Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 1991-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.37 KB, 107 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





NGUYỄN THỊ HÔ
̀
NG




ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
GIAI ĐOẠN 1991 - 2008




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ






HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ HÔ
̀
NG



ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
GIAI ĐOẠN 1991 - 2008

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LÊ VĂN THỊNH




HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Bố cục của luận văn 8
Chương 1 ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1995 9
1.1 Quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân và tình hình kinh tế tư nhân
ở tỉnh Hà Tây trước năm 1991 9
1.1.1. Quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân 9
1.1.2 Tình hình kinh tế tư nhân ở tỉnh Hà Tây trước năm 1991 17
1.2 Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân từ năm 1991
đến năm 1995 22
1.2.1 Chủ trương chung của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ Hà Tây 22
1.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện 30
Tiểu kết chương 1 37
Chương 2 ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN TỪ NĂM 1996 TỪ NĂM 2008 39
2.1 Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân từ năm 1996 đến
năm 2000 39
2.1.1 Chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ Hà Tây 39
2.1.2 Quá trình tổ chức thực hiện 44
2.2 Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân từ năm 2000 đến
năm 2008 49
2.2.1 Chủ trương của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ Hà Tây 49
2.2.2 Quá trình tổ chức thực hiện 56
Tiểu kết chương 2 69

Chương 3 MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 72
3.1 Một vài nhận xét 72
3.1.1 Những thành tựu chính 72
3.1.2. Một vài hạn chế 77
3.2 Một số kinh nghiệm chủ yếu 82
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93



DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.2. Vốn đầu tư phát triển theo giá thực tế phân theo 35
thành phần kinh tế của tỉnh Hà Tây thời kỳ 1991-1996 35
Bảng 2.1. Số cơ sở kinh tế tư nhân ở Hà Tây giai đoạn 1996-2000 45
Bảng 2.2. GDP phân theo thành phần kinh tế 46
Bảng 2.3. Thu ngân sách Nhà nước 47
Bảng 2.4. Vốn đầu tư phát triển theo giá thực tế phân theo 61
thành phần kinh tế thời kỳ 2001-2006 61
Bảng 2.5. Lao động xã hội đang làm việc và lao động 63
được sắp xếp việc làm hàng năm từ 2001 - 2006 63
Bảng 2.6. GDP phân theo thành phần kinh tế 65
Bảng 2.7. Thu ngân sách Nhà nước 66
Bảng 2.8. Cơ cấu GDP trên địa bàn tỉnh 68

1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam, có phần đóng góp quan

trọng của thành phần kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân hiện nay được coi là một
trong những động lực chủ yếu để phát triển nền kinh tế. Ở Việt Nam thực tế
cho thấy những năm qua phát triển kinh tế tư nhân có nhiều tác dụng: tạo ra
động lực cho sản xuất kinh doanh,duy trì cạnh tranh giúp nền kinh tế trở nên
năng động hơn, đa dạng hoá các chủ thể tham gia thị trường mà còn góp phần
khai thác và sử dụng có hiệu qủa nguồn lao động xã hội.Thêm vào đó kinh tế tư
nhân gắn với sở hữu tư nhân nên có thể truyền lại cho thế hệ sau tài sản,kiến
thức, kinh nghiệm, từ đó tạo động lực phát triển kinh tế không ngừng.
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán
của Đảng ta. Điều này thể hiện ở chỗ, Thứ nhất :Với trình độ phát triển như
hiện nay của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của kinh tế tư nhân vẫn
là nhu cầu khách quan. Thứ hai, kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục chứng tỏ
vai trò động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.Thứ
ba: sự phát triển của kinh tế tư nhân chỉ phát triển đúng hướng khi Đảng và
Nhà nước có chính sách và biện pháp quản lý phù hợp, không làm mất động
lực phát triển của nó, nhưng cũng không để nó vận động một cách tự phát.
Kinh tế tư nhân thực sự trở thành yếu tố năng động hoá nền kinh tế, là
một động lực khởi động và thức đẩy sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
quá trình đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa
nền kinh tế mang tính tự cấp, tự túc thành nền kinh tế kinh tế hang hóa nhiều
thành phần. sử dụng kết hợp các nguồn lực bên trong với các nguồn lực bên

2
ngoài nhắm tạo sức mạnh tổng hợp đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh
chóng và bền vững.
Nhằm tạo điều kiện phát triển hơn nữa thành phần kinh tế tư nhân,
Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) khẳng đinh: “thực hiện nhất quán

