Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN - VẤN đề QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội, bỏ QUA tư bản CHỦ NGHĨA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.07 KB, 29 trang )

vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t
bản chủ nghĩa ở việt nam hiện nay
Mở đầu
Đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan theo đúng quy luật
tiến hoá của lịch sử. Tuy nhiên, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nớc kinh tế
kém phát triển nh nớc ta là quá trình phấn đấu đầy khó khăn gian khổ, cha có
tiền lệ trong lịch sử, song Đảng cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam vẫn
kiên định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội trong suốt hơn 70 năm qua. Trong
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX đã xác
định: Con đờng đi lên của nớc ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa1.
Nh vậy, Đảng ta một lần nữa khẳng định rằng, để đi lên chủ nghĩa xã
hội nớc ta nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ. Điều đó hoàn toàn đúng
với nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam.
Sự khẳng định này là hết sức cần thiết, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi
mà đất nớc ta cùng với nhân loại bớc vào thế kỷ XXI, trên thế giới có những
diễn biến rất nhanh chóng và phức tạp, trong nớc chúng ta cũng đang đứng trớc nhiều nguy cơ và thách thức mới.
Vấn đề con đờng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đã đợc rất nhiều nhà
khoa học, các công trình nghiên cứu, đề cập làm sáng tỏ tính khoa học của
vấn đề nêu trên. Bởi vậy, bản thân với nhận thức còn hạn chế, song cũng muốn
góp một phần nhỏ làm rõ thêm vấn đề con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Nội dung
I. Tính quy luật của việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế- xã hội
trong sự phát triển của lịch sử.
1. Tính quy luật chung sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội là
một quá trình lịch sử tự nhiên.
Với sự ra đời của học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội, chủ nghĩa duy
vật lịch sử đã vạch ra thực chất sự tồn tại và phát triển của các xã hội trong kết
cấu khách quan của chúng. Học thuyết của Mác về hình thái kinh tế- xã hội
không chỉ xác định các yếu tố, kết cấu của chúng, mà còn xem xét xã hội


trong quá trình vận động biến đổi, phát triển không ngừng. Mác viết: Tôi coi
sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự
1

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, Tr 84.


2

nhiên2. Nh vậy, sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội vừa mang tính
giai đoạn, vừa mang tính liên tục trong tổng thể quá trình phát triển lâu dài
của lịch sử xã hội, nó mang tính khách quan, vốn có, không ai có thể áp đặt đợc sự phát triển đó. Mác đi nghiên cứu xã hội bằng chính nội tại của xã hội mà
trớc hết từ nền sản xuất vật chất. Nh chúng ta đều biết sự tồn tại của xã hội
luôn phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật chất. Mác khẳng định:
Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con ngời, và do đó là tiền đề của mọi
lịch sử, đó là: ngời ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch
sử. Nhng muốn sống đợc thì trớc hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở,
quần áo và một vài thứ khác nữa. Nh vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản
xuất trong những t liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản
thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ
bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng nh hàng nghìn năm về trớc, ngời ta phải
thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con ngời3.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị- xã hội vào những năm
40 của thế kỷ XIX chủ nghĩa t bản đã phát triển sang một giai đoạn mới- giai
đoạn đại công nghiệp. Mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa t bản ngày càng
phát triển. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp t
sản ngày càng phát triển cả về quy mô và tính chất- giai cấp vô sản đã bớc lên
vũ đài chính trị của mình. Mác nghiên cứu xã hội từ sản xuất vật chất và phơng thức sản xuất, ông đã khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất
với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, vai trò của phơng thức sản xuất với
sự tồn tại, phát triển của lịch sử xã hội. Mác viết: Hành vi lịch sử đầu tiên là

việc sản xuất trong những t liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất
ra bản thân đời sống vật chất và Phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất vật
chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và hiểu
hình thức giao tiếp gắn liền với phơng thức sản xuất ấy sản sinh ra- tức là xã
hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó- là cơ sở của toàn bộ lịch
sử4. Mặt khác cũng từ điều kiện kinh tế- xã hội nh vậy, Mác thấy rằng năng
xuất lao động đợc tạo ra cho xã hội trớc hết phải từ lực lợng sản xuất. Ông
viết: Giai cấp t sản, trong quá trình thống trị giai cấp cha đầy một thế kỷ, đã
tạo ra những lực lợng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lợng sản xuất của
tất cả các thế hệ trớc kia gộp lại5. Có thể nói rằng điều kiện kinh tế- xã hội
mà trực tiếp là nền sản xuất vật chất xã hội và đấu tranh giai cấp là những yếu
tố trực tiếp chi phối đến sự phân công lao động xã hội. Khi lực lợng sản xuất
phát triển mạnh sẽ có sự phân công lao động xã hội, có ngời lao động chân
tay, có ngời lao động trí óc, tạo ra các quan hệ xã hội, mà trớc hết là quan hệ
về kinh tế. Mác viết: Trớc hết con ngời cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là
phải lao động, trớc khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trớc khi có
C.Mác-Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1993, Tập 23, tr 21.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 3, tr 39- tr 40.
4
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG, H.1995, tr 40, tr.54
5
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 4, tr 603.
2
3


