Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI NGÂM KHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 61 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------------

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
-------------------------

ĐỖ THỊ HƯỜNG
ĐỖ THỊ HƯỜNG

KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT
LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
THỂ LOẠI NGÂM KHÚC

KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT
LỤC BÁT TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
THỂ LOẠI NGÂM KHÚC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã Số:60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn:TS.Phạm Thị Phương Thái

THÁI NGUYÊN, NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




THÁI NGUYÊN, NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1.2 Lý do thực tiễn

PHẦN MỞ ĐẦU

Hiện nay, các tác phẩm viết bằng thể thơ STLB (Chinh phụ ngâm, Cung
1. Lý do chọn đề tài

oán ngâm, Văn chiêu hồn, Khóc Dương Khuê...) chiếm số lƣợng đáng kể

1.1 Lý do khoa học

trong chƣơng trình giảng dạy ở các cấp học … Vì vậy, việc tìm hiểu đặc trƣng

Thể thơ song thất lục bát (STLB) là một trong những sáng tạo đáng tự

kết cấu vận luật và tiến trình phát triển thể loại là việc làm cần thiết và hữu

hào của văn học trung đại nói riêng và của nền văn học Việt Nam nói chung.
Từ bƣớc chập chững, “ngập ngừng” dần dần đi đến ổn định và trở thành một
thể thơ cách luật, từ lúc chỉ đƣợc dùng để ngâm nga, ca tụng đến khi trở thành
một thể tài hữu hiệu để diễn tả sâu sắc, tinh tế thế giới nội tâm của con ngƣời,
STLB đã trải qua hành trình mấy thế kỷ, với sự góp công của biết bao thế hệ
thi sĩ. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu, chúng tôi thấy đã có một số bài viết,

công trình khoa học tìm hiểu những vấn đề về đặc trƣng, nguồn gốc và quá
trình hoàn thiện thể STLB. Hầu hết ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trƣớc
đều đã đƣợc biện giải khá thuyết phục. Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều điểm cần
nhìn nhận lại và bàn thêm. Chẳng hạn, đành rằng, ngọn nguồn của thể STLB
là văn học dân gian. Nhƣng đó không phải là nguồn gốc duy nhất của thể thơ
này. Có thể thoát thai từ câu hát dân gian nhƣng chắc chắn phải nhờ sự “thi
công” của nhiều thế hệ thi sĩ tài hoa, tinh tế thì STLB mới trở thành một thể
thơ cách luật, mới có thể tỏa sáng với những tác phẩm Ngâm khúc ở thế kỷ
XVIII – XIX. Và nhƣ vậy, sẽ thấy rõ hơn công lao của nhiều thế hệ thi sĩ
trong việc tìm tòi và sáng tạo một lối thơ riêng cho dân tộc.
Nghiên cứu STLB về kết cấu vận luật và tiến trình phát triển từ những
dấu hiệu đầu tiên cho đến bƣớc hoàn tất với các khúc ngâm ở thể kỷ XVIII –
XIX, không những có dịp bàn thêm về đặc trƣng thể thơ STLB mà còn có thể
nhìn nhận quá trình vận động, phát triển của thể thơ STLB từ hình thức đến
nội dung nhƣ lẽ tất yếu, nhằm thỏa mãn nhu cầu phản ánh của thời đại.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Kết cấu vận luật của thể
song thất lục bát trong tiến trình phát triển thể loại Ngâm khúc”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-1-



ích đối với những ngƣời làm công tác nghiên cứu và giảng dạy văn học. Thực
hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ trau dồi thêm những kiến thức về thi
pháp thể loại, tạo cơ sở chắc chắn về một hƣớng tiếp cận tác phẩm văn
chƣơng và góp thêm một tiếng nói nhằm xác định đúng giá trị của tác phẩm
văn học trong chƣơng trình giáo dục phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đáp ứng đƣợc nhu cầu tình cảm của con ngƣời trong bối cảnh lịch sử

nên ngay từ khi mới ra đời, STLB đã chiếm đƣợc lòng yêu mến của công
chúng thƣởng thức văn học. Với tƣ cách là một thể thơ dân tộc, hơn nữa lại là
thể loại có thành tựu rực rỡ trong văn học Việt Nam thời trung đại, STLB đã
thu hút đƣợc sự quan tâm đánh giá của các nhà nghiên cứu. Từ những thập
niên đầu thế kỷ XX đến nay, thể thơ này thực sự trở thành nội dung nghiên
cứu, tìm hiểu của các nhà văn học sử học và lý luận thơ ca.
2.1 Về nguồn gốc của thể STLB
Do hầu hết các thể thơ, thể văn trong văn học trung đại Việt Nam đều
có nguồn gốc từ Trung Quốc nên xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể STLB
đã có rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau. Có quan điểm cho rằng thể thơ
STLB là thể thơ thuần túy của Việt Nam, quan điểm khác lại khẳng định thể
STLB là một hiện tƣợng lắp ghép giữa cặp thất ngôn của Trung Hoa và cặp
lục bát của Việt Nam. Gần đây, hầu hết giới chuyên môn đều thừa nhận STLB
là thể thơ của dân tộc ta. Tác giả Bùi Kỷ đã khẳng định đó là “lối văn riêng
của ta mà Tàu không có” [44, 82]. Nhà nghiên cứu Phƣơng Lựu cũng tán

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-2-




đồng quan điểm này. Ông đã khẳng định: “Thể thơ STLB được hình thành

đề cơ bản về vần luật bằng trắc trong cặp câu thất của thể STLB: “trừ chữ thứ

trên cơ sở thể lục bát và thể thơ bảy chữ vốn có sẵn trong thơ ca dân gian

nhất không kể, muốn đặt tiếng gì cũng được, còn sáu chữ sau chia làm ba


Việt Nam” [31, 452].

đoạn mỗi đoạn hai chữ. Trong câu 7 thì có đoạn đầu trắc trắc; đến câu 7

Trong bài viết “Đi tìm ngọn nguồn của cặp thất ngôn trong thể song

dưới thì luật trái lại: đoạn đầu bằng bằng” [16, 206]. Những vấn đề mà ông

thất lục bát”, tác giả Phan Diễm Phƣơng đã tiến hành so sánh cấu trúc âm luật

đã đề cập tới sẽ là sự gợi mở cho các tác giả ở giai đoạn sau khi nghiên cứu về

của cặp thất ngôn Trung Hoa và cặp thất ngôn Việt Nam để từ đó rút ra kết

đặc trƣng kết cấu vần luật của thể STLB.

luận: “Điệu STLB là điệu hoàn toàn Việt Nam” [42, 38]. Sau đó, tác giả đƣa

Viết về thể STLB, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả

ra cách lí giải và chứng minh thể thơ STLB có ngọn nguồn từ văn học dân

cũng đã chỉ ra một số đặc điểm về hình thức, cách gieo vần, nhịp điệu của thể

gian. Điều này chứng tỏ quan điểm cho rằng thể STLB thuần túy Việt Nam là

STLB. Nhƣng những nhận định này vẫn mang tính chất khái quát và hết sức

hoàn toàn chính xác.


sơ lƣợc.

Không dừng lại ở đó, Phan Diễm Phƣơng tiếp tục làm rõ nguồn gốc của

Trong cuốn Lí luận văn học, tác giả Phƣơng Lựu chủ yếu tập trung vào

thể thơ này qua bài “Thử tìm hiểu những điều kiện hình thành hai thể thơ lục

tìm hiểu về mặt hình thức của thể thơ STLB: “Song thất lục bát là thể thơ cứ

bát và Song thất lục bát”. Từ những căn cứ đầy sức thuyết phục, tác giả thêm

hai dòng bảy chữ (song thất) lại một dòng sáu chữ và một dòng tám chữ “(lục

một lần nữa khẳng định chắn chắn rằng “dân tộc Việt có đủ mọi điều kiện để

bát)” [31, 452]. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập đến đặc trƣng kết cấu vận

tạo nên thể thơ đó” [43, 33].

luật của thể này. Ông đã chỉ ra cách hiệp vần và phối thanh của thể STLB:

Về thời điểm xuất hiện những dòng STLB thành văn, tác giả Phan

“Chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy thứ

Diễm Phƣơng, tác giả Ngô Văn Đức đều khẳng định những dòng STLB đầu

hai. Hai chữ hiệp vần đều thuộc thanh trắc. Chữ thứ bảy của dòng thứ hai


tiên đƣợc bắt đầu từ tác phẩm “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của

hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng sáu tiếp theo và đều thuộc thanh

Lê Đức Mao. Tác giả Phan Ngọc lại cho rằng “Bồ Đề thắng cảnh thi” tƣơng

bằng….Như vậy, mỗi khổ thơ có một vần chân trắc và ba vần chân bằng…”

truyền của Lê Thánh Tông mới là tác phẩm khởi thảo của thể STLB. Chính vì

[31, 452]. Tuy nhiên, những đặc trƣng khác về nhịp điệu, về phép đối… của

vậy, thời điểm xuất hiện thể STLB cũng là vấn đề cần phải xem xét.

thể thơ thì chƣa đƣợc các tác giả đề cập tới.
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nguyên và Hà Minh Đức trong Thơ ca Việt

2.2 Về đặc trưng kết cấu vận luật của thể STLB
Tiếp theo những công trình nghiên cứu về nguồn gốc của thể STLB,

Nam hình thức và thể loại đã chú ý hơn tới vấn đề đặc trƣng kết cấu vận luật

các nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu đặc trƣng của thể loại này. Một trong

của thể STLB. Đóng góp của hai tác giả là đã khẳng định thể thơ này là sự tổ

những đặc trƣng đó là kết cấu vận luật.

hợp của lục bát và thất ngôn. Tuy nhiên, họ cũng mới chỉ đề cập đến đặc


Tác giả Dƣơng Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu ngoài việc
chỉ ra những đặc điểm hình thức của thể thơ, tác giả còn trình bày một số vấn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-3-



trƣng vần luật của thể STLB một cách chung chung, chƣa có sự lí giải cụ thể.
Khác với những công trình nghiên cứu đi trƣớc, Lục bát và song thất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-4-




lục bát (Lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại) của Phan Diễm Phƣơng đã chỉ

Ở giai đoạn đầu (giữa thế kỷ XX), hầu nhƣ các tác giả mới chỉ tập trung

ra cụ thể một số đặc trƣng của thể thơ STLB về: gieo vần, ngắt nhịp, phối

tới việc giới thiệu, khảo đính và giải thích điển cố mà chƣa chú ý đúng mức

thanh điệu… Đồng thời, tác giả cũng đƣa ra cách lí giải về ngọn nguồn của


tới quá trình vận động của thể STLB trong các tác phẩm Ngâm khúc. Có thể

thể thơ lục bát và thể STLB “Đó là hai thể thơ dân tộc, được hình thành trên

kể đến các công trình nhƣ : Chinh phụ ngâm khảo thích và giới thiệu (Nhà

những điều kiện cụ thể là tiếng Việt và văn hóa Việt, trong mối liên hệ rất mật

xuất bản văn hóa HN 1964) của Lại Ngọc Cang; Cung oán ngâm khúc khảo

thiết với văn vần dân gian của dân tộc Việt” [44, 123]. Đây là một công trình

thích chú giải (Hà Nội 1931) của Đinh Xuân Hội; Cung oán ngâm khúc dẫn

có giá trị lớn trong việc làm sáng tỏ đặc trƣng kết cấu vần luật của thể STLB.

giải (Tân Việt Sài Gòn 1953) của Tôn Thất Lƣơng; Cung oán ngâm khúc dẫn

Tiếp thu thành quả của công trình này chúng tôi sẽ tiến hành nghiên cứu và

giải (Quốc học thƣ xã, HN 1953) của Lê Văn Hòe; Cung oán ngâm khúc hiệu

chỉ ra sự vận động về mặt hình thức và mặt nội dung của thể STLB trong tiến

đính chú giải (Bộ giáo dục HN 1957) của Hoàng Ngọc Phách, Lê Thƣớc, Vũ

trình phát triển của thể loại Ngâm khúc.