chính sách phát triển kinh tế nhiêù thành phần. Các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Tuy nhiên để kinh tế tư nhân ngày càng phát triển mạnh dưới sự lãnh
đạo của Đảng, có nhiều vấn đề cần tiếp tục được bổ sung và đổi mới. Nghiên
cứu sự lãnh đạo của Đảng đối với thành phần kinh tế này để thấy được sự tồn
tại chủ yếu của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay, nhằm đánh giá đúng vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong cách mạng
XHCN, tìm hướng phát triẻn. Khắc phục hạn chế để kinh tế tư nhân tham gia
hiệu quả vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đang là
yêu cầu cần thiết cả về thực tiễn và lý luận.
Hà Tây kể từ sau khi tách tỉnh (năm 1991) đã trở thành một trong
những tỉnh thành có sự phát triển kinh tế năng động trong cả nước. Sau năm
1991 kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh có những bước phát triển tích cực, nhất
là sau khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ năm 2000 đến nay. Kinh tế tư
nhân trong các ngành, các lĩnh vực trên địa bàn tỉnh đã đóng góp đáng kể vào
sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh như: giải quyết việc làm cho người lao
động, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập nhằm cải thiện đời sống người lao
động, huy động vốn cho đầu tư phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Hà Tây.
Tuy nhiên do đặc thù tỉnh vừa mới thành lập, kinh tế tư nhân trên địa

3
bàn tỉnh còn có những hạn chế nhất định như:quy mô sản xuất kinh doanh còn
nhỏ bé, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu, việc đổi mới công nghệ còn
chậm.Vấn đề quản lý nhà nước, các cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước
còn thiếu nhất quán. Kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế tư nhân

còn nhiều yếu kém…
Do đó, cần phải nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về đường
lối chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về thực trạng kinh tế tư nhân của
địa phương để từ đó có những giải pháp đồng bộ khuyến khích kinh tế tư
nhân phát triển đúng hướng ở Hà Tây, thúc đẩy kinh tế- xã hội trên địa bàn
tỉnh phát triển. Chính vì vậy,vấn đề : “Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát
triển kinh tế tư nhân giai đoạn 1991-2008” được chọn làm đề tài nghiên
cứu của Luận văn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử ra đời và phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với sự phát triển
của nền sản xuất hàng hóa và nền kinh tế thị trường. Trên thế giới, tùy theo
đặc điểm, hoàn cảnh của từng nước, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu
về kinh tế tư nhân rất phong phú, đa dạng. Từ thập niên 1990 đến nay, ở các
nước có nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung sang cơ chế kinh tế
thị trường như : Trung Quốc, Nga, các nước Trung và Đông Âu, đã có nhiều
công trình nghiên cứu sâu về kinh tế tư nhân.
Ở nước ta, từ Đại hội VI của Đảng để ra đường lối đổi mới, đã có nhiều
tác giả nghiên cứu về kinh tế tư nhân với những góc độ và phạm vi khác nhau,
theo như thống kê, đã có hơn 200 đầu sách, bài viết, các đề tài nghiên cứu, hơn
60 văn bản pháp lý và nhiều văn kiện của Đảng về kinh tế tư nhân hoặc có liên
quan đến thành phần kinh tế tư nhân, nhưng chủ yếu trên phương diện kinh tế
học. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu có liên quan đến vấn đề như:
Trong cuốn : “Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư
nhân ở nước ta”(2003, Nxb CTQG) do GS.TS Hồ Văn Vĩnh chủ biên, không

4
chỉ khẳng định vai trò to lớn của KTTN và phân tích thực trạng hoạt động của
khu vực kinh tế tư nhân mà còn phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với
khu vực KTTN.Tù đó nhóm tác giả nêu ra những định hương phát triển kinh
tế tư nhân và những giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước đối với

KTTN ở nước ta như;định hướng chiến lược phát triển KTTN: tiếp tục đổi
mới pháp luật và các chính sách đối với KTTN: Tăng cường chức năng tổ
chức của hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế đối với KTTN.
Cuốn : “Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới-thực trạng
và những vấn đề đặt ra”(Nxb Khoa học xã hội,Hà Nội,2005) của tác giả Đinh
Thị Thơm là một ấn phẩm thu thập và hệ thống các bài viết, phân tích, đánh
giá, và những giải pháp đúc kết trong những công trình, bài viết của nhóm 9
tác giả nghiên cứu về những vấn đề lỳ luận, thực tiễn phát triển và hạn chế
cũng như triển vọng phát triển của khu vực KTTN.
Cuốn :“Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội” (2004,Nxb CTQG) của tác
giả TS.Nguyễn Minh Phong, Viện nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Hà
Nội đã nêu lên những kinh nghiệm quốc tế của một số nước như Nhật Bản,
Trung Quốc, các nước đang phát triển khác ở Châu Á, các nước có nền kinh
tế đang chuyển đổi ở Đông Âu trong qua trình phat triển kinh tế tư nhân.Tác
giả cuốn sách còn làm rõ quá trình phát triển KTTN ở Việt Nam, đồng thời
phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong phát triển KTTN ở Hà Nội,
đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu phát triển KTTN ở Hà Nội
trong thời gian tới.Bên cạnh đó tác giả cũng đưa ra những kiến nghị một số
vấn đề cụ thể đối với Chính phủ,các Bộ, ngành và thành phố Hà Nội nhằm
thúc đẩy phát triển KTTN ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Đề tài cấp nhà nước hoàn thành năm 1993 do PGS.TS.Hoàng Kim Giao
làm chủ nhiệm.”Phát triển và quản lý kinh tế ngoài quốc doanh” . Đề tài tiến
hành điều tra trên 100 doanh nghiệp tư nhân tại 16 tỉnh thành phố khắp cả
nước.Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Trần Thị Hạnh năm 1994: “Về việc phát

