 2012); Nguyễn Thanh Tùng (2005); Nguyễn Bạch Loan
(2012); Vũ Đặng Hạ Quyên và cs (2014); v.v.
CHƯƠNG 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
KHẢO SÁT THỰC ĐỊA
- Đối tượng nghiên cứu: Các loài cá tự nhiên thuộc vùng nước
nội địa ở đồng bằng sông Cửu Long. Một số các cộng đồng ngư dân.
- Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Thực hiện nghiên cứu ở 14
khu vực với 40 điểm tọa độ khảo sát vùng ĐBSCL từ tháng 10/2011
đến tháng 4/2015 (Hình 1).

Hình 1. Bản đồ thu mẫu nghiên cứu ở thực địa


9
- Thu mẫu: Mẫu cá được thu thập bằng nhiều loại ngư cụ khác
nhau, gồm: Lưới giăng (nhiều loại mắt lưới khác nhau), Câu (giăng,
cắm), Chài, Vó gạt, Vó bè, Te, Xiệp, Đáy, Dớn, Đăng mé, Lợp, v.v.,
đánh bắt trực tiếp cùng với ngư dân. Mẫu cá được sử dụng nghiên
cứu hình thái và sinh học phân tử.
- Điều tra, thu thập thông tin bằng phiếu phỏng vấn theo từng hộ

gia đình, các cơ quan quản lý tại địa phương, hội thảo cộng đồng.
- Thiết bị và hóa chất sử dụng: thiết bị giải phẫu ngư loại,
Ethanol (EtOH) 70% và EtOH 90%, Formaldehyt 10%, lọ đựng mẫu
mô thể tích 1,5 ml có gắn mã vạch (Barcoding), Máy ảnh, GPS, v.v.
Dữ liệu thứ cấp ở thực địa; Các hình ảnh, cùng với sinh cảnh được
mô tả, thời gian, địa điểm (tọa độ địa lý), người thu thập, v.v. được
ghi chép vào nhật ký thực địa và lưu giữ trong máy tính xách tay.
XỬ LÝ TRONG PHÒNG THÍ NGHIỆM
- Nghiên cứu về hình thái học (Định loại, xác định tên khoa học
dựa vào đặc điểm cấu tạo hình thái ngoài), xử lý dữ liệu, hoàn thành
luận án tại phòng Thí nghiệm Viện Sinh học Nhiệt đới, Việt Nam.
- Nghiên cứu sinh học phân tử được thực hiện tại phòng Thí
nghiệm tích hợp Đa dạng sinh học, Bảo tồn và Gen, Khoa Sinh học,
Đại học Saint Louis, Missouri, Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐA DẠNG SINH HỌC KHU HỆ CÁ ĐBSCL
Đa dạng về thành phần loài
Đa dạng về thành phần loài: Kết quả nghiên cứu khu hệ cá ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long, đã phân tích và xác định được 216 loài cá,
thuộc 60 họ, 19 bộ. Trong đó, lớp cá sụn có hai bộ: Bộ cá mập
(Carcharhiniformes) và bộ cá đuối ó (Myliobatiformes); Lớp cá


10
xương có 17 bộ. Trong 19 bộ cá đã được xác định, bộ cá vược
(Perciformes) có số lượng loài nhiều nhất, với 66 loài thuộc 27 họ,
chiếm tỷ lệ 30,6%; Xếp thứ hai là bộ cá chép (Cypriniformes), có 55
loài thuộc 3 họ, chiếm tỷ lệ 25,5%; Xếp thứ ba là bộ cá nheo
(Siluriformes), có 40 loài thuộc 7 họ, chiếm tỷ lệ 18,5%. Các bộ còn
lại có số lượng loài dao động từ 1 loài - 12 loài, chiếm tỷ lệ từ 0,5% 5,6% trong cấu trúc thành phần loài của khu hệ. (Hình 2).