Đình Liên; Cung oán ngâm khúc khảo thích giới thiệu (Nxb văn hóa HN


Tác giả Ngô Văn Đức trong cuốn Ngâm khúc, quá trình hình thành

1959) của Nguyễn Trác và Nguyễn Đăng Châu; Tự tình khúc và Trần tình

phát triển và đặc trưng thể loại cũng có nói đến thể thơ STLB trong tƣơng

văn – chú thích và giới thiệu (Nxb văn hóa HN 1958) của Đái Xuân Minh,

quan so sánh với thể lục bát và Đƣờng luật. Từ đó, tác giả bƣớc đầu chỉ ra giá

Nguyễn Tƣờng Phƣợng. Trong các công trình trên, các tác giả tuy đã đƣa ra

trị của thể STLB trong việc diễn tả nội tâm con ngƣời và khẳng định thể thơ

những nhận xét đánh giá ngắn gọn nhƣng chỉ nhằm thâu tóm đƣợc cái tài, cái

này là hình thức tối ƣu của thể loại Ngâm khúc. Nhƣng những vấn đề này vẫn

thần của tác phẩm về phƣơng diện nội dung chứ không hƣớng vào làm rõ quá

còn rất chung chung, mới chỉ dừng lại ở mức độ đặt vấn đề. Đây là một trong

trình vận động phát triển của thể STLB trong thể loại Ngâm khúc.

những tiền đề gợi mở để chúng tôi thực hiện đề tài này.

Giai đoạn sau (từ thập kỷ 70), các nhà nghiên cứu đã soi chiếu tác

Trong những năm gần đây, giới chuyên môn đã quan tâm nhiều hơn tới


phẩm từ những góc độ khác nhau nhƣng chỉ dừng lại ở việc phân tích văn bản

đặc trƣng kết cấu vận luật của thể STLB. Nhờ có sự quan tâm này, mà một số

hoặc khai thác giá trị của hình tƣợng nghệ thuật. Các công trình này thƣờng

vấn đề cơ bản của thể thơ này đã đƣợc giải quyết ở những mức độ khác nhau.

có quy mô nhỏ lẻ chƣa thật chuyên sâu nhƣng ở đó đã có những ý kiến mới

Từ đó giúp ta có thể nhận diện thể thơ STLB một cách dễ dàng.

mẻ. Đó là quan niệm Ngâm khúc nhƣ là một thể loại với những đặc điểm

2.3 Lịch sử nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể
STLB trong Ngâm khúc

riêng: Thử đặt lại vị trí của Cao Bá Nhạ (Đặng Thị Hảo), Từ bản Nôm mới
phát hiện góp phần xác định thêm tác giả và thời điểm ra đời của Ai tư vãn

Vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá những giá trị nội dung và nghệ

(Nguyễn Cẩm Thúy), Thể loại ngâm và “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia

thuật của các tác phẩm Ngâm khúc có một lịch sử khá lâu dài, nhƣng việc

Thiều (N.I.Niculin), Tiếng khóc nhân loại trong tiếng khóc Nguyễn Gia Thiều

nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của thể STLB thì lại là vấn đề
khá mới mẻ.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

(Vũ Khiêu), các bài viết của các tác giả Phạm Luận, Đặng Thanh Lê, Nguyễn
Lộc… trong các giáo trình văn học Việt Nam về Chinh phụ ngâm khúc và

-5-



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-6-




Cung oán ngâm khúc… Những khúc ngâm chọn lọc của Lƣơng Văn Đang,

vận luật của thể thơ STLB ta thấy đã có một số công trình đề cập đến, nhƣng

Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc.. .Các tác phẩm ở giai đoạn này, tuy đã có

nghiên cứu về kết cấu vận luật của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể

bƣớc tiến hơn giai đoạn trƣớc, nhƣng vấn đề về sự vận động của thể STLB

loại Ngâm khúc thì cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào đề cập đến. Với

vẫn chƣa đƣợc đề cập đến.


mong muốn làm sáng rõ bƣớc chuyển biến của thể STLB từ ngâm vịnh đến

Cuối thế kỷ XX, trên các tạp chí văn học, đã có một số bài viết về sự
vận động và phát triển của thể STLB trong tác phẩm Ngâm khúc.

diễn tả tâm tình của con ngƣời. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Kết
cấu vận luật của thể STLB trong tiến trình phát triển của thể loại Ngâm khúc.”

Trong bài nghiên cứu “Cung oán ngâm khúc trên bƣớc đƣờng phát triển

Tất cả những công trình nghiên cứu trên đều là những cơ sở quan trọng,

của thể song thất lục bát” của Đặng Thanh Lê đã chỉ ra sự phát triển của STLB

những kiến thức quý báu giúp chúng tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện đề

“khác với các thể kỷ trước, các tác phẩm song thất lục bát của thế kỷ thứ XVIII

tài này.

đưa thể thơ này vào chức năng phản ánh nội dung tâm trạng có tính chất bi

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

kịch…” [26, 47]. Nhƣng nhận định này mới chỉ đƣợc rút ra từ việc khảo sát
một tác phẩm cụ thể nên nó chƣa khách quan và đủ sức thuyết phục.

Để làm rõ tiến trình lịch sử và kết cấu vận luật của thể thơ STLB,
chúng tôi tiến hành khảo sát một số khúc Ngâm chọn lọc và những tác phẩm:


Tác giả Nguyễn Ngọc Quang trong bài viết “Tìm hiểu quá trình vận

Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông; Cư trần lạc đạo phú

động phát triển của thể loại song thất lục bát” trên Tạp chí Văn học số 5 –

của Trần Nhân Tông; Vịnh Hoa yên tự phú của Huyền Quang; Quốc âm thi

2000 đã chỉ ra đƣợc ba giai đoạn phát triển của thể thơ này dựa trên hai căn

tập của Nguyễn Trãi; Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải; Đại nghĩ bát giáp

cứ điều kiện lịch sử và quá trình vận động nội tại của thể thơ STLB. Khi tiến

thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao; Bồ Đề thắng cảnh thi (khuyết danh),

hành nghiên cứu sự vận động của thể thơ ở giai đoạn thứ nhất (Giai đoạn thứ

Thiên Nam minh giám (khuyết danh). Qua đó chỉ ra những tiền lệ cho sự ra

nhất từ trƣớc nửa đầu thế kỷ XVIII), tác giả cũng có đề cập tới sự vận động

đời của thể thơ STLB.

của thể STLB qua một số tác phẩm Ngâm khúc. Nhƣng tác giả mới chỉ ra sự

Để hiểu rõ giá trị của thể STLB trong việc diễn tả tâm trạng của nhân

vận động về mặt hình thức còn sự vận động về mặt nội dung thì chƣa đƣợc


vật trữ tình và thấy đƣợc sự hoàn thiện về diện mạo của thể thơ ở cuối thế kỷ

nhắc đến.

XVIII, chúng tôi tiến hành khảo sát và phân tích một số khổ thơ trong các

Có thể thấy, từ nửa cuối thế kỷ XX giới chuyên môn đã dành cho thể

khúc Ngâm tiêu biểu nhƣ: Bản dịch Nôm Chinh phụ ngâm – tƣơng truyền của

STLB một sự quan tâm đặc biệt. Vấn đề nguồn gốc ra đời của thể thơ STLB

Đoàn Thị Điểm (giữa thế kỉ XVIII); Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều

hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là thể thơ của dân tộc Việt có

(cuối thế kỉ XVIII); Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân (cuối thế kỉ XVIII); Văn

ngọn nguồn từ văn học dân gian. Song, theo chúng tôi thì thể thơ này có thể

chiêu hồn của Nguyễn Du (cuối thế kỉ XVIII); Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ

còn có ngọn nguồn từ trong văn học viết. Trong lịch sử nghiên cứu về kết cấu

(cuối thế kỉ XVIII). Đây là những tác phẩm tiêu biểu có thể đáp ứng yêu cầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


-7-



-8-




lý giải những vấn đề của luận văn ở những góc độ cụ thể khác nhau.
Trong số tác phẩm này chúng tôi đặc biệt chú ý đến Chinh phụ ngâm và

đóng góp của thể thơ STLB trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
6. Những đóng góp của luận văn

Cung oán ngâm. Đây là hai tác phẩm có vai trò lớn trong việc hoàn chỉnh thể

Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn:

loại STLB ở văn học trung đại Việt Nam.

+ Bƣớc đầu chỉ ra những tiền lệ của việc hình thành thể thơ STLB

4. Mục đích nghiên cứu

+ Làm rõ bƣớc chuyển biến của thể STLB từ ngâm vịnh đến diễn tả

Trên cơ sở khảo sát tiến trình vận động phát triển của thể STLB trong
Ngâm khúc, luận văn bƣớc đầu đi đến kết luận về tiền lệ ra đời của thể STLB;

bàn thêm về kết cấu vận luật độc đáo của thể STLB; sự chuyển biến về hình

tâm tình của con ngƣời.
+ Góp phần khẳng định công lao của nhiều thế hệ thi sĩ trong việc xây
đắp và hoàn thiện một thể thơ dân tộc.
+ Góp phần làm sáng tỏ thêm những đặc trƣng dân tộc của thể STLB

thức và nội dung nhằm đáp ứng nhu cầu biểu đạt.
Trên cơ sở đó luận văn sẽ góp thêm lời khẳng định công lao đóng góp

7. Cấu trúc luận văn

của các thế hệ thi sĩ trong quá trình hoàn thiện STLB – một trong những thể

Luận văn baogồm 3 phần:

thơ dân tộc.

Phần mở đầu gồm 6 phần:

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

1. Lý do chọn đề tài

Luận văn sẽ sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu sau:

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

- Phƣơng pháp khảo sát và thống kê: để có đƣợc những số liệu, chúng


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

tôi đã tiến hành khảo sát những sáng tác của các tác giả theo trình tự thời gian,

4. Mục đích nghiên cứu

trong đó có yếu tố vần luật tƣơng đồng với vần luật của STLB. Từ đó bƣớc

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

đầu có ý kiến về tiền lệ ra đời của thể song thất lục bát.

6. Đóng góp của luận văn

- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: chúng tôi tiến hành so sánh tác phẩm

7. Cấu trúc luận văn

của các tác giả, đối chiếu giữa các tác phẩm để chỉ ra những bƣớc tiến hay lụi

Phần nội dung gồm 3 chƣơng:

tàn của nó.

Chƣơng 1. Kết cấu vận luật của thể song thất lục bát

- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: phân tích đặc trƣng của thể STLB
và từ việc phân tích dẫn chứng để thấy đƣợc sự chuyển biến trong việc ngâm

Chương 2. Những cơ sở hình thành thể song thất lục bát

Chƣơng 3. Sự chuyển biến từ ngâm vịnh đến diễn tả nội tâm
Phần kết luận.

vịnh đến “ngâm buồn” diễn tả nội tâm của con ngƣời.
- Phƣơng pháp lịch sử: sự xuất hiện của song thất lục bát gắn liền với một
hoàn cảnh xã hội văn hóa cụ thể. Việc vận dụng phƣơng pháp lịch sử để

Tài liệu tham khảo
Phụ lục

nghiên cứu giúp chúng tôi xác định một cách đúng đắn vị trí, vai trò và những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

-9-



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 10 -




chú ý tới sự cấu tạo bên trong và hình tƣợng văn học chứ không phải chỉ dựa

PHẦN NỘI DUNG

vào một số biểu hiện về hình thức bên ngoài.


