Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 60 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM LÃNH ĐẠO VIỆC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam

HÀ NỘI, 2015

BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BCH

: Ban Chấp hành

CN

: Công nghiệp

CNH - HĐH

: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

HTX TTCN

: Hợp tác xã Tiểu thủ công nghiệp

KT - XH


: Kinh tế - xã hội

TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp

UBND

: Uỷ ban nhân dân


Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, cho đến ngày nay, làng nghề là

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

một bộ phận quan trọng trong tiến trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.

Từ xa xưa, các làng nghề thủ công luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với

trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng quê Việt Nam. Làng nghề

các ngành nghề nông thôn, nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở nước ta

đã thu hút một lực lượng lớn lao động dư thừa ở nông thôn, cũng như tạo ra

từng bước được khôi phục và phát triển. Do đó, cho phép khai thác một cách


nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân trong những lúc nông nhàn. Sự

hiệu quả hơn tiềm năng về lao động, nguồn nguyên liệu và trình độ tay nghề

tồn tại của các làng nghề còn có vai trò quan trọng đối với sự ổn định xã hội,

của những người thợ thủ công và các nghệ nhân; góp phần chuyển dịch cơ

nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân. Bên cạnh đó, làng nghề

cấu kinh tế theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng trong ngành nông nghiệp, tăng

thủ công còn là bộ phận của nền văn hoá Việt Nam, có những đóng góp quan

tỷ trọng trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời, các làng nghề còn là

trọng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc. Trong đó, có

nơi lưu giữ và phát huy bản sắc văn hoá của mỗi địa phương và của cả dân

những sản phẩm của làng nghề vượt qua giá trị hàng hoá đơn thuần trở thành

tộc.

tác phẩm nghệ thuật, biểu trưng cho di sản, truyền thống văn hoá của dân tộc.

Hà nam là tỉnh có nhiều làng nghề, trong đó có những làng nghề truyền

Có thể nói, làng nghề chính là một nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam, là


thống nổi tiếng như: làng trống Đọi Tam, thêu ren Thanh Hà, dệt Nha Xá, dệt

cả môi trường kinh tế, văn hoá - xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời.

Hoà Hậu, Sừng Đô Hai, dũa Đại Phu, gốm Quyết Thành, Rượu Vọc ... Với lợi

Trong tiến trình lịch sử, làng nghề ở nước ta có lúc thịnh, lúc suy, phát

thế về vị trí địa lý, giao thông thuận lợi, nguồn lao động dồi dào… Hà Nam có

triển mạnh vào những năm 60 - 70 (thế kỷ XX), dưới hình thức các hợp tác xã

điều kiện để hình thành và phát triển nhiều hơn nữa các làng nghề với cơ cấu

TTCN, sau đó phát triển chậm lại vào thập kỷ 80. Đến đầu những năm 90,

các ngành hợp lý, toàn diện, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Thực tiễn cho

nhiều làng nghề đình đốn, thậm chí bị suy thoái, mai một do tác động của nền

thấy, có nhiều làng nghề mới được hình thành, đã có những đóng góp tích cực

kinh tế thị trường. Cùng với đó, chúng ta mất đi thị trường truyền thống tiêu

cho nền kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, nằm trong xu thế chung

thụ sản phẩm làng nghề bởi sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu.

của quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, các làng nghề thủ công ở Hà


Đứng trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công

Nam phát triển theo chiều hướng khác nhau: nhiều làng nghề tồn tại và phát

tác bảo tồn và phát triển các làng nghề thủ công. Tại Hội nghị lần V, Ban

triển mạnh, có những tác động tích cực đến nền kinh tế trong khu vực, tạo nên

Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã xác định: “Phải có chính sách mở

những cụm TTCN - làng nghề. Bên cạnh đó, một số làng nghề ở quy mô vừa

rộng thị trường, khuyến khích khôi phục và phát triển làng nghề, nâng cao độ

và nhỏ đang gặp nhiều khó khăn về vốn, thị trường tiêu thụ, công nghệ sản

tinh xảo, tính dân tộc độc đáo trong các chủng loại mặt hàng” [7, tr.17].

xuất lạc hậu, tay nghề và trình độ văn hoá của người lao động thấp, tình trạng

Chính những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước là yếu tố quan

ô nhiễm môi trường trong các làng nghề còn phổ biến… Có những làng nghề

trọng, thúc đẩy các làng nghề phát triển.

phát triển cầm chừng, không ổn định, thậm chí có làng nghề bị mai một, ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động đến tâm tư, đời

1


2


sống của nhân dân cũng như việc giữ gìn giá trị văn hoá vùng. Để các làng

tác giả đưa ra những định hướng và một số giải pháp phát triển làng nghề ở

nghề thủ công thực sự đóng vai trò quan trọng trong tiến trình CNH - HĐH

vùng ĐBSH; Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong

nông nghiệp nông thôn, thì các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Hà Nam cần

quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” - Luận án tiến sĩ của Trần Minh

phải có những định hướng và nhiều văn bản chi tiết hướng dẫn, đôn đốc và

Yến, Hà Nội, 2003... Những nghiên cứu trên góp phần làm phong phú thêm

tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển.

cơ sở lý luận về làng nghề, thực trạng, phương hướng và giải pháp phát triển

Xuất phát từ những lý do trên, tôi quyết định chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh
Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm
1997 đến năm 2014” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.

làng nghề đặc biệt là làng nghề thủ công truyền thống.
Nhóm thứ hai nghiên cứu về quá trình thực hiện đường lối phát triển các

ngành nghề tiểu thủ công của Đảng như: Luận văn thạc sĩ của của Ngô Ngọc

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Khuê: Sự lãnh đạo của Đảng phát triển tiểu thủ công nghiệp quận 11 thành

Khôi phục và phát triển làng nghề thủ công là vấn đề được nhiều tác giả,

phố Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2000; Luận văn Thạc sĩ Kinh tế của Nguyễn

cơ quan của Đảng và Nhà nước quan tâm nghiên cứu. Đã có rất nhiều các bài

Thị Thọ: Phát triển làng nghề ở huyện Từ Liêm trong tiến trình công nghiệp

báo, đầu sách, các bài viết trên tạp chí chuyên ngành, các bài viết tham gia hội

hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Đại học quốc gia Hà Nội; Luận án

thảo bàn luận về vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Nhìn một cách khái

Tiến sĩ Kinh tế của Đỗ Quang Dũng: Phát triển làng nghề trong quá trình

quát, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành những nhóm chủ

công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, bảo vệ năm 2006… Các công trình

yếu sau:

này đã đưa ra hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và


Nhóm đầu tiên là nhóm các công trình nghiên cứu tổng quát về các làng

Nhà nước về việc đẩy mạnh phát triển làng nghề; vai trò của các làng nghề và

nghề trên phạm vi cả nước hoặc một vùng kinh tế nhất định. Đáng chú ý nhất

sự cần thiết phải khôi phục, phát triển làng nghề thủ công; đưa ra một số kinh

là các công trình: Làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam của tác giả Bùi

nghiệm, giải pháp phát triển làng nghề phù hợp với thực tiễn của địa phương.

Văn Vượng, Nxb Văn hoá dân tộc, 1998. Tác giả tập trung giới thiệu khái

Nhóm thứ ba nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng và từng giải pháp cụ

quát về lịch sử ra đời, các bí quyết nghề, kĩ thuật của các nghệ nhân trong các

thể cho phát triển làng nghề như: Phát huy những lợi thế truyền thống trong

loại hình làng nghề truyền thống ở Việt Nam như: đúc đồng, rèn, kim hoàn,

xây dựng thương hiệu làng nghề đồng bằng sông Hồng, Vũ Trường Giang,

dệt, thêu ren, chạm khắc đá, gốm... Khôi phục và phát triển làng nghề ở vùng

Tạp chí nông nghiệp và phát tiển nông thôn, số 15/2006; Phát triển thương

ĐBSH ở nước ta hiện nay do TS. Đỗ Thị Thạch làm chủ nhiệm đề tài đã


hiệu sản phẩm làng nghề truyền thống Việt Nam hiện nay, Nguyễn Vĩnh

khẳng định vai trò của làng nghề đối với phát triển kinh tế, chính trị - xã hội,

Thanh, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4/2007; Phát triển thị trường tiêu thụ

văn hoá cả nước nói chung và vùng đồng bằng sông Hồng nói riêng. Đồng

sản phẩm làng nghề, Hồ Thanh Thuỷ, Tạp chí Tài chính số 12/2005. Nhóm

thời, tác giả nêu lên thực trạng phát triển làng nghề ở ĐBSH hiện nay với

các công trình nghiên cứu này góp phần đưa ra giải pháp nhằm tháo gỡ những

những cơ hội về việc làm, thu nhập từ ngành nghề… những thách thức trong

khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề.

quá trình tiêu thụ sản phẩm, về đội ngũ lao động, nghệ nhân… Trên cơ sở đó,
3

4


Trên địa bàn tỉnh Hà Nam, UBND tỉnh và Sở Công Thương tỉnh cũng đã
đưa ra các đề án và công trình nghiên cứu về vấn đề phát triển làng nghề như:

- Rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm về lãnh đạo phát triển
làng nghề thủ công trong tình hình mới.


Hiện trạng và phương hướng phát triển các ngành công nghiệp, TTCN tỉnh

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Hà Nam đến năm 2020; Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong các

4.1. Đối tượng nghiên cứu

cụm công nghiệp - TTCN, cụm TTCN - làng nghề; Tình hình hoạt động các

Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Nam trong việc khôi phục và phát

cụm công nghiệp - TTCN và cụm TTCN - làng nghề.
Nhìn chung, những vấn đề về làng nghề đã có nhiều công trình nghiên

triển làng nghề thủ công.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

cứu, tiếp cận dưới góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn. Đó là nguồn

- Về không gian: Nghiên cứu các làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam,

tài liệu quý báu, là cơ sở để tác giả kế thừa và tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên,

trong đó tập trung chủ yếu vào một số làng nghề: làng nghề trống Đọi Tam, làng

cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đề cập một cách tổng quát, hệ

nghề thêu ren An Hòa, Hòa Ngãi, làng nghề mây tre đan Ngọc Động, làng nghề


thống những chủ trương và sự chỉ đạo về việc khôi phục và phát triển làng

dũa Đại Phu.

nghề thủ công của Đảng bộ tỉnh Hà Nam. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề “Đảng

- Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề từ năm 1997 đến

bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ

năm 2014, nghĩa là trong thời kỳ Đảng bộ tỉnh Hà Nam thực hiện đường lối

năm 1997 đến năm 2014” là việc làm cần thiết.

công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của Đảng.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn

5.1. Nguồn tài liệu

Hệ thống hoá, làm sáng tỏ sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà

- Nguồn tư liệu chủ yếu phục vụ cho đề tài là: Văn kiện Đại hội Đảng

Nam trong việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công từ năm 1997 đến


toàn quốc, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng; các Nghị

năm 2014. Qua đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm để vận dụng trong quá

quyết, Chỉ thị, chương trình hành động, thông báo, các báo cáo hàng năm của

trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển các làng nghề thủ công trên địa bàn tỉnh

Đảng bộ tỉnh Hà Nam về vấn đề làng nghề, phát triển làng nghề.

trong những năm tiếp theo.

- Nguồn tài liệu sách báo, sách tham khảo, internet, tạp chí chuyên

3.2. Nhiệm vụ luận văn

ngành, các luận văn, luận án có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Phân tích làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam nhằm khôi phục và phát triển làng nghề thủ công.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như:

- Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế còn tồn tại trong quá

Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc dùng để khôi phục, khái

trình thực hiện chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề thủ công của


quát, đánh giá thực trạng phát triển các làng nghề truyền thống Hà Nam trước

Đảng bộ tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2014.

năm 1997 và từ năm 1997 đến năm 2014.

5

6


Phương pháp định lượng và thống kê toán học được sử dụng để thu thập

Chương 3. Nhận xét và một số bài học kinh nghiệm

các thông tin về dân số, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực nghiên
cứu. Các số liệu thu được về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ở tỉnh Hà
Nam là những thông tin khái quát ban đầu về khu vực nghiên cứu.
Phương pháp so sánh giúp chúng ta so sánh, đối chiếu những kết quả đạt
được, những hạn chế về phát triển làng nghề thủ công qua các năm từ năm
1997 đến năm 2014.
Đặc biệt đề tài sử dụng phương pháp điền dã. Chúng tôi quan sát trực tiếp
đời sống kinh tế, xã hội, con người, thiên nhiên, hoạt động sản xuất ở một số
làng nghề tiêu biểu… Qua thực tế cho ta thấy bức tranh khái quát về làng nghề
thủ công ở Hà Nam.
6. Đóng góp của Luận văn
- Về mặt khoa học: Luận văn phân tích làm rõ sự lãnh đạo và vai trò
lịch sử của Đảng bộ tỉnh Hà Nam đối với việc khôi phục và phát triển làng
nghề thủ công từ năm 1997 đến năm 2014.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn rút ra được những nhận xét và tổng kết

được những kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo khôi phục và phát triển làng
nghề. Đó sẽ là nguồn tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy những nội
dung có liên quan đến phát triển kinh tế ngành nghề nông thôn ở tỉnh Hà
Nam. Bên cạnh đó, còn góp phần giáo dục, tuyên truyền đường lối, chính
sách của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
7. Bố cục Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được bố cục
thành 3 chương.
Chương 1: Bức tranh tổng quát về các làng nghề thủ công ở tỉnh Hà
Nam trước năm 1997
Chương 2. Chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề của Đảng bộ
tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2014
7

8


CHƯƠNG 1. BỨC TRANH TỔNG QUÁT VỀ CÁC LÀNG NGHỀ
THỦ CÔNG Ở TỈNH HÀ NAM TRƯỚC NĂM 1997

- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm công nhận;

1.1. Khái quát về làng nghề thủ công

- Chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước.