Tỷ lệ thành phần loài giữa các Bộ
Bộ cá mập
Bộ cá nóc 0,5%
1,9%

Bộ cá đuối ó
2,3%

Bộ cá thát lát
0,9%

Bộ cá măng biển
0,9%
Bộ cá mòi đường
0,5%

Bộ cá chép
25,5%

Bộ cá chình
2,3%

Bộ cá mù làn
0,5%
Bộ cá mang liền
2,8%
Bộ cá ngựa xương
0,5%
Bộ cá kìm
2,3%


Bộ cá cóc
0,5%

Bộ cá đèn sông
0,9%

Bộ cá hồng nhung
0,5%

Hình 2. Tỷ lệ thành phần loài của khu hệ cá ĐBSCL

Các loài ghi nhận mới cho khu hệ cá vùng ĐBSCL: Kết quả nghiên
cứu, đã ghi nhận mới 6 loài cá thuộc 3 họ 2 bộ, cho khu hệ cá vùng
ĐBSCL, gồm: cá Lòng tong đuôi vàng Rasbora tornieri Ahl, 1922;
cá Cóc nhiều râu Cyclocheilichthys heteronema (Bleeker, 1854); cá
Khoai (Acantopsis sp.1); cá Khoai (Acantopsis sp.2); cá Khoai
(Acantopsis sp.3) và cá Mang rổ Toxotes microlepis Günther, 1860.
Các loài cá quý hiếm và loài nhập nội ở ĐBSCL: Trong 216 loài cá
thuộc 60 họ, 19 bộ ở vùng ĐBSCL, có 19 loài nằm trong sách Đỏ
Việt Nam (2007) và danh lục Đỏ thế giới (IUCN, 2014), với tình
trạng bị đe dọa ở các mức độ khác nhau (Bảng 1).


11
Bảng 1. Danh sách các loài bị đe dọa
Stt
I
1
1

II
2
2
III
3
3
4
4
IV
5
5
V

TÊN TIẾNG VIỆT

TÊN KHOA HỌC

BỘ CÁ ĐUỐI Ó

MYLIOBATIFORMES

Họ cá Đuối bồng

Dasyatidae

Cá đuối bồng viền trắng

Himantura signifer Compagno & Roberts, 1982

BỘ CÁ THÁT LÁT


OSTEOGLOSSIFORMES

Họ cá Thát lát

Notopteridae

Cá còm

Chitala ornata (Gray, 1831)

BỘ CÁ MĂNG BIỂN

ELOPIFORMES

Họ cá Măng biển

Elopidae

Cá cháo biển

Elops saurus Linnaeus, 1766

Họ cá Cháo

Megalopidae

Cá Cháo lớn

Megalops cyprinoides (Broussonet, 1782)


BỘ CÁ MÒI ĐƯỜNG

ALBULIFORMES

Họ cá Mòi đường

Albulidae

Cá Mòi đường

Albula vulpes (Linnaeus, 1758)

BỘ CÁ TRÍCH

CLUPEIFORMES

(1)

(2)

EN

VU

LC

VU

LC


VU DD

VU NT

Họ cá Trích

Clupeidae

6

Cá mòi không răng

Anodontostoma chacunda (Hamilton, 1822)

VU

7

Cá cháy nam

Tenualosa thibaudeaui (Durand, 1940)

VU VU

8

Cá cháy bẹ

Tenualosa toli (Valenciennes, 1847)


VU

BỘ CÁ CHÉP

CYPRINIFORMES

Họ cá Chép

Family Cyprinidae

Cá chép

Cyprinus carpio Linnaeus, 1758

10

Cá duồng

Cirrhinus microlepis Sauvage, 1878

11

Cá hô

Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898

EN

12


Cá trà sóc

Probarbus jullieni Sauvage, 1880

VU EN

BỘ CÁ NHEO

SILURIFORMES

8

Họ cá Lăng

Bagridae

13

Cá chốt cờ

Mystus bocourti (Bleeker, 1864)

9

Họ cá Tra

Pangasiidae

14


Cá bông lau

Pangasius krempfi Fang & Chaux, 1949

15

Cá tra dầu

Pangasianodon gigas Chevey, 1931

16

Cá tra

Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage, 1878)

BỘ CÁ VƯỢC

PERCIFORMES

Họ cá Hường

Datnioididae

17

Cá hường vện

Datnioides polota (Hamilton, 1822)


VU

18

Cá hường (Thái hổ)

Datnioides microlepis Bleeker, 1854

VU

6

VI
7
9

VII

VIII

10

VU
VU VU
CR

VU

VU

VU CR
EN

LC


12
Stt
11
19

TÊN TIẾNG VIỆT

TÊN KHOA HỌC

Họ cá Mang rổ

Toxotidae

Cá mang rổ

Toxotes chatareus (Hamilton, 1822)

Ghi chú: (1) Sách Đỏ Việt Nam, (2007)

(1)

(2)

VU


(2) IUCN Red list Status, (2014)