CHƢƠNG 1:

KẾT CẤU VẬN LUẬT CỦA THỂ SONG THẤT LỤC BÁT

Khi đi vào vấn đề loại thể, thế giới tầng bậc của nó và thiên về cấu trúc
hình thức thể hiện, ta có ba loại: tự sự, trữ tình, kịch và từng loại có từng thể
nhỏ. Cụ thể:

1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài

Loại tự sự: Là loại tác phẩm dùng lời kể tái hiện lại những việc làm,

1.1.1 Khái niệm loại thể và thể loại
1.1.1.1 Loại thể

biến cố nhằm dựng lại một dòng đời nhƣ đang diễn ra một cách khách quan,

Trong cuốn phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo loại thể)

qua đó bày tỏ một cách hiểu và một thái độ nhất định. Tác phẩm đó bao giờ

nhà xuất bản Giáo dục đã đƣa ra cách hiểu về loại thể văn học: “loại thể văn

cũng phải có một sự kiện (một câu chuyện) làm nòng cốt, trong đó có những

học là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan khăng

sự việc đang diễn ra có sự tham gia của con ngƣời với những hoạt động ngôn


khít đến nội dung” [6, 3].

ngữ, tính cách… của họ trong mối quan hệ với hoàn cảnh, xã hội và trong mối

Về quan niệm cụ thể với từng thuật ngữ chúng ta rất khó thống nhất và

quan hệ lẫn nhau. Loại tác phẩm tự sự bao gồm: thần thoại, sử thi, truyện cổ

cũng rất khó có một ranh giới rạch ròi tuyệt đối. Khi nói loại ta cũng hay nói

tích, truyện cƣời, ngụ ngôn, truyện thơ, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn,

“loại thể”, khi nói thể ta lại hay nói “thể loại”. Việc gọi tùy tiện nhƣ vậy sẽ

kí sự, bút kí…
Loại trữ tình: Là loại tác phẩm văn học thông qua sự bộc lộ tình cảm

làm rối khái niệm.
Các nhà nghiên cứu đã chia tác phẩm văn học thành các loại và các thể

của tác giả mà phản ánh hiện thực, đó là sự bộc lộ trực tiếp những tƣ tƣởng

(hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Nhƣng cũng có

cảm xúc của tâm hồn con ngƣời đối với thế giới. Loại tác phẩm trữ tình bao

trƣờng hợp thể có thể thuộc về nhiều loại ví nhƣ thơ ta có: thơ tự sự, thơ trữ

gồm: thơ trữ tình, thơ trào phúng, ca dao trữ tình, các khúc ngâm, tùy bút,


tình, kịch thơ. Vì vậy, chúng ta không nên đi tìm ranh giới tuyệt đối giữa các

trƣờng ca hiện đại. Phú, văn tế, thơ ca trù cũng có thể xem là dạng đặc biệt

loại thể. Theo tác giả Trần Thanh Đạm sự phân chia loại thể văn học gồm có

của tác phẩm trữ tình.

hai mức độ: loại và thể “Theo chúng tôi nên dùng thuật ngữ loại thể bao gồm

Loại kịch: Là loại nghệ thuật sân khấu, mang tính chất tổng hợp của
nhiều loại hình nghệ thuật nhƣ: văn học, âm nhạc, hội họa…Kịch là phƣơng

loại (loại hình) và thể (hay chỉ thể tài)” [17, 9].
Dựa vào các phƣơng thức sáng tác mà ngƣời ta phân chia thành các loại

thức đặc biệt để tái hiện hiện thực cuộc sống và biểu hiện tƣ tƣởng nhà văn,

thể văn học khác nhau. Theo tác giả Trần Thanh Đạm: “tiêu chuẩn và căn cứ

tức là phản ánh và biểu hiện bằng ngôn ngữ và hành động trực tiếp của nhân

hợp lí nhất để phân chia loại thể văn học chính là phương thức kết cấu tác

vật trong các tình huống của cuộc sống. Loại tác phẩm kịch bao gồm: bi kịch,

phẩm văn học, trước hết là kết cấu hình tượng hoặc hệ thống hình tượng của

hài kịch, kịch, kịch thơ, các kịch bản chèo, tuồng cải lƣơng.


tác phẩm” [17, 7]. Nhƣ vậy có nghĩa là muốn phân chia loại thể chúng ta cần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 11 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 12 -




Nhƣ vậy, muốn nắm đƣợc những đặc điểm chung của thể loại cụ thể
trƣớc tiên ta phải xác định đƣợc thể loại ấy nó nằm trong loại nào để từ đó có
hƣớng tiếp cận phù hợp.

tích, ngụ ngôn, truyện cƣời.
Thể loại văn học phản ánh những khuynh hƣớng lâu dài và hết sức
bền vững trong sự phát triển văn học.
Mỗi loại hình văn học đều có cách thức riêng để xây dựng hình tƣợng

1.1.1.2 Thể loại

phản ánh hiện thực đời sống và tâm tƣ tình cảm. Nhƣng nếu cùng một thể loại

Nói tới thể loại văn học là đề cập tới “Dạng thức của tác phẩm văn


thì những tác phẩm đó ngoài những điểm khác biệt sẽ có sự tƣơng đồng. Ví

học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá trình phát triển

nhƣ truyện ngắn của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyên Hồng… có thể có nội

lịch sử của văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách thức tổ chức tác phẩm,

dung truyện khác nhau nhƣng ý thức phản ánh khách quan chân thực cuộc

về đặc điểm các loại hiện tượng đời sống được miêu tả và về tính chất của

sống của con ngƣời bằng những chất liệu phong phú của cuộc sống xã hội,

mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng đời sống ấy” [17, 299].

cách kể chân thực những sự kiện của các tác giả…thì tƣơng đối giống nhau.

Bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng luôn đƣợc xem xét và xác định

Nhà nghiên cứu văn học Nga Bakhtin đã nói: “Mỗi thể loại (nhất là những

xem nó thuộc thể loại nào, bởi lẽ không có tác phẩm nào lại tồn tại ngoài hình

thể loại lớn) thể hiện một thái độ thẩm mĩ đối với hiện thực, một cách cảm thụ

thức quen thuộc của thể loại. Mỗi thể loại thể hiện một kiểu quan hệ đối với

nhìn nhận, giải minh về thế giới và con người. Thể loại là vị trí nhớ siêu cá


cuộc sống và đối với ngƣời đọc, tức là một kiểu quan hệ giao tiếp. Giáo sƣ

nhân của nghệ thuật với tích lũy, đúc kết những kinh nghiệm nhận thức thẩm

Trần Đình Sử cũng đã có lần nhận xét đó là kiểu quan hệ giao tiếp kép: Vừa

mĩ thế giới” [1, 125].

giao tiếp với ngƣời đọc lại vừa giao tiếp với đời. Qua giao tiếp với cuộc sống
trong tác phẩm, tác giả và ngƣời đọc hiểu nhau.

Tác phẩm văn học là sự thống nhất và quy định lẫn nhau của các yếu tố
chủ đề, đề tài, tƣ tƣởng nhân vật, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức lời

Từ thời Arixtot đến nay, ngƣời ta vẫn thống nhất phân loại tác phẩm

văn và kết cấu. Sự thống nhất này bao giờ cũng phải đƣợc thực hiện theo

văn học thành ba loại hình (phƣơng thức phản ánh) là: tự sự, trữ tình, kịch.

những quy luật nhất định. Trong quá trình sáng tác, tác giả dùng các phƣơng

Đây là ba phƣơng thức cơ bản nhất của phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu

thức chiếm lĩnh đời sống khác nhau để thể hiện quan điểm thẩm mĩ của mình

hiện nội tâm của tác giả. Mỗi phƣơng thức phản ánh lại bao gồm nhiều loại

đối với hiện thực và mang những khả năng khác nhau để tái hiện đời sống. Từ


mà “trong lòng mỗi loại và trên biên giới của các loại sẽ nảy sinh rất nhiều

đó tác giả có những cách thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật phù hợp với

thể khác nhau của sự sáng tác văn học” [7, 9]. Ví dụ: ở phƣơng thức trữ tình

thể loại văn học mà mình đã chọn.

có thơ trữ tình và văn xuôi trữ tình. Mỗi loại lại chia ra làm nhiều thể và thể

Sự xuất hiện các thể loại văn học trong lịch sử là cả một quá trình. Vì

loại là cấp độ nhỏ hơn nằm trong loại. Cùng một loại nhƣng ta có các thể loại

vậy, thể loại văn học là một phạm trù mang tính lịch sử mà nó chỉ xuất hiện ở

khác nhau. Chẳng hạn, trong loại tự sự có tự sự dân gian và tự sự cổ trung đại

những giai đoạn phát triển nhất định của văn học, sau đó thƣờng xuyên biến

và hiện đại. Trong tự sự dân gian lại chia thành: thần thoại, truyền thuyết, cổ

đổi và thay thế nhau. Khi nghiên cứu thể loại bao giờ chúng ta cũng phải đặt

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 13 -




- 14 -




nó trong những điều kiện lịch sử cụ thể, có nhƣ vậy ta mới lí giải đƣợc sự
thay đổi của thể loại không phải là ngẫu nhiên mà nó có cơ sở.

- Nhịp điệu: Hai câu thất có nhịp 3/4 hoặc 3/2/2. Câu sáu có nhịp 3/3
hoặc 2/2/2. Câu tám có nhịp 4/4 hoặc 2/2/2/2
- Cách gieo vần: Tiếng thứ 7 câu thất trên và tiếng thứ 5 câu thất dƣới

1.1.2 Khái niệm thể thơ
Qua khảo sát của chúng tôi, hiện nay các nhà nghiên cứu chƣa có một
định nghĩa thật đầy đủ về khái niệm thể thơ. Nhƣng từ những khái niệm riêng

hiệp vần lƣng với nhau. Tiếng thứ 7 câu thất dƣới có vần chân với tiếng thứ 6
câu lục. Câu 8 chữ gieo vần nhƣ thơ lục bát.

lẻ về các thể thơ cụ thể, chúng tôi mạnh dạn đƣa ra cách hiểu của mình về

- Thơ STLB có thể dùng lối bình đối ở hai câu 7 tiếng, tiểu đối trong câu

khái niệm thể thơ nhƣ sau: Thể thơ là cách thức làm thơ. Hay nói cách khác,

6 và trong câu 8. Song cách đối nhau không phải là bắt buộc nhƣ trong thơ

cách thức tổ chức ngôn từ khác nhau sẽ tạo nên những bài thơ khác nhau xét


Đƣờng luật.

về hình thức biểu đạt.

Tuy nhiên, tầm quan trọng của các tiêu chí có thể khác nhau ở những

Thông thƣờng cách đặt tên các thể thơ luôn gắn với đặc điểm cơ bản

dạng bài thơ khác nhau. Chẳng hạn, khi nhận diện thể thơ lục bát và song thất

của thể thơ đó. Hay đó chính là cách gọi tên cách thức để tạo ra bài thơ xét về

lục bát thì tiêu chí về số lƣợng chữ trong một câu thơ, số câu thơ trong một

mặt hình thức. Ví dụ: Thể thơ lục bát: Là thể thơ có cấu trúc trên 6, dƣới 8

khổ là quan trọng nhất. Sau đó mới đến các tiêu chí về cách gieo vần và ngắt

(lục bát), bắt đầu bằng câu 6, tiếp là câu 8, cứ thế diễn đạt cho đến hết ý; thể

nhịp. Ví nhƣ, thể STLB có quy định chặt chẽ về số câu thơ trong một khổ (4

song thất lục bát: Là thể thơ cách luật có hai câu trên đều 7 tiếng (song thất),

câu) nhƣng thể lục bát lại không có quy định chặt chẽ nhƣ vậy. Hay trong thể

hai câu dƣới là câu lục và câu bát (lục bát), mỗi khổ thơ 4 câu và cứ thế trình

STLB ngoài câu lục và câu bát còn có hai câu thất mở đầu mỗi đoạn.


tự diễn đạt cho đến hết ý.

1.1.3 Khái niệm thể loại Ngâm khúc

Thể thơ đƣợc nhận diện qua các tiêu chí cơ bản sau:

Các thể tài Ngâm, Khúc, Ca, Hành, Thán, Vãn…có nguồn gốc từ Trung

+ Số chữ trong một câu thơ

Hoa đƣợc du nhập vào nƣớc ta từ bao giờ đến nay vẫn chƣa có tài liệu để xác

+ Số câu trong một khổ thơ

định một cách chính xác. Chúng ta chỉ biết rằng qua quá trình giao lƣu văn

+ Số câu thơ trong một bài thơ

hóa thì các thể tài trong văn học Trung Quốc đã du nhập vào Việt Nam.