1.1.1. Các khái niệm

Nghề thủ công là những nghề sản xuất chủ yếu bằng tay và những công


Làng nghề

cụ đơn giản, với con mắt và bộ óc giàu sáng tạo của nghệ nhân; nguyên liệu

Làng nghề là một thiết chế kinh tế - xã hội ở nông thôn, được cấu tạo bởi

của các nghề thủ công thường lấy trực tiếp từ thiên nhiên.

hai yếu tố làng và nghề. Làng là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các nghề thủ

xã hội quan trọng ở nông thôn nước ta, mà ở đó tồn tại những tập hợp cư dân

công có thể sử dụng máy, hoá chất và các giải pháp kỹ thuật trong một số

cùng sinh sống, sản xuất và giữa họ có mối quan hệ khăng khít với nhau.

công đoạn, nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức đặc trưng của sản

Nghề ở đây là những nghề phi nông nghiệp được tiến hành trong phạm vi

phẩm vẫn làm bằng tay. Bởi vậy, các sản phẩm thủ công vừa mang yếu tố

làng và gắn chặt với làng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ làng nào có nghề

truyền thống, tiêu biểu cho vùng quê Việt Nam, vừa mang yếu tố hiện đại,

cũng được gọi là làng nghề. Để được công nhận là làng nghề thì làng nghề đó


phù hợp với xã hội ngày nay.

phải thể hiện được cả mặt định tính và định lượng của nó. Định tính của làng

Các sản phẩm thủ công được sản xuất tập trung tại một hay một số làng

nghề chính là thể hiện sự khác biệt của làng nghề so với làng thuần nông, làng

nào đó, thu hút nhiều hộ gia đình tham gia, giá trị thu nhập từ ngành nghề thủ

có ngành nghề phụ quy mô nhỏ hoặc với phố nghề ở thành thị. Còn về mặt

công chiếm tỷ trọng cao so với giá trị thu nhập của làng đó thì sẽ hình thành

định lượng là nói đến quy mô và tính ổn định của làng nghề đó như thế nào.

làng nghề thủ công.

Cụ thể hơn ta có thể hiểu mặt định lượng của làng nghề chính là việc xác định

Có rất nhiều quan niệm khác nhau về làng nghề thủ công.

số hộ, số lao động và giá trị thu nhập từ ngành nghề đó chiếm bao nhiêu phần

Theo tác giả Bùi Văn Vượng: Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất

trăm số lao động và tổng giá trị thu nhập của địa phương. Đây cũng là tiêu chí

hàng thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm


quan trọng để xác định làng nghề.

nghề mang tính truyền thống lâu đời, có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán

Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ NN&PTNT quan niệm: Làng

sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, có

nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phun, sóc

cùng Tổ nghề, các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và

hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động

gia tộc. Sự liên kết, hỗ trợ nhau về nghề, kinh tế, kỹ thuật, đào tạo thợ trẻ giữa

ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau.

các gia đình cùng dòng tộc, cùng phường nghề trong quá trình lịch sử hình

Làng nghề được công nhận phải đạt 3 tiêu chí:

thành, phát triển nghề nghiệp đã hình thành làng nghề trên đơn vị cư trú, làng

- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành

xóm truyền thống của họ. [79, tr.13]
Quan niệm trên cũng được phản ánh trong ý kiến của GS.Trần Quốc


nghề nông thôn;

Vượng. Tác giả cho rằng: Làng nghề là làng ấy tuy vẫn trồng trọt theo lối tiểu
9

10


nông và chăn nuôi nhỏ, cũng có một số nghề phụ khác, song đã nổi trội một

làm nông nghiệp cho mình. Đây chính là sự kết hợp độc đáo giữa TTCN và

số nghề cổ truyền tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay

sản xuất nông nghiệp. Các làng nghề tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho

bán chuyên nghiệp, có phường, có ông trùm, có phó cả,... cùng một số thợ và

người lao động lúc nông nhàn, còn sản xuất nông nghiệp là nguồn cung cấp

phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư

nguyên liệu cho các làng nghề.

nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và

Hai là, các làng nghề sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Có rất nhiều
sản phẩm của các làng nghề chứa đựng các chi tiết, công đoạn mà máy móc

sản xuất ra các mặt hàng thủ công.

Tuy nhiên, hai quan niệm trên đều nói về làng nghề thủ công truyền
thống, chưa phù hợp với làng nghề mới.

hiện đại không thể thay thế đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân. Hoặc một
số nghề chỉ cần công cụ thủ công, thô sơ do chính người thợ có thể tự làm ra.

Có cái nhìn khái quát hơn về làng nghề thủ công, tác giả Mai Thế Hởn

Do đó, năng suất lao động ở các làng nghề không cao, chất lượng sản phẩm

cho rằng: Làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có

không đồng đều. Vì vậy, trong các sản phẩm làng nghề, lao động sống chiếm

một hay một số nghề được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất độc lập. Thu

tỷ lệ cao trong giá thành sản phẩm. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc

nhập từ các nghề đó chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản phẩm của làng.

tạo công ăn việc làm cho người dân ở nông thôn.

Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những điểm hợp lý của các quan niệm trên

Ba là, nguồn nguyên liệu được sử dụng trong các làng nghề chủ yếu có

và những nghiên cứu của bản thân, tác giả cho rằng: Làng nghề thủ công là

nguồn gốc tự nhiên và sẵn có ở địa phương như gỗ, tre, nứa, trúc, đất sét…


một cụm dân cư sinh sống trong một thôn (làng) có một hay một số nghề thủ

Sản phẩm làm từ nguồn nguyên liệu này khá an toàn khi sử dụng, thân thiện

công được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh độc lập, có sử

với môi trường, được nhiều người ưa chuộng. Tuy nhiên, việc sơ chế nguyên

dụng các nguồn lực trong và ngoài địa phương, các ngành nghề thủ công phát

liệu do các cơ sở tự làm với kỹ thuật đơn giản và do khí hậu nhiệt đới ẩm

triển tới mức trở thành nguồn sống chính hoặc thu nhập chủ yếu ở địa

nước ta nên việc bảo quản sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Những năm gần

phương.

đây, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, các làng nghề đã phải

1.1.2. Đặc điểm chung của làng nghề thủ công

nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài như chỉ thêu, phẩm màu, men sư, vỏ

Một là, các làng nghề thủ công tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với

trai, vỏ ốc…

nền kinh tế nông nghiệp. Ngay cả khi thủ công nghiệp tách rời khỏi nông


Bốn là, việc truyền nghề và phát triển nghề. Ở mỗi làng đều có một

nghiệp vươn lên trở thành ngành sản xuất chính ở một số làng và hình thành

người đầu tiên đem bí quyết nghề nghiệp từ nơi khác về dạy nghề, truyền

nên các làng nghề thì chúng cũng không rời khỏi nông thôn. Trong các làng

nghề cho dân làng chính là ông tổ nghề. Lực lượng nòng cốt để duy trì và phát

nghề, để đảm bảo cuộc sống, người dân bao giờ cũng làm thêm nghề nông

triển nghề là các nghệ nhân. Ban đầu, việc dạy và phát triển nghề chủ yếu

hay một số nghề khác. Mặt khác, hầu hết các hộ chuyên làm nghề tiểu thủ

được thực hiện theo phương thức truyền nghề trong gia đình, từ đời này sang

công vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp ở mức độ nhất định và đặc biệt, các

đời khác, ít được phổ biến ra ngoài. Ngay nay, với sự ra đời của các trung tâm

hộ đều giữ đất nông nghiệp để tự tay mình trồng trọt hoặc thuê mướn người
11

12


dạy nghề, thì các làng nghề không còn giữ bí quyết như trước nữa. Tuy nhiên,


đưa ra các giải pháp góp phần phát triển kinh tế làng nghề bền vững, đồng

phương thức dạy nghề theo lối vừa học vừa làm là chủ yếu.

thời hạn chế những tiêu cực đối với làng nghề.

Năm là, hình thức kinh doanh của các làng nghề ngày càng đa dạng. Với
phương thức truyền nghề, hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ
yếu ở quy mô gia đình gắn với các phường nghề như: phường gốm, phường
mộc, phường đúc đồng… Hình thức này được áp dụng từ lâu đời, thậm chí
vẫn còn được duy trì cho đến ngày nay, giúp cho một số gia đình giữ được bí

1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển làng
nghề
Sự hình thành và phát triển làng nghề chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố. trong đó có một số nhóm nhân tố chủ yếu:
Nhóm nhân tố tự nhiên

quyết nghề nghiệp. Trong thời kỳ bao cấp, các làng nghề được tổ chức thành

Những nhân tố tự nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề bao

các “đội ngành nghề” của hợp tác xã nông nghiệp như đội mộc, đội nề, đội cơ

gồm: vị trị địa lý, các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, trong đó,

khí… Bước sang thời kỳ đổi mới, đặc biệt trong những năm gần đây, Đảng và

nhân tố vị trí địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của làng nghề.


Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh phát triển các ngành nghề ở nông thôn, thì

Nếu một làng nghề có vị trí thuận lợi về giao thông hay gần những nơi có

xuất hiện các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh mới như doanh nghiệp tư

nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện cho làng nghề đó

nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn… Cùng với đó, sản phẩm của làng

chuyên chở nguyên vật liệu, trao đổi và bán sản phẩm. Từ đó, thúc đẩy việc

nghề ngày càng phong phú về mẫu mã, chủng loại, được bán rộng khắp trên

sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn so với các làng nghề sản xuất các mặt

thị trường.

hàng cùng loại nhưng không thuận lợi về vị trí địa lý.

Sáu là, sản phẩm của làng nghề, đặc biệt là làng nghề thủ công truyền

Điều kiện tự nhiên như: khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, đất đai… là những

thống mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Làng nghề là nơi bảo lưu những

nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của làng nghề, đặc biệt là những

tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống được truyền từ đời này sang đời


làng nghề sử dụng nguồn nguyên liệu trực tiếp từ thiên nhiên. Khí hậu, thời

khác. Mỗi sản phẩm làng nghề là tác phẩm nghệ thuật mang bản sắc riêng của

tiết mỗi vùng tạo ra những nguồn nguyên liệu đặc trưng cho các làng nghề.

địa phương nhưng lại tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam. Do đó, sản phẩm làng

Tuy nhiên, nước ta có nền khí hậu nóng, ẩm nên nguồn nguyên liệu thiên

nghề không chỉ có giá trị về kinh tế, mà nó còn mang những giá trị văn hóa

nhiên rất dễ bị sâu bệnh phá hoại; việc bảo quản sản phẩm gặp nhiều khó

độc đáo, chứa đựng những yếu tố văn hóa tinh thần và tín ngưỡng, tôn giáo

khăn do nấm, mốc…
Tài nguyên thiên nhiên nước ta rất phong phú về số lượng, đa dạng về

của dân tộc.
Việc tìm hiểu những đặc điểm chung về làng nghề giúp chúng ta hiểu

chủng loại, là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho các làng nghề thủ công

được tại sao các làng nghề thủ công nhất là những làng nghề thủ công truyền

khác nhau. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu tự nhiên này cũng đang cạn kiệt dần

thống lại có sức sống bền bỉ, trường tồn cùng lịch sử dân tộc như vậy. Đây


do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc sử dụng không hợp lý,

chính là cơ sở ban đầu giúp chúng ta tiếp tục nghiên cứu về các làng nghề,

thiếu quy hoạch, thiếu đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu. Chính vì vậy, các

13

14


cấp quản lý cũng như tự thân các làng nghề cần phải có những biện pháp
nhằm khôi phục và duy trì nguồn tài nguyên thiên nhiên này.
Tóm lại, nhóm nhân tố tự nhiên là nhóm nhân tố đầu tiên tác động đến
sự hình thành và phát triển lâu dài của bất kỳ làng nghề nào.

