Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Phân tích thiết kế và cài đặt cho hệ thống đăng ký học phần qua mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 67 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ HỌC
PHẦN QUA MẠNG ............................................................................................... 5
I- Tổng quan về học chế tín chỉ ........................................................................... 5
1.

Vài nét lịch sử về học chế tín chỉ ........................................................... 5

2.

Đặc điểm của học chế tín chỉ ................................................................. 6

3.

Hiện trạng áp dụng học chế tín chỉ ở Việt Nam...................................... 9

4.

Về phương hướng mở rộng và cải tiến học chế tín chỉ ở nước ta.......... 20

II- Tổng quan về hệ thống đăng ký học phần qua mạng..................................... 23
1.

Học phần và Tín chỉ............................................................................. 23

2.

Quy trình đăng ký học phần theo học chế tín chỉ.................................. 23

3.



Các bước tiến hành việc đăng ký học phần qua mạng .......................... 25

4.

Các điều kiện để việc đăng ký học phần được chấp nhận ..................... 25

CHƯƠNG 2. PHÂN TÍCH THIẾT KẾ HỆ THỐNG ĐĂNG KÝ HỌC PHẦN QUA
MẠNG .................................................................................................................. 26
I- Tổng quan về phân tích thiết kế hệ thống....................................................... 26
1.

Chu trình phát triển phần mềm............................................................. 26

2.

Phương pháp hướng chức năng và phương pháp hướng đối tượng....... 29

II- Phân tích hệ thống ........................................................................................ 31
1.

Phân tích trường hợp sử dụng (Use Case – UC)................................... 31

2.

Mô hình hoá tương tác đối tượng......................................................... 36

3.

Biểu đồ lớp .......................................................................................... 39


4.

Biểu đồ chuyển trạng thái .................................................................... 39

5.

Biểu đồ triển khai ................................................................................ 40

III- Thiết kế hệ thống......................................................................................... 41
1.

Kiến trúc hệ thống ............................................................................... 41

2.

Thiết kế cơ sở dữ liệu .......................................................................... 41

1


3.

Thiết kế giao diện ................................................................................ 44

CHƯƠNG 3. CÀI ĐẶT MINH HỌA CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CHO HỆ
THỐNG ĐĂNG KÝ HỌC PHẦN QUA MẠNG ................................................... 46
I. Công cụ.......................................................................................................... 46
1.


Ngôn ngữ lập trình web động ASP ...................................................... 46

2.

Hệ quản trị cơ sở dữ liệu SQL Server .................................................. 49

3.

Kết nối và truy xuất cơ sở dữ liệu ........................................................ 57

II. Cài đặt .......................................................................................................... 59
1.

Đăng nhập vào hệ thống ...................................................................... 59

2.

Đăng nhập thành công ......................................................................... 60

3.

Đổi mật khẩu ....................................................................................... 61

4.

Đăng ký học phần................................................................................ 62

KẾT LUẬN........................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 66
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 67


2


LỜI NÓI ĐẦU
Đào tạo theo Hệ thống tín chỉ lần đầu tiên được tổ chức tại trường Đại học
Harvard, Hoa kỳ vào năm 1872, sau đó lan rộng ra khắp Bắc Mỹ và thế giới. Đây là
phương thức đào tạo theo triết lý “Tôn trọng người học, xem người học là trung tâm
của quá trình đào tạo”. Theo đánh giá của Tổ chức ngân hàng thế giới (World
Bank), thì đào tạo theo Hệ thống tín chỉ không chỉ có hiệu quả đối với các nước phát
triển mà còn rất hiệu quả đối với các nước đang phát triển. Ở nước ta, Trường Đại
học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai đào tạo theo Hệ thống tín chỉ
từ năm học 1993-1994 và đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong “Chương trình
hành động của Chính phủ” thực hiện nghị quyết số 37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp
thứ sáu của Quốc hội về giáo dục đã chỉ rõ: “Mở rộng, áp dụng học chế tín chỉ trong
đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp …”. Đề án đổi mới giáo dục đại
học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã được Chính phủ phê duyệt cũng khẳng định:
“… xây dựng học chế tín chỉ thích hợp cho giáo dục đại học ở nước ta và vạch ra lộ
trình hợp lý để toàn bộ hệ thống giáo dục đại học chuyển sang đào tạo theo học chế
tín chỉ…”. Cho đến nay, cả nước đã có nhiều trường chuyển đổi sang đào tạo theo
Hệ thống tín chỉ với lộ trình và bước đi hợp lý.
Nhận thấy hình thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ có rất nhiều tiến bộ nhưng
cũng đang đặt ra đòi hỏi mà các trường không dễ dàng thỏa mãn được, em đã tìm
hiểu quyết định số 43/2007/QĐ-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban
hành Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ, cùng
với sự hướng dẫn của thầy giáo Nguyễn Văn Núi, em quyết định chọn đồ án tốt
nghiệp “Phân tích thiết kế và cài đặt cho hệ thống đăng ký học phần qua mạng”.
Đăng ký học phần là một nội dung rất quan trọng trong hình thức đào tạo
theo hệ thống tín chỉ, đòi hỏi sinh viên phải nắm chắc Quy chế đào tạo và được tư
vấn đầy đủ để lập được kế hoạch học tập thật phù hợp với điều kiện và năng lực cụ

thể của mình. Em đã cố gắng nghiên cứu và xây dựng hệ thống đăng ký học phần

3


qua mạng, hy vọng hệ thống sẽ hỗ trợ các bạn sinh viên thuận lợi hơn trong việc
đăng ký học phần học tập của bản thân và giúp đỡ công tác quản lý của nhà trường.
Do kiến thức của em còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót trong
đồ án tốt nghiệp này, mong thầy cô góp ý để đề tài của em hoàn thiện hơn.
Nội dung đồ án tốt nghiệp này bao gồm ba chương:
- Chương 1: Giới thiệu tổng quan về hệ thống đăng ký học phần qua mạng.
Chương này giới thiệu các vấn đề cơ bản về hệ thống đăng ký học phần qua mạng,
quy trình, các bước để đăng ký học phần qua mạng.
- Chương 2: Phân tích, thiết kế hệ thống đăng ký học phần qua mạng.
Chương này phân tích chi tiết hệ thống, thiết kế được tương đối đầy đủ các chức
năng cho hệ thống.
- Chương 3: Cài đặt minh họa các chức năng cơ bản cho hệ thống đăng ký
học phần qua mạng.

