Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chủ thể hợp đồng trong hoạt động kinh doanh trong quá trình phát triển của pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.19 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Chủ thể hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, trong
quá trình phát triển của pháp luật
.
Thuế doanh thu được Quốc hội khoá VIII Thông qua ngày 30/6/1990 và đã qua
3 lần sửa đổi bổ sung ,trước những tình trạng bất cập về phương thức tính ,biểu
thuế,thuế suất doanh thu.Và trước yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế xã hội thì
thuế thuế doanh thu không còn đủ để làm rõ vấn đề thuế.Chính vì vậy tại kỳ họp
Quốc hội khoá I X kỳ họp thứ 11,tháng 5 năm 1999 thông qua .Với mục tiêu tháo
gỡ khó khăn trong thời gian dần chuyển từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế
GTGT, đồng thời hỗ trợ nông dân đẩy mạnh tiêu thụ sảm phẩm nông nghiệp, nhưng
trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập,thực trạng Luật thuế GTGT
,trong năm 2003 Quốc hội khoá XI,kỳ họp thứ 3 đã sửa đổi bổ sung một số điều
Luật thuế GTGT có hiệu lực từ 1/1/2004
Ngày nay trước quá trình hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá đang lôi cuốn các
nước,bao trùm mọi lĩnh vực , đây là một quá trình hợp tác để phát triển, đồng thời là
quá trình cạnh tranh rất phức tạp , đổi mới nước ta,tiến hành hội nhập kinh tế trong
thời gian tới gắn liền với việc thực hiện các cam kết quốc tế .Trong bối cảnh đó cải
cách hệ thống thuế ngoài mục tiêu đảm bảo nguồn lực còn góp phần thúc đẩy hội
nhập
Việt nam đang nỗ lực ra nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO).Một trong
những yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các thông lệ
quốc tế và đáp ứng yêu cầu công khai,rõ ràng ,minh bạch ,trong đó có hệ thống
pháp luật về thuế.Nghiên cíu hệ thống các văn bản pháp quy phạm pháp luật hiện
nay về thuế GTGT có một số nội dung cần được chuẩn hoá phù hợp với thông lệ
quốc tế,không chỉ đáp ứng đòi hỏi ra nhập WTO mà còn đảm bảo thực hiện đúng
luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
1
I Thuế doanh thu trong hệ thống thuế
1 Thuế và pháp luật về thuế
Thuế giữ một vị trí quan trọng trong thu ngân sách Nhà nước ,thuế không chỉ


chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước hằng năm cho nền kinh tế
quốc dân VD theo thống kê trong suốt giai đoạn 1999 đến 2005 thuế xuất nhập
khẩu chiếm trên 20% tổng thu ngân sách Nhà nước trên,dước 4%GDP trong đó
trên90% là thuế nhập khẩu dự tính đến 2010 tỷ lệ động viên từ thuế,phí,lệ phí cần
tăng dần 19% đến 20% GDP trong giai đoạn 2001-2005 đảm bảo ở mức
20-21%GDP giai đoạn 2006-2010,mặt khác nó còn là công cụ của Nhà nước để
quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân
Để phát huy tốt tác dụng điều tiết vĩ mô của các chính sách thuế,nhìn chung ở
nước ta cũng như các nước khác trên thế giới,nội dung của chính sách thuế thường
xuyên có sự thay đổi cho phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
Nhìn chung các sắc thuế đều được cấu tạo bởi:
+Đối tượng nộp thuế:chủ thể là cá nhân hoặc các tổ chức kinh doanh có tư
cách pháp nhân
+Đối tượng tính thuế:Tính trên gia trị tài sản,trên thu nhập hay phần GTGT