5
triển khu vực Kinh tế tư nhân trong giai đoạn hiện nay”.Luận án PTS Khoa
học Lịch sử của Hồ Sỹ Lộc “Kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ 1986 đến
1995”.Nguyễn Thanh Tuyền với “Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong
giai đoạn CNH,HĐH(Nxb CTQG Hà Nội,2002). “Thành phần kinh tế cá thể,

tiểu chủ và tư bản tư nhân-lý luận và chính sách” (TS.Hà Huy Thành chủ
biên,Nxb CTQG, Hà Nội,2002.
Ngoài ra, luận văn còn tham khảo một số tạp chí, luận văn, luận án
nghiên cứu về kinh tế tư nhân ở các Bộ, ngành địa phương, những đánh giá,
bình luận trên báo chí, các phương tiện nghe nhìn…
Tất cả các công trình, đề tài trên đây đều nghiên cứu về KTTN theo
nhiều góc độ khác nhau.Tuy nhiên nghiên cứu trên phương diện về vấn đề
Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân,nhất là kinh tế tư nhân trên địa bàn
một địa phương không nhiều.Những công trình đã xuất bản, các đề tài, luận
văn đã công bố, hầu như là những nghiên cứu tổng thể, ở tầm vĩ mô, hoặc
nghiên cứu một vài khía cạnh của kinh tế nông thôn ở tầm quốc gia, khu vực
chứ chưa có sự nghiên cứu riêng về một địa phương, việc áp dụng đường lối,
chủ trương của Đảng vào một địa phương cụ thể.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh
tế tư nhân từ năm 1991 đến năm 2008, từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, góp phần thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cúu
Làm rõ đường lối chủ trương chính sách của Đảng đối với sự phát triển
kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây những năm từ năm 1991 đến năm
2008,Chỉ ra những thành tựu và hạn chế của kinh tế tư nhân của tỉnh Hà
Tây.Góp phần bổ sung kiến thức về kinh tế tư nhân nói chung và kinh tế tư
nhân trên địa bàn Hà Tây nói riêng.

6
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung vào việc hệ thống hoá đường lối,chủ trương phát
triển kinh tê tư nhân của Đảng và sự lãnh đạo ,chỉ đạo thành phần kinh tế tư
nhân của Đảng bộ Hà Tây trên địa bàn tỉnh.

Làm rõ quá trình phát triển kinh tế tư nhân ở tỉnh Hà Tây dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ trong những năm từ năm 1991 đến năm 2008 và khái quát
những thành tụư, hạn chế của thành phần này trong khoảng thời gian trên.
Rút ra kinh nghiệm chủ yếu về sự lãnh đạo của Đảng bộ trong quá trình
lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những chủ trương của Đảng về phát
triển kinh tế tư nhân, và sự vận dụng của Đảng bộ Hà Tây cũng như quá trình
tổ chức thực hiện trên địa bàn tỉnh.
4.2 Phạm vi nghiên cứu.
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần.Kinh tế tư nhân bao gồm: kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân.Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, đề tài giới hạn
nghiên cứu các loại hình doanh nghiệp tư nhân (chủ yếu là các công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn) trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
Về thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng bộ Hà Tây về kinh tế tư nhân từ năm 1991 đến năm 2008. Chọn
mốc nghiên cứu từ năm 1991 vì đây là mốc thời gian Hà Tây được tách khỏi
Hà Nội, đây cũng là mốc thời gian Đại hội Đảng lần thứ VII chủ trương tiếp
tục đường lối đổi mới toàn diện của đại hội VI, trong đó có chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhất là kinh tế tư nhân. Chọn
mốc thời gian kết thúc là năm 2008 bởi vì đây là mốc thời gian Hà Tây sát
nhập về Hà Nội.

7
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1 Phương pháp nghiên cứu
Cùng với những phương pháp nghiên cứu cơ bản (phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử) đề tài còn được thực hiện bởi các phương

pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp… để nghiên cứu về kinh tế tư nhân ở Hà Tây giai đoạn 1991-2008.Ngoài
ra còn sử dụng các phương pháp khác nhau như thống kê, lịch đại, đồng đại.
5.2 Nguồn tài liệu
Nguồn tư liệu chủ yếu luận văn bao gồm:
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin liên quan đến sở hữu
tư nhân và kinh tế tư nhân.
Các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các Báo cáo của Đảng bộ về chủ
trương, đường lối, chính sách đối với kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây
trong thời gian từ 1991 đến 2008.
Niên giám thống kê, báo cáo thống kê của các Sở ban ngành có liên
quan từ năm 1991 đến năm 2008.
Các công trình như luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài viết trên
báo, tạp chí…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn hy vọng có những đóng góp vào việc hệ thống hoá quan
điểm, đường lối của Đảng bộ tỉnh Hà Tây về phát triển kinh tế tư nhân ở trên
địa bàn tỉnh và làm sáng tỏ một số vấn đề sau:
Phác hoạ những quan điểm,chủ trương của Đảng bộ Tỉnh Hà Tây về
vấn đề phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh.
Hệ thống hoá tư liệu và nêu lên một cách có hệ thống thực trạng phát
triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
Đưa ra một số nhận xét khái quát, nêu lên những thành tựu, hạn chế của
kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Hà Tây từ năm 1991 đến năm 2008, rút ra bài