4


CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ HỆ
THỐNG ĐĂNG KÝ HỌC PHẦN QUA MẠNG
I- Tổng quan về học chế tín chỉ
1. Vài nét lịch sử về học chế tín chỉ
a. Thế giới
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh viên có
thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại học phải
nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn cuộc sống,

vào năm 1872 Viện Đại học Harvard Hoa Kỳ đã quyết định thay thế hệ thống
chương trình đào tạo theo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình mềm dẻo
cấu thành bởi các môđun mà mỗi sinh viên có thể lựa chọn một cách rộng rãi. Có
thể xem sự kiện đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ.
Đến đầu thế kỷ 20, hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như trong mọi
trường đại học của Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ thống tín
chỉ trong toàn bộ hoặc một bộ phận của trường đại học của mình: các nước Bắc Mỹ,
Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Ấn Độ,
Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun... Tại Trung Quốc, từ cuối thập
niên 80 đến nay hệ thống tín chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học.
Vào năm 1999, 29 bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh
châu Âu đã ký Tuyên ngôn Boglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục đại học
Châu Âu (European Higher Education Area) thống nhất vào năm 2010, một trong
các nội dung quan trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế tín chỉ
(European Credit Transfer System -ECTS) trong toàn hệ thống giáo dục đại học để
tạo thuận lợi cho việc cơ động hóa, liên thông hoạt động học tập của sinh viên trong
khu vực châu Âu và trên thế giới.
b. Việt Nam
Trước năm 1975 một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền
Nam Việt Nam đã áp dụng học chế tín chỉ: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học
Thủ Đức …

5


Trong quá trình “Đổi mới” ở nước ta từ cuối năm 1986 chuyển nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
giáo dục đại học ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng đại học tại
Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới giáo dục đại học, trong đó
có chủ trương triển khai trong các trường đại học qui trình đào tạo 2 giai đoạn và

môdun hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế “học phần” đã ra đời và được
triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm
1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích lũy dần kiến thức
theo các môđun trong quá trình học tập, tức là cùng theo ý tưởng của học chế tín chỉ
xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương diện, học chế học phần chưa thật sự
mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ,do đó nó được gọi là “sự kết hợp niên chế với
tín chỉ”, tuy nhiên những khó khăn về đời sống trong xã hội nói chung và trong các
trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun
hóa triệt để. Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các
trường đại học dịu bớt, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến thêm một bước,
thực hiện học chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chế tín chỉ của Mỹ.
Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu tiên áp dụng học chế
tín chỉ từ năm 1993, rồi các trường Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thủy
sản Nha Trang... và một số trường đại học khác áp dụng từ năm 1994 và các năm
sau đó.
2. Đặc điểm của học chế tín chỉ
a. Đặc điểm chung
- Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng đại học qua việc tích
luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định,
căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên, gọi là tín chỉ
(credit). Định nghĩa chính thức về tín chỉ phổ biến ở Mỹ và một số nước như sau:
Khối lượng học tập gồm 1 tiết học lý thuyết (50 phút) trong một tuần lễ và kéo dài 1
học kỳ (15 - 18 tuần) thì được tính 1 tín chỉ. Các tiết học loại khác như: thực tập thí
nghiệm, đi thực địa, vẽ, nhạc, thực hành nghệ thuật, thể dục... thì thường cứ 3 tiết
trong một tuần kéo dài một học kỳ được tính một tín chỉ.. Ngoài định nghĩa nói trên,

6


người ta còn quy định: để chuẩn bị cho 1 tiết lên lớp, sinh viên phải bỏ ra ít nhất 2

giờ làm việc ở ngoài lớp.
Tín chỉ theo định nghĩa nói trên gắn với học kỳ 4 tháng (semester) được sử
dụng phổ biến nhất ở Mỹ. Ngoài ra còn có định nghĩa tương tự cho tín chỉ theo học
kỳ 10 tuần (quarter) được sử dụng ở một số ít trường đại học. Tỷ lệ khối lượng lao
động học tập của hai loại tín chỉ này là 3/2.
- Để đạt bằng cử nhân (Bachelor) sinh viên thường phải tích luỹ đủ 120 - 136
tín chỉ (Hoa Kỳ), 120 - 135 tín chỉ (Nhật Bản), 120 - 150 tín chỉ (Thái Lan)... Để đạt
bằng thạc sĩ (master) sinh viên phải tích luỹ 30 - 36 tín chỉ (Mỹ), 30 tín chỉ (Nhật
Bản), 36 tín chỉ (Thái Lan) ...
Theo ECTS của Châu Âu (EU) người ta quy ước khối lượng lao động học tập
ước chừng của một sinh viên chính quy trung bình trong một năm học được tính
bằng 60 tín chỉ.
- Khi tổ chức giảng dạy theo tín chỉ, đầu mỗi học kỳ, sinh viên được đăng ký
các môn học thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ và phù hợp với quy định
chung nhằm đạt được kiến thức theo một chuyên môn chính (major) nào đó. Sự lựa
chọn các môn học rất rộng rãi, sinh viên có thể ghi tên học các môn liên ngành nếu
họ thích. Sinh viên không chỉ giới hạn học các môn chuyên môn của mình mà còn
cần học các môn học khác lĩnh vực, chẳng hạn sinh viên các ngành khoa học tự
nhiên và kỹ thuật vẫn cần phải học một ít môn khoa học xã hội, nhân văn và ngược
lại.
- Về việc đánh giá kết quả học tập, hệ thống tín chỉ dùng cách đánh giá
thường xuyên, và dựa vào sự đánh giá đó đối với các môn học tích luỹ được để cấp
bằng cử nhân. Đối với các chương trình đào tạo sau đại học (cao học và đào tạo tiến
sỹ) ngoài các kết quả đánh giá thường xuyên còn có các kỳ thi tổng hợp và các luận
văn.
b. Các ưu điểm của học chế tín chỉ
 Có hiệu quả đào tạo cao
Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức và kỹ
năng của sinh viên để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, sinh viên được chủ động


7


thiết kế kế hoạch học tập cho riêng mình, được quyền lựa chọn cho mình tiến độ học
tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng của mình. Điều đó đảm
bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời
cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các cấp đào tạo đại
học và giữa các ngành đào tạo khác nhau.
Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ
được ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích sinh viên từ nhiều nguồn
gốc khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Về phương diện này
có thể nói học chế tín chỉ là một trong những công cụ quan trọng để chuyển từ nền
đại học mang tính tinh hoa (elitist) thành nền đại học mang tính đại chúng (mass).
 Có tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao
Với học chế tín chỉ, sinh viên có thể chủ động ghi tên học các học phần khác
nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của từng lĩnh vực
kiến thức. Nó cho phép sinh viên dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến
trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải học lại từ đầu.
Với học chế tín chỉ, các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một
cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình
lựa chọn ngành nghề của sinh viên.
Học chế tín chỉ cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo
thuận lợi cho sinh viên khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước.
 Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo
Với học chế tín chỉ, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng học
phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không
cản trở quá trình học tiếp tục, sinh viên không bị buộc phải quay lại học từ đầu.
Chính vì vậy giá thành đào tạo theo học chế tín chỉ thấp hơn so với đào tạo theo
niên chế.
Nếu triển khai học chế tín chỉ các trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ

chức những môn học chung cho sinh viên nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn
học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra sinh viên có thể học những môn học lựa chọn ở
các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép sử dụng được đội ngũ giảng