Trong 19 loài cá bị đe dọa có mặt ở ĐBSCL, hiện nay một số loài đã
được sinh sản nhân tạo, gồm: cá Còm, cá Chép, cá Duồng, cá Hô, cá
Trà sóc, cá Tra, cá Hường vện, một số loài trong chúng là đối tượng
nuôi có giá trị kinh tế như cá Chép, cá Tra, cá Còm.
Ở Việt Nam, các loài cá nhập nội được di nhập vào từ những năm
1958, phục vụ cho nghề nuôi cá thịt và nghề nuôi cá cảnh. Các loài
cá và các dòng cá nhập có nguồn gốc từ nhiều nước và châu lục,
gồm: châu Phi, châu Mỹ (Brazil), châu Âu (Hungari), châu Á (Ấn Độ,
Trung Quốc,) và Đông Nam Á (Thái Lan, Philippine, v.v.). Cùng với
nghề khai thác cá, nghề nuôi cá ở ĐBSCL có truyền thống và phát
triển mạnh trong những thập niên gần đây. Các đối tượng nuôi khá
phong phú, có hai nguồn gốc: (1) Tuyển chọn sử dụng giống từ các
loài cá có nguồn gốc bản địa ở ĐBSCL; (2) Sử dụng nguồn giống là
các loài nhập nội hoặc từ vùng khác trong nước đến phục vụ cho
nghề nuôi, nhằm đáp ứng nhu cầu về mặt thực phẩm, hoặc di nhập
phục vụ nghề cá cảnh. Kết quả điều tra, thu thập thông tin từ ngư dân
và tham khảo các tài liệu, đã xác định ở ĐBSCL hiện nay có 14 loài
cá thuộc 7 họ, 5 bộ, là những loài nhập nội chủ yếu phục vụ nghề
nuôi cá thịt phổ biến ở ĐBSCL. Một số loài nhập nội đã hình thành
quần thể tác động đến các loài bản địa, đến hệ sinh thái, môi trường.
Chúng thích nghi với môi trường sống tự nhiên ở ĐBSCL, phát triển
nhanh về quần thể, cạnh tranh nguồn thức ăn, nơi sống của các loài
cá bản địa như: cá Tỳ bà (Hypostomus punctatus), cá Trê

phi

(Clarias gariepinus), cá Rô phi đen (Oreochromis mossambicus), v.v.

Hiện nay, loài cá Tỳ bà (Hypostomus punctatus) là vấn nạn ở các


13
thủy vực nước ngọt và nước lợ ĐBSCL. Cá Tỳ bà là loài cá nhập nội
phục vụ nghề nuôi cảnh, thích nghi tốt với điều kiện vùng nước tự
nhiên ở ĐBSCL, phát triển mạnh về quần thể.
Đa dạng nguồn gen
Giải trình tự DNA và xây dựng cây phát sinh chủng loài của 20 loài
cá thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes) (Hình 3).

Hình 3. Sơ đồ cây phát sinh chủng loài

Kết quả phân tích, kiểm tra đa dạng di truyền trong COI, cho thấy
khoảng cách di truyền giữa các taxon dao động từ 0.001 (1,0%)
Acantopsis sp1/ Acantopsis sp3 và 0,229 (22,9%) (Henicorhynchus
siamensis và Acantopsis sp.2). Sự sai khác giữa các trình tự nucleotic
của 3 taxon thuộc giống Acantopsis như sau: Acantopsis sp1/
Acantopsis sp2: 21,4%; Acantopsis sp1/ Acantopsis sp3: 1,0%;
Acantopsis sp2/ Acantopsis sp3: 21,6%.
Đa dạng hệ sinh thái thủy vực ĐBSCL
Đa dạng hệ sinh thái thủy vực: Hệ sinh thái thủy vực nội địa ĐBSCL
phong phú và đa dạng, chịu sự tác động của một số yếu tố vô sinh


14
như: pH, sự xâm nhập mặn, chế độ dòng chảy của hệ thống sông Mê
Công, chế độ bán nhật triều của biển Đông, nhật triều của biển Tây,
các hệ thống công trình thủy lợi, đê bao ngọt hóa, ngăn mặn, các
công trình ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu, v.v. Trên cơ sở

đó, có thể phân chia ĐBSCL thành 5 tiểu vùng sinh thái gồm: (1) tiểu
vùng sinh thái thuộc vùng TGLX, (2) tiểu vùng sinh thái thuộc vùng
ĐTM, (3) tiểu vùng sinh thái thuộc vùng trung tâm ĐBSCL, (4) tiểu
vùng sinh thái thuộc vùng BĐCM và (5) tiểu vùng sinh thái thuộc
vùng CSVB (từ cửa Tiểu Tiền Giang đến Kiên Giang).
Tiểu vùng TGLX và tiểu vùng ĐTM, đặc trưng cho vùng thượng
nguồn ĐBSCL chịu ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ bởi lưu vực
sông Mê Công, các loài cá chiếm ưu chế chủ yếu có nguồn gốc ngọt,
đồng thời cũng là tiểu vùng chịu ảnh hưởng bởi phèn có nhiều loài
“cá đen” sinh sống trong mùa khô.
Tiểu vùng trung tâm ĐBSCL được xem là vùng giao thoa và chuyển
tiếp giữa nước ngọt và nước mặn. Tùy vào chế độ tương tác giữa
nguồn nước ngọt của sông Mê Công và chế độ triều của biển theo
mùa (mưa hoặc khô), tạo nên vùng lợ hoặc xâm nhập mặn (XNM)
sâu trong tiểu vùng. Đây là vùng có thành phần loài đa dạng gồm
nhóm cá có nguồn gốc ngọt, mặn, lợ.
Tiểu vùng CSVB chịu sự chi phối và tác động chính của chế độ thủy
triều (bán nhật triều và nhật triều) biển Đông, biển Tây cùng với các
yếu tố về TĐL của biển - sông và chế độ GMĐB hoặc GMTN. Ngoài
yếu tố chi phối bởi tác động sông - biển, còn chịu sự chi phối và tác
động bởi các hệ thống công trình thủy lợi và đê biển. Các nhóm cá
đại diện có nguồn gốc mặn, lợ chiếm ưu thế.
Tiểu vùng BĐCM, chịu sự chi phối và tác động chính của chế độ
thủy triều biển Đông và biển Tây và sự tương tác giữa biển Đông và