8
học kinh nghiệm và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công
tác lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân của địa phương trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung của

luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế tư nhân từ năm
1991- 1995
Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế từ năm
1996- 2008
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm






9
Chương 1
ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 1995

1.1 Quan niệm của Đảng về kinh tế tư nhân và tình hình kinh tế tư nhân
ở tỉnh Hà Tây trước năm 1991
1.1.1. Quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần. Ở các nước theo nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân
được coi là một trong những động lực chủ yếu để phát triển kinh tế tư nhân.
Phát triển kinh tế tư nhân có nhiều tác dụng :tạo ra động lực cho sản xuất kinh
doanh, duy trì cạnh tranh giúp nền kinh tế trở nên năng động hơn, đa dạng hóa
các chủ thể tham gia thị trường, góp phần khai thác và sử dụng một cách có
hiệu quả nguồn lao động xã hội… Kinh tế tư nhân gắn với sở hữu tư nhân nên
có thể truyền lại cho thế hệ sau tài sản, kiến thức, kinh nghiệm, từ đó tạo ra
động lực phát triển kinh tế không ngừng.
Kinh tế tư nhân có vị trí và tác dụng như vậy, nhưng ở nước ta, có lúc

do nôn nóng, chúng ta đã vội cải tạo và muốn xóa bỏ nó trong một thời gian
ngắn. nên kinh tế tư nhân đã trải qua nhiều nước thăng trầm. Từ khi có nhận
thức mới của Đảng ta về nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ, thì kinh tế tư nhân đã được thừa nhận, và trên thực tế, thành phần kinh
tế này đã có nhiều đóng góp to lớn cho nền kinh tế của đất nước nhất là trong
thời gian gần đây.
Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, thuật ngữ “kinh
tế tư nhân” chưa được sử dụng mặc dù các ông nghiên cứu rất nhiều về chế độ
tư hữu, về kinh tế cá thể, về sản xuất tư bản tư nhân, về kinh tế nông dân kiểu
gia trưởng, về sản xuất hàng hóa nhỏ, chủ nghĩa tư bản tư nhân, thương nghiệp
tư nhân v.v…Tuy sử dụng bằng các ngôn từ khác nhau song có thể hiểu KTTN

10
dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ở các mức độ khác
nhau.C.Mác cho rằng : “Chế độ tư hữu, với tư cách là cái đối lập với chế độ sở
hữu xã hội và tập thể, chỉ tồn tại ở nơi nào… mà những điều kiện bên ngoài của
lao động là của tư nhân.Nhưng hình thưc của chế độ tư hữu thay đôi tùy theo
những tư nhân ấy là người lao động hoặc người không lao động”.
Như vậy, cơ sở của KTTN là chế độ tư hữu tư liệu sản xuất đúng như
lời của Mác: “Nền kinh tế cá thể, kết quả của chế độ sở hữu tư nhân”. Chế độ
tư hữu không thể tách rời việc cá nhân kinh doanh và cạnh tranh,đó cũng là
đặc trưng của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân gắn liền với vấn đề sở hữu. Sở
hữu là quan hệ giữa con người và con người, trong quá trình sản xuất, phản
ánh quá trình chiếm hữu của cải vật chất mà sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định. Nó là mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, vận động và biến đổi
cùng với hệ thống kinh tế - xã hội.
Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế tư nhân cho thấy, hình thức điều
tiết tự nhiên của các hoạt động kinh tế tư nhân là cơ chế thị trường. Cơ chế thị
trường hiện đại là dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân mà điển hình là mô
hình tổ chức doanh nghiệp - sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị trường - tự nó

lớn lên trong cơ chế thị trường nên nó có một sức sống mạnh mẽ. Ngược lại,
bất kỳ một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trường đều phải thừa
nhận và khuyến khích mô hình tổ chức doanh nghiệp của kinh tế tư nhân như
là một tự nhiên.
Ở nước ta, tư duy về vị trí , vai trò của kinh tế tư nhân gắn liền với quá
trình đổi mới cũng là quá trình Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội không phải là quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Từ chỗ là một khu vực kinh tế phải “cải tạo” đến được
công nhận (nghị quyết Trung ương 6 khóa VI ngày 29/3/1989, chính thức sử