Vốn là yếu tố sản xuất, là nguồn lực quan trọng trong tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của nguồn vốn là đầu tư phát
triển sản xuất, đổi mới thiết bị, công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của sản
phẩm, có điều kiện đào tạo nâng cao kỹ năng người lao động, quảng bá sản

Nhóm nhân tố kinh tế

phẩm, xây dựng thương hiệu. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh doanh

Nhóm kinh tế bao gồm các yếu tố thị trường, sản phẩm, vốn, cơ sở hạ

đều rất nhỏ bé, chủ yếu là vốn tự có nên đã làm hạn chế việc tăng trưởng sản

tầng, trình độ lao động…


xuất . Ngày nay, nhờ chủ trương của Đảng và Nhà nước, các cơ chế chính

Nhu cầu về sản phẩm. Các sản phẩm của làng nghề thủ công có ưu
điểm là bền, tốt cho sức khoẻ người sử dụng. Tuy nhiên, giá thành của nó khá

sách về tài chính có nhiều thay đổi tạo điều kiện cho các hộ sản xuất trong
làng nghề vay vốn phát triển sản xuất.

cao, mẫu mã đơn giản, nhiều mặt hàng chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng

Kết cấu hạ tầng gồm: hệ thống giao thông, điện, nước, bưu chính viễn

hiện nay. Do đó, muốn tồn tại, các làng nghề thủ công cần phải thay đổi hình

thông… là nhân tố tác động trực tiếp tạo ra môi trường hoạt động sản xuất

thức mẫu mã sản phẩm nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng sản phẩm và giá

kinh doanh của các làng nghề thủ công. Giao thông phát triển tạo điều kiện

thành rẻ thì mới đáp ứng được nhu cầu thị trường và tâm lý người tiêu dùng

thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm … Hệ thống cung cấp

hiện nay.

điện đảm bảo cho các làng nghề sử dụng các thiết bị, máy móc trong sản xuất

Nhu cầu thị trường là nhân tố chủ yếu tác động đến sự hình thành và

phát triển của làng nghề thủ công. Sản xuất càng phát triển càng thể hiện rõ sự

và phục vụ đời sống. Hệ thống thông tin liên lạc tạo điều kiện cho các làng
nghề trao đổi, quảng bá sản phẩm trong nước và quốc tế.

chi phối của quan hệ cung cầu và quy luật cạnh tranh. Những làng nghề mà

Nguồn nhân lực và kỹ thuật là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát

sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới phù hợp

triển làng nghề. Trong các làng nghề, những nghệ nhân có vai trò đặc biệt

với nhu cầu thị hiếu tiêu dùng của xã hội thì mới có khả năng thích ứng với sự

quan trọng trong việc truyền nghề cũng như sáng tạo ra những sản phẩm

thay đổi của thị trường. Bởi vậy, các làng nghề phải thường xuyên thay đổi

độc đáo. Bên cạnh đó, một lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ,

mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng. Hiện

có khả năng thích ứng với công nghệ sản xuất tiên tiến, là nhân tố cốt lõi

nay, bên cạnh một số nghề phát triển mạnh như: sản xuất vật liệu xây dựng,

quyết định toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, chất lượng

chạm khắc gỗ hay những làng nghề phát triển bình thường như các nghề chế


nguồn lao động và trình độ kỹ thuật của họ chưa cao. Do đó, nâng cao trình

biến lương thực - thực phẩm … là các làng nghề bị mai một, giảm sút đi như

độ cho lao động làng nghề là việc làm hết sức cần thiết.

làng nghề làm nón, đan mũ… do nhu cầu, thị hiếu của thị trường giảm sút, do

Nhóm nhân tố văn hoá - xã hội

bị các sản phẩm công nghiệp hiện đại thay thế. Bên cạnh đó, các mặt hàng dệt

Nhóm nhân tố này bao gồm các điều kiện chung về văn hoá - xã hội như:

may, gốm sứ… bị cạnh tranh gay gắt với các mặt hàng cùng loại của Trung

mật độ dân số, trình độ dân trí, các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà

Quốc, Thái Lan…

nước… Trong đó, những cơ chế chính sách của Nhà nước là điều kiện để
15

16


khuyến khích, tạo môi trường cho các làng nghề hoạt động. Nếu đường lối,

Hà Nam là một tỉnh nằm ở phía Tây Nam đồng bằng châu thổ sông


chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với quy luật khách quan thì sẽ thúc

Hồng, cách thủ đô Hà Nội 60 km về phía Bắc, cách thành phố Ninh Bình

đẩy làng nghề phát triển, ngược lại thì sẽ hạn chế sự phát triển của làng nghề.

khoảng 34 km về phía Nam; theo quốc lộ 21 về phía Đông Nam khoảng 30

Vì thế, trong quá trình CNH - HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước cần có chính

km là thành phố Nam Định. Trên bản đồ, tỉnh Hà Nam có ranh giới hành

sách phát triển hợp lý trong việc kết hợp giữa công nghiệp với TTCN thì các

chính như sau: Phía Bắc và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, phía Đông giáp

làng nghề thủ công mới có điều kiện phát triển.

tỉnh Hưng Yên và tỉnh Thái Bình, phía Nam giáp tỉnh Nam Định, phía Tây

Trên đây là những nhân tố tác động đến sự tồn tại và phát triển lâu dài

Nam giáp tỉnh Ninh Bình và phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình. Với vị trí này, Hà

của các làng nghề thủ công. Các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ với

Nam vừa có thể giao lưu, trao đổi hàng hóa với các tỉnh miền núi phía Bắc,

nhau, trong đó có những nhân tố tạo điều kiện tốt, nhưng cũng có nhân tố tác


vừa là địa bàn chuyển tiếp giữa các vùng kinh tế - lãnh thổ trong cả nước.

động xấu đến sự phát triển của các làng nghề; ngay cả trong từng nhân tố

Theo thống kê năm 2010, tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 86.049,40ha

cũng có mặt tác động tốt, mặt tác động xấu. Trên cơ sở tìm hiểu về các nhân

với hai loại địa hình là đồng bằng (chiếm phần lớn diện tích) và đồi núi. Phía

tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển làng nghề, chúng ta cần có

Tây là vùng núi bán sơn địa với các dãy núi đá vôi, núi đất và đồi rừng chiếm

những biện pháp nhằm phát huy những mặt tích cực của các nhân tố, hạn chế

khoảng 10 - 15% diện tích. Phía Đông là vùng đồng bằng được bồi tụ bởi

mặt tiêu cực, tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển ổn định, bền vững.

sông Hồng, sông Đáy và sông Châu, chiếm khoảng 85 - 90% diện tích. Do tác

1.2. Tỉnh Hà Nam và thực trạng làng nghề thủ công trước năm 1997

động tổng hợp của các nhân tố tự nhiên và hoạt động sản xuất của con người,

1.2.1. Khái quát về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tỉnh Hà

Hà Nam có thổ nhưỡng tương đối đa dạng với tám nhóm đất chính: nhóm đất

phù sa, nhóm glây, nhóm đất biến đổi, nhóm đất cát và nhóm đất than bùn tập

Nam
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

trung chủ yếu ở vùng đồng bằng; nhóm đất xám, nhóm đất đỏ và nhóm đất tầng

Tỉnh Hà Nam được thành lập vào ngày 20/10/1890 theo Nghị định của

mỏng tập trung ở vùng đồi núi. Ứng với mỗi nhóm đất của các loại địa hình, Hà

toàn quyền Đông Dương. Từ khi thành lập cho đến nay, địa danh và địa giới

Nam có thể phát triển nhiều loại cây trồng thuộc các nhóm cây lương thực - thực

hành chính của tỉnh đã có nhiều thay đổi. Năm 1965, tỉnh Hà Nam và tỉnh

phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi. Đó là nguồn nguyên liệu cung

Nam Định được sát nhập thành tỉnh Nam Hà. Đầu năm 1976, Nam Hà sát

cấp cho các làng nghề chế biến lương thực - thực phẩm. Tuy nhiên, do quá trình

nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1992, tỉnh Hà Nam Ninh

kiến tạo địa chất và biến đổi khí hậu trong vùng nên Hà Nam có nhiều vùng đất

được chia tách thành Nam Hà và Ninh Bình. Cho đến ngày 1/1/1997, tỉnh Hà

trũng, thường xuyên ngập úng và bị phèn chua.


Nam được tái lập, gồm các huyện Bình Lục, Thanh Liêm, Lý Nhân, Kim

Giống như nhiều địa phương ở miền đồng bằng Bắc Bộ, Hà Nam nằm

Bảng, Duy Tiên và thị xã Phủ Lý. Ngày 9/6/2008, thị xã Phủ Lý được chuyển

trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, chia thành bốn mùa: xuân, hạ,

thành thành phố Phủ Lý.

thu, đông. Nhiệt độ trung bình từ 23 - 240c, tổng nhiệt độ hoạt động cả năm
vào khoảng 8.500 - 8.6000c. Lượng mưa trung bình khoảng 1.900mm, tập
17

18


trung nhiều vào tháng 5 đến tháng 10. Độ ẩm trung bình khoảng 85%. Hướng

ở Hà Nam có trữ lượng tương đối lớn, dễ khai thác lại gần các tuyến đường

gió thịnh hành vào mùa khô là Bắc, Đông, Đông Bắc. Vào mùa hạ, hướng gió

giao thông, là nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho các làng nghề khác nhau

thịnh hành là hướng Nam, Tây Nam và Đông Nam. Khí hậu và thời tiết như

trong tỉnh.


trên là cơ sở thuận lợi để Hà Nam bố trí một cách đa dạng về cây trồng, vật

Về tiềm năng du lịch: Cùng với tài nguyên khoáng sản, điều kiện tự

nuôi với nhiều loại động thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới. Đây cũng

nhiên và địa hình có nhiều nét độc đáo của một tỉnh bán sơn địa đã tạo cho Hà

chính là điều kiện thuận lợi cho phát triển các làng nghề chế biến lương thực -

Nam có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thuận lợi cho phát triển du lịch như:

thực phẩm cũng như các ngành kinh tế thương mại, dịch vụ. Tuy nhiên, độ ẩm

Ngũ Động Sơn, động Khả Phong, hồ Tam Chúc, dốc Ba Chồm (huyện Kim

không khí cao, lượng mưa lớn, tập trung, trong khi trên địa bàn tỉnh có nhiều

Bảng); cảnh quan thiên nhiên ở Đọi Sơn - Điệp Sơn (huyện Duy Tiên); Kẽm

vùng trũng cũng làm phát sinh nhiều bệnh dịch; việc bảo quản các loại sản

Trống, núi Tiên (huyện Thanh Liêm); Hệ sinh thái nông nghiệp ở huyện Bình

phẩm hàng hóa gặp nhiều khó khăn.

Lục, Lý Nhân… Hà Nam cũng là tỉnh giàu truyền thống lịch sử văn hóa với

Trên lãnh thổ Hà Nam có nhiều con sông lớn chảy qua như: sông Hồng,


nhiều di tích lịch sử văn hóa và lễ hội truyền thống như: Lễ hội tịch điền Đọi

sông Đáy, sông Châu và các con sông do con người đào như sông Nhuệ, sông

Sơn, lễ hội đền Trần Thương, lễ hội vật Liễu Đôi, lễ hội đến Trúc… Có thể

Sắt… là nguồn cung cấp nước chính cho các nhà máy nước và các ngành kinh

nói, du lịch là lĩnh vực kinh tế mang lại lợi nhuận cao được các cấp ủy Đảng

tế. Hàng năm, những con sông này còn cung cấp một lượng lớn phù sa cho

và chính quyền tỉnh Hà Nam quan tâm, khai thác và đầu tư. Tuy nhiên, các

vùng đồng bằng, thuận lợi cho việc thâm canh cây lúa nước và trồng cây hoa

sản phẩm du lịch của tỉnh vẫn chưa đủ sức thu hút đông du khách.

màu. Nguồn nước ngầm phục vụ cho sinh hoạt khá dồi dào, tồn tại trong

Đặc biệt, Hà Nam là tỉnh có nhiều làng nghề lâu đời với những sản

nhiều tầng, có chất lượng tương đối tốt. Tuy nhiên, nguồn nước ngầm trong

phẩm nổi tiếng như: Trống Đọi Tam, thêu ren Thanh Hà, mây tre đan Ngọc

tỉnh lại đang bị nhiễm asen nên hiện tại sử dụng kém. Ngoài ra, trên địa bàn

Động, cá kho làng Đại Hoàng, rượu làng Vọc, dũa cưa An Đổ, dệt lụa Nha


tỉnh còn có hệ thống các ao, hồ lớn nhỏ đảm bảo việc tưới tiêu cho diện tích

Xá… Các sản phẩm làng nghề không chỉ được tiêu thụ trong tỉnh hoặc khu

đất canh tác, sản xuất nông nghiệp của tỉnh.