15
biển Tây theo chế độ GMĐB hoặc GMTN; Sự chi phối của các hệ
thống công trình thủy lợi, đê biển; Sự tương tác giữa sông Mê Công
và biển Đông, biển Tây. Các nhóm cá đại diện và đặc trưng cho tiểu

vùng này có nguồn gốc biển Đông và biển Tây chiếm ưu thế và một
số đại diện có nguồn gốc ngọt của hạ lưu hệ thống sông Mê Công.
Đặc điểm cấu trúc thành phần loài theo mùa và nguồn gốc phân bố:
Khu hệ cá ĐBSCL, có hai nhóm cá điển hình: (1) Nhóm cá có nguồn
gốc ngọt hoàn toàn chiếm ưu thế vào mùa lũ, có 178 loài chiếm tỷ lệ
47% thành phần loài của khu hệ cá ĐBSCL. Ở ĐBSCL về mặt sinh
thái các loài cá nước ngọt thường phân biệt: nhóm “cá trắng” hay cá
sông, ưa nước chảy, thoáng có hàm lượng oxy hòa tan trong nước
(DO) cao, và nhóm “cá đen” sống ở lung đầm, trong rừng tràm nước
đứng, nhiễm phèn, pH thấp, DO thấp. Tuy vậy, về mùa lũ “cá trắng”,
“cá đen” đều cùng sống, kiếm ăn trong vùng ngập lũ của ĐBSCL. (2)
Nhóm cá có nguồn gốc mặn, lợ sống rộng muối chiếm ưu thế vào
mùa khô ở vùng hạ lưu cửa sông, ven biển, có 197 loài chiếm tỷ lệ
53% về thành phần loài của khu hệ cá ĐBSCL (Hình 4).
Số loài, 197

Số họ, 60

Số bộ, 19

50

Số bộ, 12

100

Số loài, 178

150


Số họ, 37

200

Mùa khô Mùa lũ
47%
53%

0
Mùa lũ

Mùa khô

Hình 4. Cấu trúc thành phần loài khu hệ cá ĐBSCL theo mùa

Khu hệ cá ĐBSCL một phần của khu hệ cá sông Mê Công có mối
quan hệ chặt chẽ trong chu kỳ sống và phát triển gắn liền với chế độ
thủy văn của sông Mê Công; Hàng năm về mùa lũ cá bột, cá con của
nhiều loài từ sông Mê công di cư theo dòng nước lũ về ĐBSCL vào


16
sinh sống trong vùng ngập, lớn lên bổ sung vào trữ lượng cho khu hệ
cá ĐBSCL. Các loài cá có nguồn gốc biển sống rộng muối ở vùng
biển gần bờ, cửa sông, vào sâu trong vùng hạ lưu theo sự xâm nhập
mặn trong mùa khô, một số loài di cư vượt sông Cửu Long lên trung
lưu sông Mê Công sinh sản.
Đặc điểm sinh học, sinh thái khu hệ cá ĐBSCL: Đặc điểm về sinh
học, sinh thái của khu hệ cá ĐBSCL gắn liền với điều kiện tự nhiên
vùng ĐBSCL (Thời tiết, khí hậu, mùa khô và mùa mưa lũ), chế độ

thủy văn của sông Mê Công, sự tương tác giữa sông - biển và chế độ
triều của biển Đông, biển Tây. Hoạt động sinh sản, dinh dưỡng, sinh
trưởng của phần lớn các loài cá ĐBSCL phụ thuộc vào chế độ mưa lũ
của sông Mê Công và chế độ thủy triều của biển Đông và biển Tây.
Di cư là đặc điểm sinh thái học quan trọng của phần lớn các loài cá
ĐBSCL. Di cư sinh sản: nhiều loài trong bộ cá Chép (Cypriniformes),
bộ cá Nheo (Siluriformes), một số loài cá có nguồn gốc biển di cư
lên trung lưu sông Mê Công để sinh sản. Nhều loài cá trong bộ cá
Chép (Cypriniformes), bộ cá Vược (Perciformes) sống ở sông, kênh
rạch đến mùa lũ di cư vào vùng ngập lũ để sinh sản. Di cư phát triển,
dinh dưỡng, sinh trưởng: trứng phôi, cá bột, cá con từ trung lưu sông
Mê Công theo dòng nước lũ di cư thụ động về hạ lưu theo sông Cửu
Long, vào các vùng ngập lũ rộng lớn phát triển thành cá con, kiếm ăn
lớn lên, nước lũ rút chúng theo xuống kênh, rạch, sông lớn. Ấu trùng,
cá con (Cá trưởng thành) của một số loài cá có nguồn gốc biển theo
dòng thủy triều vào vùng hạ lưu sinh sống.
Giá trị và vai trò của khu hệ cá ĐBSCL
ĐBSCL có hệ thống thủy vực phong phú đa dạng, tài nguyên thủy
sản đa dạng về thành phần loài, phong phú về số lượng, sản lượng
khai thác hàng năm lớn, cung cấp thực phẩm cho nhu cầu trong nước