+Thuế suất ,biểu thuế:xác định mức độ động viên trên một đối tượng tính
thuế
+Yếu tố miễn,giảm thuế :Việc quy định các yếu tố này nhằm thực hiện các
vấn đề về chính sách xã hội thông qua các luật thuế , đồng thời linh hoạt công cụ
thuế để điều chỉnh các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Nhà
nước
2 Thuế doanh thu
Thuế doanh thu là một sắc thuế có vị trí quan trọng nó góp phần đáng kể v ào
việc bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Thuế doanh thu được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 30/6/1990.Trong 4
năm thuế doanh thu đã được sửa đổi, bổ sung 3 lần (1990-1994)
2
Lần 1 vào 9/1991,lần2 vào7/1993;lần 3vào 8/1994 Thuế doanh thu (DT) được
ban hành và sửa đổi,bổ sung kịp thời để phát huy mặt tích cực bao quát thêm nhiều
nguồn thu mới pháy sinh để quản lý và tăng thêm những nguồn thu cho ngân

sách ,một số thuế suất được sửa cho phù hợp với thực têế và góp phần bảo vệ sản
xuất trong nước ,khuyến khích sản xuất những mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu,
áp dụng thuế suất thấp để khắc phục một phần việc thu trùng lặp
Tuy nhiên qua 4 năm sửa đổi và thực hiện đổi mới nền kinh tế thị trường đã
từng bước được hình thành, tình hình kinh tế xã hội đã có bước phát triển mới, đa
dạng vầ phương thức hơn trước
Trước yêu cầu đó,thuế doanh thu đã bộc lộ một số nhược điểm cơ bản cần phải
đổi mới cho phù hợpvới nền kinh tế thị trường ở nước ta
II Thuế GTGT
1 Nhận xét chung về thuế doanh thu
+ Tình trạng thuế đánh trên thuế :Tình trạng này gây khó khăn lớn cho các
đơn vị kinh doanh thương mại.Với cách tính thuế doanh thu bằng phần trăm trên
doanh thu ,các đơn vị kinh doanh thương mại khó tránh được tình trạnh thua lỗ bởi
vì trong nhiều trường hợp do biến động của thị trường , đơn vị kinh doanh phải bán
hoà vốn hoặc chịu lỗ để thu hồi vốn ,song ngay cả trường hợp đó , đơn vị kinh
doanh vãn phải nộp thuế doanh thu và số lỗ vốn càng tăng lên ,nếu xét trong các
khâu của quá trình tái sản xuấtxã hội thì tình trạng thuế đánh trên thuế được lặp lại
quá nhiều lần.VD:Cơ sở sản xuất phụ tùng xe đạpkhi bán phụ tùng phải nộp thuế
doanh thu 2% trên giá bán ,nhữnh phụ tùng này lại được sử dụng để lắp dáp thành
xe đạp hoàn chỉnh lại nộp thuế doanh thu 2%và cơ sở bán buôn xe đạp tiếp tục nộp
thuế doanh thu trên giá bán xe,cơ sở bán lẻ lại một lần nộp thuế doanh thu trên giá
bán lẻ xe đạp… Rõ ràng trong ví dụ trên,giá trị của những phụ tùngtừ khi sản xuất
đến tay người tiêu dùng đã qua 4lần chịu thuế doanh thu ,số thuế lần sau cao hơn
lần trước. Đó là điều vô lý không chỉ trong một đơn vị kinh doanh mà cả trong
phạm vi toàn xã hội .Bời vì nó gắn đẩy giá bán lên cao một cách giả tạo.
3
+ Biểu thuế doanh thu còn có nhiều thuế suất nên rất phức tạp bao gồm: 18
thuế suất từ o% đến 40% và nếu phân theo ngành nghề hoạt động có 61 nhóm thuế
suất. Điều đó làm cho biểu thuế doanh thu trở nên phức tạp. Quan trọng hơn là,
trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp có thể kinh doanh tổng hợp, vì vậy với

biểu thuế hiện hành, việc tính thuế doanh thu khó có thể thực hiện đúng và dễ tạo ra
những kẽ hở cho việc trống lậu thuế, xâm tiêu tiền thuế.