vực lân cân mà hiện nay, một số mặt hàng vươn ra các tỉnh trong cả nước, đã

Về tài nguyên khoáng sản: Ngoài tài nguyên đất, Hà Nam có nguồn đá
vôi với tổng trữ lượng khoảng 7,4 tỷ m tập trung chủ yếu ở hai huyện Thanh
3

và đang xâm nhập vào thị trường quốc tế như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc, Trung Quốc, Campuchia…

Liêm và Kim Bảng; các mỏ đất sét có tổng trữ lượng gàn 400 triệu tấn làm

Điều kiện kinh tế - xã hội

nguyên liệu cho sản xuất xi măng, vôi, sản xuất bột nhẹ và sản xuất vật liệu

Với đặc trưng về điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa hình, người dân Hà

xây dựng; các loại đá quý có vân màu phục vụ cho xây dựng, trang trí nội thất

Nam đã sớm chọn nông nghiệp là nghề sản xuất chính. Bên cạnh đó, với vị trí

và làm đồ mỹ nghệ; các mỏ than bùn với trữ lượng trên 11 triệu m , tập trung

nằm ở phía Nam của Đồng bằng sông Hồng, trên các tuyến đường giao thông


ở Ba Sao và hồ Liên Sơn thuộc huyện Kim Bảng có chất lượng tốt có thể làm

xuyên Việt quan trọng thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán, trao đổi hàng

chất đốt hoặc làm phân bón vi sinh. Nhìn chung, nguồn tài nguyên thiên nhiên

hóa. Những năm gần đây nền kinh tế địa phương bước đầu có sự chuyển đổi,

19

20

3


các ngành nghề phụ, dịch vụ, thương mại, tài chính ngân hàng có sự phát triển

chương trình, mục tiêu về kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương. Đặc biệt,

mới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong năm đạt trên 13%, thu nhập

nguồn lao động Hà Nam có truyền thống và kinh nghiệm trong sản xuất một

bình quân đạt 42,33 triệu đồng/người/năm (2015).

số ngành nghề TTCN như thêu ren, khai thác và chế biến đá, mây tre đan…

Hiện nay, trong cơ cấu kinh tế của tỉnh có sự chuyển dịch tích cực theo


Đó là cơ sở để đẩy mạnh phát triển hơn nữa các làng nghề hiện có trong tỉnh.

hướng tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp, thương mại - dịch vụ, giảm dần tỉ

Tuy lực lượng lao động dồi dào nhưng phân bố không đồng đều giữa các

trọng ngành nông nghiệp. Cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng có sự

huyện, thành phố trong tỉnh và giữa các ngành kinh tế. Trình độ chuyên môn

chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng ngành chăn nuôi, thủy sản từ 44,4%

kỹ thuật của người lao động còn thấp; tỉ lệ lao động thất nghiệp còn khá cao.

(năm 2010) lên 49,1% (năm 2015).

Do đó, vấn đề giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân trở thành vấn
đề gay gắt được Đảng bộ tỉnh Hà Nam quan tâm.

Bảng 1.1: Cơ cấu kinh tế tỉnh Hà Nam phân theo ngành
ĐVT: %
Năm

Ngành

Kinh tế phát triển là điều kiện thuận lợi để hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng và nâng cao các mặt giáo dục, văn hóa, y tế.

2000


2003

2005

2008

2010

Nông - Lâm - Ngư nghiệp

39.3

33.7

28.6

28.3

21.2

Hệ thống giao thông của tỉnh thuận lợi cho phát triển kinh tế địa phương

Công nghiệp - Xây dựng

28.8

34.5

39.7


43.6

48.2

cũng như giao lưu với địa phương khác. Hà Nam hiện có khoảng 14.500km

Dịch vụ

31.9

31.8

31.7

28.1

30.6

đường bộ, trong đó có những tuyến đường giao thông huyết mạch quan trọng

Tổng

100

100

100

100


100

như: quốc lộ 1A, đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, quốc lộ 21A đi Chi Nê

Nguồn: Xử lý từ [12]

Tại các khu trung tâm huyện, thành phố ngày càng xuất hiện nhiều các
dịch vụ ăn uống, các cửa hàng nhu yếu phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày
của nhân dân… Hoạt động kinh doanh dịch vụ ở Hà Nam những năm gần đây
phát triển mạnh, thị trường buôn bán sôi động, dịch vụ lao động sản xuất, xây
dựng và các dịch vụ khác phát triển tốt.
Với dân số là 785.057 người (năm 2012), trong đó số người trong độ tuổi
lao động là 493.095 người, chiếm 62,8% tổng dân số của tỉnh. Cơ cấu sử
dụng lao động có xu hướng hướng giảm tỉ lệ lao động trong khu vực nông lâm - thủy sản, tăng tỉ lệ lao động trong khu vực công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, thương mại và dịch vụ. Lực lượng lao động dồi dào, với đức tính cần
cù chịu khó, ham học hỏi, có khả năng tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất là động lực và nhân tố chính trong việc thực hiện các

21

(Hòa Bình) với tổng chiều dài 73km, quốc lộ 21B dọc theo sông Đáy đi chùa
Hương, quốc lộ 38 chạy từ Chợ Dầu (huyện Kim Bảng) ra Đồng Văn, qua
Hòa Lạc, cầu Yên Lệnh đi Hưng Yên… Bên cạnh đó, Hà Nam còn có khoảng
34km đường sắt thuộc tuyến Bắc - Nam với ba ga chính đặt ở thành phố Phủ
Lý, thị trấn Đồng Văn (Duy Tiên) và Bình Mỹ (Bình Lục) và 10km đường
chuyên dụng. Hệ thống giao thông đường sông có khoảng 300km với các con
sông lớn như: sông Hồng, sông Đáy, sông Nhuệ… góp phần quan trọng trong
việc vận tải, cung ứng vật tư, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất và vận chuyển
sản phẩm tới thị trường. Có thể nói, hệ thống giao thông của Hà Nam khá
phát triển tạo thành mạng lưới khép kín. Nhờ đó, các phương tiện giao thông

có thể đi lại thuận tiện, dễ dàng đến hầu hết các xã, thôn trong tỉnh; đồng thời
đẩy mạnh giao thương liên vùng trên nhiều phương diện: chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội.
22


Cơ sở hạ tầng bưu chính viễn thông và thông tin liên lạc phát triển nhanh

Hà Nam có nhiều làng nghề nổi tiếng được hình thành từ rất sớm, trong

và đang từng bước hiện đại hóa thiết bị kỹ thuật đáp ứng nhu cầu của đời sống

đó có những nghề xuất hiện cách đây hàng nghìn, hàng trăm năm như: nghề

và yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ CNH - HĐH. Mạng lưới

làm trống làng Đọi Tam (xã Đọi Sơn - huyện Duy Tiên) được hình thành từ

truyền tải và phân phối điện được xây dựng, mở rộng đến hầu hết các thôn,

đầu thế kỷ X, làng dệt lụa Nha Xá (xã Mộc Nam - huyện Duy Tiên) xuất hiện

xã, về cơ bản đáp ứng nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

từ thế kỷ XIII, hay làng gốm Quyết Thành có cách đây 400 năm; làng thêu

Công tác giáo dục được Đảng bộ, chính quyền và các ban ngành, đoàn

ren Thanh Hà cũng có cách đây hơn một thế kỷ (1893)… Trải qua những


thể đặc biệt quan tâm. Hệ thống cơ sở vật chất trường học, các trang thiết bị

thăng trầm của lịch sử, các làng nghề thủ công có nhiều biến động, lúc hưng

phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập dần đáp ứng được nhu cầu của

thịnh, lúc suy thoái, thậm chí có những làng nghề bị mai một.

thầy và trò. Nhiều lớp học được sửa chữa, xây mới khang trang, sạch đẹp,

Dưới thời phong kiến, các làng nghề thủ công ở Hà Nam đã xuất hiện

đảm bảo cho việc dạy và học ở địa phương. Việc giáo dục phổ cập trung học

nhưng chưa phát triển mạnh, người thợ thủ công đồng thời cũng là người

cơ sở đã hoàn thành.

nông dân, họ vẫn thực hiện công việc chính yếu của nhà nông và vẫn chịu sưu

Mạng lưới y tế cơ sở ngày càng hoàn thiện, chất lượng khám và điều trị

dịch như nông dân làng xã.

nâng lên một bước. Nhiều dịch bệnh được kiểm soát, công tác chăm sóc sức

Thời Pháp thuộc, mặc dù thực dân Pháp thi hành một loạt các chính sách

khỏe cho nhân dân bước đầu được quan tâm, chú trọng. Duy trì tốt công tác


kìm hãm sự phát triển kinh tế thuộc địa nhưng các ngành nghề thủ công ở Hà

khám sức khỏe định kỳ, tiêm chủng cho trẻ em, cũng như quan tâm giúp đỡ

Nam vẫn phát triển, có xu hướng mở rộng. Bên cạnh đó, một số ngành nghề

con em các gia đình có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học giỏi.

mới xuất hiện như: thêu ren, khai thác đá... Bởi vậy, số người hoạt động trong

Những điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội trên là tiền đề để Hà Nam

các ngành nghề phi nông nghiệp ngày càng tăng. Cho đến những năm 1930,

phát triển đa dạng các loại hình kinh tế như: nông nghiệp, công nghiệp, tiểu

tỷ lệ người làm nghề thủ công trong dân cư của một số tổng ở huyện Duy

thủ công nghiệp, dịch vụ… Đặc biệt, với sự phát triển của hệ thống giao

Tiên như sau: tổng Hoàng Đạo có 13% dân số làm nghề hàng xáo, dệt vải,

thông vận tải, nguồn lao động dồi dào, cơ sở vật chất hạ tầng ngày càng khang

đăng ten; tổng Tiên Xá có 16% dân số làm nghề thợ may, thợ mộc; tổng Trác

trang, tỉnh Hà Nam đã thu hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư; đồng thời mở

Bút có 11% dân số làm các nghề thợ mộc, thợ nề; tổng Mộc Hoà có 27% dân


rộng thị trường tiêu thụ các sản phẩm kinh tế nói chung và thị trường tiêu thụ

số làm nghề dệt vải, hàng xáo, làm đậu phụ. Các tổng ở huyện Lý Nhân cũng

các sản phẩm làng nghề nói riêng. Từ đó, hình thành không gian kinh tế mở

gần giống như vậy: tổng Công Xá có 15% dân số làm các nghề thợ mộc, dệt

với những lợi thế về giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật; tạo điều

vải, đan lát; tổng Vũ Điện có 13% dân số làm các nghề dệt vải, hàng xáo, may

kiện cho Hà Nam khai thác có hiệu quả nguồn lực bên trong và tranh thủ

mặc; tổng Ngu Nhuế có 25% dân số làm các nghề thợ mộc, đan lát, làm bánh;

nguồn lực bên ngoài cho công cuộc CNH - HĐH đang được đẩy mạnh.

tổng Cao Đà có 40% dân số làm thợ mộc [51]. Tuy nhiên, đến những năm

1.2.2. Thực trạng phát triển làng nghề thủ công ở Hà Nam trước năm
1997

1946 - 1954, các làng nghề thủ công cũng như các cơ sở sản xuất TTCN bị
đình đốn do chiến tranh phá hoại. Đặc biệt, trong những năm 1952 - 1953, các

23

24



ngành nghề TTCN của tỉnh bị giảm sút ghê gớm: trên 1.000 khung dệt vải,

thủ và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh.

hàng chục lò gốm, lò rèn, đúc gang, cơ khí, làm gạch ngói… ngừng sản xuất.