17
và xuất khẩu, trong đó các loài cá chiếm tỷ trọng lớn. Trong 216 loài
cá của khu hệ cá ĐBSCL có 79 loài cá thuộc 30 họ, 9 bộ chiếm tỷ lệ
36,57%, có 24 loài là đối tượng nuôi. Những năm gần đây, sản lượng
cá da trơn (các loài trong giống Pangasius) nuôi ở ĐBSCL đã đạt trên
một triệu tấn/năm. Một số loài cá có chất lượng thịt ngon được coi là
đặc sản. Nhiều loài cá có màu sắc, hình dạng đẹp, có tập tính đặc biệt
có thể tuyển chọn thuần hóa làm cá cảnh. Khu hệ cá ĐBSCL là một

phần của khu hệ cá sông Mê Công, nhiều loài cá có giá trị cao là
nguồn gen quí hiếm cá nước ngọt của thế giới, (cá Hô, cá Tra dầu,
v.v.) trong chu kỳ sống của chúng gắn liền với cả dòng sông Mê
công từ trung, thượng lưu đến hạ lưu - ĐBSCL.
CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ ĐA DẠNG KHU
HỆ CÁ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng
Trong những thập niên gần đây, sự xuất hiện các hiện tượng cực
đoan của thời tiết (sự BĐKH), đã tác động không nhỏ đến hệ sinh
thái thủy vực nội địa vùng ĐBSCL. Theo Bộ TN&MT (2012), nếu
mực nước biển dâng 1 m, sẽ có khoảng 39% diện tích đồng bằng
sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập, gần 35% dân số thuộc các tỉnh
vùng đồng bằng sông Cửu Long bị ảnh hưởng trực tiếp.
Kết quả nghiên cứu đã xây dựng kịch bản BĐKH và NBD (B2,
A1F1) chi tiết đến cấp xã, vùng ven biển của 5 cửa sông từ cửa Tiểu,
Tiền Giang đến cửa Cổ Chiên, Bến Tre (Bảng 2), (Hình 5 và Hình 6).
Bảng 2. Kịch bản trị số nước biển dâng ở vùng nghiên cứu
MỐC THỜI GIAN

Trị số NBD (cm) theo Bộ Tài
nguyên và Môi trường (2011)
Trị số mức tăng độ sâu ngập lụt

2050
2020 (kịch
(kịch bản
bản B2)
B2)

2100

(kịch bản
B2)

2100
(kịch bản
A1F1)

8

29

70

100

18

40

83

115


18
cực đại (cm) tại VNC theo kết
quả tính toán và số liệu thực đo
Bản đồ phân bố độ
ngập lụt cực đại vào
năm 2020 (lũ+triều

cường)
Bản đồ phân bố độ
ngập lụt cực đại vào
năm
2050 (lũ+triều
cường)
Bản đồ phân bố độ
ngập lụt cực đại vào
năm 2100 (lũ+triều
cường+bão cấp 12)

Bản đồ phân bố độ ngập
lụt cực đại vào năm 2020
(lũ+triều cường), có
GPTU
Bản đồ phân bố độ ngập
lụt cực đại vào năm 2050
(lũ+triều
cường),

GPTU
Bản đồ phân bố độ ngập
lụt cực đại vào năm 2100
(lũ+triều cường+bão cấp
12), có GPTU

Bản đồ phân bố độ
ngập lụt cực đại vào
năm 2020 (lũ+triều
cường+bão cấp 12)

Bản đồ phân bố độ
ngập lụt cực đại vào
năm 2050 (lũ+triều
cường+bão cấp 12)
Bản đồ phân bố độ
ngập lụt cực đại vào
năm 2100 (lũ+triều
cường) kịch bản
A1F1

Hình 5. Kịch bản ngập lụt vùng CSVB (từ cửa Tiểu đến cửa Cổ Chiên)
Bản đồ phân bố độ
mặn cực đại vào năm
2020 do kiệt, triều
cường và gió chướng

Bản đồ phân bố độ
mặn cực đại vào năm
2020 do kiệt, triều
cường và gió chướng;
có GPUP