+ Phương thức tính thuế doanh thu hiện nay của ngành thuế đối với các đơn
vị kinh doanh thương nghiệp còn thiếu thống nhất, gây ra sự bất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp. Điều đó thể hiện ở chỗ, với những đơn vịtổ chức hoạt động nghiêm
túc, thực hiện tốt chế độ kế toán thống kê thì doanh thu tính thuế được xác định trên
cơ sở doanh thu bán hàng thưo hoá đơn và cân đối kho hàng. Song, bên cạnh đó,
một số lượng lớn các cửa hàng lại áp dụng theo phương thức thuế khoán, không
kiểm tra hoá đơn, không quan tâm đên kho hàng. thực tế đã chứng minh rằng, thu
thuế doanh thu theo phương thức khoán là một trong những nguyên nhân làm thất
thoát thuế và là kẽ hở để “Chia, chặt” giữa cán bộ thuế với đơn vị kinh doanh.
+ Thuế suất doanh thu trong biểu thuế hiện hành còn cao, chưa thể hiện rõ
chính sách khuyến khích, tích luỹ và tái đầu tư trong các doanh nghiệp. Đây là một
trong những nhượng điểm chung của toàn bộ chính sách thuế của nước ta hiện nay.
Điều đó thể hiện ở chỗ, tỷ lệ động viên của thuế và phí so với tổng sản phẩm trong
nước, năm 1992 là 16,75%; 1993 là 20,96%; 1994 là 21,38% và kế hoạch năm 1995
là 24,95%. Tỷ lệ trên cao hơn 32 nước đang phát triển trên thế giới.
2. Sự cần thiết chuyển đổi thuế doanh thu sang thuế GTGT.
Những nhược điểm cơ bản nêu trên của cính sách thuế doanh thu đã và đang
tạo ra những khó khăn lớn trong hoạt động kinh doanh thương mại. Do đó có thể
kết luận rằng cải cách thuế doanh thu là một trong những yêu cầu cấp bách tháo gỡ
khó khăn cho kinh doanh, đáp ứng yêu cầu đổi mới trong quản lý kinh tế phù hợp
với nền kinh tế thị trường.
Do vậy tiến tới việc thực hiện thuế GTGT là một nội dung quan trọng trong
việc đổi mới công tác tuế của nước ta. Để sắc thuế GTGT sớm đi vào cuộc sống
4
góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nhằm thực hiện cho được những mục
tiêu mà Quốc hội, Đảng và Nhà nước đặt ra cần sửa đổi thuế doanh thu theo những
hướng sau:
- Cải cách chế độ kế toán và thực hiện những biện pháp để tăng cường hơn nữa

hiệu lực của pháp lệnh về chế độ kế toán thống kê
- Ban hành những quy định về quản lý tiền mặt theo hướng hạn chế dần lượng
tiền mặt trong thanh toán. Đây là biện pháp để việc kiểm tra doanh thu tính thuế
được nhanh, gọn, chính xác. Đó cũng là biện pháp chống thất thu thuế có hiệu quả
cao.
- Tăng cường hơn nữa việc quản lý các khoản chi của ngân sách Nhà nước
nhằm tiết kiệm triệt để, chống lãng phí, tham ô dưới mọi hình thức. Đây là biện
pháp rất quan trọng tạo điều kiện để giảm thuế suất tạo ra tích luỹ ban đầu cho các
doanh nghiệp.
III Nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng.
1. Sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT
Theo lý luật chung về pháp luật, sự kiện pháp lý được phân thành nhiều loại
nếu dựa vào các tiêu chí khác nhau, như cách phân loại phổ biến thông thường nhất
là căn cứ vào dấu hiệu ý chí, nếu căn cứ vào dấu hiệu nàsy thì sự kiện pháp lý được
chia hai loại đó là hành vi(xử sự của con người) và sự biến(hiện tượng tự nhiên).
Theo quan điểm của các nhà làm luật, tiền đề làm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT
thuộc hành vi hợp pháp. Hàng vi hợp pháp này được thể hiện dưới dạng hành động
tức cách xử sự chủ động của các chủ thể.