11
dụng khái niệm kinh tế tư nhân) được khuyến khích phát triển, được xem là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân và khẳng định
phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa; được xác định rõ vị trí
góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát
triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước
trong hội nhập kinh tế quốc tế (Nghị quyết trung ương 5 khóa 9 tháng
3/2002). Đại hội X của Đảng (4/2006) đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân có vai
trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Nhấn mạnh:
“các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định huớng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng
trước pháp luật , cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”.
Về chỉ đạo, Đại hội X quyết định: “Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể
và các loại hình doanh nghiệp tư nhân”. Đồng thời xóa bỏ mọi rào cản, tạo
tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi của các loại hình doanh
nghiệp của tư nhân) phát triển không hạn chế qui mô trong mọi ngành nghề,
lĩnh vực , kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế

mà pháp luật không cấm”; Về đối tượng tham gia vào khu vực kinh tế tư
nhân, đã mở rộng hơn: “Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu
tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp
luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ sở,
nguồn lực kinh doanh, thông tin và nhận thông tin”. Về chính sách phát huy
các nguồn lực, Đại hội X chủ trương : “khuyến khích phát triển các doanh
nghiệp lớn của tư nhân , các tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với
hình thức cổ phần”.
Trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986), khu
vực kinh tế tư nhân là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa, không được pháp
luật bảo vệ và khuyến khích phát triển. Nhưng vì khu vực kinh tế quốc doanh

12
và kinh tế tập thể không đủ thỏa mãn nhu cầu mọi mặt của đời sống kinh tế-xã
hội của đất nước, nên khu vực kinh tế tư nhân còn cần thiết cho nền kinh tế, vì
vậy vẫn âm thầm tồn tại dưới dạng kinh tế phụ gia đình (của các hộ cán bộ
công nhân viên nhà nước và các hộ xã viên hợp tác xã). Các tổ hợp tác, tổ hợp
sản xuất núp bóng doanh nghiệp nhà nước hoặc hợp tác xã (thực chất là
những loại hình kinh tế tư nhân khác nhau) để hoạt động vì lợi ích dân sinh.
Tuy mức độ và phạm vi hoạt động còn hạn chế nhưng các hình thức kinh tế tư
nhân cũng đã thực sự góp phần tăng thu nhập, cải thiện đáng kể đời sống cho
một bộ phận lớn cán bộ, công nhân viên, xã viên các hợp tác xã, giảm bớt
căng thẳng cho nền kinh tế thời bây giờ.
Một vấn đề đặt ra là cần xem xét lại vị trí, thực chất và mối quan hệ của
các thành phần kinh tế này để có những quyết sách phù hợp hơn trong nhiệm
vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI (1986) đã ghi vào văn
kiện: “Trong nhận thức cũng như trong hoạt động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời
gian tương đối dài, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp

giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất”, do đó “đã
có những biểu hiện nôn nóng muốn xóa bỏ ngay các thành phần phi xã hội
chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư nhân thành quốc doanh”.[19, 46]
Có thể nói, tư tưởng đổi mới đã manh nha từ Hội nghị TU lần thứ 6
(khóa IV, 1979), khi Đảng ta thấy được những trở ngại, khó khăn, lực cản của
cơ chế cũ đối với sự tăng trưởng kinh tế và tới việc nâng cao mức sống của
nhân dân. Nhưng lúc đó, chủ yếu mới là đổi mới trong sự kiểm điểm, trong
những mong muốn, những bước thử nghiệm vạch lối tìm đường.
Đến Đại hội VI của Đảng, việc phát triển kinh tế tư nhân mới chính
thức được chấp nhận, và được khuyến khích đầu tư phát triển thông qua các
chính sách được ban hành tiếp theo. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời nhìn

13
nhận, đánh giá lại và chấp nhận sự phát triển của kinh tế tư nhân như một tất
yếu khách quan, kịp với xu thế chung của khu vực và thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng trí tuệ và quyết tâm của Đại hội VI đã
quyết định đổi mới nền kinh tế của đất nước. Công cuộc đổi mới này nhằm
đưa nền kinh tế của đất nước. Công cuộc đổi mới này nhằm đưa nền kinh tế
thoát khỏi tình trạng suy thoái, bế tắc và khủng hoảng. Thực chất của sự đổi
mới kinh tế là sự chuyển kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội. Nội dung của công cuộc đổi mới kinh tế
là thừa nhận một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, khôi phục và cho phép các
thành phần kinh tế. Đại hội đã chỉ ra sai lầm trong việc xóa bỏ thành phần
kinh tế tư bản chủ nghĩa và các thành phần kinh tế là một nội dung trọng tâm
của đổi mới kinh tế. Đảng ta chấp nhận quy luật tăng thêm giá trị, vận dụng
nó trong một nền kinh tế thị trường, là một tiến trình kinh mà trong đó có sự
xuất hiện sống động của kinh tế tư nhân.
Đại hội lần thứ VI của Đảng là mốc son lịch sử đánh dấu nước ta bước
vào thời kỳ đổi mới, trong có đổi mới đương lối phát triển kinh tế được coi là
nhiệm vụ quan trọng nhất. Đảng ta đã “ xuất phát từ thực tế nước ta và sự vận

dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ” để nhìn nhận, đánh giá vai trò, vị trí của thành phần
kinh tế, nghiên cứu khái quát những chủ trương cải tạo và sử dụng thành phần
kinh tế này nhằm phát huy tiềm năng sức mạnh to lớn của nó trong nền kinh
tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
Đây là sự đổi mới từ quan niệm, đổi mới tư duy. Bước đổi mới tư duy
chiến lược này đã làm thay đổi hẳn diện mạo của nền kinh tế của đất nước, cải
thiện rất nhanh chóng đời sống của nhân dân. Từ sự đột phá từ tư tưởng của Đại
VI, Đảng ta có những bước đi vững chắc về đường lối, nhận thức, gắn lý luận với
thực tiễn, xây dựng lý luận từ chính cơ sở lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác-
Lênin, có xem xét, so sánh, chọn lọc những giá trị thiết thực của lý luận trước đó.