Biên độ mặn cực
đại 4g/l vào năm
2020 do kiệt, triều
cường và gió
chướng

Bản đồ phân bố độ
mặn cực đại vào năm

2050 do kiệt, triều
cường và gió chướng

Bản đồ phân bố độ
mặn cực đại vào năm
2050 do kiệt, triều
cường và gió chướng;
có GPUP

Biên độ mặn cực
đại 4g/l vào năm
2050 do kiệt, triều
cường và gió
chướng

Bản đồ phân bố độ
mặn cực đại vào năm
2100, B2 do kiệt và
triều cường

Bản đồ phân bố độ
mặn cực đại vào năm
2100, B2 do kiệt và
triều cường; có GPUP

Biên độ mặn cực đại
4g/l vào năm 2100,
B2 do kiệt và triều
cường


Hình 6. Kịch bản XNM vùng CSVB (từ cửa Tiểu đến cửa Cổ Chiên)

Kết quả kịch bản BĐKH và NBD (B2) cho thấy: vào những năm
2020, 2050, 2100 nước biển dâng làm cho vùng nhiễm mặn ở
ĐBSCL mở rộng và thời gian nhiễm mặn có thể kéo dài hơn, làm
thay đổi, thu hẹp và hạn chế vùng phân bố của các loài cá có nguồn
gốc nước ngọt; Các loài cá nguồn gốc biển, sống rộng muối có thể
tăng số lượng thành phần loài và phân bố sâu vào vùng nước nội địa
nhiễm mặn trong thời gian dài. Cấu trúc về thành phần loài của khu
hệ cá VCSVB sẽ thay đổi, các loài cá có nguồn gốc ngọt sẽ bị đẩy lùi,
các loài có nguồn gốc mặn, lợ sẽ tiến sâu vào vùng nội địa (có thể sẽ
xuất hiện trong các kênh rạch nội đồng). BĐKH và NBD, sẽ gây ra
những tác động không nhỏ đối với nghề cá và cộng đồng ngư dân
sinh sống ở VCSVB, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở hạ tầng, tài sản
phương tiện đánh bắt, ngoài ra còn có khả năng đe dọa đến tính
mạng của cộng đồng ngư dân trong khi đánh bắt.


19
Tác động của các hoạt động phát triển Kinh tế - Xã hội
Các hoạt động xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đô thị hóa, phát
triển công, nông nghiệp: Trong khoảng 30 năm nay ĐBSCL đã phát
triển công nghiệp (đặc biệt là công nghiệp chế biến), nông nghiệp,
thủy sản, giao thông vận tải, du lịch, đô thị hoá, lượng chất thải ngày
càng nhiều, gây ô nhiễm môi trường đặc biệt là môi trường nước, ảnh
hưởng đến các loài thủy sinh vật trong đó có các loài cá. Gia tăng sản
xuất nông nghiệp (trồng lúa 3 vụ), xây dựng đê bao chống lũ hoàn
toàn, hoặc lũ đầu và giữa vụ để bảo vệ lúa vụ 3 làm giảm diện tích
vùng ngập trong mùa lũ ở ĐBSCL, dẫn đến vùng sinh sống của các
loài cá bị thu hẹp, đặc biệt là cá bột và cá con. Việc vận hành hệ

thống cống thoát lũ đã đưa một lượng lớn cá bột và cá con ra biển,
chúng sẽ bị chết trong môi trường nước lợ, mặn ở vùng CSVB.
Những ảnh hưởng của hoạt động Kinh tế - Xã hội trên toàn lưu vực
sông Mê Công đối với ĐDSH khu hệ cá ĐBSCL: Những hoạt động
ngăn dòng sông chính, các phụ lưu để xây dựng thủy điện, thủy lợi,
khai phá rừng trong lưu vực để làm nông nghiệp, v.v., ở trung,
thượng lưu sông Mê Công đã và sẽ ảnh hưởng đến vùng hạ lưu,
trong đó có ĐBSCL. Việc trữ nước cho các hồ chứa thủy điện, thủy
lợi từ đầu đến giữa mùa mưa, làm thay đổi thời gian và cường độ lũ
trên sông, các loài cá có tập tính sinh sản trên sông vào đầu mùa lũ sẽ
không có đủ điều kiện sinh thái để sinh sản. Nguồn cá bột, cá con di
cư theo nước lũ về ĐBSCL sẽ giảm sút, v.v.
Phương thức khai thác, sử dụng nguồn lợi cá: Trong những thập niên
gần đây, hoạt động nghề cá ở ĐBSCL luôn là áp lực đối với nguồn
lợi cá, lực lượng khai thác lớn, cường độ khai thác cao, thời gian khai
thác liên tục (quanh năm), khai thác ở khắp các loại hình thuỷ vực,
ngư cụ khai thác đa dạng về chủng loại, phong phú về số lượng, sử