8


viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học. Kết hợp với học chế tín
chỉ, nếu trường đại học tổ chức thêm những kỳ thi đánh giá kiến thức và kỹ năng
của người học tích luỹ được bên ngoài nhà trường hoặc bằng con đường tự học để
cấp cho họ một tín chỉ tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại
học. Ở Mỹ trên một nghìn trường đại học chấp nhận cung cấp tín chỉ cho những
kiến thức và kỹ năng mà người học đã tích luỹ được ngoài nhà trường.
c. Các nhược điểm của học chế tín chỉ và cách khắc phục
 Cắt vụn kiến thức
Phần lớn các môđun trong học chế tín chỉ được quy định tương đối nhỏ, cỡ 3
hoặc 4 tín chỉ, do đó không đủ thời gian để trình bày kiến thức thật sự có đầu, có
đuôi, theo một trình tự diễn biến liên tục, từ đó gây ấn tượng kiến thức bị cắt vụn.
Đây thật sự là một nhược điểm, và người ta thường khắc phục nhược điểm này bằng
cách không thiết kế các môđun quá nhỏ dưới 3 tín chỉ, và trong những năm cuối
người ta thường thiết kế các môn học hoặc tổ chức các kỳ thi có tính tổng hợp để
sinh viên có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức đã học.
 . Khó tạo nên sự gắn kết trong sinh viên
Vì các lớp học theo môđun không ổn định, khó xây dựng các tập thể gắn kết
chặt chẽ như các lớp theo khóa học nên việc tổ chức sinh hoạt đoàn thể của sinh
viên có thể gặp khó khăn. Chính vì nhược điểm này mà có người nói học chế tín chỉ
“khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính cộng đồng”. Khó khăn này
là một nhược điểm thực sự của học chế tín chỉ, tuy nhiên người ta thường khắc phục
bằng cách xây dựng các tập thể tương đối ổn định qua các lớp khóa học trong năm
thứ nhất, khi sinh viên phải học chung phần lớn các môđun kiến thức, và đảm bảo

sắp xếp một số buổi xác định không bố trí thời khoa biểu để sinh viên có thể cùng
tham gia các sinh hoạt đoàn thể chung...
3. Hiện trạng áp dụng học chế tín chỉ ở Việt Nam
a. Vài nét về hệ thống “niên chế” áp dụng trong giáo dục đại học nước ta
trước năm 1988

9


Muốn hiểu quy trình đào tạo hiện nay trong giáo dục đại học nước ta, cần
nhắc lại vài nét về quy trình đào tạo trước khi có đổi mới giáo dục đại học, tức là từ
năm 1987 về trước.
Sau năm 1975 hệ thống giáo dục đại học thống nhất của nước ta được xây
dựng theo mô hình chung của Miền Bắc, tức là mô hình Liên Xô cũ. Đó là hệ thống
áp dụng quy trình đào tạo theo “niên chế” với các đặc điểm như sau:
- Các lớp học được xếp theo khóa tuyển sinh, chương trình học được thiết kế
chung cho mọi sinh viên cùng một khóa;
- Đơn vị học vụ được tính theo năm học, cuối mỗi năm học những sinh viên
nào đạt kết quả học tập theo quy định thì được lên lớp, sinh viên không đạt thì bị ở
lại lớp (lưu ban) học cùng sinh viên khóa sau, tức là phải học lại thêm một năm học.
- Tùy mức quan trọng của môn học việc đánh giá kết quả học tập thường theo
hai cách: thi có cho điểm, và kiểm tra chỉ xác định đạt hay không đạt, không đạt
phải kiểm tra lại. Không tính điểm trung bình chung, trong học bạ chỉ liệt kê điểm
của các môn thi (được cho theo 5 bậc).
b. Về việc triển khai học chế học phần trong toàn bộ hệ thống đại học và
cao đẳng nước ta
 Bản chất của học chế học phần
Phù hợp với công cuộc “đổi mới” kinh tế xã hội ở Việt Nam từ năm 1986,
trong hệ thống giáo dục đại học cũng triển khai nhiều đổi mới. Việc đưa học chế
“học phần” vào toàn bộ hệ thống giáo dục đại học Việt Nam từ 1988 đến nay là một

trong các đổi mới đó. Học chế học phần có các đặc điểm cơ bản như sau:
- Bản chất của học chế này là sự tích lũy dần (accumulation) kiến thức.
- Kiến thức được môđun hóa thành các học phần. Học phần là một môđun
kiến thức tương đối trọn vẹn và không quá lớn (thực chất học phần là một môn học
nhỏ, tương ứng với thuật ngữ subject của Mỹ) có thể lắp ghép với nhau để tạo nên
một chương trình đào tạo dẫn đến một văn bằng, người học có thể luỹ dần trong quá
trình học tập.

10


- Để đo lường kiến thức theo khối lượng lao động học tập của người học,
khái niệm đơn vị học trình (ĐVHT) đã được đưa vào, đơn vị này về bản chất đồng
nhất với khái niệm credit của hệ thống giáo dục đại học Mỹ.
- Để làm cho các chương trình đào tạo mềm dẻo, có 3 loại học phần được
quy định: học phần bắt buộc phải học, học phần lựa chọn theo hướng dẫn của nhà
trường và học phần tự chọn tuỳ ý. Ngoài ra cũng có quy định về việc việc được học
thêm ngành đào tạo chính (major), ngành đào tạo phụ (minor) hoặc thêm văn bằng
thứ hai.
- Với tinh thần tích lũy kiến thức, mỗi học phần được đánh giá bằng một
điểm (theo thang mười bậc) là kết quả tổng hợp của các đánh giá bộ phận và của
một kỳ thi kết thúc. Có quy định điểm tối thiểu cần đạt được (thường là điểm 5) để
xem như học phần được tích lũy. Kết quả học tập chung của học kỳ, năm học hoặc
khóa học được đánh giá bằng điểm trung bình chung: đó là điểm trung bình của các
học phần đã tích lũy với trọng số là số đơn vị học trình của từng học phần.
 Việc triển khai học chế học phần
Cùng với học chế học phần, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định
2677/GD-ĐT ngày 3/12/1993 ban hành khung chương trình đào tạo, trong đó quy
định khối lượng kiến thức tối thiểu và phân bố các thành phần kiến thức cho các văn
bằng đại học. Cũng trong văn bản nêu trên có đưa ra định lượng cho đơn vị học

trình cơ bản (=15 tiết giảng lý thuyết hoặc thảo luận = 30-> 45 giờ thực hành thí
nghiệm = 45->90 giờ thực tập tại cơ sở = 45->80 giờ chuẩn bị tiểu luận hoặc luân
văn). Theo quy định đó một chương trình dẫn đến bằng cử nhân 4 năm phải có khối
lượng 210 ĐVHT.
Để đảm bảo sự thống nhất chung của quy trình đào tạo trong toàn bộ hệ
thống giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành các Quy chế khung về
đánh giá kết quả học tập, xét lên lớp, tốt nghiệp, để căn cứ vào đó từng trường đại
học, cao đẳng xây dựng quy chế đánh giá kết quả học tập riêng của mình. Do sự vận
dụng khác nhau tùy theo điều kiện và trình độ của từng trường, học chế học phần
được thực hiện ở mỗi trường có các sắc thái khác nhau: khác nhau về mức độ thông
tin cung cấp trước cho sinh viên về chương trình đào tạo, khác nhau về mức độ có