+ Cách gieo vần

Khoảng thế kỉ XV nƣớc ta có tác phẩm Cung oán ngâm của Thái Thuận làm

+ Cách phối thanh B- T

theo thể thất ngôn bát cú bằng chữ Hán. Đến khoảng đầu thế kỉ XVIII bên

+ Cách ngắt nhịp


cạnh những tác phẩm Khúc làm theo nguyên mẫu chuẩn mực của Trung Hoa

+ Cách tạo phép đối

thì nƣớc ta đã có những tác phẩm trƣờng thiên với dung lƣợng hàng trăm câu

VD: Thể STLB: Là thể thơ cách luật của Việt Nam có những đặc điểm sau:

thơ nhƣ: Tứ thời khúc vịnh (340 câu thơ), Thiên Nam minh giám (940 câu

- Hai câu trên đều 7 tiếng, hai câu dƣới là câu lục và câu bát. Mỗi khổ

thơ). Nếu nhƣ những ngày đầu ta thấy Khúc kết hợp với Vịnh thì từ giữa thế

thơ 4 câu và cứ thế diễn đạt cho hết ý.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

kỉ XVIII Khúc đã kết hợp với Ngâm làm thành thể loại Ngâm khúc. Với tác

- 15 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 16 -





phẩm Cung oán ngâm khúc Đặng Trần Côn – bản dịch nôm tƣơng truyền của

Dƣơng Quảng Hàm định nghĩa về thể loại này nhƣ sau: “Ngâm là một bài

Đoàn Thị Điểm (viết bằng chữ nôm và thể song thất lục bát) đã đƣa thể loại

văn tả những tình cảm ở trong lòng, thứ nhất là những tình buồn, sầu đau, thương.

Ngâm khúc ở nƣớc ta lên đỉnh cao.

Các Ngâm khúc trong văn ta vẫn làm theo thể song thất lục bát” [15, 139].

Tuy có chịu sự ảnh hƣởng của những thể tài từ Trung Quốc nhƣng

Nhóm biên soạn Những khúc ngâm chọn lọc cho rằng: “Ngâm khúc là

Ngâm khúc của ta vẫn mang những sắc thái riêng của dân tộc. Nếu nhƣ trong

những tác phẩm hoàn toàn trữ tình – có thể gọi là những trường thiên trữ tình

văn học Trung Hoa tâm trạng của nhân vật trữ tình chỉ là những khoảnh khắc

được viết bằng thể song thất lục bát” [12, 14].

cô đơn thoáng qua thì tâm trạng của nhân vật trữ tình trong các tác phẩm
Ngâm khúc là tâm trạng buồn sầu, đau đớn đƣợc miêu tả trên một diện rộng
với nhiều cung bậc khác nhau. Ngâm khúc thƣờng xoay quanh những con
ngƣời bất hạnh mà thƣờng là những ngƣời phụ nữ.


Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học các tác giả cho rằng: “Ngâm
khúc: thể thơ trữ tình dài hơi thường được làm theo thể song thất lục bát để
ngâm nga than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau
xót triền miên day dứt. Vì vậy thể Ngâm khúc thường được gọi là thán hay

Tác phẩm Ngâm khúc thƣờng đƣợc dùng để điễn tả tâm trạng u buồn
nỗi giận hờn ai oán của con ngƣời trƣớc những cảnh ngộ của cuộc đời. “Để
tải trở một nội dung lớn như vậy cần phải có những áng thơ trường thiên để
cho nó đến được và thấm sâu vào tâm hồn công chúng độc giả người Việt
Nam, cần phải viết bằng ngôn ngữ dân tộc để phản ánh tâm trạng chung của
nhân vật trữ tình là buồn rầu, đau đớn…” [9, 15]. Đồng thời những tác phẩm
Ngâm khúc cũng rất chú trọng tới việc khai thác âm thanh và nhịp điệu của
ngôn ngữ. Chính vì vậy sau một thời gian dài gia công sáng tác các tác giả

vãn” [16, 137].
Tác giả Ngô Văn Đức trong đề tài cấp bộ Nghiên cứu đặc trưng thi
pháp của thể loại thơ trữ tình Ngâm khúc khẳng định: “Ngâm khúc là ca khúc
trữ tình dài hơi phản ánh tâm trạng bi kịch của con người đã có ý thức về cá
nhân trong một giai đoạn lịch sử nhất định được viết bằng ngôn ngữ dân tộc
(chữ nôm) và thể thơ song thất lục bát” [9, 17]. Có thể thấy đây là một định
nghĩa tƣơng đối đầy đủ và khá chặt chẽ về thể loại Ngâm khúc.

dân gian đã lựa chọn thể thơ song thất lục bát – thể thơ dân tộc đế sáng tác tác

Nhìn chung ta có thể hiểu Ngâm khúc là những ca khúc trữ tình trƣờng

phẩm Ngâm khúc. Bởi lẽ chỉ có thể thơ song thất lục bát mới đáp ứng đƣợc

thiên phản ánh những bi kịch không thể giải quyết đƣợc trong đời sống nội


những yêu cầu của thể loại Ngâm khúc đề ra. Và cũng chính thể STLB đã

tâm của con ngƣời, trong một giai đoạn lịch sử nhất định đƣợc viết bằng thể

giúp Ngâm khúc có sức xuyên thấm mạnh mẽ vào lòng ngƣời đọc.

STLB và chủ yếu bằng ngôn ngữ dân tộc.

Do xuất phát từ các góc độ khác nhau mà các nhà nghiên cứu đã đƣa ra

Qua khảo sát một số khúc ngâm ta thấy phạm vi cuộc sống mà Ngâm

khá nhiều định nghĩa về Ngâm khúc. Các cách định nghĩa ít nhiều có sự khác

khúc lựa chọn để phản ánh là thế giới tâm trạng của những số phận nhỏ bé

nhau nhƣng đều nêu lên đƣợc tiêu chí cơ bản của thể loại Ngâm khúc.

trong xã hội. Bao trùm lên toàn bộ khúc ngâm là âm hƣởng buồn bã về sự mất
mát tuyệt vọng đến chán chƣờng. Các nhân vật trữ tình tuy mỗi ngƣời một

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 17 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


- 18 -




hoàn cảnh ngƣời thì nghèo, ngƣời thì cảnh oan khiên tù đày, ngƣời thì ở quê

Để truyền bia miệng kiếp nào mòn,

ra…nhƣng tất cả đều đang trong cảnh ngộ hết sức thƣơng tâm.

Cao thấp cùng xem sự mất còn.
Thương cá thác vì câu uốn lưỡi,

1.1.4 Khái niệm vần luật

Ngâm trai nào chết bát mồ hòn

1.1.4.1 Khái niệm vần
“Vần là một phương tiện tổ chức văn bản thơ ca dựa trên cơ sở lặp lại
không hoàn toàn các tiếng ở vị trí nhất định của dòng thơ nhằm tạo nên tính
hài hòa và liên kết giữa các dòng thơ” [ 44, 38].

(Quốc âm thi tập, bài 182 - Nguyễn Trãi)
.Vần thông: Đƣợc tạo nên bởi sự hoà hợp phối âm thanh giữa các tiếng
đƣợc gieo vần nhƣng trong đó bộ phận vần không lặp lại hoàn toàn mà có sự
khác biệt chút ít:

Chúng ta có thể nhận diện vần qua các ví dụ sau:


Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái,

Xưa kia ta đi liễu đương xanh tốt,

Người thì sa nanh sói ngà voi.

Chim hoàng oanh mới hót ba câu.

(Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)

Mà nay cúc nở vàng thâu
Liễu kia nghĩ cũng âu sầu vì ve.

Hoặc :
Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm

(Thu dạ lữ hoài ngâm - Đinh Nhật Thận)

Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon.

Khi tác giả mới rời xa quê hƣơng thì cây liễu đang “xanh tốt”, con chim
hoàng anh mới chỉ “hót ba câu” nhƣng khi tác giả trở về thì cúc đã nở “vàng
thâu” cây liễu cũng đã “âu sầu”. Dƣờng nhƣ thời gian tác giả xa quê hƣơng
mọi thứ đã thay đổi và thời gian là khá lâu. Nhờ có vần mà câu thơ trở nên
gắn kết liền mạch và nỗi sầu li biệt của tác giả trở nên da diết hơn. Có thể
khẳng định vần có vị trí rất quan trọng trong thơ.
Để câu thơ trở nên gắn kết và hài hòa hơn trong bài thơ thì vần có vị trí
rất quan trọng. Vần có thể đƣợc phân biệt từ những góc độ khác nhau:
+ Về chất lƣợng của tiếng có vần, ngƣời ta phân biệt vần chính (vần
hoàn toàn trùng hợp với nhau) và vần thông (vần không hoàn toàn trùng hợp


+ Về vị trí của tiếng có vần trong câu thơ, ngƣời ta phân biệt vần chân
(tiếng có vần đứng cuối câu thơ, còn gọi là cƣớc vận) và vần lưng (tiếng có
vần đứng ở giữa câu thơ là yêu vận).
Vần chân đƣợc gieo vần ở cuối dòng thơ, có tác dụng đánh dấu sự kết
thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết với các dòng thơ tiếp theo, “vần chân
rất đa dạng: khi liên kết, khi gián cách, khi ôm nhau, khi hỗn hợp các loại
trên” [ 16, 363].Ví dụ:
Ai yêu như tôi yêu nàng
Họp nhau lại, họp thành làng cho xinh

nhau). Ví dụ:
.Vần chính: Là sự hoà phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng
đƣợc gieo vần, trong đó phần vần (âm chính và âm cuối) hoàn toàn trùng
khớp:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

(Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều)

- 19 -



Chung nhau dựng một trường đình
Thờ riêng một vị thần linh là Nàng.
(Lòng yêu đương – Nguyễn Bính)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 20 -





. Vần lưng là vần đƣợc gieo ở lƣng chừng dòng thơ.

trong thơ đƣợc tăng lên. Thông thƣờng khi sử dụng thanh bằng thƣờng đem lại

Thu sang trên những cánh bàng,
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi.
Hôm qua đã rụng một rồi,

cảm giác buồn, lâng lâng, chơi vơi và ấn tƣợng về một không gian dàn trải.
Thanh trắc thƣờng diễn tả nhịp điệu chắc khỏe nhƣng cũng gợi lên cái gì đó trắc
trở. Bởi vậy, thanh điệu có vai trò rất quan trọng trong các âm tiết gieo vần.

Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn.
(Cây bàng cuối thu – Nguyễn Bính)
+ Về mức độ trầm bổng, cao thấp của âm tiết mang vần, ta có vần bằng

1.1.4.2 Khái niệm luật
Luật là “Toàn bộ những quy tắc tổ chức ngôn từ trong sáng tạo thơ, như
phân dòng, số tiếng, ngắt nhịp, gieo vần. bằng trắc,…” [17, 189]. Có nghĩa là
khi sáng tác các tác phẩm theo thể loại chúng ta cần phải tuân thủ những quy

và vần trắc.
.Vần bằng là vần nằm ở âm tiết gieo vần mang thanh bằng (thanh

tắc của thể loại đó.
Ví dụ: Khi làm thơ lục bát ta phải tuân thủ về những luật lệ của thể thơ


không, thanh huyền).

lục bát nhƣ luật: về “tiếng”, về cách hiệp vần, về nhịp và về thanh điệu.

Ví dụ:

+ Về tiếng: Câu trên có 6 “tiếng” (câu lục), câu dƣới có 8 “tiếng” (câu

Cơn gió đìu hiu lướt mặt hồ,
Thổi rơi xuống nước chiếc hoa khô.
Giật mình, làn nước cau mày giận,

bát), và cứ thế tiếp tục.
Ví dụ:
Xưa sao phong gấm rủ là

Tan cả vừng trăng tỏa lững lờ.

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

(Đìu hiu – Đỗ Huy Nhiệm)

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

.Vần trắc là vần ở âm tiết gieo vần mang thanh trắc (thanh sắc, hỏi, ngã,

+ Về hiệp vần: các tiếng trong từng đôi câu thơ hiệp vần nhƣ sau: tiếng

nặng).


cuối câu lục vần với tiếng thứ 6 câu bát (vần lƣng ở câu bát); tiếng cuối câu

Ví dụ:

bát vần với tiếng cuối câu lục (vần chân ở câu lục).

Xưa ta đi liễu dương xanh tốt,

Ví dụ:

Chim hoàng anh mới hót ba câu.
(Thu dạ lữ hoài ngâm – Đinh Nhật Thận)

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.