20
dụng nhiều loại ngư cụ lạc hậu, lạm sát, kích điện; Cùng với sở thích
sử dụng các loài cá con, chưa trưởng thành (cá lóc con, cá rô hạt bí),
các loài cá đang mang trứng, v.v., đã góp phần không nhỏ làm suy
giảm nguồn lợi cá trong tự nhiên.
Hiện trạng bảo vệ ĐDSH khu hệ cá ĐBSCL: Cùng với hệ thống văn
bản pháp lý (Luật Bảo vệ Môi trường, Luật Đa dạng sinh học, Luật
Thủy sản, sách Đỏ Việt Nam, v.v.), Cơ quan quản lý Trung ương và
các địa phương ở ĐBSCL, đã thực hiện các giải pháp quản lý và bảo
vệ nguồn lợi cá, như: chương trình thả cá phục hồi nguồn lợi hàng
năm, xây dựng các khu Bảo tồn Thủy sản nội địa; Kiểm tra xử phạt

những vi phạm trong khai thác cá, các hoạt động khác gây hại nguồn
lợi thủy sản. Tuy nhiên, cho đến nay tình hình vẫn chưa được cải
thiện nhiều. Một trong các giải pháp để tổ chức bảo vệ và khai thác,
sử dụng bền vững nguồn lợi cá, đã được lựa chọn và áp dụng cho
ngành thủy sản là xây dựng mô hình Đồng quản lý nghề cá. Đây là
một hướng đi mới tạo điều kiện để ngư dân tham gia chủ động vào
quản lý, bảo vệ, khai thác bền vững tài nguyên thủy sản vì sự phát
triển bền vững, hướng đến quản lý nghề cá thích ứng.
KẾT QUẢ LỒNG GHÉP XÂY DỰNG MÔ HÌNH
ĐỒNG QUẢN LÝ NGHỀ CÁ GẮN VỚI BẢO TỒN
ĐDSH
Kết quả xây dựng mô hình ĐQL nghề cá
Vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên đã được nghiên cứu về hiện
trạng Kinh tế - Xã hội, hệ sinh thái, môi trường, tài nguyên đa dạng
sinh học và đánh giá, xác định các nhu cầu, năng lực của cộng đồng,
các bên có liên quan, để xây dựng mô hình Đồng quản lý nghề cá.
Kết quả đã xây dựng thành công mô hình ĐQL với tên gọi Chi hội
Nghề cá Búng Bình Thiên, cộng đồng ngư dân tham gia quản lý
nguồn lợi cá gắn với bảo tồn Đa dạng sinh học ở Búng Bình Thiên.


21

Hình 7. Bản đồ vùng đất ngập nước Búng Bình Thiên

Kết quả đạt được trong lồng ghép xây dựng mô hình
Đồng quản lý nghề cá gắn với bảo tồn Đa dạng sinh học
Xây dựng và đóng góp cơ sở dữ diệu trong công tác quản lý Nhà
nước và bảo tồn ĐDSH; Các hoạt động quản lý nghề cá và các kênh
thông tin được thiết lập giữa cơ quan quản lý và cộng đồng ngư dân.

Bảng 3. Kết quả các hoạt động xây dựng mô hình Đồng quản lý nghề cá
Stt
Nội dung nghiên cứu Thời gian
Kết quả
I
1
2
3

4
II
1
2

3

Hoạt động nghiên cứu đánh giá
Đánh giá nhu cầu, năng
12 tháng
lực cộng đồng
Nghiên cứu hiện trạng
12 tháng
Kinh tế-Xã hội
Đánh giá vai trò của hệ
sinh thái đất ngập nước 24 tháng
Búng Bình Thiên

Có nhu cầu, đạt sự đồng
thuận 100%
Kinh tế-Xã hội của 3 xã ở

Búng Bình Thiên
Vai trò của Búng Bình Thiên
đối với cộng đồng địa
phương, đối với khu vực
Chất lượng môi trường nước
Nghiên cứu hiện trạng
mặt và trầm tích, Thực vật,
Môi trường, ĐDSH, 36 tháng
Thủy sinh vật, khu hệ cá,
nghề cá ở BBT
hoạt động nghề cá
Xây dựng mô hình ĐQL nghề cá gắn với bảo tồn
Thông tin tuyên truyền
36 tháng Pano, tờ bướm
Tập huấn, hội thảo về
Các nội dung tập huấn, hội
Đa dạng sinh học, hệ
24 tháng thảo, các ý kiến tham gia của
sinh thái đất ngập nước
các bên liên quan
Đồng quản lý nghề cá
Xây dựng Mô hình ĐQL
Chi hội nghề cá Búng Bình
12 tháng
nghề cá
Thiên, Quy họach BBT


22
4


Các hoạt động lồng ghép
ĐQL gắn với bảo tồn

60 tháng

Sinh kế, quy họach ngư cụ,
quy ước cộng đồng, v.v.

KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
1. Kết quả đã thu thập và xác định được 216 loài cá thuộc 60 họ,
19 bộ ở ĐBSCL. Trong đó, bộ cá Vược (Perciformes) có số lượng
loài nhiều nhất với 66 loài chiếm tỷ lệ 30,6%; kế đến là bộ cá Chép
(Cypriniformes) có 55 loài chiếm tỷ lệ 25,5%; Xếp thứ ba là bộ cá
nheo (Siluriformes), có 40 loài chiếm tỷ lệ 18,5%. Giải mã trình tự
DNA của 20 loài cá thuộc bộ cá Chép (Cypriniformes), góp phần
trong nghiên cứu, bảo tồn nguồn gen các loài cá nước ngọt bản địa.
2. Ghi nhận mới 6 loài cá thuộc 3 họ, 2 bộ cho khu hệ cá
ĐBSCL (4 loài thuộc bộ cá Chép và 1 loài thuộc bộ cá Vược). Có 19
loài cá thuộc 11 họ, 8 bộ bị đe dọa ở các mức độ khác nhau, gồm:
VU, EN, CR chiếm tỷ lệ 8,8%. Trong đó 14 loài nằm trong sách Đỏ
Việt Nam (2007), 10 loài nằm trong danh lục Đỏ IUCN (2014).
3. Nguồn lợi cá ĐBSCL có vai trò quan trọng trong khu vực và
trong đời sống của cộng đồng ngư dân. Kết quả khảo sát thực địa kết
hợp với phỏng vấn ngư dân, đã xác định được 79 loài cá thuộc 30 họ,
9 bộ được xem là những đối tượng có giá trị kinh tế và 24 loài thuộc
15 họ, 5 bộ là đối tượng nuôi có nguồn gốc bản địa.
4. Di cư là đặc điểm sinh thái học quan trọng của khu hệ cá
ĐBSCL: di cư sinh sản, di cư bắt mồi (dinh dưỡng, sinh trưởng), di

cư đến các vùng sinh sống khác trong một phần vòng đời. Có hai
nhóm cá điển hình: (1) Nhóm cá có nguồn gốc ngọt chiếm ưu thế vào
mùa lũ; (2) Nhóm cá có nguồn gốc biển (mặn, lợ) sống rộng muối
chiếm ưu thế vào mùa khô ở vùng hạ lưu cửa sông, ven biển


23
5. Thủy vực ĐBSCL phong phú và đa dạng, gồm: ngọt, lợ, mặn,
cùng với hệ thống sông, kênh, rạch, vùng đất ngập nước và trũng bán
ngập, vùng cửa sông ven biển với những bãi bồi, hệ sinh thái rừng
tràm, rừng ngập mặn, đã hình thành 5 tiểu vùng sinh thái đặc trưng ở
ĐBSCL. Tập hợp các loài cá trong từng tiểu vùng có những đặc điểm
sinh thái đặc trưng, chúng bị chi phối bởi các yếu tố của tự nhiên: lũ
từ hệ thống sông Mê Công, sự tương tác giữa sông - biển, yếu tố
TĐL của thủy triều biển Đông, biển Tây, chế độ GMĐB, GMTN, v.v.
và của con người trong các hoạt động phát triển KT-XH.
6. Hoạt động nghề cá diễn ra quanh năm ở hầu hết các loại hình
thủy vực: thời gian, mùa vụ khai thác, vùng khai thác. Ngư cụ khai
thác phong phú về số lượng, đa dạng về chủng loại, bao gồm cả ngư
cụ cấm và lạc hậu. Có thể nói Cường độ và năng lực khai thác tỷ lệ
nghịch với sản lượng và chất lượng sản phẩm trong hoạt động nghề
cá ở ĐBSCL. Đặc biệt, trong khoảng 20 năm trở lại đây, có sự giảm
sút về sản lượng đánh bắt, nhất là các loài cá kinh tế có tập tính di cư,
do khai thác quá mức, cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng, các công
trình thủy lợi, thủy điện, v.v.
7. Các tác động cực đoan của thiên nhiên (BĐKH, NBD), sự
phát triển KT-XH, hoạt động khai thác nguồn lợi cá chưa hợp lý, các
khu Bảo vệ, khu Bảo tồn thủy sản nội địa chưa được quan tâm đúng
mức và chưa có nhiều là nguyên nhân dẫn đến giảm sút nguồn lợi cá,
suy giảm ĐDSH khu hệ cá ĐBSCL.

8. Kết quả xây dựng thành công Đồng quản lý nghề cá ở vùng
đất ngập nước Búng Bình Thiên, làm cơ sở khoa học và thực tiễn
trong lồng ghép quản lý nghề cá thích ứng gắn với bảo tồn Đa dạng
sinh học nói chung và nguồn lợi cá nói riêng ở ĐBSCL.


×