11


sẵn các học phần để lựa chọn ở các trường, để học thêm các ngành đào tạo chính,
ngành đào tạo phụ hoặc văn bằng thứ hai...
Trong quá trình triển khai học chế học phần, có nhiều Quy chế về đào tạo và
một số quy định khác có liên quan đến quy trình đào tạo đã lần lượt được Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành. Quy chế đào tạo theo học phần chính thức đầu tiên
QC2238/QĐĐH được ban hành vào tháng 12 năm 1990 và quy chế QC2679/GDĐT được ban hành tháng 12 năm 1993 bổ sung hoàn chỉnh Quy chế trước. Ngày
11/12/1999 một quy chế mới, Quy chế 04/1999/QĐ-BGD-ĐT được ban hành, sau
đó ra đời một vài quy định về các môn thi tốt nghiệp ở các trường đại học và cao
đẳng. Rất đáng tiếc là các quy chế và quy định từ năm 1999 có một số điểm mâu
thuẫn với bản chất của học chế học phần; buộc sinh viên phải thi tốt nghiệp các học
phần mà họ đã tích lũy.
 So sánh các học chế học phần được áp dụng phổ biến ở Việt Nam và học
chế tín chỉ ở Mỹ
Để hiểu rõ học chế học phần hiện nay ở Việt Nam và học chế tín chỉ ở ngay
tại Mỹ, chiếc nôi của học chế tín chỉ, dưới đây sẽ nêu những điểm giống nhau và

khác nhau về bản chất và về việc thực hiện các học chế đó.
Giống nhau:
- Bản chất của cả hai học chế là sự tích lũy dần các môđun kiến thức để đạt
được văn bằng.
- Sinh viên được lựa chọn một số môđun cho chương trình học của mình.
- Việc đánh giá kết quả học tập được thực hiện nhờ điểm trung bình chung
với trọng số là số lượng tín chỉ của các môđun.
Khác nhau:
- Các môđun kiến thức trong học chế tín chỉ của các trường đại học Mỹ được
thiết kế theo trình độ năm học của sinh viên, tạo thuận lợi cho lựa chọn và lắp ghép,
và nói chung mỗi môđun bao gồm 3 hoặc 4 tín chỉ; các học phần trong các chương
trình học ở các trường đại học nước ta đôi khi được thiết kế theo kiểu chia cắt cơ
giới, có một số học phần quá dài (hơn 4 ĐVHT) hoặc quá ngắn (1->2 ĐVHT).

12


- Đối với các chương trình đào tạo của Mỹ có nhiều môđun khác nhau được
đưa ra để SV lựa chọn nên mức độ tự do lựa chọn cao hơn; trong các chương trình
đào tạo của các trường đại học nước ta thường có rất ít môđun để lựa chọn.
- Lớp học theo học chế tín chỉ ở Mỹ thường được sắp xếp theo môđun, còn
lớp học trong học chế học phần ở Việt Nam vẫn sắp xếp theo khóa học;
- Ở các trường đại học Mỹ có một hệ thống cố vấn học tập đầy đủ để tư vấn
cho SV lựa chọn môđun và thiết kế quy trình học tập, mỗi sinh viên vào trường
được gắn với một cố vấn học tập; đối với học chế học phần ở nước ta chưa có hệ
thống cố vấn học tập này;
- Tín chỉ ở Mỹ được quy định theo số giờ học mỗi tuần kéo dài trong một học
kỳ, tùy theo học kỳ ngắn hay dài mà tín chỉ lớn hay nhỏ (ví dụ semester credit bằng
cỡ 1,5 quarter credit vì semester kéo dài khoảng 15 tuần, quarter kéo dài khoảng 10
tuần); ĐVHT của ta được quy định bằng tổng số 15 tiết học lý thuyết ở lớp mà

không nói rõ số giờ học trong tuần (xem 3.2.a).
- Trong học chế tín chỉ ở Mỹ có quy định số giờ lao động học tập tối thiểu
cần thiết của sinh viên cho một giờ lên lớp (thường là 2/1). Để quy định này thực sự
được thực hiện, ở các trường đại học Mỹ áp dụng rộng rải phương pháp dạy và học
đảm bảo tính chủ động tích cực của sinh viên, do trình độ giáo chức và điều kiện vật
chất để áp dụng phương pháp dạy và học đó cũng được đảm bảo đầy đủ (tài liệu học
tập, thư viện, phòng thí nghiệm cần cho sinh viên làm việc…). Việc quy định khối
lượng tài liệu học tập và tham khảo mà sinh viên phải đọc đối với một môđun và
cách ra đề thi cho môdun đó dựa vào yêu cầu của môn học và khối lượng tài liệu
quy định (chứ không phải dựa vào những điều mà giảng viên đã trình bày ở lớp)
cũng cho phép kiểm tra việc chuẩn bị ngoài giờ học. Ở Việt Nam chưa có quy định
nói trên đối với học chế học phần và cũng chưa đủ các điều kiện để thực hiện quy
định như vậy. Vì khối lượng lên lớp mỗi tuần khá lớn (thường >30 tiết/tuần) nên ở
Việt Nam thực chất thời gian chuẩn bị của sinh viên cho mỗi tiết học ở lớp thường
không quá 1/1. Như vậy, tính theo khối lượng lao động học tập của sinh viên 1 tín
chỉ của Mỹ bằng cỡ 1,5 ĐVHT của ta.

13


- Ở các trường đại học Mỹ việc cung cấp thông tin về chương trình và lịch
trình giảng dạy, thi, kiểm tra cho sinh viên rất đầy đủ, đặc biệt thể hiện ở niên lịch
giảng dạy được công bố chính thức trước mỗi năm học. Thời gian biểu học và thi đã
công bố được thực hiện nghiêm chỉnh. ở Việt Nam khi thực hiện học chế học phần
điều này nói chung chưa được nhiều trường thực hiện.
- Việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên đối với mỗi môdun ở các
trường đại học Mỹ được thực hiện liên tục trong cả quá trình giảng dạy môdun đó,
do đó thời gian dành để thi học kỳ cho các môn học thường chỉ có một tuần; ở các
trường đại học nước ta việc học cẩn thận và đánh giá từng phần môn học ít diễn ra
thường xuyên trong quá trình giảng dạy mà chủ yếu được thực hiện sau khi kết thúc

việc dạy môđun, do đó cuối mỗi học kỳ thời gian dành cho việc thi các học phần
thường diễn ra khoảng 4 tuần.
Như vậy, qua các so sánh nêu trên, có thể thấy rõ học chế học phần ở Việt
Nam cũng có cùng bản chất như học chế tín chỉ của Mỹ, đó là tích lũy dần kiến thức
được môđun hóa, nói cách khác, học chế học phần ở nước ta đã chứa một số yếu tố
của học chế tín chỉ của Mỹ. Tuy nhiên tính mềm dẻo của học chế học phần ở nước
ta chưa cao như học chế tín chỉ của Mỹ, nói cách khác chúng ta chưa tận dụng triệt
để các ý tưởng làm mềm dẻo quy trình đào tạo của học chế tín chỉ của Mỹ.
c. Việc triển khai học chế học phần triệt để (học chế tín chỉ) ở một số
trường đại học nước ta
Như đã phân tích ở trên, căn cứ vào các quy chế đào tạo đã ban hành và việc
thực hiện học chế học phần, có thể thấy học chế học phần ở nước ta chưa đạt được
độ mềm dẻo cao, vì nó chưa thể hiện các ý tưởng của học chế tín chỉ một cách triệt
để. Bởi vậy học chế học phần chỉ có thể xem như một bước đệm trong quá trình
chuyển từ học chế niên chế sang học chế tín chỉ. Bước đệm này là cần thiết khi điều
kiện vật chất và trình độ đội ngũ giáo chức chưa hội đủ để thực hiện học chế tín
chỉ thực sự.
Từ niên khoá 1993-1994 Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích các trường
đại học cải tiến học chế học phần để có học chế học phần triệt để hơn, hoặc nói cách
khác là áp dụng học chế tín chỉ kiểu Mỹ cho quy trình đào tạo đại học nước ta. Nơi