Vậy đối với nghĩa vụ thuế nói chung và nghĩa vụ thuế GTGT nói riêng, sự kiện
nào sau đây sẽ được xac định là sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế: Đối
tượng chịu thuế theo quy định của pháp luật thuế hay thông báo thuế của cơ quan
thuế(hành vi quản lý của Nhà nước).
1.1 Hoạt động chuyển giao tài sản:
Là những hoạt động nhằm thực hiên việc chuyên giao quyền sử hữu đối với tài
sản hoặc quyền nắm giữ tài sản như một chủ sở hữu. Hoạt động này thường được
5
thực hiện trên cơ sở có sự thoả thuận cam kết giữa các bên mà hình thức pháp lý của
sự thoả thuận cam kết đó là hợp đồng.
Chuyển giao tài sản thường được thể hiện dưới một số hình thức cơ bản như:
mua bán tài sản theo hợp đồng; thuê mua tài sản; chuyển giao tài sản khi góp vốn;

đổi tài sản này lấy tài sản khác; chuyển giao hàng hoá gia công…
1.2 Hoạt động cung cấp dịch vụ:
Là hoạt động trong đó bên làm dịch vụ phải thực hiện một công việc nhất định
cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả công cho bên làm dịch vụ(Điều
518 BLDS2005). Hoạt động cung cấp dịch vụ cũng được thể hiện trên cơ sở pháp lý
đó là hợp đồng dịch vụ. Hoạt động dịch vụ được thể hiện dưới một số hình thức cơ
bản như: dịch vụ thuê nhà; dịch vụ vận tải; dịch vụ trao đổi ngoại tệ, chứng khoán;
dịch vụ pháp lý; dịch vụ quảng cáo…
Theo quan điểm của các nhà làm luật không phải bất cứ hành vi chuyển giao tài
sản và cung cấp dịch vụ nào cũng thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mà những hoạt
động này phải là của một hoạt động kinh tế tức hoạt độngcủa các nhà sản xuất,
thưong mại hoặc cung cấp dịch vụ có tính chất thường xuyên, lặp đi lặp lại và về
phương diện pháp lý phải được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Còn hành vi bán tài sản của một cá nhân cho
người khác và người đó không bán lại(không vì mục đích kinh doanh) thì hành vi
đó không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Như vậy, thuế GTGT đánh trên tất cả
các hoạt động chuyển giao tài sản, cung cấp dịch vụ và phải trả tiền của một hoạt
động kinh tế mà không tính đến kết qủ như thế nào và nhằm mục đích gì, tức thuế
GTGT không đánh vào chính hàng hoá, dịch vụ mà đánh vào quan hệ mua bán, trao
đổi hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT. Chỉ khi nào mua bán, trao đổi hàng hoá,
dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT mới phải chịu thuế GTGT.
1.3 Các hình thức cung ứng chịu thuế GTGT:
Các hình thức cung ứng không chịu thuế GTGT hay còn gọi là các hình thức
cung ứng ngoài diện chịu thuế GTGT là những hình thức cung ứng bởi các cá nhân
không đăng ký kinh doanh không thuộc diện điều chỉnh của luật; các hình thức cung
6
ứng trước khi luật thuế GTGT có hiệu lực; các hình thức cung ứng không có trong
luật thuế GTGT.
1.4 Các hình thức cung ứng được miễn và được áp thuế suất 0%:
Các hình thức cung ứng được miễn thuế GTGT là những hình thức cung ứng

thoả mãn đầy đủ các thuộc tính của hình thức cung ứng chịu thuế tức nằm trong
phạm vi chịu thuế nhưng được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét miễn bằng
một quyết định đặc biệt dưới hình thức của một điều luật. Tuỳ thuộc vào một thể
chế chính trị, trình độ quản lý, khả năng đóng góp, hiệu quả thu thuế…song nhìn
chung một số hoạt động cung ứng thường được miễn trừ thuế GTGT là: Hoạt động
báo chí; một số hoạt động của ngân hàng; kinh doanh bất động sản; hoạt động nông,
ngư nghiệp; dịch vụ y tế; phúc lợi xã hội…Khi các chủ thể thực hiện các hình thức
cung ứng được miễn thuế thì không được khấu trừ thuế đầu vào trong phạm vi nếu
như các khoản đầu vào này được sử dụng để hình thành hình thức cung ứng được
miễn thuế.