Quán triệt chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh Nam Hà đã tập trung lãnh đạo

Hoà bình lập lại ở miền Bắc cho đến trước ngày đất nước thống nhất

nhân dân tiến hành hành cuộc cách mạng quan hệ sản xuất, cải tạo xã hội chủ

(1954 - 1975), đây là thời kỳ đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai chế

nghĩa đối với nông dân cá thể nói chung, và đối với các hộ sản xuất thủ công,

độ chính trị khác nhau: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, có điều kiện hòa

tiểu thương nói riêng. Cuối năm 1958, phong trào hợp tác hoá được đẩy mạnh

bình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn ở miền Nam, tạm thời nằm dưới

và nhanh chóng trở thành cao trào. Trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện những HTX

quyền kiểm soát của đế quốc Mỹ và các lực lượng tay sai. Để tạo thuận lợi

TTCN đầu tiên, bước sang năm 1959, số thợ thủ công tham gia HTX ngày

cho việc chỉ đạo kháng chiến, năm 1956, hai tỉnh Hà Nam và Nam Định sát


càng nhiều. Đến giữa năm 1960, phần lớn các HTX TTCN được chuyển lên

nhập lại thành tỉnh Nam Hà. Thực hiện nhiệm vụ mà Bộ Chính trị đề ra

bậc cao, nhiều HTX có quy mô từ 300 - 500 xã viên. Có những HTX có quy

(tháng 9/1954) là: Hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi và phát triển kinh

mô lên đến hàng nghìn hộ, tiêu biểu như HTX dệt Hoàng Tân (xã Hoà Hậu -

tế một cách có kế hoạch, từng bước mở rộng giao lưu kinh tế giữa thành thị và

huyện Lý Nhân) có 1.200 hộ, sử dụng 2.000 lao động, đảm bảo đời sống cho

nông thôn... các ngành nghề tiểu thủ công của tỉnh dần được phục hồi và bước

4.000 nhân khẩu và đạt sản lượng tới 20 triệu mét vải. Tính đến năm 1961,

vào thời kỳ phát triển mới cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế tỉnh

toàn tỉnh có 91,5% thợ thủ công tham gia HTX TTCN, trong đó có 22,4%

Nam Hà. Tính đến cuối năm 1954, trên địa bàn tỉnh có 16.000 khung dệt vải

tham gia HTX bậc cao; quy mô HTX được mở rộng, 53% số HTX có từ 30 -

khổ hẹp và 80 khung dệt khổ rộng hoạt động, sản xuất được 196.616m2 vải

100 xã viên, 7% số HTX có quy mô từ 100 - 300 xã viên. Có thể nói, đây là


bán ra thị trường. Nghề gốm sản xuất được hơn 82.980 sản phẩm các loại.

thời kỳ phát triển rực rỡ của các làng nghề thủ công Hà Nam, nhiều sản phẩm

Các cơ sở sản xuất nông cụ cũng sản xuất được trên 40.000 lưỡi cày, diệp cày

được xuất sang nước ngoài như năm 1955, HTX mây tre Ngọc Động được

và nhiều công cụ khác phục vụ cho sản xuất… Tuy nhiên, số người tham gia

thành lập và ký được hợp đồng xuất khẩu sang các nước Đông Âu thông qua

hoạt động thủ công nghiệp vẫn còn hạn chế. Năm 1957, cả tỉnh có trên 13,9

công ty xuất nhập khẩu. Hay nghề dũa ở Đại Phu (xã An Đổ - huyện Bình

nghìn người làm các ngành nghề thủ công nghiệp (chiếm gần 3% dân số của

Lục) trong những năm 1960 - 1964, đã tạo được niềm tin đối với khách gần,

tỉnh lúc bấy giờ), trong đó có khoảng 9.000 người làm các ngành nghề chuyên

xa, mỗi năm làm ra hàng triệu sản phẩm, xuất sang thị trường các nước Đông

nghiệp dưới các hình thức cá thể, hộ gia đình.

Âu, Lào, Campuchia… Sau hợp tác hoá, thủ công nghiệp dần dần kết hợp với

Kết thúc giai đoạn khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh,


công nghiệp quốc doanh địa phương, phát huy tác dụng hỗ trợ cho công

Trung ương Đảng chủ trương tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng

nghiệp quốc doanh Trung ương phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân và xuất

quan hệ sản xuất mới XHCN. Tại Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung

khẩu. Như vậy, thời kỳ này, phương thức sản xuất tập thể thống trị, các làng

ương Đảng khoá II (tháng 11/1958) đã chỉ ra nhiệm vụ với miền Bắc lúc này

nghề thủ công với tư cách là đơn vị kinh tế độc lập đã chuyển thành các HTX

là đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện về kinh tế và xã hội

TTCN hay các tổ hợp nghề hoặc các đội ngành nghề trong HTX Nông nghiệp,

đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu

những người thợ thủ công trở thành xã viên của HTX, họ hoạt động sản xuất

25

26


theo kế hoạch được giao và xã viên được Nhà nước bán gạo, thực phẩm và một


trường tiêu thụ sản phẩm không chỉ được mở rộng ra khắp cả nước, mà còn

số mặt hàng tiêu dùng theo tiêu chuẩn tem phiếu.

được xuất sang cả nước ngoài chủ yếu là Liên Xô và các nước Đông Âu như

Trong những năm chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, hơn 30% cơ sở,

hàng thêu ren An Hoà (xã Thanh Hà - huyện Thanh Liêm) được xuất khẩu

xí nghiệp công nghiệp của tỉnh bị địch bắn phá; việc cung ứng nguyên vật liệu

sang Liên Xô cũ, Pháp, Ý, Ba Lan. Một số mặt hàng mây tre, đồ gỗ, sơn mài

khó khăn, song sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn

… cũng được xuất sang nhiều nước Châu Âu.

phát triển khá mạnh nhằm cung cấp tư liệu sản xuất phục vụ cho các ngành
công nghiệp kháng chiến và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hoạt
động của các làng nghề có nhiều khó khăn, bỡ ngỡ khi Liên Xô và các nước

Năm 1975, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước cùng

Đông Âu là thị trường truyền thống của Việt Nam bị sụp đổ. Dẫu vậy, nhiều

tiến lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đến năm 1976, tỉnh


làng nghề trong tỉnh đã nhanh chóng thích ứng và bắt kịp thời đại, mở rộng

Nam Hà sát nhập với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đây là nguồn

sản xuất và phát triển thị trường, đưa sản phẩm tới các thị trường Châu Âu,

cổ vũ lớn lao để Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đoàn kết, bắt tay vào

Mỹ và các nước trong khu vực. Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng

thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980). Từ năm 1981 đến năm

nghề phát triển đa dang. Chẳng hạn như tại làng nghề thủ công sừng mỹ nghệ

1985, là thời kỳ đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, các làng

Đô Hai (xã An Lão - huyện Bình Lục), các hộ sản xuất trong làng thành lập

nghề tiểu thủ công nghiệp của Hà Nam Ninh nói riêng cũng như trên cả nước

các tổ, nhóm để sản xuất nhằm tăng cường lực lượng sản xuất và trang thiết bị

nói chung gặp nhiều khó khăn do trình độ quản lý trong các HTX TTCN yếu

máy móc. Nhờ đó, mối quan hệ hợp tác, liên kết trong sản xuất chặt chẽ hơn,

kém, dẫn đến các yếu tố tiêu cực xuất hiện ngày càng nhiều. Trong khi đó, cơ

các làng nghề dần khắc phục được những khó khăn về nguồn nguyên vật liệu


chế tập trung quan liêu bao cấp duy trì quá lâu đã hạn chế thị trường tiêu thụ

và đầu ra cho sản phẩm.

sản phẩm của các làng nghề. Thêm vào đó, nguồn nguyên vật liệu thiếu thốn
làm cho sản xuất bị giảm sút, nhiều làng nghề bị mai một, suy tàn…

Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, nhiều chủ trương, chính sách khuyến
khích, phát triển làng nghề được hoạch định. Chủ trương “Hiện đại hoá công

Nhằm khắc phục những sai lầm và tháo gỡ khó khăn trong quản lý kinh

nghệ truyền thống và truyền thống hoá công nghệ hiện đại” của Đảng cũng

tế - xã hội, năm 1986, Đảng khởi xướng sự nghiệp đổi mới đất nước, xoá bỏ

như việc thể chế hoá hàng loạt pháp lệnh, luật như Luật doanh nghiệp, Luật

cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển mọi hoạt động kinh tế sang hạch

đầu tư… chương trình cho vay vốn, nâng cấp cơ sở hạ tầng… đã tạo môi

toán xã hội chủ nghĩa. Theo đó, các hợp tác xã TTCN lần lượt được giải thể,

trường pháp lý cho các làng nghề phát triển và nhiều làng nghề mới được hình

sức lao động được giải phóng, các làng nghề thủ công có điều kiện phục hồi

thành. Vì vậy, các làng nghề trong tỉnh chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ


và phát triển. Ở làng dệt lụa Nha Xá (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên), các hộ

thuật; người thợ thủ công không ngừng học hỏi, cải tiến mẫu mã; hàng loạt

gia đình mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi gia đình trong làng có

sản phẩm mới phong phú, đa dạng được khách trong và ngoài nước ưa

từ 1 đến 2 máy dệt trở lên … Trong giai đoạn 1986 - 1990, sản phẩm trống

chuộng, ký hợp đồng tiêu thụ. Nhiều làng nghề được khách hàng trong và

của làng nghề Đọi Tam được làm ra khá nhiều với trên 8000 chiếc/năm. Thị

ngoài nước về tận làng ký hợp đồng mua bán, trong đó có những hợp đồng

27

28


lớn người dân trong làng không làm hết được, họ phải phân công cho các

CHƯƠNG 2. ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ NAM LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO THỰC

công ty, tổ hợp trong tỉnh, ngoài tỉnh làm gia công. Nhờ đó, hoạt động sản

HIỆN KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TỪ

xuất của các làng nghề vẫn phát triển cho đến ngày nay.

Tiểu kết chương 1

NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2014
2.1. Chủ trương và chỉ đạo khôi phục và phát triển làng nghề thủ

Như vậy, Hà Nam có điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội mang nét đặc

công ở tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2005

trưng của khu vực đồng bằng Bắc Bộ. Đó là những yếu tố có tính chất quyết

2.1.1. Chủ trương của Đảng về khôi phục và phát triển làng nghề

định chi phối tới đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của cư dân vùng đồng bằng

Trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay, CNH - HĐH đất nước là

sông nước. Để duy trì được cuộc sống tại vùng chiêm trũng, người dân Hà

mục tiêu quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những nội

Nam đã sớm thích nghi với vùng sinh thái này. Ở đây, họ đã xác lập cho mình

dung quan trọng của công cuộc CNH - HĐH đất nước là CNH - HĐH nông

một hệ thống nông nghiệp lúa nước hoàn chỉnh bao gồm trồng trọt, chăn nuôi.

nghiệp nông thôn. Phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp là con

Bên cạnh đó, các hoạt động giao lưu trao đổi hàng hoá, các ngành nghề


đường ngắn nhất để hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, đồng thời mang lại

thương mại, dịch vụ cũng phát triển.

kết quả cao và phù hợp với xu thế của nền kinh tế thế giới, tận dụng được

Mặc khác, với những giá trị lịch sử và tiềm năng sẵn có về vị trí địa lý,

những thành tựu cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ của nhân loại.

tài nguyên thiên nhiên, dân cư và nguồn lao động… Hà Nam là địa phương có

Nhận thức và nắm bắt được tư duy đó nên trong toàn bộ hệ thống chủ

nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như

trương của Đảng, vấn đề nông nghiệp và kinh tế nông thôn luôn chiếm một vị

khai thác thế mạnh thúc đẩy sự hình thành và phát triển các làng nghề nói

trí quan trọng. Ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, những chủ trương,

riêng. Thực tiễn cho thấy, các làng nghề thủ công ở Hà Nam khá đa dạng và

chính sách đó lại có sự bổ sung, thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh lịch

phong phú, có nhiều làng nghề được hình thành và tồn tại hàng trăm năm. Sản

sử cụ thể.


phẩm làm ra vừa có tính hàng hoá, đồng thời vừa có tính nghệ thuật và mang

Trong đường lối đổi mới được đề ra đầu tiên tại Đại hội VI (tháng

đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Trải qua những thăng trầm lịch sử, các làng

12/1986), Đảng ta có cái nhìn đúng đắn về bộ phận kinh tế ở nông thôn và

nghề ở Hà Nam có nhiều biến động, lúc phát triển rực rỡ, lúc suy thoái, thậm

khẳng định: Cần thấy rằng hiện nay lực lượng tiểu, thủ công nghiệp đang sản

chí có nghề bị thất truyền. Bởi vậy, việc bảo tồn và phát triển làng nghề trong

xuất khoảng một nửa khối lượng hàng tiêu dùng và còn nhiều khả năng thu

giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển

hút hàng triệu lao động. Cần xoá bỏ ngay những chính sách, chế độ đang gò

làng nghề trong giai đoạn tiếp theo.

bó lực lượng này…. Cải tiến chính sách thuế đối với tiểu, thủ công nghiệp
theo hướng khuyến khích các ngành, nghề cần phát triển. Đặc biệt khuyến
khích và tạo mọi điều kiện để phát triển các nghề thủ công mỹ nghệ truyền
thống, sử dụng và đãi ngộ tốt với các nghệ nhân, đồng thời đào tạo và bồi

29


30


dưỡng lực lượng kế thừa, không để mai một những ngành, nghề đã có từ lâu

tế, CNH- HĐH là nhiệm vụ trọng tâm. Phát triển kinh tế nhiều thành phần

đời trong nhân dân. [25,tr.50]

gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư

Đến Đại hội VII, vị trí, vai trò của nông nghiệp, kinh tế nông thôn được

bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong

nhấn mạnh, xem nó có ý nghĩa quyết định đối với ổn định tình hình kinh tế -

đó, kinh tế cá thể, tiểu chủ ở cả nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng và

xã hội của đất nước. Tại Đại hội VII (tháng 6/1991), Đảng ta xác định: Phát

lâu dài. Do đó, Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ để phát triển.

triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện

Đối với làng nghề thủ công, Đảng đưa ra định hướng phát triển đó là:

kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng

“mở mang làng nghề, phát triển các điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp


đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phát triển ngành nghề tiểu thủ công

sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đưa công nghiệp sơ chế và chế biến về nông

nghiệp… [25, tr.1600]

thôn và vùng nguyên liệu, phát triển lĩnh vực dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật,

Đại hội VIII (tháng 7/1996) đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta
sang thời kỳ mới - thời kỳ CNH - HĐH đất nước. Với một nước nông nghiệp,
hơn 80% dân số sống ở nông thôn thì việc tạo ra một cơ cấu kinh tế mới hợp
lý và hiện đại ở nông thôn là điều cần thiết. Chính vì vậy, quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng được thúc đẩy, nó diễn ra ngay trong
nội bộ ngành nông nghiệp và cả bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế
nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, các làng nghề thủ công đã
có vai trò tích cực trong việc góp phần tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông nghiệp, chuyển lao động từ
sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có
thu nhập cao hơn. Nhận thấy những lợi ích kinh tế từ hoạt động của các làng
nghề mang lại, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: phát triển đa dạng công
nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, thị tứ, thị trấn, liên kết
với công nghiệp ở đô thị lớn và khu công nghiệp tập trung. Phát triển các làng
nghề, nhất là các làng nghề làm hàng xuất khẩu, mở mang các loại hình dịch
vụ. Xây dựng thêm đường sá, mạng lưới cấp điện, cấp nước, điện thoại,
trường học, cơ sở y tế, văn hoá ở nông thôn. [25, tr.1757]
Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường đổi mới,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX (tháng 4/2001) khẳng định phát triển kinh

trao đổi nông sản hàng hoá ở nông thôn, tăng nhanh việc làm cho khu vực phi

nông nghiệp”. [22,tr.279]
Nhằm phát huy năng lực của các thành phần kinh tế, tháng 2/2002, Hội
nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về
“Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thời kỳ
2001- 2010”, trong đó Hội nghị khẳng định vai trò quan trọng của các làng
nghề thủ công với sự phát triển kinh tế của đất nước, gắn với phát triển nông
nghiệp nông thôn. Vì vậy, việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công có
tác động tích cực đến quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, đồng
thời tạo thêm những điều kiện cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn như
phát triển cơ sở hạ tầng, y tế, văn hoá, giáo dục, nâng cao đời sống cư dân
nông thôn.
Nội dung những chủ trương, chính sách trên thực sự là sự chỉ đạo sát sao
của Đảng và Nhà nước, bước đầu tháo gỡ những khó khăn cho các ngành
nghề ở nông thôn, đồng thời mở ra định hướng phát triển lâu dài để Đảng bộ
địa phương vận dụng thực hiện trong quá trình lãnh đạo phát triển làng nghề
nông thôn. Qua đó, thể hiện sự phát triển trong nhận thức và tư duy lí luận của
Đảng về CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, là sự quan tâm và
tạo điều kiện của Đảng và Nhà nước ta cho các làng nghề ở nông thôn dần
khôi phục và phát triển, khuyến khích sự hình thành các làng nghề mới.

31

32


2.1.2. Chủ trương khôi phục và phát triển làng nghề thủ công của
Đảng bộ tỉnh Hà Nam

năng của tỉnh; sản phẩm còn ít, giá thành cao, chưa đủ sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và nước ngoài. Việc tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu còn


Sau 10 năm cùng nhân dân cả nước tiến hành sự nghiệp đổi mới kinh tếxã hội (1986 - 1996), Đảng bộ và nhân dân Nam Hà đoàn kết, năng động,
sáng tạo, nỗ lực phấn đấu và giành được những kết quả đáng trân trọng trên
nhiều lĩnh vực: sản xuất kinh tế, ổn định đời sống nhân dân; văn hóa- an sinh
xã hội. Đối với hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp, sau một thời gian suy
giảm do cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, thì từ năm 1986 trở lại
đây, nhờ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, chính sách của Nhà nước đối
với các ngành nghề nông thôn, đã mở ra một hướng phát triển mới cho các
làng nghề. Cùng với sự phục hồi và khởi sắc của nhiều làng nghề thủ công

nhiều khó khăn. Trong khi đó, trình độ tổ chức và quản lý của chủ các cơ sở
sản xuất còn yếu nên đã hạn chế năng suất lao động.
Trước tình hình đó, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XV
họp từ ngày 2 đến ngày 5/7/1998, theo tinh thần nghị quyết Đại hội lần thứ
VIII của Đảng. Đại hội đã tổng kết công tác lãnh đạo, thực hiện các nhiệm vụ
kinh tế - xã hội trong những năm qua, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm
vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong 3 năm (1998 - 2000) là khai thác
mọi tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, phấn đấu đưa Hà Nam trở thành một tỉnh

truyền thống là sự xuất hiện của một số nghề mới, góp phần nâng cao thu

giàu mạnh, văn minh. Để thực hiện những mục tiêu trên, Đại hội XV của

nhập cho người dân địa phương. Những thành tựu đó đã và đang tạo tiền đề

Đảng đưa ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: Tiếp tục

cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nam Hà vững bước tiến vào thời kỳ công

tập trung đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng thâm canh,


nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng và đổi mới quê hương.

tăng vụ, tăng nhanh nông sản hàng hoá… Tăng cường đầu tư phát triển mạnh

Thực hiện Quyết định của Quốc hội khoá IX nhằm tạo thuận lợi cho

công nghiệp sản xuất và chế biến vật liệu xây dựng… Đồng thời, phát triển

công tác quản lý hành chính, ngày 1/1/1997, tỉnh Hà Nam được tái lập sau 32

công nghiệp dệt, may, chế biến nông sản xuất khẩu, công nghiệp cơ khí, tiểu

năm hợp nhất với tỉnh Nam Định và tỉnh Ninh Bình. Đây được coi là chủ

thủ công nghiệp và mở rộng làng nghề… Với những chủ trương đúng đắn và

trương hoàn toàn đúng, phù hợp với tình hình thực tế, đã tạo điều kiện thuận

thực hiện các biện pháp tích cực, đến năm 2000, một số làng thủ công truyền

lợi cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh phát huy thế mạnh của địa

thống: mây, giang đan, thêu ren xuất khẩu được khôi phục và phát triển mạnh.

phương, chủ động triển khai các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội,

Bước sang thế kỷ XXI, cách mạng nước ta đứng trước nhiều thời cơ, vận

an ninh quốc phòng.


hội lớn song cũng không ít những khó khăn, thách thức. Trên địa bàn tỉnh Hà

Tuy nhiên, ở thời điểm năm 1997, Hà Nam gặp nhiều khó khăn do cơ sở

Nam, có nhiều vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra cần phải giải quyết. Một

vật chất phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội còn nhiều thiếu thốn. Nền

trong những vấn đề đó là lao động thiếu việc làm, lao động thất nghiệp còn

kinh tế của tỉnh chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, tỷ

nhiều. Để giải quyết vấn đề này, phát triển các ngành nghề ở nông thôn là giải

trọng kinh tế nông nghiệp chiếm hơn 60%. Thu nhập bình quân đầu người

pháp quyết định tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Quán triệt chủ

bằng 58,2% mức bình quân của cả nước. Hoạt động của các ngành nghề nông

trương, đường lối của Đảng về phát triển làng nghề thủ công được đề ra tại

thôn tuy có khởi sắc hơn trước nhưng phát triển chưa xứng đáng với tiềm

Đại hội IX và những Hội nghị tiếp theo, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng

33

34



bộ Tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2000 - 2005 đưa ra nhiệm vụ chung cho toàn

Vì vậy, năm 2003, Tỉnh uỷ Hà Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-

thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh phải tích cực huy động các

NQ/TU ngày 2/5/2003 về việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp, TTCN. Nghị

nguồn lực để phát triển kinh tế, khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng

quyết chỉ ra tầm quan trọng và định hướng phát triển công nghiệp nói chung

phát triển, đồng thời phải tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hộ phát triển và

và sự phát triển TTCN, làng nghề nói riêng. Nhằm quy hoạch các làng nghề

có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp mới thành lập.

tại vùng nhất định để tạo ra sự tập trung trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,

Nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội vào thực tiễn, ngày 21/5/2001,

UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 829/2003/QĐ-UB về đầu tư xây dựng

Tỉnh uỷ Hà Nam ra Nghị quyết số 03-NQ/TU về chuyển dịch cơ cấu kinh tế

và quản lý cụm công nghiệp - TTCN huyện, thành phố và cụm TTCN làng


nông nghiệp và phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Trên cơ sở đánh

nghề xã và thị trấn; Quyết định số 863/2003/QĐ-UB ngày 5/8/2003 về chính

giá tình hình sản xuất nông nghiệp và hoạt động của các làng nghề thủ công

sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp tỉnh Hà Nam. Việc

trong 3 năm (1997 - 2000), Nghị quyết định ra phương hướng: “Tập trung

đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp - tiểu, thủ công

khai thác mọi nguồn lực để chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp và

nghiệp và cụm tiểu thủ công nghiệp của tỉnh Hà Nam chủ yếu căn cứ vào quy

phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn theo hướng nâng cao chất lượng

hoạch kinh tế - xã hội và nhu cầu thực tế. Từ đó, góp phần giải quyết nhiều

sản phẩm, sản xuất hàng hoá và xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010, có 70%

việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đây cũng chính là những Quyết định

số xã, thị trấn trong tỉnh có ngành nghề với quy mô, ngành hàng phù hợp.

quan trọng nhằm tạo ra bước phát triển đột phá cho nền kinh tế tỉnh nhà nói

Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mở rộng và phát triển ngành


chung và các làng nghề nói riêng.

nghề, tham gia xuất khẩu, làm dịch vụ thương mại. Tăng tỷ lệ lao động làm
ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ đến năm 2010 là 50%”.

Đặc biệt, trong năm 2004, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam đã ban hành
hai văn bản quan trọng: Quyết định số 208/QĐ-UB ngày 9/2/2004 về ban

Để các làng nghề thủ công thực sự phát triển bền vững, mang tính lâu

hành quy chế về tiêu chuẩn làng nghề TTCN. Trong đó quy định, một làng

dài, Tỉnh uỷ Hà Nam cũng đưa ra một số biện pháp phát triển ngành nghề

được công nhận là làng nghề thủ công ngoài việc chấp hành tốt chủ trương,

tiểu, thủ công nghiệp nông thôn đó là: Củng cố, mở rộng và phát triển làng

chính sách của Đảng và Nhà nước, những quy định ở địa phương, thì làng

nghề truyền thống; phát triển mạnh công nghiệp chế biến và ngành nghề tiểu,

nghề đó phải có số lao động làm các nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm trên

thủ công nghiệp trong nông thôn. Khuyến khích tạo thêm nhiều nghề mới để

50% lao động của làng và giá trị sản xuất của làng nghề chiếm tỷ trọng trên

giải quyết việc làm, đa dạng hoá sản phẩm. Nhanh chóng xây dựng quy hoạch


70% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng. Cùng với đó, Quyết định

các cụm công nghiệp - tiểu, thủ công nghiệp ở thị xã, các xã, thị trấn và xây

cũng chỉ ra trách nhiệm của làng nghề đó là: Tích cực đầu tư, mở rộng sản

dựng làng nghề - du lịch sinh thái. Tuy nhiên, tính đến thời điểm năm 2001,
trên địa bàn tỉnh Hà Nam mới có 25 làng nghề thuộc các nhóm ngành nghề
khác nhau. [49]

xuất; quan tâm cải tiến công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào
sản xuất nhằm đa dạng hoá mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng
khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường. Bám sát nhu cầu thị trường để sản

35

36


xuất những mặt hàng mới, du nhập nghề mới, đồng thời chú trọng đảm bảo

Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo

môi trường sinh thái trong các làng nghề. [67] Quyết định 209/QĐ-UB ngày

Tỉnh uỷ, quản lý chặt chẽ, định hướng cụ thể công tác thông tin trên các

9/2/2004 về ban hành quy định về tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận danh hiệu

phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh, kịp thời giới thiệu những chủ


và một số chế độ ưu đãi với thợ giỏi, nghệ nhân, người có công đưa nghề về

trương, chính sách về phát triển TTCN, làng nghề đến toàn thể nhân dân trong

làng.

tỉnh. Trước năm 1997, do nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và
Có thể nói, việc ban hành những quy chế trên là nguồn cổ vũ, động viên

nhân dân về vai trò, vị trí của làng nghề thủ công trong phát triển kinh tế - xã

lớn lao với những người thợ có tay nghề tiếp tục nghiên cứu, sáng tác, phục

hội chưa thực sự đầy đủ, dẫn đến một số làng nghề thủ công truyền thống

hồi, phục chế các sản phẩm và du nhập những nghề mới; tập trung trí tuệ sản

chậm được khôi phục. Bởi vậy, sau ngày tái lập tỉnh, thực hiện Nghị quyết

xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế, mang bản sắc văn hoá dân tộc, có

BCH Đảng bộ lần thứ XV, XVI, Nghị quyết số 03, Nghị quyết số 08 của

tính nghệ thuật cao, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Bên cạnh đó, một số làng

Tỉnh, Quyết định số 208, 209 của UBND tỉnh… UBND các cấp; một mặt xây

có nghề cố gắng phấn đấu đạt tiêu chí công nhận làng nghề. Nhờ đó, các làng


dựng kế hoạch thực hiện, tổ chức học tập, quán triệt đường lối, quan điểm của

nghề mới xuất hiện ngày càng nhiều, thu hút nhiều hộ gia đình tham gia. Tính

Đảng bộ tỉnh về phát triển các ngành nghề ở nông thôn; mặt khác, tuyên

đến cuối năm 2005, số lượng làng nghề thủ công trên địa bàn tỉnh tăng gấp

truyền, vận động nhân dân hăng hái tham gia xây dựng, phát triển ngành

đôi so với năm 2001 là 51 làng nghề. Các làng nghề này đang được quy hoạch

nghề, làng nghề. Đồng thời, chỉ đạo các làng nghề chấp hành tốt các chủ

vào các cụm TTCN - làng nghề, bước đầu tạo ra sự tập trung trong sản xuất

trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước; hàng năm tiến

và tiêu thụ sản phẩm.

hành hoạt động sơ, tổng kết hoạt động của làng nghề; rút kinh nghiệm

Những chủ trương trên của Đảng bộ tỉnh Hà Nam là sự vận dụng sáng

trong quá trình chỉ đạo, lãnh đạo phát triển nghề, làng nghề và du nhập

tạo đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển TTCN, làng nghề, phù hợp

nghề mới. Với biện pháp tích cực trên, các làng nghề thủ công truyền thống


với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của tỉnh. Đó là nền tảng, là điểm xuất phát quan

không ngừng được củng cố, phát triển; một số ngành nghề mới xuất hiện,

trọng cho việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công của các Đảng bộ

nâng tổng số làng nghề thủ công của tỉnh lên tới 51 làng nghề, trong đó có

địa phương.