14


đầu tiên thực hiện quá trình chuyển đổi này là trường Đại học Bách khoa Thành phố
Hồ Chí Minh (niên khóa 1993-1994), sau đó là các trường Đại học Đà Lạt, Cần
Thơ, Thuỷ sản Nha Trang (niên khóa 1994-1995), một khoa của trường Đại học
Xây dựng Hà Nội, trường Đại học Dân lập Thăng Long… Cần lưu ý là việc chuyển
từ học chế học phần sang học chế tín chỉ thực chất là cải tiến và tăng sự mềm dẻo
của học chế học phần hiện có, đo đó đây là một quá trình liên tục, không phải đột

biến. Cũng không phải hễ sử dụng thuật ngữ tín chỉ thay cho ĐVHT để đo lường
khối lượng lao động học tập thì được gọi là áp dụng học chế tín chỉ. Một ví dụ về
hiện tượng này là trường hợp Đại học mở Bán công Thành phố Hồ Chí Minh: trong
“Sổ tay sinh viên năm 2003” có ghi là nhà trường áp dụng học chế tín chỉ, nhưng
trong “Sổ tay sinh viên năm 2004” lại tuyên bố là áp dụng học chế niên chế kết hợp
với học phần. Vì vậy, trong bài này, nơi nào cải tiến học chế học phần theo hướng
làm cho nó mềm dẻo gần như học chế tín chỉ ở Mỹ thì sẽ được qui ước gọi là đã áp
dụng học chế tín chỉ.
Qua việc tìm hiểu tình hình triển khai học chế tín chỉ ở một số cơ sở (Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Cần Thơ và Trường Đại học
Dân Lập Thăng Long) có thể nêu một số nhận xét sau đây về hiện trạng áp dụng học
chế tín chỉ ở nước ta.
 Về đơn vị đo lường
Tuy tất cả các trường nói trên đều gọi đơn vị đo lường khối lượng lao động
học tập của SV là tín chỉ, nhưng định mức của đơn vị không thống nhất. Các trường
Đại học Cần thơ, Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh định nghĩa tín chỉ giống như định nghĩa ĐVHT trong Quyết định
2677/GD-ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, và cũng quy định văn bằng cử nhân ứng
với khối lượng học tập là 210 tín chỉ. Riêng Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí
Minh định nghĩa tín chỉ giống như định nghĩa của hệ thống tín chỉ của Mỹ, và quy
định văn bằng kỹ sư thiết kế cho 4,5 năm ứng với khối lượng 155 tín chỉ. Các
trường nói trên đều có tổ chức thêm học kỳ hè 7->8 tuần. Đại học Dân lập Thăng
Long thiết kế học chế tín chỉ theo học kỳ khoảng 10 tuần (quarter), mỗi năm học có
3 học kỳ, văn bằng cử nhân có khối lượng 210->224 tín chỉ.

15


 Về thông tin cho sinh viên
Các trường đã khảo sát đều có Sổ tay sinh viên để giới thiệu quy trình đào

tạo và các quy định về thủ tục đăng ký học phần, thi kiểm tra… Tuy nhiên chỉ có
Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh có công bố Niên giám giới thiệu
chương trình tóm tắt các môn học gần tương tự như các niên lịch giảng dạy ở các
trường đại học Mỹ.
 Về cách thiết kế các học phần
Ở Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh mỗi học phần được thiết kế có từ 1 đến 6 tín chỉ, thậm chí có học phần chứa
số bán nguyên 1,5 tín chỉ; ở Đại học Bách khoa thuộc Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh một học phần chứa từ 1 đến 4 tín chỉ, tại đây có một số trường hợp số
giờ lên lớp hàng tuần nhiều hơn số tín chỉ. Như vậy là ngay trong Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh cách định nghĩa tín chỉ và cách thiết kế môn học cũng
không giống nhau.
 Về điều kiện dạy và học, phương pháp dạy và học
Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đảm bảo tài liệu học tập
tương đối tốt: mỗi môn học được quy định phải có ít nhất 1 tài liệu tiếng Việt, 1 tài
liệu tiếng Anh và một tài liệu tham khảo khác. ở các trường khác việc đảm bảo tài
liệu có yếu hơn. Về điều kiện giảng dạy, Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí
Minh có trang bị máy chiếu hắt ở mọi phòng học và máy chiếu đa phương tiện cho
17 giảng đường, các trường khác cũng có nhiều cố gắng về phương diện này. Tuy
nhiên, phương pháp dạy và học mới nhằm dạy cách học, đảm bảo tính chủ động của
sinh viên và tận dụng công nghệ mới được sử dụng chỉ ở một bộ phận giáo chức và
học phần, chưa trở thành phổ biến trong các trường áp dụng học chế tín chỉ. Như
vậy vấn đề đổi mới phương pháp dạy và học chủ yếu không phải ở phương tiện,
trang bị mà là ở con người.
 Về tổ chức đăng ký học phần
Các trường đều tổ chức đăng ký học phần vào đầu học kỳ, xử lý sơ bộ kết
quả đăng ký và cho đăng ký lại nếu một số môn học không đủ chỗ hoặc thiếu số
sinh viên tối thiểu được quy định (Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh quy