14
Trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân, trong những năm gần đây, đã
phát triển mạnh mẽ với sức sống mãnh liệt, thể hiện nhiều ưu thế, vị thế gia
tăng, ngày càng trở thành động lực phát triển của đất nước và hội nhập kinh tế
quốc tế. Kinh tế tư nhân trên phạm vi cả nước, năm 2005 đã tạo ra 45,7% tổng
sản phẩm trong nước, đã thú hút gần 91% lực lượng lao động xã hội, tạo 90%
việc làm mới chiếm 32% tổng đầu tư toàn xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, đặc biệt là vấn đề hội nhập nền
kinh tế thế giới đã và đang đặt ra những cơ hội cũng như những thách thức
đối với nền kinh tế Việt Nam.Việt Nam đã và đang có những bước tiến vững
chắc trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hội nhập cùng thế giới bằng việc phát huy nội lực đồng thời tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài thông qua việc phát huy sức mạnh của các thành
phần kinh tế. Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của thành phần
kinh tế tư nhân trong việc phát triển nền kinh tế.Việt Nam đang trong giai
đoạn quá độ lên chủ mghĩa xã hội, việc đổi mới đường lối phát triển kinh tế
xã hội trong thời gian qua đã đem lại cho chúng ta những bước tiến vượt
bậc. Chúng ta chấp nhận mở cửa hội nhập với thế giới, xây dựng đường lối

phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy nội lực
đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để xây dựng và phát triển kinh
tế đất nước. Việc xây dựng đường lối phát triển kinh tế như vậy là sự phù
hợp với thực tế khách quan hiện nay ( phù hợp với điều kiện thực tế của kinh
tế Việt Nam hiện nay và quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra như một điều
tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử) vì vậy đã mang lại cho chúng
ta những thành tựu đáng kể. Trong kết quả chúng ta có hôm nay phải kể đến
sự đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
của khu vực kinh tế tư nhân nhất là sau khi có sự đổi mới đường lối phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nước.

15
Kinh tế tư nhân là một loại hình Kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất, gắn liền với lao động cá nhân người chủ sở hữu và lao động làm
thuê. Kinh tế tư nhân ra đời, tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh
tế xã hội nhất định, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Như vậy bản chất của lọai hình kinh tế này đó là dựa trên sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Người sở hữu tư liệu sản xuất là người chủ và họ luôn có xu
hướng tối đa hóa lợi ích mà mình thu được vì vậy họ phải bóc lột sức lao
động của công nhân làm thuê.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật
phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó.
Trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì chế tạo ra giá trị thặng dư là
quy luật tuyệt đối của nó. Thật vậy giá trị thặng dư, phần giá trị mới dôi ra
ngoài giá trị sức lao động của công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản
chiếm đoạt phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản
– quan hệ bóc lột lao động làm thuê. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa
không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị
lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt
động mỗi nhà tư bản, cũng như toàn bộ xã hội tư bản. Các nhà tư bản luôn

được bộ máy chính quyền tư bản bảo vệ lợi ích nên họ đã tìm đủ mọi cách để
bóc lột giá trị thặng dư như tăng cường độ lao động, kéo dài thời gian lao
động, tăng năng suất lao động… Chủ nghĩa tư bản ngày nay tuy có những
điều chỉnh nhất định về hình thức sỏ hữu,quản lí, phân phối để thích nghi với
điều kiện mới nhưng về bản chất thì không thay đổi. Nhà nước tư bản hiện
nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội nhưng về cơ bản
nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Xét trong điều kiện quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay thì kinh tế tư nhân chịu sự kiểm soát
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nên không còn hoàn toàn giống như
kinh tế tư nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khái niệm kinh tế tư bản tư
nhân chỉ xuất hiện gắn liền với sự hình thành và phát triển phương thức sản