34 làng nghề thủ công truyền thống và 17 làng nghề mới (năm 2005).

2.1.3. Quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Nam lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện
việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công

Thực hiện chính sách hỗ trợ vốn
Đối với các ngành nghề ở nông thôn, vốn đầu tư là yếu tố quan trọng để

Quán triệt đường lối của Đảng cũng như những chủ trương của tỉnh về

phát huy tiềm năng các nguồn lực khác của làng nghề. Để thực hiện có hiệu

khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công, các sở, ban, ngành các cấp

quả các chủ trương của tỉnh về mở rộng và phát triển làng nghề, Sở Tài chính

tham mưu, phối hợp thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:

phối hợp với các ngân hàng cùng chính quyền địa phương đã tạo điều kiện tốt


Thực hiện công tác tuyên truyền

nhất cho các hộ sản xuất, doanh nghiệp được ưu tiên vay vốn với lãi suất thấp
37

38


để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ cũng chỉ đạo các ngân hàng trên

doanh hộ gia đình là chủ yếu. Năm 2001, toàn tỉnh có 56.918 cơ sở sản xuất

địa bàn huy động mọi nguồn vốn, cho các thành phần kinh tế vay, nhất là các

hộ gia đình trên tổng số 57.752 sơ sở sản xuất TTCN. Với hình thức tổ chức

hộ sản xuất nghề thủ công. Hình thức vốn tín dụng nhân dân được xác định là

kinh doanh này sẽ đảm bảo được sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm, huy

hình thức đầu tư vốn quan trọng trong phát triển nông nghiệp nông thôn được

động được mọi lực lượng phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên, đây là hình thức

tiến hành rộng khắp. Một số xã trên địa bàn tỉnh đã thành lập được Quỹ tín

tổ chức sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, khó có khả năng phát triển đột biến. Còn

dụng nhân dân và đi vào hoạt động tốt. Nhờ có sự chỉ đạo sâu sát của các cấp


hình thức sản xuất HTX, tổ hợp sản xuất trong làng nghề hạn chế việc đầu tư

uỷ Đảng tạo được nguồn vốn ổn định. Năm 2005, vốn đầu tư vào các làng

trang thiết bị công nghệ … Năm 2001, thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU

nghề trên địa bàn tỉnh khoảng 222 tỷ đồng chiếm 59% tổng giá trị đầu tư vào

của Tỉnh uỷ về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và phát triển ngành nghề,

ngành TTCN nên các nghề thủ công truyền thống của tỉnh được khôi phục và

dịch vụ ở nông thôn; Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 2/5/2003 về việc đẩy

có bước phát triển vững chắc. Tiêu biểu như nghề mây giang đan Ngọc Động

mạnh phát triển công nghiệp, TTCN; UBND các cấp chỉ đạo cần phải đa dạng

(huyện Duy Tiên) ngày càng được nhân rộng tới từng thôn, xóm. Cùng với sự

hoá các loại hình tổ chức sản xuất trong các làng nghề; các sở, ban, ngành địa

hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp trong làng nghề mạnh dạn đầu tư hàng

phương phối hợp đưa ra các biện pháp nhằm thu hút các tổ chức kinh tế,

trăm triệu đồng đầu tư nhà xưởng, thiết bị, cải tiến công nghệ sản xuất… năm

doanh nghiệp trong và ngoài nước vào đầu tư, hợp tác sản xuất, kinh doanh,


2003, làng nghề đầu tư 12 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh và nguồn vốn này

chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương còn

tiếp tục được tăng lên qua các năm. Tính đến thời điểm năm 2005, Làng trống

khuyến khích các hộ mạnh dạn bỏ vốn vào sản xuất TTCN, tạo điều kiện tốt

truyền thống Đọi Tam cũng có hàng chục cơ sở sản xuất trống, sản xuất da và

nhất cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của tư nhân phát triển. Kết quả là, các

hình thành các doanh nghiệp tư nhân. Sản phẩm của làng trống nổi tiếng khắp

hình thức kinh doanh trong các làng nghề có sự chuyển đổi cho phù hợp với

thị trường trong nước. Năm 2000, nhân kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà

tình hình kinh tế - xã hội hiện tại. Nếu như trước năm 2000, hình thức HTX,

Nội, làng trống Đọi Tam được đặt 300 trống hội. Hay nghề thuê ren ở Thanh

tổ hợp sản xuất vẫn còn khá phổ biến, toàn tỉnh có 794 HTX, tổ hợp sản xuất

Hà phát triển rộng rãi và hầu hết các hộ sản xuất đều làm vệ tinh cho doanh

(năm 2001) thì đến năm 2005, hình thức này giảm xuống còn 76 tổ hợp sản

nghiệp. Huyện Thanh Liêm hiện có 2 công ty TNHH và 3 doanh nghiệp tư


xuất, 4 Hợp tác xã. .. Tính đến năm 2005, toàn tỉnh có 25 công ty TNHH, 10

nhân với tổng số vốn đầu tư 2,2 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh hàng thêu

doanh nghiệp tư nhân. Điển hình như nghề dệt ở xã Hoà Hậu huyện Lý Nhân,

ren, đã tạo đầu mối và việc làm cho hàng ngàn lao động, trong đó có làng thêu

trước đây khá phát triển nhưng chưa có nhiều công ty, doanh nghiệp mà chủ

ren Thanh Hà.

yếu thông qua hình thức hợp tác xã dệt Hoàng Tân. Từ năm 2000 trờ lại đây,

Đa dạng hoá các hình thức tổ chức kinh doanh trong các làng nghề thủ

cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, người làng Đại Hoàng luôn coi nghề dệt là

công. Trước năm 2000, các làng nghề thủ công của tỉnh hoạt động chủ yếu

động lực phát triển ngành nghề khác, họ mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất.

dưới hình thức sản xuất hộ gia đình, hợp tác xã và các tổ hợp sản xuất, một số

Nhiều doanh nghiệp được thành lập và phát triển nhanh chóng như: công ty

doanh nghiệp tư nhân xuất hiện nhưng chưa nhiều. Trong đó, hình thức kinh

dệt Châu Giang (công ty dệt may đầu tiên của làng nghề), công ty dệt may


39

40


Phong Lan, công ty dệt may Tiến Thành, công ty dệt may Phúc Tiến… Hiện

thống đã có nhiều biện pháp đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học, công

nay (năm 2005), tỉnh đã xây dựng được 2 cụm TTCN - làng nghề (Nhật Tân,

nghệ mới như tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại

Ngọc Động) đạt hiệu quả cao.

cho các cơ sở sản xuất; mở các lớp bồi dưỡng, tập huấn kỹ thuật mới và kiến

Hướng dẫn đào tạo nghề

thức quản lý cho các chủ sản xuất; khuyến khích và hỗ trợ đầu tư đổi mới

Ở các làng nghề thủ công truyền thống, phương pháp truyền nghề chủ

trang thiết bị, công nghệ sản xuất hiện đại cho các cơ sở sản xuất hàng thủ

yếu là “cha truyền con nối” từ đời này sang đời khác. Với phương pháp này,

công truyền thống. Một số làng nghề mạnh dạn đưa máy móc, thiết bị, điện

bí quyết nghề không được phổ biến rộng rãi, không đào tạo được quy mô lớn,


khí hoá, cơ khí hoá vào sản xuất và bảo quản sản phẩm góp phần nâng cao

chưa đáp ứng nhu cầu về lực lượng lao động có chuyên môn cho các làng

năng suất lao động. Ví dụ, ở làng nghề trống Đọi Tam, trước đây người thợ

nghề. Vì vậy, công tác đào tạo nghề được các cấp uỷ đảng, chính quyền tỉnh

làm trống hoàn toàn bằng phương pháp thủ công. Để làm 1 chiếc trống phải

Hà Nam rất quan tâm. UBND tỉnh đã chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể nhất là

trải qua ba bước: làm da, làm tang và bưng trống. Mỗi bước này trải qua

thông qua các Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, các trung tâm hướng nghiệp, dạy

nhiều công đoạn khác nhau đòi hỏi người thợ thủ công phải cần cù, tỉ mỉ,

nghề mở rộng các hình thức đào tạo nghề, truyền nghề, nhân cấy nghề mới

không ngừng sáng tạo. Với phương pháp thủ công này, người ta làm cả tháng

để tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề phục vụ cho nhu cầu trước mắt và

mới được 1 chiếc trống cái. Vốn là những con người thích tìm tòi, cải tiến,

đón đầu trong việc áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Chỉ tính từ

người làng Đọi Tam đã đưa máy móc, thiết bị cơ khí thay thế sức lao động


năm 2005 đến giữa năm 2006, UBND tỉnh đã hỗ trợ cho 39 dự án truyền

trong nhiều công đoạn như trong quá trình thuộc da, da không chỉ được phơi

nghề với 106 lớp học gồm 3.680 học viên.

nắng mà còn được sấy, dùng hoá chất để xử lý; quá trình pha dăm có ứng

Ngoài ra, nhằm khuyến khích, động viên tinh thần sáng tạo trong lao

dụng kỹ thuật cơ khí nên dăm được xẻ cong hoặc thẳng để phù hợp với chủng

động, tỉnh cũng tiến hành tặng thưởng danh hiệu cho các nghệ nhân, thợ giỏi,

loại sản phẩm; sơn công nghiệp thay thế sơn ta miết vào các khe cho khít; khi

người có công trong việc đào tạo nghề, bảo tồn và phát triển nghề truyền

bưng trống người thợ ít dùng phương pháp căng cổ truyền mà thay bằng kỹ

thống và du nhập nghề mới. Năm 2004, làng nghề trống Đọi Tam có 2 nghệ

thuật mới, sử dụng kích thuỷ lực. Vì vậy, năng suất, chất lượng sản phẩm

nhân được UBND tỉnh cấp bằng khen; làng nghề truyền thống mây giang đan

được cải tiến nhiều.

Ngọc Động có 3 nghệ nhân, 10 thợ giỏi được công nhận vì có công lao đóng

góp cho sự phát triển làng nghề; làng thủ công mỹ nghệ sừng Đô Hai có 2
nghệ nhân, 4 thợ giỏi được khen thưởng…
Khuyến khích áp dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất

2.2. Lãnh đạo phát triển làng nghề thủ công của Đảng bộ tỉnh Hà
Nam từ năm 2005 đến năm 2014
2.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển ngành nghề
nông thôn

Nhận thấy được tầm quan trọng của việc ứng dụng những thành tựu

Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và

khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong những năm qua, Tỉnh Uỷ, Uỷ ban nhân

hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề nông nghiệp và nông thôn vẫn có

dân cùng chính quyền địa phương, nhất là địa phương có làng nghề truyền

tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua, bộ phận này có

41

42


nhiều tác động tích cực với sự phát triển kinh tế đất nước, thúc đẩy quá

Tiếp đến, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, vấn đề phát triển nông


trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh đó, không ít những

nghiệp, nông thôn được đề cập theo nội dung xây dựng nông thôn mới: Quy

vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc đặt ra, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có

hoạch phát triển nông thôn gắn với phát triển đô thị và bố trí các điểm dân cư.

chủ trương, giải pháp kịp thời để giải quyết.

Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ, làng nghề gắn với bảo vệ môi trường.

Trước tình hình đó, tháng 4/2006, Đại hội Đảng toàn quốc lần X diễn ra.

Triển khai xây dựng mô hình nông thôn mới gắn với đặc điểm của từng vùng

Sau khi nhận định: Hiện nay, tỷ trọng nông nghiệp ở nước ta còn quá cao. Lao

theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy

động không có việc làm và thiếu việc làm còn nhiều [20, tr.166]. Đại hội chỉ

những nét văn hoá đặc sắc của nông thôn Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng kết

ra: Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhất là ngành

cấu hạ tầng nông thôn, tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng

nghề sử dụng nhiều lao động, coi đây là hướng chính để tạo nhiều việc làm


đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và

mới, góp phần tăng nhanh thu nhập cho nông dân. Tiếp tục đầu tư phát triển

vừa, thu hút nhiều lao động. Triển khai có hiệu quả chương trình đào tạo nghề

đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, tập trung giải quyết tốt

cho một triệu lao động nông thôn mỗi năm… [24, tr.145]

các vấn đề xã hội bức xúc và xây dựng nông thôn mới. Phát triển các làng

Trong quá trình hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội nói

nghề, chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho nông dân và cho lao động

chung và phát triển nông nghiệp nông thôn nói riêng, Đảng và Nhà nước ta

nông thôn. .. [23, tr.191]. Như vậy, việc phát triển các ngành nghề ở nông

luôn quan tâm đến việc khôi phục, mở rộng và phát triển các làng nghề thủ

thôn, nhất là mở mang, phát triển các làng nghề thủ công có mối quan hệ mật

công. Trải qua các kỳ Đại hội, những chủ trương, chính sách về phát triển các

thiết với việc giải quyết vấn đề xã hội bức xúc hiện nay đó là vấn đề việc làm

ngành nghề ở nông thôn luôn có sự thay đổi linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh


cho người lao động ở nông thôn.

lịch sử trong nước và trên thế giới. Đó là những định hướng để Đảng bộ địa

Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đề ra các cơ chế, chính sách
về phát triển ngành nghề nông thôn, tiêu biểu là Nghị định số 66/2006/NĐ-CP
ngày 7/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn. Nghị định
chỉ ra rằng: Nhà nước xây dựng quy hoạch tổng thể và định hướng phát triển

phương vận dụng, chỉ đạo thực hiện phát triển làng nghề thủ công nhằm từng
bước tiến hành thành công quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn.
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Nam vận dụng quan điểm, chủ trương của
Đảng lãnh đạo việc khôi phục và phát triển làng nghề thủ công

ngành nghề nông thôn dài hạn của cả nước và từng vùng kinh tế, đảm bảo phát

Trong giai đoạn 2005 - 2014, tình hình thế giới và trong nước có những

triển bền vững, thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích

thay đổi mới. Trước hết là cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu đã tác

các tổ chức, cá nhân và cơ sở ngành nghề nông thôn đầu tư xây dựng kết cấu hạ

động mạnh đến nền kinh tế các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó,

tầng làng nghề, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng

xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam gia nhập WTO.


làng nghề và ngoài hàng rào các cụm cơ sở ngành nghề nông thôn… [2, tr.51 -

Điều đó tạo nhiều cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài, song cũng đặt ra không ít

53]. Với những định hướng trên, đã mở ra hướng phát triển mới vững bền, lâu

những thách thức cho nền kinh tế nước nhà.

dài cho các làng nghề thủ công ở nông thôn.
43

44


Trong bối cảnh đó, Hà Nam có nhiều điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý,
tài nguyên thiên nhiên, dân cư và nguồn lao động… đáp ứng nhu cầu phát

- xã hội của tỉnh nói chung và phát triển các thành phần kinh tế, phát triển
nông nghiệp, nông thôn nói riêng.

triển kinh tế nói chung và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nói

Trên cơ sở sự chỉ đạo của Đảng về tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp,

riêng. Trải qua hai nhiệm kỳ Đại hội XV và XVI, Đảng bộ và nhân dân tỉnh

tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần X, tháng 12/2005, Đại hội Đảng bộ tỉnh

Hà Nam kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, đoàn


Hà Nam lần thứ XVII đã diễn ra. Đại hội đánh giá kết quả đạt được trong

kết cùng nhau thực hiện thắng lợi các chủ trương khôi phục và phát triển làng

nhiệm kỳ trước, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ khái quát để đẩy

nghề. Nhiều làng nghề hiện có được củng cố và mở rộng; một số làng nghề

mạnh sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội. Đối với sản xuất công nghiệp,

mới xuất hiện, phát triển ra địa bàn toàn tỉnh. Các sản phẩm làng nghề đã

TTCN, Đại hội chủ trương: Khuyến khích mạnh các tầng lớp dân cư, các

đóng góp tích cực vào giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp của tỉnh. Trong đó,

thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế để thu hút thêm nhiều lao

một số mặt hàng chủ lực: thêu ren, mây tre đan, nghề dệt có giá trị xuất khẩu

động; tăng cường công tác dạy nghề và dịch vụ việc làm. Đầu tư cơ sở hạ tầng

lớn. Nhờ đó, các làng nghề đã tạo ra được nhiều việc làm tại chỗ cho nông

nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, giao thông nông thôn, các

dân, phát triển kinh tế địa phương, bước đầu làm thay đổi cơ cấu lao động

công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử dụng lao động… Đồng thời, mở


nông thôn theo hướng: giảm tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp, tăng tỷ

rộng phát triển làng nghề, xã nghề, phố nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ…

trọng lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ. Có thể nói, bộ mặt làng

[10]

nghề ngày càng thay đổi, người dân làng nghề hướng tới cuộc sống ấm no,

Quán triệt tinh thần Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 7/7/2006 của
Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn và để góp phần thực hiện

giàu có.
Tuy nhiên, trên một số mặt vẫn còn tồn tại những điểm yếu kém. Các

thắng lợi Nghị quyết Đại hội XVII Đảng bộ tỉnh Hà Nam, tháng 11/2006, Uỷ

ngành nghề ở nông thôn còn phát triển tự phát, manh mún; sản phẩm, hàng

ban nhân dân tỉnh Hà Nam xây dựng Đề án “Phát triển làng nghề tỉnh Hà

hoá chưa có sức cạnh tranh cao. Cơ sở hạ tầng, vốn, nguồn nguyên liệu, mặt

Nam giai đoạn 2006 - 2010” với những mục tiêu cụ thể: Tốc độ tăng trưởng

bằng sản xuất của các làng nghề còn thiếu nên cản trở việc sản xuất, kinh

bình quân 5 năm (2006 - 2010) của làng nghề TTCN là 15,61%; giá trị xuất


doanh. Lực lượng lao động có nhiều độ tuổi khác nhau nên gặp nhiều khó

khẩu hàng TTCN trong các làng nghề đạt 15 triệu USD; giải quyết cho 15.000

khăn trong việc tiếp thu công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề. Trong khi đó,

lao động trên địa bàn có việc làm mới; đến năm 2010, mỗi xã có ít nhất một

các cơ chế, chính sách phát triển làng nghề chưa đồng bộ; nguồn lực hỗ trợ

làng có nghề; Xây dựng hoàn chỉnh 5 cụm TTCN - làng nghề. Đề án đưa ra

còn hạn chế, chưa trở thành động lực cho phát triển làng nghề.

những nhiệm vụ trọng tâm là: Phải phát triển sản xuất với tốc độ cao, bền

Trước những khó khăn trên, Đảng bộ tỉnh Hà Nam đã vận dụng sáng

vững, đặc biệt là tạo sự chuyển biến mạnh về chất lượng, hiệu quả và nâng

tạo chủ trương của Đảng về phát triển ngành nghề nông thôn, đưa ra những

cao sức cạnh tranh của các sản phẩm TTCN, làng nghề; đồng thời xử lý tốt

quyết sách phù hợp với tình hình địa phương, làm nền tảng thúc đẩy kinh tế

vấn đề môi trường tại các làng nghề để các làng nghề phát triển bền vững.
Trên cơ sở đó, đề án vạch ra các giải pháp cụ thể để thực hiện đó là: Tiếp tục

45


46


đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thực hiện các Nghị quyết của Đảng, nhất là
Nghị quyết 08 của Tỉnh uỷ về phát triển CN - TTCN; Hoàn thiện hệ thống
chính sách khuyến khích phát triển CN - TTCN cho đồng bộ; Đầu tư hoàn
chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng ở các điểm cụm TTCN - làng nghề; Huy động
vốn từ các nguồn khác nhau, thông qua các chương trình, dự án, chính sách
khuyến khích để dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh, huy động vốn tín dụng,
nghiên cứu thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho các hộ và cơ
sở sản xuất của làng nghề vay vốn đầu tư. Đặc biệt, đề án mở ra một hướng đi

1. Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách pháp luật
của Nhà nước; các quy định của Tỉnh và địa phương;
2. Về kinh tế, có giá trị sản xuất TTCN chiếm tỷ trọng trên 20% so với
tổng giá trị của làng;
3. Về sử dụng lao động, số lao động làm các nghề TTCN đạt trên 20%
số lao động của làng;
4. Đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các quy định
hiện hành.

mới cho các làng nghề thủ công là phát triển mô hình du lịch - làng nghề, kết

Những chủ trương trên đã có tác động tích cực đến sự phát triển của các

hợp điểm du lịch tại các làng nghề với các tua du lịch như: Điểm du lịch làng

làng nghề thủ công. Cùng với sự khôi phục của một số làng nghề thủ công


nghề thêu Thanh Hà; điểm du lịch làng nghề trống Đọi Tam kết hợp với du

truyền thống là sự xuất hiện của một số ngành nghề mới như khảm vở trứng,

lịch Long Đọi Sơn; điểm du lịch làng nghề dệt Nha Xá với du lịch đến Lảnh

đan bèo, bẹ chuối, đính hạt cườm, ghép nứa sơn mài… Số lượng làng nghề

Giang, đền Trần Thương; điểm du lịch làng nghề dệt Hoà Hậu với khu tưởng

tăng lên nhanh chóng, từ 51 làng nghề (năm 2005), tăng lên 163 làng nghề

niệm nhà văn Nam Cao; du lịch Ngũ Động Sơn - chùa Bà Đanh với làng gốm

(năm 2010). Mục tiêu mỗi xã có ít nhất một làng nghề được thực hiện.

Quyết Thành…[76] Có thể nói, “Đề án phát triển làng nghề tỉnh Hà Nam

Tiếp tục quán triệt những quan điểm cơ bản của Đảng và đường lối của

giai đoạn 2006 - 2010” là một “cú huých” đáng kể nhất cho sự phát triển

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, cụ thể hoá những vấn đề nông nghiệp,

làng nghề tỉnh Hà Nam. Ngày 13/12/2006, UBND tỉnh Hà Nam ra Quyết định

phát triển nông thôn… Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XVIII

số 1280/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án phát triển làng nghề tỉnh Hà Nam


(tháng 10/2010) đã đề ra mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu đến năm 2015: Giá trị

giai đoạn 2006 - 2010.

sản xuất TTCN - làng nghề tăng bình quân 18,5%. Đến năm 2015, giá trị sản

Để thực hiện tốt các mục tiêu trong Đề án phát triển làng nghề giai đoạn

xuất TTCN - làng nghề đạt 3.746 tỷ đồng, chiếm 17% tổng giá trị sản xuất

2006- 2010, UBND tỉnh ra Quyết định 418/QĐ-UBND ngày 13/4/2007 về

công nghiệp toàn ngành. Để đạt được mục tiêu trên, Đại hội xác định: Khôi

tiêu chuẩn làng có nghề TTCN tỉnh Hà Nam và Quyết định 1421/QĐ-UBND

phục làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề mới, mở mang thêm nhiều

ngày 16/11/2007 v/v quy hoạch mạng lưới các khu công nghiệp, cụm CN-

ngành nghề mới, tập trung đầu tư phát triển các làng nghề hiện đang có thị

TTCN làng nghề xã, thị trấn tỉnh Hà Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm

trường và lợi thế, đặc biệt quan tâm các làng nghề ở các địa phương thuần

2015.

nông là một trong những phương hướng phát triển làng nghề tỉnh Hà Nam,


Tiếp đến ngày 12/4/2010, UBND tỉnh ra Quyết định số 09/2010/QĐ -

khuyến khích phát triển hộ nghề, xã nghề, cụm TTCN - làng nghề ở các xã gắn

UBND về việc ban hành quy chế xét công nhận làng nghề thay thế cho Quyết

với việc hình thành các cụm TTCN - làng nghề ở cấp huyện, tổ chức liên kết với

định 418 với các tiêu chí cụ thể sau:

các nhà máy chế biến, các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ thương mại, đưa
47

48


×