16



định tối thiểu 80 sinh viên đối với các môn học cơ sở, 40 sinh viên đối với các môn
học của nhóm ngành đào tạo, 20 SV đối với các môn học của ngành đào tạo). Đối
với sinh viên chính quy, các trường có quy định số tín chỉ tối thiểu và tối đa được
phép đăng ký học trong một học kỳ (14-> 20 tín chỉ ở Đại học Bách khoa Thành
phố Hồ Chí Minh; 18->35 tín chỉ ở Đại học Khoa học tự nhiên Thành phố Hồ Chí
Minh; Đại học Cần Thơ -> 40 tín chỉ). Đối với sinh viên học kỳ 1 hoặc cả năm thứ
nhất hầu như không tổ chức đăng ký, vì chương trình đào tạo bao gồm hầu hết các
môn bắt buộc. Cần lưu ý là việc đăng ký học phần cho một học kỳ sắp tới đòi hỏi
phải có kịp thời kết quả đánh giá các học phần của học kỳ trước, do đó để triển khai
học chế tín chỉ được trơn tru, cần tổ chức thúc đẩy tốc độ chấm bài của giáo chức.
Đối với các môn học đông sinh viên nếu dùng phương pháp thi tự luận thì công
đoạn này thường bị kéo daì. Việc không tổ chức đăng ký cho sinh viên năm thứ nhất
cũng tạo nên các lớp khóa học ổn định trong năm đầu, thuận lợi cho các tổ chức
hoạt động khác của sinh viên. Về công nghệ đăng ký học phần, một số trường sử
dụng máy quét chuyên dụng để nạp dữ liệu, một vài trường đã và đang thử nghiệm
đăng ký trực tuyến (Đại học dân lập Thăng Long, Đại học Cần Thơ). Theo Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh, chưa thể triển khai đăng ký trực tuyến hoàn
toàn tự động như một số trường đại học nước ngoài (sinh viên đăng ký, máy chấp
nhận hoặc từ chối ngay) vì nhà trường chưa đủ nguồn lực để thỏa mãn mọi nguyện
vọng của sinh viên mà cần phải nhiều lần điều chỉnh các lớp học phần.
 Về tổ chức thu học phí
Học phí được thu theo số lượng học phần mà sinh viên đăng ký, giá mỗi học
phần được tính tùy theo số giờ lý thuyết, bài tập, thực tập… Đại học Bách khoa
Thành phố Hồ Chí Minh quy đổi ra tín chỉ học phí đối với mỗi học phần để định giá
học phần. Đại học Cần Thơ có sáng kiến hợp đồng vớn Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn để Ngân hàng giúp thu học phí và chuyển về tài khoản nhà
trường, sáng kiến này tăng tính chuyên môn hóa và đảm bảo sự trong sáng của khâu
thu học phí.

 Về các tổ chức sinh hoạt tập thể trong cộng đồng sinh viên

17


Đây là vấn đề nhiều người quan tâm, vì nó liên quan đến một nhược điểm
của học chế tín chỉ. Các trường áp dụng học chế tín chỉ đều tổ chức hai loại lớp học:
lớp khóa học gồm các sinh viên đăng ký vào học cùng ngành đào tạo ở năm đầu
tiên, lớp học phần gồm các sinh viên cùng học một học phần. Lớp khóa học giữ cố
định trong cả khóa học, nơi hình thành các tổ chức đoàn thể của sinh viên. Lớp học
phần thường là tạm thời, nơi thông báo các thông tin về học tập và tổ chức các sinh
hoạt học tập liên quan đến học phần. Để các sinh hoạt của lớp khóa học và các đoàn
thể không vướng thời gian học ở lớp của sinh viên, mọi sinh hoạt của lớp khóa học
đều tổ chức vào thứ 7 và chủ nhật. Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức tốt các hoạt động “mùa hè xanh”, vận động quyên góp ximăng xây hàng trăm
“cầu Bách khoa” cho các vùng nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long. Các sinh hoạt
theo chủ đề tỏ ra hấp dẫn đối với sinh viên và rất có hiệu quả: sinh viên tham gia các
sinh hoạt tăng cường kỹ năng giao tiếp, hoặc tổ chức đi phỏng vấn người nước
ngoài ở các cơ sở du lịch và về trình bày lại trong các hội thảo nhằm tăng cường
năng lực ngoại ngữ. Đối với các lớp học phần, do sức ép của khối lượng học tập lớn
nên sinh viên cũng tự động tổ chức các hình thức trao đổi học tập theo nhóm để hỗ
trợ nhau trong việc chuẩn bị bài tập…Nói chung tuy việc tổ chức lớp theo khóa học
hoàn toàn cố định bị phá vỡ, “lớp khóa học” tương đối ổn định trong một vài năm
đầu vẫn được duy trì để tổ chức mọi sinh hoạt đoàn thể của sinh viên, kết hợp với
các “lớp học phần” tạm thời. Hơn nữa, với sự sáng tạo của sinh viên trong hoàn
cảnh mới, với sức ép mạnh mẽ của khối lượng học tập đòi hỏi tính chủ động cao của
sinh viên, nhược điểm liên quan của học chế tín chỉ có thể được khắc phục tốt.
Thành tích hoạt động sinh viên và Đoàn TNCS của Đại học Bách khoa Thành phố
Hồ Chí Minh trong phong trào sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh chứng tỏ điều đó.
 Về hệ thống cố vấn học tập (CVHT)

Hệ thống CVHT thường được tổ chức ở các trường gắn với các lớp khóa học,
đôi khi CVHT được gọi là chủ nhiệm lớp khóa học. Các phiếu đăng ký học phần
phải được thông qua và có chữ ký của CVHT (Đại học Bách khoa Thành phố Hồ
Chí Minh). Tuy nhiên, vì hoạt động của giáo chức nói chung ở mọi trường đại học
đều quá tải, số lượng CVHT tương đối ít (tỷ lệ 1 CVHT/60 sinh viên ở Đại học

18


Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh) nên việc giúp đỡ của CVHT đối với sinh viên
là có giới hạn. Các trường phải theo phương châm là CVHT tập trung chú ý các đối
tượng sinh viên ở hai đầu: sinh viên học tập xuất sắc cần bồi dưỡng tài năng và sinh
viên gặp nhiều khó khăn.
 Về việc chuyển tiếp tín chỉ
Học chế tín chỉ đã thực hiện ở một số trường đại học trong hơn một thập niên
nhưng việc phát huy một trong các ưu điểm lớn của nó là chuyển tiếp tín chỉ chưa
được triển khai phổ biến. Lý do là phạm vi áp dụng học chế tín chỉ còn hẹp, và chưa
có các định mức thống nhất, thiết kế thống nhất trong cả nước (thậm chí ngay trong
một nhà trường như Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) và cũng chưa có
các hoạt động điều phối để liên kết các trường tạo thuận lợi cho việc chuyển tiếp tín
chỉ đó. Đặc biệt hệ thống cao đẳng cộng đồng được thành lập nhưng không tạo được
mối liên thông với các trường đại học có chuyên nghiệp để có thể đào tạo chuyển
tiếp.
Qua việc triển khai học chế tín chỉ ở một số trường đại học nước ta, có thể
thấy rõ học chế này mang lại nhiều lợi ích trong công tác giáo dục đào tạo ở trường
đại học: nó làm cho sinh viên chủ động hơn trong hoạt động học tập, đặc biệt nó tạo
một tác phong công nghiệp đối với mọi hoạt động của nhà trường, kể cả trong sinh
viên và trong giáo chức, vì mọi hoạt động đào tạo trong trường phải được khớp nối
đúng thời gian và địa điểm. Với học chế tín chỉ việc hỗ trợ sinh viên thuộc diện
chính sách hoặc diện học yếu phải kéo dài thời gian học tập thuận lợi hơn nhiều so

với kiểu học theo niên chế.
Tuy nhiên, việc triển khai học chế tín chỉ cũng gặp rất nhiều khó khăn về
phía những người trực tiếp thực hiện: trước hết, đối với sinh viên, những người đã
được “chăn dắt” từ trường phổ thông khi bước vào trường đại học hết sức ngỡ
ngàng về mọi mặt, học chế tín chỉ tạo nên bước chuyển khá đột ngột, họ phải mất
một thời gian để làm quen. Đối với giáo chức, khó khăn lớn nhất là tình trạng quá
tải hiện nay của hoạt động giảng dạy ở tất cả mọi trường đại học làm họ không còn
đủ thời gian để đầu tư vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy và các hoạt động
khác mà học chế tín chỉ đòi hỏi. Hơn nữa, học chế tín chỉ làm cho mức độ tự do của