16
xuất tư bản chủ nghĩa. Quá trình đổi mới ở nước ta với sự xuất hiện và phát
triển các loại hình doanh nghiệp của tư nhân không đồng nghĩa với sự xuất
hiện trở lại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản. Các loại
hình doanh nghiệp tư nhân hoạt động theo luật doanh nghiệp ở nước ta, được
hình thành và phát triển trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
chịu sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp đổi
mới, được nhà nứơc khuyến khích và bảo vệ không hoàn toàn do quy luật giá
trị thặng dư chi phối. Hơn nữa các loại hình doanh nghiệp của tư nhân và đội
ngũ doanh nhân ở nước ta được hình thành và phát triển trong điều kiện mới,
không hàm chứa tính chất giai cấp hay bản chất tư bản như dưới xã hội tư bản
điều này được chứng minh là đã có rất nhiều doanh nhân là đảng viên. Các
doanh nghiệp của tư nhân nước ta đại diện cho một lực lựơng sản xuất mới, là
một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá
thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân…
Từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) với sự thay đổi
quan điểm của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân thì khu vực kinh tế tư

nhân đã có sự phát triển rất mạnh mẽ và đã có những đóng góp quan trọng
cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Các chính sách như chính sách
về thuế, đất đai, vốn…Đã khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và làm thay
đổi diện mạo của khu vực kinh tế tư nhân. Sự thay đổi đầu tiên phải nói đến là
số lượng doanh nghiệp được thành lập nhiều và gia tăng với tốc độ cao.
Từ sau đại hội VI kinh tế tư nhân được thừa nhận tồn tại khách quan
lâu dài có lợi cho quốc kế dân sinh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 BCH trung ương khóa IX khẳng định: “ Kinh tế tư
nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát
triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa”.


17
Tuy nhiên trong thời kỳ hiện nay về mặt tâm lý vẫn còn nhiều người
nghi ngờ về tầm quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân, họ vẫn giữ quan
niệm cũ trước đổi mới cho rằng không nên phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế
tư nhân đi liền với sự bóc lột của tư bản, kinh tế tư nhân là một rào cản trong
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Điều này đã tạo nên tâm lý lo
ngại cho một bộ phận không nhỏ trong xã hội và tạo thành một rào cản về mặt
tâm lý trong việc xây dựng phát triển kinh tế tư nhân theo đường lối chủ
trương của Đảng và Nhà nước. Việc Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây
dựng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa là một việc làm đúng đắn, thể hiện tầm nhìn sâu, rộng, xuyên suốt của
Đảng. Việc xây dựng đường lối chủ trương của Đảng đã gắn với thực tế, xuất
phát từ thực tế phù hợp với điều kiện và tình hình phát triển của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế thì nhà nước ta đã khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
trong gần 20 trở lại đây vì sự tồn tại phát triển của kinh tế tư nhân hay phát
triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay là một sự tất yếu khách quan.

1.1.2 Tình hình kinh tế tư nhân ở tỉnh Hà Tây trước năm 1991
Hà Tây là vùng đất cổ được hình thành từ rất sớm cùng với lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, với bề dày lịch sử đấu tranh cách
mạng.Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, những giai đoạn lịch sử đã qua để lại
cho Đảng bộ và nhân dân Hà Tây một di sản tinh thần quý giá, đó là truyền
thống cách mạng kiên cường và những kinh nghiệm lịch sử về phát triển kinh
tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.đây là vùng đất được thiên nhiên ưu
đãi, có vị trí chiến lược quan trọng.
Thực hiện Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII, tháng 9-1991,
tỉnh Hà Tây được tái lập gồm 12 huyện và 2 thị xã. Toàn tỉnh có 324 xã, phường,
thị trấn với diện tích tư nhiên là 2.192,95 km2. Dân số có 2.092.000 người.

18
Ngày 16-9-1991, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa
VII ra Quyết định số 42-QĐ/TW chỉ định Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ.
Ngày 19-9-1991, Tỉnh ủy lâm thời họp hội nghị lần thứ nhất để củng cố, kiện
toàn bộ máy và cán bộ các ban ngành của tỉnh. Ngày 1-10-1991, tỉnh Hà Tây
chính thức bước vào làm việc theo địa giới hành chính của tỉnh.
Như vậy trước năm 1991, Đảng bộ và nhân dân Hà Tây đã trải qua hai
lần nhập và tách tỉnh, hai lần chuyển và nhận một bộ phận địa giới hành chính
tỉnh và dân cư với thành phố Hà Nội. Đó là hai thời kỳ: từ năm 1976 đến
tháng 9 năm 1991 Hà Tây cùng với Hòa Bình là tỉnh Hà Sơn Bình, trong đó
từ năm 1979, 6 huyện, thị xã phía Bắc tỉnh là: Ba Vì, Phúc Thọ, Sơn Tây,
Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức,thị xã Sơn Tây có 12 nhập vào Hà Nội.
Và thời kỳ từ tháng 10 năm 1991 đến năm 2008 là Hà Tây.
Từ năm 1976 đến năm 1991, vùng đất Hà Tây là một bộ phận của tỉnh
Hà Sơn Bình. Những năm đầu bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ
IV của Đảng bộ tỉnh Hà Sơn Bình đã nhấn mạnh “ra sức xây dựng Đảng vững
mạnh , phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao độn, bố trí lại cơ cấu
sản xuất và đầu tư tập trung vào sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng, hàng

xuất khẩu. Ra sức củng cố quan hệ sản xuất mới, đổi mới quản lý kinh tế, xóa
bỏ cơ chế quản lý bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa. Tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất. Coi trọng củng cố cơ sở gắn với tăng cường cấp huyện nhằm
khai thác tốt hơn mọi khả năng sẵn có về đất đai, lao động, nghành nghề của
một tỉnh vừa có đồng bằng vừa có miền núi để ổn định phát triển sản xuất, ổn
định và cải thiện một bước đời sống nhân dân ”
Hội nghị Tỉnh ủy Hà Sơn Bình lần thứ 6 (khóa IV) đã cụ thể hóa những
vấn đề về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp theo Nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị.