Hay:

Mai cốt cách tuyết tinh thần,

Tình rầu rĩ khôn khuây nhĩ mục
Chốn phòng không như giục mây mưa.
(Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều )
Thanh điệu trong tiếng Việt rất phong phú điều đó làm cho tính nhạc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 21 -




Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du )
Tài sắc của chị em Thúy Kiều đƣợc đại thi hào Nguyễn Du giới thiệu
một cách tự nhiên mà cũng rất sinh động. Vần chân và vần lƣng kết hợp tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 22 -




nên sự hài hòa gắn kết chặt chẽ giữa các câu thơ.

thể lục bát của Việt Nam. Tại sao thể STLB lại đƣợc các thi sĩ thời trung đại

+ Về ngắt nhịp: Nhịp chẵn là chủ yếu, trong đó nhịp đôi là cơ sở cũng

lựa chọn để viết tác phẩm trữ tình trƣờng thiên? Để lí giải điều này chúng tôi

có khi linh hoạt theo nhịp lẻ ví nhƣ: Làn thu thuỷ /nét xuân sơn

tiến hành tìm hiểu về ba yếu tố là vần, nhịp và luật phối thanh của thể STLB

+ Về thanh điệu có thể chia thành ba loại “tiếng”:

đặt trong sự tƣơng quan so sánh với các thể thơ khác đặc biệt thơ Đƣờng luật

. Thanh bằng ở các tiếng 2, 6, 8.


của Trung Hoa từ đó làm sáng tỏ thêm nguồn gốc dân tộc của thể thơ.

. Thanh trắc ở tiếng thứ 4.

1.2.1 Cách gieo vần trong thể thơ STLB

. Các tiếng lẻ 1, 3, 5 thì tự do hay còn gọi là “nhất, tam, ngũ bất luận”

Nếu nhƣ trong thể thơ lục bát chỉ có 2 cú thức là câu sáu và câu tám thì

Nếu ở câu lục có tiểu đối (đối bên trong câu) thì có thể đối thanh:

ở thể STLB có tới 3 kiểu câu với lối kiến trúc thành từng khổ, mỗi khổ bốn

Ví dụ:

câu, hai câu bảy, một câu sáu và một câu tám. Vì STLB có ba cú thức là câu
Người quốc sắc/ kẻ thiên tài,

bảy, câu sáu và câu tám nên số lƣợng vần trong STLB nhiều hơn so với lục bát.

Tình trong như đã/ mặt ngoài còn e.

Với lối gieo vần rất riêng, thể STLB tỏ ra hữu hiệu trong việc bộc lộ, diễn tả

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Theo đúng luật thì tiếng thứ hai của câu lục phải mang thanh bằng,

tình cảm nội tâm của con ngƣời. Trong hai câu thất mở đầu: chữ cuối của câu

thất trên hiệp vần với chữ thứ năm câu thất dƣới vì chúng đều là vần trắc (câu

nhƣng ở đây dùng thanh trắc vì có tiểu đối (về nghĩa) trong câu lục.

thất trắc). Ở các câu tiếp theo: chữ cuối câu thất dƣới vần với chữ cuối câu lục

1.2 Những yếu tố cơ bản của thể thơ STLB

vì chúng mang vần bằng (câu thất bằng). Chữ cuối câu lục vần với chữ thứ sáu

Thể lục bát, STLB và hát nói là những thể thơ do ngƣời Việt sáng tạo

câu bát do chúng cùng mang vần bằng. Chữ cuối câu bát hiệp vần với chữ thứ

ra. Đó là những thể thơ hết sức độc đáo của văn học trung đại nói riêng và văn

năm của câu thất vì chúng đều là âm tiết gieo vần bằng. Nhƣ vậy, mỗi khổ bốn

học Việt Nam nói chung. “STLB là thể thơ cứ hai dòng bảy chữ (song thất)

câu có từ năm tới sáu vần, gồm cả: vần lƣng (yêu vận) và vần chân (cƣớc vận);

lại có dòng sáu chữ (lục bát). Nếu mở đầu bằng hai dòng sáu chữ và tám chữ

cả vần bằng và vần trắc. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy hai câu lục và câu bát

rồi mới tiếp hai dòng bảy chữ, người ta gọi là lục bát gián thất. STLB được

trong thể STLB không có gì khác so với hai câu lục bát trong thể lục bát. Nó


hình thành trên cơ sở thể lục bát và thể thơ bảy chữ vốn có sẵn trong thơ ca

vẫn tuân thủ theo luật lệ về cách gieo vần của thể lục bát.

dân gian Việt Nam” [31, 452].

Ví dụ:

Trong suốt một thời gian dài xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể thơ

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,

STLB, ngƣời ta đã đƣa có nhiều ý kiến khác nhau thậm chí đối lập nhau. Do

Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.

chƣa tìm đƣợc tiếng nói chung về hai câu thất trong ngôn của khổ STLB, nên

Ngàn dâu xanh ngắt một màu,

có ngƣời cho rằng thể STLB là thể thơ thuần túy của dân tộc, nhƣng cũng có

Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

ý kiến cho rằng đây là thể thơ có sự kết hợp giữa thất ngôn của Trung Hoa và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 23 -




(Chinh phụ ngâm – Bản dịch Đoàn Thị Điểm )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 24 -




Trong ví dụ trên ta thấy có tới năm chỗ gieo vần: Hai vần trắc “thấy”,

mô hình hóa sơ đồ cấu trúc khổ STLB nhƣ sau:

“mấy” và ba vần bằng “dâu”, “màu”, “sầu”. Trong khổ thơ trên ta thấy chữ

8

cuối câu thất trên vần với chữ thứ năm câu thất dƣới.
Ví dụ:
câu bát

Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông.

câu thất trên
câu thất dƣới

vần lưng bằng


5

vần lưng

5

Trông mái đông lá buồm xuôi ngược,

vần chân bằng

Đông rồi thì lại trông tây,

câu bát

Thấy non ngân ngất thấy cây rườm rà.

7

tiếng vần

7

tiếng vần

trắc

Thấy mênh mông những nước cùng mây.

câu lục


tiếng vần

6

tiếng vần
vần lưng bằng

(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân )
Ở ví dụ này ta thấy từ “trông” ở câu bát hiệp vần với từ “đông” ở câu
thất trên (đây là trƣờng hợp xuất hiện nhiều ở giai đoạn đầu nhƣng ít gặp
trong giai đoạn sau) vì thƣờng thì vần kết thúc của câu bát (vần chân) sẽ hiệp
vần lƣng với tiếng thứ năm của câu thất trên và là thanh bằng. Sau đó lại tiếp
tục hiệp vần bình thƣờng ở những câu tiếp theo. Có thể nói đây là trƣờng hợp
biệt lệ bởi lẽ thông thƣờng thì tiếp vần lƣng ở chữ thứ năm nhƣng cũng có thể
tiếp vần lƣng ở từ thứ ba mà vẫn giữ vần bằng (từ thứ ba vốn là thanh trắc).
Theo TS Phan Diễm Phƣơng, ta có thể hình dung cách gieo vần của

6

8

Nhƣ vậy, nếu ta đem so sánh với bài thơ thất ngôn Đƣờng luật của
Trung Hoa thì thấy cả bài chỉ có một loại vần là vần chân.
Ví dụ:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.


STLB nhƣ sau:
Dòng thất trên

(1) (2) (3) (4)

5

Dòng thất dƣới

(1) (2) (3) (4)

(5)

Dòng lục

(1) (2) (3) (4) (5)

6

Dòng bát

(1) (2) (3) (4) (5)

6

Dòng thất trên

(1) (2) (3) (4)


5

(6)

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

(7)

(6)

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

7

(Thu hứng – Đỗ Phủ)
Vì thể thơ lục bát chỉ có hai cú thức là câu sáu và câu tám, nên số lƣợng

(7) 8

vần trong STLB nhiều hơn so với lục bát. Tiếng thứ sáu của dòng lục hiệp

(6) (7)

vần với tiếng thứ sáu dòng bát. Nếu văn bản dài hơn một khổ gồm hai dòng

Trong bài “Bàn thêm về đặc trƣng kết cấu vận luật thể thơ Song thất
lục bát”, (Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4, 2009) Phạm Thị Phƣơng Thái đã

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


- 25 -



thì vần đƣợc tiếp tục bằng cách tiếng thứ tám dòng bát hiệp vần với tiếng thứ
sáu dòng lục (vần chân) tiếp theo và tiếng thứ sáu này lại hiệp vần với tiếng
thứ sáu của dòng bát tiếp theo đó. Trong đó các tiếng tham gia hiệp vần mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 26 -




Giờ sao bỗng / thờ ơ / lặng lẽ,

thanh bằng.

Tình cô đơn / ai kẻ / xét đâu!

Ví dụ:
Lơ thơ tơ liễu buông mành,

(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân )

Con oanh học nói trên cành mỉa mai.

Nhịp 1/2/2/2:

Mấy lần cửa đóng then cài,


Ngòi / Đức Thủy / khơi dòng / kinh sử,

Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu.

Phả / Cao Đường/ treo chữ / tấn thân.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

(Tự tình khúc – Cao Bá Nhạ )

Rõ ràng, vần và cách gieo vần trong STLB là rất phong phú. Câu thơ

Với câu lục bát, lối ngắt nhịp cũng khá sinh động. Ngƣời ta có thể có

vừa có vần bằng lại vừa có vần trắc đan xen lẫn nhau tạo nên sự chuyển biến

cách ngắt nhịp phổ biến là nhịp đôi. Ngoài ra, các tác giả cũng biến thái nhịp

nhịp nhàng, diễn tả đƣợc mọi cung bậc tình cảm của con ngƣời. Điều này

đôi này thành những cách ngắt nhịp khác. Chẳng hạn trong các ví dụ sau:

khiến cho thể STLB có những ƣu thế riêng mà thể lục bát không thể có đƣợc.

Nhịp 4/2:

1.2.2 Cách ngắt nhịp trong thể thơ STLB

Nhịp 4/2/2:


Tác giả Phan Ngọc đã từng nói “nhịp điệu là xương sống của thơ. Thơ

Đa mang chi nữa / đèo bòng,
Vui gì thế sự / mà mong / nhân tình.
(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều )

có thể bỏ vần, bỏ quan hệ đều đặn về số chữ, bỏ mọi quy luật bằng trắc,

Nhịp 2/4:

nhưng không thể vứt bỏ nhịp điệu”. [35, 213]. Nhận định này đã cho thấy vai

Nhịp 3/3/2:

trò quan trọng của nhịp điệu trong thơ. Nếu nhƣ câu thơ thất ngôn của Trung

Ruột rà / không kẻ chí thân,
Dẫu làm nên / để dành phần/ cho ai.
(Văn chiêu hồn – Nguyễn Du)

Hoa có lối ngắt nhịp phổ biến là chẵn trƣớc lẻ sau (4/3 hoặc 2/2/3) thì câu thất

Nhịp 3/5:

của STLB có lối ngắt nhịp ngƣợc lại 3/4 hoặc 3/2/2 hoặc 1/2/2/2 bởi lẽ ta có

Nhịp 3/3:

Trên gác phượng / dưới lầu oanh


thể ngắt ba chữ đầu của câu thơ thành 1/2, bốn chữ sau thành 2/2. Nhƣng phổ

Nhịp 4/4:

Gối du tiên vẫn / rành rành song song

biến thì ta thấy hai câu thất đƣợc ngắt thành nhịp 3/4. Có nghĩa là cách ngắt
nhịp lẻ trƣớc chẵn sau.

Đỉnh trầm hương / khóa một cành mẫu đơn.