19


giáo chức giảm nhiều vì họ phải được gắn với các giờ học và lớp học xác định phân
bố trong suốt cả học kỳ, rất khó bố trí tập trung thời gian cho các hoạt động khác ở
ngoài trường. Từ đó cần có những vận động để hoạt hóa sinh viên và nâng cao trách
nhiệm của giáo chức thì việc triển khai học chế tín chỉ mới thuận lợi.
4. Về phương hướng mở rộng và cải tiến học chế tín chỉ ở nước ta
a. Chủ trương về việc mở rộng và cải tiến học chế tín chỉ ở nước ta
Nhằm tăng tính liên thông của hệ thống giáo dục đại học nước ta và hội nhập
với giáo dục đại học thế giới, trong mấy năm gần đây Nhà nước đã đưa ra chủ
trương mở rộng áp dụng học chế tín chỉ trong hệ thống giáo dục đại học nước ta.
Trong “Quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001-2010” được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định 47/2001/QĐ-TTg có nêu: các
trường cần “thực hiện quy trình đào tạo linh hoạt, từng bước chuyển việc tổ chức
quy trình đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ.” Trong “Báo cáo về Tình hình
Giáo dục” của Chính phủ trước kỳ họp Quốc hội tháng 10 năm 2004 lại khẳng định
mạnh mẽ hơn: “Chỉ đạo đẩy nhanh việc mở rộng học chế tín chỉ ở các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ngay từ năm học 2005-2006,
phấn đấu để đến năm 2010 hầu hết các trường đại học, cao đẳng đều áp dụng hình

thức tổ chức đào tạo này”.
Như vậy để thực hiện được các chủ trương của Nhà nước về mở rộng học chế
tín chỉ, cần khẩn trương xây dựng một lộ trình chuyển đổi từ học chế học phần hiện
nay sang học chế tín chỉ trong toàn hệ thống giáo dục đại học.
b. Về mục tiêu và một số quan niệm về chuyển đổi
 Việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ nhằm mục tiêu gì?
Chúng ta đã áp dụng học chế học phần, trong đó có chứa đựng một số yếu tố
của học chế tín chỉ từ khi bắt đầu đổi mới giáo dục đại học cách đây gần hai thập
niên, lúc hoàn cảnh kinh tế xã hội và điều kiện dạy và học ở đại học hết sức khó
khăn. Và khi điều kiện dạy và học được cải thiện một số trường đại học đã cải tiến,
làm mềm dẻo triệt để học chế học phần, tức là chuyển đổi sang học chế tín chỉ. Tuy
nhiên chỉ vài ba năm gần đây Nhà nước mới đưa ra chủ trương nhằm thúc đẩy quá

20


trình chuyển đổi này trong toàn bộ hệ thống giáo dục đại học. Vậy sự chuyển đổi
này nhằm mục tiêu gì?
- Trước hết là tạo một học chế mềm dẻo hướng về sinh viên để tăng cường
tính chủ động và khả năng cơ động của sinh viên, để đảm bảo sự liên thông dễ dàng
trong quá trình học tập và tạo ra những sản phẩm có tính thích ứng cao với thị
trường sức lao động trong nước.
- Đồng thời, trong xu thế toàn cầu hóa, làm cho hệ thống giáo dục đại học
nước ta hội nhập với khu vực và thế giới.
 Quan niệm về việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ ở nước ta
Như đã phân tích trên đây học chế học phần được áp dụng hiện tại trong toàn
bộ hệ thống giáo dục đại học nước ta đã mang một số yếu tố của học chế tín chỉ,
nhưng chưa đủ mềm dẻo vì chưa tận dụng hết các biện pháp tạo nên sự mềm dẻo đó.
Vì vậy việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ có nghĩa là cải tiến học chế học phần,
tăng cường áp dụng các biện pháp tạo nên sự mềm dẻo đó. Quá trình chuyển đổi

không có nghĩa là xóa bỏ học chế này để chuyển sang học chế khác, mà là cải tiến
học chế đang sử dụng để tăng mức độ mềm dẻo, cơ động của nó.
Việc chuyển đổi sang học chế tín chỉ, tạo nên sự mềm dẻo của quy trình đào
tạo cần phải được kết hợp một cách logic với việc phát triển và hiện đại hóa chương
trình đào tạo, bao gồm việc đổi mới mục tiêu, nội dung đào tạo và đặc biệt là
phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
c. Về lộ trình chuyển đổi
Một số bước của lộ trình chuyển đổi sang học chế tín chỉ cho toàn bộ hệ
thống giáo dục đại học nước ta.
- Rút kinh nghiệm về việc thực hiện học chế học phần hiện tại, và đặc biệt là
học chế tín chỉ ở một số trường đại học để nêu ra những yếu kém cần khắc phục và
phương hướng phát triển.
- Chuẩn bị đầy đủ các văn bản khung cho toàn bộ hệ thống về học chế tín chỉ.
Điều chỉnh những quy định trong các văn bản đã có trái với bản chất của học chế tín
chỉ. Tổ chức tập huấn cho giáo chức và cán bộ quản lý các trường đại học về học
chế tín chỉ.

21


- Các trường tổ chức thiết kế lại hoặc rà soát lại chương trình đào tạo các
ngành học, phân chia và xây dựng lại chương trình chi tiết các học phần theo tinh
thần học chế tín chỉ và kiến thức cập nhật, hiện đại. Bộ điều phối xây dựng chương
trình mẫu của một số học phần thuộc khu vực giáo dục đại cương để các trường
tham khảo nhằm tăng mức độ thống nhất tạo cơ hội để chuyển tiếp tín chỉ. Các khối
ngành và ngành đào tạo triển khai áp dụng thành quả của quá trình xây dựng chương
trình khung vừa qua.
- Bộ và các trường tìm biện pháp tăng số lượng đội ngũ giáo chức để giảm
một cách đáng kể tải trọng giảng dạy, đồng thời tạo cơ chế nâng cao thu nhập của
giáo chức, xem đây là khâu quan trọng nhất để triển khai thành công việc chuyển