Các hình thức cung ứng được áp thuế suất 0% là những hình thức cung ứng
chịu thuế nhưng mức thuế phải nộp bằng 0, điều này có nghĩa là khi cung cấp
những hàng hoá, dịch vụ này không phải tính và thuthuế GTGT, người nhận cung
cấp hàng hoá, dịch vụ không phải trả thuê GTGT khi mua nhưng nhà cung cấp hàng
hoá, dịch vụ được khấu trừ toàn bộ thuế GTGT đầu vào hay nói cách khác được
hoàn thuế GTGT. Cũng như miễn trừ thuế việc áp dụng thuế suất 0% cũng tuỳ
thuộc vào quy định của pháp luật mỗi nước song nhìn chung các nước đều áp dụng
thuế suất 0% cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ.
2. Các vấn đề xác định thời điểm phát sinh thuế GTGT:
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế là thời điểm mà tại đó các đối tượng nộp thuế
phải thực hiện nghĩa vụ thuế khi có sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế.
Hay nói cách khác,là thời điểm mà tại đó coi như nghĩa vụ thuế đã phát sinh, tại
thời điểm này Nhà nước có quyền đói thuế, đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ tính và
nộp thuế.
2.1 Thời điểm giao hàng, cung cấp dịch vụ:
7
Thời điểm giao hàng, cung cấp dịch vụ: là thời điểm mà tại đó hàng hoá được
giao, dịch vụ được cung cấp.
Hàng hoá được giao là hàng hoá trên thực tế không còn nằm dưới sự kiểm soát
cuả bên giao hàng(bên bán) tức quyền quản lý, nắm giữ hàng hoá đã được chuyển

cho bên mua hàng.
Dịch vụ được cung cấp là nội dung công việc được thoả thuận trong hợp đồng
đang được thực hiện.
Nếu lấy thời điểm giao hàng để xác định sự phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT thì
sẽ nẩy sinh các khả năng sau.
Quyền sở hữu được chuyển giao cùng thời điểm giao hàng: Đối với hoạt động
mua bán, trao đổi tái sản thì thời điểm bên mua và các bên trao đổi nhận được tài
sản là thời điểm chuyển quyền sở hữu nếu không có sự thoả thuận khác hoặc pháp
luật không có quy định khác.
Quyền sở hữu được chuyển giao sau thời điểm giao hàng: bên mua đã nhận
được tài sản và trên thực tế đang thực hiện quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với
tài sản nhưng chưa được chuyển quyền sở hữu.
Quyền sở hữu được chuyển giao trước thời điểm giao hàng: là trường hợp bên
được cung cấp hàng hóa chưa nhận được tài sản nhưng đã có quyền sở hữu về tài
sản đó, như bên góp vốn chưa giao tài sản cho bên nhân vốn nhưng đã làm xong thủ
tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn hoặc trong trường hợp bên bán chưa giao
tài sản cho bên mua nhưng bên mua đã đăng ký quyền sở hữu tài sản đó.
Đối với hoạt động cung cấp dịch vụ, nếu lấy thời điểm cung cấp dịch vụ để xác
định thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT thì sẽ rất khó xác định và không
chính xác. Bởi vì, dịch vụ không mang hình thái vật thể và dịch vụ được tiêu dùng
ngay trong thời điểm cung cấp nghĩa là thời gian cung cấp dịch vụ và thời gian tiêu
dùng dịch vụ trùng nhau, nên về phương diện pháp lý rất khó xác định thời điểm
cung cấp dịch vụ.
2.2 Thời điểm xuất hoá đơn:
8

×