(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều )
Đặt trong sự so sánh với thể lục bát và thể hát nói, ta thấy nhịp điệu của
thể STLB phong phú hơn so với thể lục bát vì nhịp điệu cơ bản trong thể lục

Ví dụ với nhịp 3/4 ta có:
Thủa trời đất / nổi cơn gió bụi,

bát là nhịp đôi. Nhịp này thể hiện thành 2/2/2 trong câu lục và 2/2/2/2 trong

Khách má hồng / lắm nỗi truân chuyên.

câu bát và đôi khi cũng đƣợc chia làm hai vế cân đối là 3/3 hay 4/4. Nhƣng

(Chinh phụ ngâm – Bản dịch Đoàn Thị Điểm)

nếu cả bài thơ cứ lặp đi lặp lại nhịp điệu nhƣ vậy sẽ khó tránh khỏi sự đơn

Nếu chia nhỏ ra ta có thể ngắt nhịp nhƣ sau:


điệu, nhàm chán. Ngoài những nhịp điệu giống nhƣ trong thể lục bát, ta còn

Nhịp 3/2/2:

thấy trong thể STLB xuất hiện nhịp 3/4 hay 3/2/2 hay 1/2/2/2.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 27 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 28 -




Nhƣ vậy, thể STLB khá đa dạng về nhịp điệu. Điều này phù hợp với việc

Chữ

diễn tả các cung bậc tình cảm trong tâm trạng con ngƣời. Nhƣng nếu đem so

Dòng

1


2

3

4

5

6

7

sánh với thể hát nói thì ta thấy nhịp điệu của STLB lại không phong phú

1

0

B

0

T

0

B

T


bằng. Bởi lẽ, trong thể hát nói số câu thơ không cố định, có thể thiếu khổ, dôi

2

0

T

0

B

0

T

B

khổ. Số chữ trong câu có thể ngắn dài có những câu lên tới 16, 17 chữ nên

3

0

T

0

B


0

T

T

cách ngắt nhịp rất linh hoạt. Chính cách ngắt nhịp này đã tạo cho thể hát nói

4

0

B

0

T

0

B

B

có những ƣu thế riêng để phù hợp với lối diễn xƣớng.
1.2.3 Luật phối thanh của thể thơ STLB

Khi xét những dòng STLB ở thời kì phồn thịnh (khoảng thế kỉ XVIII),

Qua tìm hiểu về vần và nhịp điệu trong STLB ta có thể rút ra kết luận


ta thấy thanh điệu trong hai câu thất ngôn của khổ STLB ngƣợc lại với thơ

lối hiệp vần và cách ngắt nhịp của STLB khác với thơ Đƣờng luật nên dẫn

Đƣờng luật. Các chữ ở vị trí thứ nhất, thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu của các câu là

đến hệ quả là cách phối thanh của STLB cũng không giống với thơ Đƣờng

những chữ tự do về thanh điệu. Còn các chữ thứ ba, thứ năm và thứ bảy thì

luật. Bởi lẽ các chữ thứ hai, thƣ tƣ, thứ sáu trong câu thất đƣợc quy định chặt

đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu. Trong đó, các chữ thứ năm và thứ bảy

chẽ về thanh điệu còn chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm lại tự do về thanh điệu.

của hai câu thất đối nhau từng đôi một theo đúng luật bằng - trắc, riêng chữ

Ví dụ:

thứ ba không bảo đảm tính chất ấy. Bởi lẽ có trƣờng hợp chữ thứ ba của câu
Khuê trung(b) thiếu phụ(t) bất tri(b) sầu,

thất trên là thanh bằng chứ không phải là thanh trắc (vần có thể gieo ở vị trí

Xuân nhật(t) ngưng trang(b) thướng thúy(t) lâu.

này). Hai câu lục bát thì ngƣợc với hai câu thất các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ


Hốt kiến(t) mạch đầu(b) dương liễu(t) sắc,

năm và thứ bảy tự do về thanh điệu còn các chữ thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu

Hối giao(b) phu tế(t) mịch phong(b) hầu.

đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu.

(Khuê oán - Vƣơng Xƣơng Linh)

Ví dụ:

Triêu từ(b) Bạch Đế(t) thái vân(b) gian,

Từ nắng hạ (t) mưa thu (b) trái tiết,(t)

Thiên lí(t) Giang Lăng (b) nhất nhật(t) hoàn.

Xót mình rồng (b) mệt mỏi (t) chẳng yên.(b)

Lưỡng ngạn(t) viên thanh(b) đề bất(t) trú,

Xiết bao(b) kinh sợ(t) lo phiền,(b)

Khinh châu(b) dĩ quá(t) vạn trùng(b) san.

Miếu thần(b) đã đảo(t) thuốc tiên(b) lại cầu.(b)

(Tảo phát Bạch Đế thành – Lí Bạch)
Nhƣ vậy ta thấy thanh điệu của thơ Đƣờng luật sẽ có mô hình nhƣ sau:


(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân)
Ai ngờ bỗng (t) một năm (b) một nhạt(t)
Nguồn cơn kia (b) ai tát (t) mà vơi(b)?
Suy đi (b) đâu biết (t) cơ trời (b)?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 29 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 30 -




Bỗng không(b) mà hóa (t) ra người(b) vị vong!(b)

hiện trên cơ sở lặp lại và luân phiên âm luật theo cấu tạo đơn vị của ngôn ngữ.

(Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều)

Xét về vần thì câu thất ngôn của Trung Hoa chỉ có một loại vần chân (cƣớc

Có thể khái quát về cách phối thanh của thể thơ STLB theo mô hình sau:

vận) và tất cả là vần bằng còn vần trắc nếu có chỉ là ngoại lệ. Trong khi đó hai

câu thất của ta có tới hai loại vần là vần chân (cƣớc vận) và vần lƣng (yêu

Chữ

1

Câu thất
0
trắc

2

3

4

Trắc
0

5

6

Câu thất
0
bằng

Bằng
0


0

Câu lục

Bằng

Trắc

8

Trắc

Bằng
0

7


khi
chữ thứ 3
là bằng

0
Trắc
(vần)

0
Bằng
(vần)


Ghi chú

Bằng
(vần)

vận), đồng thời có cả vần bằng và vần trắc. Về luật phối thanh cũng vậy, câu
thất ngôn Đƣờng luật phối thanh theo quy luật: nhị, tứ, lục, phân minh (chữ
thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu) còn câu thất
của ta thì ngƣợc lại chữ thứ hai, thứ tƣ và thứ sáu tự do còn chữ thứ ba, thứ
năm và thứ bảy đƣợc quy định chặt chẽ về thanh điệu.
Có thể trong quá trình giao thoa văn hóa giữa hai nƣớc, dân tộc ta đã học

Câu bát

0

0

0

0

Bằng 0

Trắc 0

Bằng
(vần)



khi
chữ thứ 2
là trắc

0
0

Bằng
(vần)

tập thể thơ thất ngôn Đƣờng luật của Trung Hoa nhƣng chúng ta đã cải biến về
cách thức sử dụng vần luật để làm nên thể thơ riêng của dân tộc. Chính sự khác
biệt về tí nh nhạc điệu trong hai câu thất của ta đã làm nên sự giàu có và độc
đáo cho câu thơ . Cũng nhờ có tính nhạc mà thể STLB có lợi thế ƣu trội hơn
hẳn thể song thất của Trung Hoa trong việc biểu đạt tiếng nói của tình cảm, tâm

Nhìn vào mô hình phối thanh điệu của thơ Đƣờng luật và thơ STLB, rõ

tƣ con ngƣời. Bất kỳ hì nh thƣ́c nào cũ ng nhằm biểu đạt một nội dung nào đó ,

ràng nhận thấy luật phối thanh trong thơ STLB tự do, uyển chuyển hơn thơ

thậm chí còn phải biểu đạt sâu sắc nội dung nếu muốn tồn tại và phát triển lâu

Đƣờng luật.

bền. STLB cũng vậy , khi thể thơ mới ra đời nó đòi hỏi phải có nội dung mới

*Tiểu kết


phù hợp với nó. Vì vậy STLB cũng đã nhanh chóng tìm ra nội dung mới: “Nội

Qua tìm hiểu về vần, nhịp và cách phối thanh điệu của thể thơ STLB

dung của song thất lục bát là một ca khúc nội tâm” [35, 210]. Cũng chính tác

chúng ta có thể khẳng định rằng thể thơ STLB của ta khác xa so với thể thơ

giả Phan Ngọc đã từng nói: “Cần phải có hình thức đó thì tình cảm mới có thể

thất ngôn Đƣờng luật của Trung Hoa. Nhìn bề ngoài, hai câu thất ngôn của

mang hình thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lai ở một câu lục

thể thơ STLB và hai câu thất của thể thơ thất ngô n Trung Hoa có hình thức

ngắn gọn, để tỏa ra trong câu bát dài nhất, rồi lại vươn lên trong một khổ mới

giống nhau về số lƣợng chữ trong câu nhƣng lại khác nhau về mọi phƣơng

và cứ thế, đợt sóng tình cảm lên xuống ăn khớp với hình thức của ngôn ngữ”

diện. Trƣớc tiên là về cách ngắt nhịp, nếu nhƣ câu thất ngôn của thể thất ngôn

[35, 210]. Phải chăng thế mà nhóm tác giả cuốn Những khúc ngâm chọn lọc

Đƣờng luật đƣợc ngắt nhịp là 4/3 (chẵn trƣớc lẻ sau) thì hai câu thất của song

(tập1) đã khẳng định: “Trong các thể thơ dân tộc của ta không có thể thơ nào


thất lục bát l ại ngắt nhịp 3/4 (lẻ trƣớc chẵn sau). Nhịp điệu của câu thơ xuất

phù hợp với ngâm khúc bằng STLB. STLB là thể thơ duy nhất mà đặc điểm của

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 31 -



- 32 -




nó là nhịp điệu có tính chất chu kỳ, điều đó thích hợp với việc miêu tả một đối
tượng có tính chất đứng yên, ít biến động” [35, 16].
Quả thật STLB với những đặc trƣng độc đáo của mình đã góp phần tạo
nên sự phong phú về nhạc điệu, sƣ̣ diễn tả sâu sắc nội tâm con ngƣời trong

CHƢƠNG 2:

NHỮNG CƠ SỞ HÌNH THÀNH THỂ SONG THẤT LỤC BÁT
Trong suốt một thời gian dài, xung quanh vấn đề nguồn gốc của thể thơ

ủa thể lo ại Ngâm

song thất lục bát (STLB), ngƣời ta đã có rất nhiều ý kiến khác nhau. Tựu


khúc. Điều này đã khẳng định tài năng của thế hệ các thi sĩ, họ đã sáng suốt

chung lại, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng thể thơ này là thể thơ

lựa chọn những hình thức thơ phù hợp để chuyển tải “nội dung của thời đại”

thuần túy Việt Nam. Nhƣng ngọn nguồn của nó đƣợc bắt đầu từ đâu? Hầu hết

(lời của Biêlinxki).

giới nghiên cứu đều khẳng định thể thơ STLB có tiền lệ từ văn học dân gian.

nhƣ̃ng hoàn cảnh đặc biệt , tạo nên sự đặc sắc hiếm có c

Vậy thể STLB chỉ đơn thuần có tiền lệ từ văn học dân gian hay còn có tiền lệ
nào khác? Vấn đề này sẽ đƣợc chúng tôi giải quyết trong Chƣơng 2.
2.1 Những cơ sở từ văn học dân gian
Đã từ lâu văn học dân gian luôn đƣợc coi là nền tảng cho việc hình
thành và phát triển của văn học viết. Qua quá trình tìm hiểu, hầu hết các nhà
nghiên cứu đã đi đến thống nhất và cho rằng lục bát và song thất lục bát hai là
hai thể thơ “thuần túy dân tộc”, có nguồn gốc từ văn học dân gian. Thể STLB
sau này đƣợc các tác giả văn học viết sử dụng để sáng tác các tác phẩm trữ
tình trƣờng thiên nổi tiếng nhƣ: Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn, Đoàn
Thị Điểm), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Văn chiêu hồn
(Nguyễn Du), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân) …
Sở dĩ các nhà nghiên cứu cho rằng thể thơ STLB có nguồn gốc từ văn
học dân gian nói chung và ca dao, dân ca nói riêng là vì hai câu thất ngôn
trong thể STLB có nhiều nét tƣơng đồng với các thể thức văn vần dân gian
của dân tộc. Ta thấy dù những câu thơ dân gian ngắn nhất vẫn đƣợc tạo bởi

hai vế song hành, có gieo vần ngắt nhịp và phối thanh điệu. Đây cũng là
những nét đặc trƣng của thể STLB vì vậy, các tác giả cho rằng rất có thể ca
dao, dân ca chính là cái nôi cho sự ra đời của thể này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 33 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 34 -




Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

Ví dụ 1:
Đầu tắt, ( B- T)

Đan sàng thiếp cũng xin vâng,

Mặt tối. ( T – B)

Tre non đủ lá nên chăng hỡi chàng.