đổi sang học chế tín chỉ.
- Triển khai một cuộc vận động đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập trong hệ thống giáo dục đại học.
- Chuẩn bị nghiệp vụ cho đội ngũ CVHT. Nghiên cứu các hình thức thích
hợp cho việc tổ chức và hoạt động của các đoàn thể sinh viên.
- Xây dựng các công cụ phổ biến cho sinh viên về chương trình và quy trình
học tập, phục vụ học chế tín chỉ, đặc biệt là niên lịch giảng dạy.
- Xây dựng hệ thống tài liệu học tập cho mọi học phần bằng cách: (1) qua
mạng liên kết thư viện thông báo các tài liệu liên quan đến học phần đã có trong các
trường đại học. (2) Tổ chức liên kết các trường đại học khai thác các nguồn tư liệu
mở trên mạng (tổ chức biên dịch, phổ biến). (3) Tổ chức phối hợp biên soạn các tài
liệu phục vụ các học phần không đủ tài liệu.
- Dựa vào các trung tâm học liệu nòng cốt và các trường đại học mạnh xây
dựng các bộ công cụ phục vụ giảng dạy và đánh giá học phần, trước hết là các học
phần giáo dục đại cương, các học phần các môn cơ sở cho nhóm ngành. Tổ chức
trao đổi và chuyển giao các công cụ này.
- Liên kết xây dựng và phổ biến, chuyển giao các công nghệ điều hành đào
tạo theo học chế tín chỉ: các phần mềm quản lý đào tạo, các công cụ chuyên dụng để
đăng ký học phần, các phần mềm tiếp cận trực tuyến…

22


- Với sự khuyến khích và điều phối của Bộ, các trường có khả năng có nhiều
sinh viên chuyển đổi tổ thức trao đổi ký kết công nhận lẫn nhau về học phần tín chỉ,
đặc biệt là các trường cao đẳng cộng đồng và các trường đại học có chuyên ngành
liên quan.
- Quan hệ với các trường đại học và các tổ chức điều phối giáo dục đại học
trong khu vực và trên thế giới để thỏa thuận về việc công nhận văn bằng và tín chỉ
của nhau.


II- Tổng quan về hệ thống đăng ký học phần qua mạng
1. Học phần và Tín chỉ
Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho sinh
viên tích luỹ trong quá trình học tập. Phần lớn học phần có khối lượng từ 2 đến 4 tín
chỉ, nội dung được bố trí giảng dạy trọn vẹn và phân bố đều trong một học kỳ. Kiến
thức trong mỗi học phần phải gắn với một mức trình độ theo năm học thiết kế và
được kết cấu riêng như một phần của môn học hoặc được kết cấu dưới dạng tổ hợp
từ nhiều môn học. Từng học phần phải được ký hiệu bằng một mã số riêng do
trường quy định.
Có hai loại học phần: học phần bắt buộc và học phần tự chọn.
 Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức
chính yếu của mỗi chương trình và bắt buộc sinh viên phải tích lũy;
 Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần
thiết, nhưng sinh viên được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa
dạng hoá hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tuỳ ý để tích luỹ đủ số
học phần quy định cho mỗi chương trình.
Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ
được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc
thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc
đồ án, khoá luận tốt nghiệp.
2. Quy trình đăng ký học phần theo học chế tín chỉ
Đầu mỗi năm học, trường phải thông báo lịch trình học dự kiến cho từng
chương trình trong từng học kỳ, danh sách các học phần bắt buộc và tự chọn dự kiến

23


sẽ dạy, đề cương chi tiết, điều kiện tiên quyết để được đăng ký học cho từng học
phần, lịch kiểm tra và thi, hình thức kiểm tra và thi đối với các học phần.

Trước khi bắt đầu mỗi học kỳ, tùy theo khả năng và điều kiện học tập của
bản thân, từng sinh viên phải đăng ký học các học phần dự định sẽ học trong học kỳ
đó với phòng đào tạo của trường.
Có 3 hình thức đăng ký các học phần sẽ học trong mỗi học kỳ: đăng ký sớm,
đăng ký bình thường và đăng ký muộn.
 Đăng ký sớm là hình thức đăng ký được thực hiện trước thời điểm bắt đầu
học kỳ 2 tháng;
 Đăng ký bình thường là hình thức đăng ký được thực hiện trước thời điểm
bắt đầu học kỳ 2 tuần;
 Đăng ký muộn là hình thức đăng ký được thực hiện trong 2 tuần đầu của
học kỳ chính hoặc trong tuần đầu của học kỳ phụ cho những sinh viên
muốn đăng ký học thêm hoặc đăng ký học đổi sang học phần khác khi
không có lớp.
Tuỳ điều kiện đào tạo của từng trường, Hiệu trưởng xem xét, quyết định các
hình thức đăng ký thích hợp.
Khối lượng học tập tối thiểu mà mỗi sinh viên phải đăng ký trong mỗi học kỳ
được quy định như sau:
 14 tín chỉ cho mỗi học kỳ, trừ học kỳ cuối khóa học, đối với những sinh
viên được xếp hạng học lực bình thường;
 10 tín chỉ cho mỗi học kỳ, trừ học kỳ cuối khóa học, đối với những sinh
viên đang trong thời gian bị xếp hạng học lực yếu.
 Không quy định khối lượng học tập tối thiểu đối với sinh viên ở học kỳ
phụ.
Sinh viên đang trong thời gian bị xếp hạng học lực yếu chỉ được đăng ký
khối lượng học tập không quá 14 tín chỉ cho mỗi học kỳ. Không hạn chế khối lượng
đăng ký học tập của những sinh viên xếp hạng học lực bình thường.
Việc đăng ký các học phần sẽ học cho từng học kỳ phải bảo đảm điều kiện
tiên quyết của từng học phần và trình tự học tập của mỗi chương trình cụ thể.

24



3. Các bước tiến hành việc đăng ký học phần qua mạng
 Bước 1: Đăng nhập hệ thống với username là mã số sinh viên (password
mặc định = mã số sinh viên).
 Bước 2: Đổi password ngay trong lần truy cập đầu tiên (không nên giữ
password là mã số sinh viên).
 Bước 3: Xem kỹ phần hướng dẫn đăng ký học phần trong mục “hướng
dẫn đăng ký học phần”
 Bước 4: Thực hiện việc đăng ký học phần.
-

Chọn chức năng “đăng ký học phần” trên website.

-

Chọn những lớp học phần mà sinh viên cần đăng ký, trong quá trình đăng
ký sinh viên phải tuân thủ các qui định của khoa (bộ môn) về các học
phần và một số qui định khác vd: số tín chỉ tối đa được phép đăng ký,
khóa học được phép đăng ký,….

-

Sau khi đăng ký, sinh viên cần kiểm tra lại xem số học phần và số tiết đã
đăng ký

-

Nếu vẫn còn trong thời gian đăng ký học phần, sinh viên được phép chỉnh
sửa những học phần đã đăng ký.


 Buớc 5: Sinh viên chờ kiểm duyệt của giáo vụ khoa và phòng đào tạo.
 Bước 6: Giáo vụ khoa và phòng đào tạo chỉnh sửa đăng ký học phần của
sinh viên nếu cần thiết.
 Bước 7: Sau khi phòng đào tạo công bố kết quả đăng ký học phần cuối
cùng, sinh viên có trách nhiệm kiểm tra lại toàn bộ kết quả đăng ký học
phần của mình, nếu có sai sót phải báo ngay với phòng đào tạo để được
chỉnh sửa kịp thời.
4. Các điều kiện để việc đăng ký học phần được chấp nhận
 Sinh viên phải đăng ký đúng thời gian qui định.
 Đăng ký đúng các học phần đã được khoa thông báo cho mỗi khóa học.
 Học phần đăng ký phải thỏa điều kiện học phần tiên quyết.
 Số tín chỉ học kỳ không vượt quá số tín chỉ cho phép (kể cả học phần trả
nợ).

25


×