19
Từ sau khi có Nghị quyết 10 –NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết
số 08-NQ/TU của Tỉnh ủy, các cấp các ngành đã tổ chức quán triệt và phổ
biến rộng rãi cho nhân dân, đồng thời bàn biện pháp thực hiện.Là tỉnh nông
nghiệp, giai cấp nông dân phấn khởi đón nhận khoán 10 của Đảng. Căn cứ
vào Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 6 (khóa IV), hầu hết các địa phương
giữ nguyên hiện trạng ruộng đất ở các hợp tác xã không xáo trộn mà điều
chỉnh cho phù hợp với quỹ đất.Nhờ có khoán 10 nên tình hình sản xuất nông
nghiệp có nhiều thuận lợi.
Trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngay từ đầu năm
1988, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân đã triển khai thực hiện Quyết định 217-
QĐ/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng cho các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên việc
thực hiện Quyết định 217 của Hội đồng Bộ trưởng trong hai năm 1988-1989
còn nhiều vướng mắc, nhất là vốn lưu động quá ít, việc hạch toán rất khó
khăn do giá cả vật tư, nguyên liệu luôn thay đổi.Việc hướng dẫn của các Bộ
chủ quản lại thiếu thống nhất, chưa đồng bộ nên việc triển khai thực hiện ở
các cơ sở có lúng túng.Mặt khác vốn vay ngân hàng chịu lãi cao nên các xí
nghiệp gặp nhiều khó khăn. Song về cơ bản các thành phần kinh tế đang
chuyển đổi theo hướng hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Sản xuất kinh

doanh bước đầu tiếp cận thị trường. Người lao động và người quản lý đã quan
tâm đến hiệu quả kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hóa địa phương phat
triển đa dạng phong phú hơn, góp phần đưa kinh tế tư nhân sau này trở thành
một trong những động lực thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.
Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của Đảng, 10 năm đầu
(1976-1986), Đảng bộ tỉnh lãnh đạo nhân dân xây dựng và phát triển kinh tế
xã hội theo cơ chế tập trung và phát triển kinh tế xã hội theo cơ chế tập trung
bao cấp, từ năm 1987 là thực hiện đường lối đổi mới cơ chế quản lý với cơ
chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đại hội Đảng toàn quốc
lần thức VI khởi xướng. Hai thời kỳ bao cấp và đổi mới cơ chế quản lý kinh

20
tế có đặc trưng rất khác nhau trong sự lãnh đạo, tổ chức xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội, song đều chung bối cảnh là một tỉnh nông nghiệp, kinh tế
chậm phát triển, trình độ sản xuất thấp kém.?JM vc
Mười năm đầu, nhân dân Hà Tây cũng như cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội với biết bao khó khăn thử thách do hậu quả của chiến tranh để lại, do thiên
tai lũ lụt xẩy ra liên tiếp nhất là trong những năm 1977,1978,1980,1984 và
1985. Bên cạnh đó, lại phải chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Nam và
các hải đảo cho đến những năm cuối thập kỷ XX. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là Mỹ tiến hành bao vây cấm vận. Các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Châu Âu lâm vào cuộc khủng hoảng và sụp đổ.Các thế lực phản động ra sức
chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Khó khăn là vậy nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ nhân dân đoàn
kết một lòng cùng các dân tộc trong tỉnh vượt qua thử thách để thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội do các kỳ Đại hội Đảng đề ra.
Trong những năm thực hiện cơ chế bao cấp (1975-1985) vùng đất Hà
Tây dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Sơn Bình tập trung cao độ trên lĩnh
vực kinh tế nông nghiệp, lấy sản xuất lương thực làm nhiệm vụ trung tâm,
nhất là từ khi Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra 3 chương trình kinh

tế là : lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng.
Những năm 1975-1986 sản xuất nông nghiệp luôn gặp thiên tai bão
lũ.Tỉnh ủy tập trung lãnh đạo công tác thủy lợi, chú trọng xây dựng các công
trình có sức tiêu úng lớn, đưa giống lúa mới có năng suất cao, đưa vụ đông trở
thành vụ chính, sáng tạo kỹ thuật trồng khoai tây và làm ngô bầu trồng trên
nền đất ướt, tất cả đều tập trung vào mũi nhọn sản xuất lương thực thực phẩm,
đảm bảo đời sống nhân dân và cung cấp lương thực thực phẩm cho công
trường thủy điện Hòa Bình. Chỉ từ khi thực hiện 3 chương trình kinh tế của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI với Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ban
hành tháng 4 năm 1988, thì sản lượng lương thực, thực phẩm và sản xuất thủ
công nghiệp trên địa bàn mới thực sự phát triển.

×