[39, 405]


[39, 232]
(ký hiệu in đậm VD: ôi Vần chân ; ký hiệu in đậm, gạch chân VD: im: vần

Hay :
Cơn đàng đông,/

lưng)
Nhƣ vậy, ta thấy trong các thể thức văn vần dân gian nhƣ ca dao, dân

Vừa trông/ vừa chạy;
Cơn đàng tây/

ca (VD2), hò vè, đồng dao (VD1)…thì kiểu gieo vần chân và vần lƣng vẫn

Vừa chạy/ vừa ăn.

đƣợc các tác giả dân gian sử dụng phổ biến. Kiểu gieo vần trong những câu
lục bát của bài ca dao trên (VD2) giống hệt cách gieo vần của thể lục bát. Đây

[39, 196]
Trƣớc tiên xét về cách gieo vần: Điểm nổi bật trong những câu ca dân
gian mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là các vần vừa đƣợc tạo ở giữa câu (vần
lƣng), vừa đƣợc tạo ở cuối câu (vần chân).

cũng là kiểu gieo vần đƣợc các tác giả sáng tác theo thể thơ STLB sau này lựa
chọn.
Về cách ngắt nhịp, ở những câu thất thì câu ca dân gian thƣờng chuộng
cách ngắt nhịp lẻ trƣớc chẵn sau.

VD1:

Thằng Bờm có cái quạt mo,

Ví dụ:

Phú ông xin đổi ba bò chín Trâu.

Mồ côi cha/ ăn cơm cá,

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy Trâu,

Mồ côi mẹ/ liếm lá đầu chợ.

Phú ông xin đổi ao sâu cá mè

[39, 379]

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè,

Ngắt bông sen/ còn vương tơ óng,

Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim.

Cắt dây tình/ nào có dao đâu.

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,

[39, 248]

Phú ông xin đổi con chim đồi mồi,


Câu dưỡng nhi/ chờ khi đại lão

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi,

Cha mẹ già/ nương náu nhờ con.

Phú ông xin đổi hòn xôi Bờm cười.

[24, 374]
Sư tu đâu/ tiểu tôi tu đấy.

[ 39, 423]

Oản với chuối/ ta cùng ăn chung

Ví dụ 2:
Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 35 -

Rục tùng xòe/ ta tung não bạt,



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 36 -





Dốc một lòng/ thế phát đi tu…

Tìm trốn ta ngồi, (T)

[39, 122]

Ngồi mát thảnh thơi…

Qua những câu thất ngôn dân gian trên, ta nhận thấy lối ngắt nhịp lẻ

[39, 199]

trƣớc, chẵn sau dƣờng nhƣ là sở thích và xu hƣớng thẩm mĩ riêng của ngƣời

Cách gieo vần chân xen lẫn vần lƣng cùng với sự trầm bổng của thanh

dân Việt Nam. Mô hình nhịp ngắt 3/4 hay 3/2/2 cũng rất phổ biến trong

điệu đã tạo nên sự uyển chuyển nhịp nhàng cho bài ca ca dao. Hình ảnh ngƣời

những câu thơ thất ngôn Việt Nam.

lao động hiện lên một cách tự nhiên với những hành động và cử chỉ của ngƣời

Mặt trời vàng/còn in bóng thỏ,

hái củi trong rừng.


Đầu non bạc/ đã chật cây chim.

Nhƣ vậy, từ lối gieo vần, ngắt nhịp đến luật phối thanh trong thể thơ

(Bạch Vân quốc ngữ thi, bài 42 – Nguyễn Bỉnh Khiêm)

STLB đều có nhiều điểm tƣơng đồng với các thể văn vần của văn học dân

Rượu đối cầm/ đâm thơ một thủ,

gian. Nhƣ Phan Diễm Phƣơng đã nhận xét: “Rõ ràng lối gieo vần chân kết

Ta cùng bóng/ lẫn nguyệt ba người.

hợp với vần lưng trong lục bát và song thất lục bát, lối ngắt nhịp lẻ trước,

(Quốc âm thi tập, bài 76 – Nguyễn Trãi)
Về luật phối thanh: Để tạo nên những câu thơ dồi dào nhạc điệu, bên

chẵn sau trong cặp thất ngôn song thất lục bát đều không nằm ngoài xu
hướng thẩm mĩ chung đó của dân tộc Việt” [44, 95].

cạnh cách gieo vần, ngắt nhịp, luật phối thanh cũng có vị trí rất quan trọng.

Về cấu trúc, chúng ta có thể tìm thấy những khổ thơ STLB (ví dụ 3, 4)

Ở đây, ta thấy tất cả các tiếng không kể bằng hay trắc đều tham gia vào

có kiểu cấu trúc khá giống với kết cầu của nhiều bài ca dao dân ca (ví dụ 1,2):


hoạt động tạo vần. Chính nhờ có sự phối thanh mà các câu thơ dân gian trở

Mỗi khổ thơ gồm bốn câu (hai câu bảy, một câu sáu và một câu tám), gieo

nên mềm mại uyển chuyển, dễ đi vào lòng ngƣời.

vần chân và vần lƣng, có cả vần bằng và vần trắc.

Ví dụ :

Ví dụ 1:
Tay cầm con dao,

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,

Làm sao cho sắc, (B)

Em có chồng anh tiếc lắm thay.

Để mà dễ cắt, (T)

Ba đồng một mớ trầu cay,

Để mà dễ chặt, (T)

Sao anh không hỏi những ngày còn không.

Chặt lấy củi cành,


[39, 231]

Trèo lên rừng xanh, (B)

Ví dụ 2:

Chạy quanh sườn núi, (B)

Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ,

Một mình thui thủi, (T)

Trên bầu trời rặng tỏ mây xanh.

Chặt cây chặt củi, (T)

Từ ngày chia rẽ em anh,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 37 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 38 -





Nước trời còn đó ai đành phụ nhau!

Ngày mong chữ gấm/ đêm mong chiếu vàng.
(Tự tình khúc – Cao Bá Nhạ)

[39, 233]

Rõ ràng từ cách gieo vần, ngắt nhịp và thanh điệu của hai câu lục bát

Ví dụ 3:
Đòi những kẻ thiên ma bách chiết

trong thể STLB đều giống với hai câu lục bát của thể lục bát. Vì vậy rất có thể

Hình thì còn bụng chết đòi nau

thể thơ lục bát là tiền đề cho hai câu lục bát trong thể STLB ra đời.
Qua các ví dụ trên, ta thấy các thể thức văn vần dân gian là một trong

Thảo nào khi mới chôn rau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra.

những nhân tố thiết yếu cho những khổ STLB thành văn xuất hiện, lần đầu
tiên trong bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao vào

[ 53 ]

đầu thế kỷ XVI và hoàn thiện ở cuối thế kỷ XVIII với đỉnh cao Cung oán


Ví dụ 4:
Đường bạch dương bóng chiều man mác,

ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Chính vì vậy việc khẳng đị nh thể thơ

Dịp đường lê lác đác sương sa.

STLB có nguồn gốc tƣ̀ văn học dân gian là hoàn toàn có cơ sở . Nhƣng để đƣa

Lòng nào lòng chẳng thiết tha,
Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.

tới sự ra đời của một thể thơ không phải là chỉ có một tiền đề, có thể nó còn
có những tiền đề cơ sở khác.
2.2 Những cơ sở từ văn học viết

[13, 33]
Nếu ta cắt hai câu lục bát trong thể STLB riêng ra thì ta thấy hai câu lục

Căn cứ vào một số tài liệu mà chúng tôi đƣợc biết những dòng STLB

bát trong thể STLB có cấu trúc giống hoàn toàn hai câu lục và câu bát trong

xuất hiện lần đầu tiên trong một số tác phẩm có hình thức “lai tạp” [24, 36]

thể lục bát. Cấu trúc này ta cũng dễ dàng tìm thấy trong ca dao dân ca.

nhƣ Bồ Đề thắng cảnh thi tƣơng truyền của Lê Thánh Tông và trong Nghĩ hộ
tám giáp giải thưởng hát ả đào của Lê Đức Mao (khoảng cuối thế kỷ XV đầu


Ví dụ : trong câu ca dao:
Thuyền về/ có nhớ/ bến chăng,

XVI). Nhƣng bài Bồ Đề thắng cảnh thi vẫn còn nhiều vấn đề nghi vấn. Đây là

Bến thì một dạ/ khăng khăng đợi thuyền.

bài thơ Nôm khuyết danh, vì chƣa xác định đƣợc tác giả nên chƣa thể xác
định một cách chính xác thời điểm ra đời của bài thơ. Có ngƣời cho rằng đây

(ca dao)

là bài thơ của Lê Thánh Tông, có ngƣời lại cho bài thơ là của vua Lê đời sau,

Trong thể lục bát :
Vừng trăng/ ai xẻ/ làm đôi

lại có ý kiến cho rằng đó là sáng tác của Chúa Trịnh. Tựu chung lại bài thơ ra

Nửa in gối chiếc/ nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

đề nghi vấn nên Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào vẫn đƣợc xem là tác
phẩm văn học viết đầu tiên sử dụng những câu STLB. Tuy nhiên, bài thơ này

Trong thể song thất lục bát:
Lối oan/ trót mấy/ năm ròng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


đời khoảng thế kỷ XV, XVI. Vì bài Bồ Đề thắng cảnh thi vẫn còn nhiều vấn

- 39 -



chƣa thể xem là bài thơ viết theo thể thơ STLB. Bởi lẽ, bên cạnh những câu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 40 -




thơ STLB còn có những câu thơ thất ngôn xen lẫn những câu lục bát. Mặc dù

Nguyệt lệnh tứ dương xuân

vậy, tác phẩm Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào vẫn có vị trí vai trò

Lễ nhạc bách niên tu miếu điển

quan trọng. “Về hình thức, tác phẩm này có thể xem là khởi nguyên của ba

Thăng bình nhất khúc tụng thần công

thể loại lớn trong văn học trung đại. Việc sử dụng hỗn hợp các thể thơ dân

Ngự tiền ngào ngạt hương xông


gian và bác học sẽ tiếp tục được phát huy tạo nên thể hát nói rất nổi tiếng.

Phượng quanh tịch múa hoa lồng chén bay…”

Lục bát và song thất lục bát đã được tách ra thành chuyên thể sử dụng để viết
các tác phẩm trường thiên.” [46, 58].

Mặc dù tác phẩm Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào chƣa đƣợc
viết theo thể thơ STLB nhƣng những câu thơ STLB thành văn đƣợc viết xen

Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào là tác phẩm có hình thức “lai
tạp” chứ chƣa phải là bài thơ làm theo thể STLB chính thống. Bởi lẽ, bên

kẽ trong đó có thể coi là tiền đề quan trọng để thể thơ STLB ra đời và hoàn
thiện ở những thế kỷ sau.

cạnh những câu thất ngôn luật Đƣờng, câu lục bát, còn có những câu song

Nhƣng cũng phải khẳng định rằng, hầu hết các khổ thơ trong bài chúc

thất lục bát. Tác phẩm này gồm 128 câu, chia làm 9 bài ca, mỗi bài thƣờng là

làng có cấu trúc giống với những dòng STLB đƣợc coi là chuẩn mực ở thế kỷ

14 câu. Đây là bài hát chúc làng trong hội mùa xuân tế thần và cầu phúc.

XVIII.

“Hương dâng ngào ngạt mùi thanh,


Ví dụ trong bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào:

Loan bay khúc múa, hoa quanh tịch ngồi.

Xuân nhị nguyệt/ huyên hòa lệnh tiết,

Ba làng vui vẻ ngày vui

Lề xướng ca/ mở tiệc thờ thần.

Tung bay tiếng chúc, gió mười dặm xuân.”
Bên cạnh đó, khúc ca còn ca ngợi chế độ huệ dân của triều đình. Vì nhờ
vậy mà ngƣời dân mới có đƣợc cuộc sống yên bình, no ấm.

Hương dâng khói tỏa lần lần,
Sân thiều múa phượng, gió nhân bay cờ.
Ví dụ ở thời kỳ phồn thịnh:

“Mừng xuân, xuân yến, xuân ca,

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối,

Bốn dân mưa huệ, trăm nhà gió huân.

Cũng có người sẩy cối xa cây.

Rồi từ đó nhờ ân cấo túc,

Có người leo đến dứt dây,


Tiếng quản huyền nô nức nhân gia.”

Người trôi nước lũ kẻ lây lủa thành

Bài ca có 9 đoạn với tổng số 128 câu nhƣng chỉ có 20 khổ thơ viết theo

[9, 41]

thể STLB. Vì đƣợc viết bằng nhiều thể thơ khác nhau nên có những câu cách

Bài hát chúc làng của Lê Đức Mao đƣợc coi là tác phẩm bản lề cho sự

gieo vần chƣa tuân theo đúng luật. Hết hai câu ngũ ngôn rồi đến khổ STLB,

ra đời của thể thơ STLB. Sở dĩ nhƣ vậy, vì trong tác phẩm đó có những khổ

nên câu song thất không đƣợc gieo vần lƣng.

thơ đảm bảo tiêu chí về vận luật của thể STLB. Chẳng hạn:

“Hưu kỳ thiên tải hạ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 41 -

Về cách gieo vần: Trong tổng số 20 khổ thơ STLB thì có tới 17 khổ thơ




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 42 -




vần lƣng đƣợc gieo ở vị trí thứ 5.

nhịp 3/4 hoặc 3/2/2 (chiếm 85%).

Ví dụ:

Ví dụ:
Phụng tam linh sau nhờ phúc hỗ ,

Thơ Thiên bảo/ dâng ca chúc hỗ

Dốc một lòng cổ vũ hoan hân,

Khánh ngô hoàng/ vạn thọ vô cương.

Cung đàn dịp hát ngày xuân,

Hoặc:

Phụ tài đàn Thuấn, trại thần ca Chu.

Xuân nhị nguyệt/ huyên hòa lệnh tiết

Lề xướng ca/ mở tiệc thờ thần

Hay:
Muôn nhờ giáng phúc bình hòa

Đây chính là cách ngắt nhịp của thể thơ STLB ở thời kỳ hoàn thiện:

Nhà đàn cửa hát noi ca đường cù.

Ví dụ:

Mừng nay tiệc ca trù thị yến

Bến Tầm Dương/ canh khuya đưa khách

Khúc thăng bình nức tiếng tụng dương.

Quạnh hơi thu/ lau lách đìu hiu.

Nếu đặt những khổ thơ này trong sự đối sánh với những khổ thơ STLB
đƣợc coi là chuẩn mực ở thế kỷ XVIII- XIX thì cách gieo vần của chúng

[9, 51]
Hoặc:
Xiêm nghê nọ/ tả tơi/ trước gió,

không có sự khác biệt.

Áo vũ kia/ lấp ló/ trong trăng.


Ví dụ:
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca

[53]

Nay quyên đã giục oanh già

Về luật phối thanh: Hầu nhƣ các khổ STLB trong bài nghĩ hộ tám giáp

Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo

giải thƣởng hát ả đào đều đảm bảo theo quy tắc phối thanh điệu của thể các

Thửa đăng đồ mai chưa dạn gió.

bài thơ STLB ở dạng hoàn thiện. Đó là tiếng 3, 5, 7 của hai câu thất và các

[12, 116-117]
Hay:

tiếng 2, 4, 6 của hai dòng lục bát đƣợc quy đinh chặt chẽ về thanh điệu.
Ví dụ:

Vì đâu nên nỗi dở dang

Vạn vạn tuế (t) tung hô (b) ba tiếng(t),

Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình

Nức ba hàng (b) thị yến (t) thừa hưu(b).


Trộm nhớ thủa gây hình tạo hóa

Vui xuân(b) xuân yến (t) ngày lâu(b)

Vẻ phù dung một đóa khoe tươi.

Thọ bôi (b) kể chục(t) , ca trù (t) điểm trăm (b).
Chẳng hạn một khổ thơ tiêu biểu về quy tắc phối thanh điệu của thể

[53]
Về nhịp ngắt: Các câu thất trong bài chúc làng chủ yếu đƣợc ngắt theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 43 -



STLB ở giai đoạn phồn thịnh:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 44 -




Than đất khách (t) não nùng (b) tâm sự (t)


Bách bộ sinh ca/ cầm bách thiệt, (4/3)

Thương cố nhân (b) tình tự lúc(t) bấy giờ (b)

Thiên hàng nô bộc/ quất thiên đầu. (4/3)

Đèn khuya(b) cơn tỏ(t) cơn mờ (b).

Nguyệt vô sự/ chiếu nhân vô sự, (3/4)

Ngậm sầu(b) che quạt (t) luống chờ (b) bóng chăng (b)

Thuỷ hữu thu hàm/ thiên hữu thu. (4/3)
Tứ hải dĩ thanh/ trần dĩ tĩnh, (4/3)

[9, 72]
2.2.1 Tiền lệ trong văn học viết từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
Sau một thời gian dài chịu ách nô lệ của bọn giặc phƣơng Bắc, nền văn
hóa của nƣớc ta đã bị ảnh hƣởng rất lớn bởi nền văn hóa Trung Hoa. Văn học

Lối ngắt nhịp lẻ trƣớc chẵn sau không chỉ có trong thơ chữ Hán mà còn
đƣợc sử dụng trong một loạt các bài phú Nôm xuất hiện trong những thế kỷ
tiếp theo. Đặc điểm của thể phú là số chữ trong câu không đồng đều.

cũng chịu ảnh hƣởng sâu sắc cuả nền văn học Trung Hoa. Các sáng tác của

Trƣớc tiên, phải kể đến Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông

cha ông ta từ thế kỷ X đến thế kỷ XV dƣờng nhƣ đều phỏng theo khuôn mẫu


(1258 – 1308). Bài này đƣợc coi là bài phú Nôm vào loại cổ nhất của thơ văn

của họ. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ qua việc vay mƣợn các thể loại, thể tài,

Nôm. Bài phú có mƣời đoạn (10 hội). Ở mỗi hội lại có nhiều câu (câu tứ tự,

ngôn ngữ, hình tƣợng văn học...Tuy chịu ảnh hƣởng của nền văn học Trung

câu gối hạc…). Số lƣợng chữ trong các câu dài ngắn khác nhau đƣợc chia

Hoa nhƣng ngay trong thời gian đầu, qua sáng tác của một số tác giả, ta đã

thành một cặp hai vế đối nhau. Trong mỗi vế câu 7chữ chúng ta thấy Trần

thấy các tác phẩm tuy viết bằng chữ Hán nhƣng vẫn có những nét riêng mang

Thánh Tông cũng đã sử dụng lối ngắt nhịp 3/4. Cả bài có 104 vế câu có bảy

đậm bản sắc dân tộc. Đặc biệt hơn trong những sáng tác đó, chúng tôi đã tìm

chữ thì có 96 vế có sử dụng câu đƣợc ngắt theo nhịp 3/4 .

thấy một số đặc điểm về vận luật của thể STLB.

Ví dụ trong câu song quan:

Ví nhƣ tác phẩm Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông.
(1240 – 1290). Bài thơ đƣợc viết theo thể thất ngôn bát cú. Nếu nhƣ trong

Muôn nghiệp lặng/ an nhàn thể tỉnh;

Nửa ngày rồi/ tự tại nhân tâm.

những câu thơ thất ngôn của Trung Hoa thƣờng có lối ngắt nhịp 4/3 (chẵn lẻ) thì trong tác phẩm Hạnh Thiên Trường hành cung của Trần Thánh Tông ta

(Đệ nhất hội)
Ví dụ trong câu cách cú:

thấy bên cạnh những câu thất ngôn ngắt nhịp 4/3 theo truyền thống còn có

Sách dịch xem chơi, yêu tính lặng /yêu hơn châu báu;

những câu ngắt theo nhịp 3/4 (lẻ - chẵn). Cách ngắt nhịp này là sự sáng tạo rất

Kinh Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi/ trọng nhữ hoàng câm

độc đáo của nhà thơ. Đây chính là cách ngắt nhịp đặc trƣng của câu thất ngôn
Việt Nam.

(Đệ nhất hội)
Ví dụ trong câu gối hạc:

Trong tám câu thơ thất ngôn có ba câu ngắt theo nhịp 3/4.
Cảnh thanh u/ vật diệc thanh u, (3/4)

Mày ngang, mũi dọc, tướng tuy lạ/ xem ắt bằng nhiều;
Mặt thánh, lòng phàm, thực cách nhẫn/ muôn muôn thiên lý.
(Đệ thập hội)

Thập nhất tiên châu/ thử nhất châu. (4/3)


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 45 -



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 46 -




Trong những năm tiếp theo lối ngắt nhịp này lại xuất hiện trong bài

hành cung), vế câu sử dụng câu thất trong (Cư trần lạc đạo phú, Vịnh Hoa Yên

phú Nôm Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang (1254 – 1314).

tự phú), ngắt theo nhịp 3/4 ngày càng đƣợc tăng lên. Lần đầu tiên xuất hiện

Về mặt nghệ thuật, bài phú đã có bƣớc tiến mới, lời văn lƣu loát với

trong Hạnh Thiên Trường hành cung nó đã có tỷ lệ 38%. Cách ngắt nhịp 3/4

cách sử dụng nhiều từ láy khiến cho nhịp điệu trong bài ăn khớp và uyển

trong thất dƣờng nhƣ đƣợc các tác giả ngày càng chú ý nhiều hơn. Chính vì vậy

chuyển. Đặc biệt hơn trong bài Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang đã


mà trong các tác phẩm Nôm sau đó thì tỷ lệ ngắt nhịp này đã tăng lên rất nhiều:

xuất hiện rất nhiều câu thơ ngắt theo nhịp lẻ trƣớc chẵn sau.

Cư trần lạc đạo phú 92%, Vịnh Hoa Yên tự phú 90%. (xem bảng 2.1)

Ví dụ:

Bảng 2.1: Thống kê tỉ lệ ngắt nhịp 3/4 trong câu thất
Gió tiên đưa/ đòi bước thần tiên.

STT

Tên tác phẩm

Bầu đủng đỉnh/ gồng hòa thế giới,
1

Hài thong thả/ dạo khắp sơn xuyên.

Câu
Tổng số câu thất Ngắt nhịp 3/4

Hạnh Thiên Trường hành cung

Tỷ lệ

3


38%

8

....
Thấy đây:

2

Cư trần lạc đạo phú

104

96

92%

3

Vịnh Hoa Yên tự phú

39

35

90%

Đất tựa vàng liền;
Cảnh bằng ngọc đúc.
Mây năm thức/che phủ đền Nghiêu;

Núi nghìn tầng/quanh co đường Thục.
Sang nửa đầu thế kỷ XV, cách ngắt nhịp 3/4 trở nên khá phổ biến trong

...
Chim ốc bạn/ cắn hoa nâng cúng;

sáng tác của một số tác giả, đặc biệt phải kể đến Quốc âm thi tập của Nguyễn

Vượn bồng con/kề cửa nghe kinh;

Trãi.

Nương am vắng/Bụt hiện từ bi, gió hiu hiu mây nhẹ nhẹ;
Kề song thưa/ thầy ngồi thiền định, trăngvặc vặc núi xanh xanh.
Dƣờng nhƣ đến giai đoạn này cách ngắt nhịp đã không còn xa lạ nữa.
Bên cạnh cách ngắt nhịp 4/3 thông thƣờng của câu thất thì cách ngắt nhịp 3/4
dƣờng nhƣ đã đƣợc sử một cách nhuần nhuyễn.
cung (Trần Thánh Tông), Cư trần lạc đạo phú (Trần Nhân Tông), Vịnh Hoa
Yên tự phú (Huyền Quang) và nhận thấy những câu thất (Hạnh Thiên Trường

- 47 -

Trung Quốc, thơ Nôm Nguyễn Trãi còn sử dụng khá nhiều nhịp 3/4. Ví dụ:
Bạn cũ thiếu/ ham đèn lẫn sách
Tính quen chăng/ kiếm trúc cùng mai.
(Quốc âm thi tập, Bài 13- Nguyễn Trãi)

Chúng tôi đã tiến hành khảo sát ba tác phẩm : Hạnh Thiên Trường hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Bên cạnh lối ngắt nhịp thông thƣờng của câu thất ngôn Đƣờng luật



Qua đòi cảnh/ chép câu đòi cảnh,
Nhàn một ngày/ nên quyển một ngày.
(Quốc âm thi tập, Bài 75- Nguyễn Trãi)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- 48 -




×