3

thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học v.v..6. Vì vậy không có con đờng
nào khác muốn nghiên cứu, mổ xẻ một xã hội nào đó phải xuất phát từ nền

sản xuất vật chất, từ các quan hệ kinh tế. Ăngghen đã đa ra nguyên tắc phơng
pháp luận cơ bản cho việc nghiên cứu giới tự nhiên và lịch sử: Bằng chứng
phải đợc rút ra từ bản thân lịch sử...Bây giờ thì bất cứ ở đâu, vấn đề không còn
là tởng tợng ra những mối liên hệ từ trong đầu óc, mà là phát hiện ra chúng từ
những sự thực7.
Bằng t duy biện chứng duy vật với khả năng trừu tợng hoá và khái quá
hoá cao, Mác và Ăngghen đã phát hiện ra các mối quan hệ xã hội và các quan
hệ vật chất làm cho xã hội phát triển đó là học thuyết hình thái kinh tế- xã hội.
Nhận xét về vấn đề này Ăngghen viết: Chủ nghĩa duy vật đã trải qua một loạt
các giai đoạn phát triển. Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại
ngay cả trong lĩnh vực khoa học lịch sử- tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại
không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng đợc giải thích theo quan điểm duy vật chủ nghĩa thì ở đây, cũng mở ra một con
đờng phát triển mới8. Rõ ràng xuất phát từ điều kiện kinh tế- xã hội mà các
ông đã có những khái quát các luận thuyết triết học của mình và đa ra học
thuyết về hình thái kinh tế- xã hội.
Chính nghiên cứu nội tại mối quan hệ biện chứng trong quá trình vận
động của các yếu tố trong kết cấu của hình thái kinh tế- xã hội mà Mác coi đó
chính là những quy luật phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội với t cách
là một quá trình lịch sử tự nhiên. Bàn về vấn đề này Lênin đã giải thích rằng
mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, do lực lợng sản xuất quyết định sự vận động, phát triển của xã hội một cách tự nhiên.
Ông viết: Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất,
và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của lực lợng sản xuất thì ngời ta mới có đợc một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những
hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên9.
Để hiểu đợc sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội một cách
đúng đắn, triết học Mác với quan niệm đúng đắn về xã hội đã chỉ ra rằng, quy
luật của đời sống xã hội có một đặc điểm khác với quy luật tự nhiên ở chỗ đợc
tác động thông qua hoạt động của con ngời, song điều đó không vì thế mà nó
không mang tính khách quan. Trái lại, quy luật vận động của xã hội không
những không phụ thuộc vào ý thức con ngời mà ngợc lại xét đến cùng còn
quyết định cả ý chí, ý thức của con ngời. Chính điều này Mác chỉ ra và coi

lịch sử là hoạt động của con ngời theo đuổi mục đích của bản thân mình, nhng
điều đó không thể là hoạt động tuỳ tiện theo ý thích, mà chính hoạt động đó
dù là có ý thức hay vô thức cuối cùng cũng đều do quy luật khách quan chi
phối. Chỉ có điều con ngời hiểu quy luật khách quan đến đâu, nhiều hay ít sẽ
6
7

8
9

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 19, tr 166.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 449.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 21, tr 409.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1974, tập 1, tr 163.


4

giúp con ngời có hiệu quả hơn trong hoạt động cải tạo hiện thực khách quan,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của con ngời. Chính con ngời hoạt động xã hội và
hoạt động sản xuất vật chất, với t cách là lực lợng sản xuất đặc biệt, con ngời
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình, đó là con ngời sống,
hành động, và sản xuất- con ngời xã hội, con ngời phải gắn với sản xuất vật
chất và hình thức giao tiếp, gắn liền với phơng thức sản xuất và do chính phơng thức sản xuất ấy sản sinh ra. Bàn về vấn đề này, Mác viết: Con ngời là
sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục, con ngời làm thay đổi hoàn
cảnh10. Chỉ có quan điểm thực tiễn đúng đắn mới có thể giải thích đợc vì sao
ý thức con ngời phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan; vì sao ý
thức lại có vai trò to lớn trong cải tạo hiện thực khách quan, muốn nhận thức
đúng bản chất con ngời không có con đờng nào khác là phải xuất phát từ quan
điểm thực tiễn. Điều quan trọng nhất, quan hệ của con ngời với tự nhiên diễn

ra trong sản xuất vật chất, trong hoạt động thực tiễn. Bản chất của con ngời
không phải ở tính tự nhiên mà cái tạo nên sự hình thành và phát triển của bản
chất ấy chính là sự biến đổi của các quan hệ xã hội: Bản chất con ngời không
phải là một cái trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội 11. Các quan hệ
xã hội luôn là cái đợc xác định và vận động biến đổi không ngừng, điều đó
cho thấy, bản chất của con ngời cũng là cái cụ thể và luôn vận động, phát triển;
con ngời tạo ra hoàn cảnh nh thế nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con ngời nh thế ấycon ngời và hoàn cảnh gắn chặt với nhau, con ngời không thể tách rời hoàn cảnhhoạt động sản xuất, hoạt động xã hội...Do đó, những cá nhân là nh thế nào, điều
đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ. Tất nhiên
cũng cần phải thấy rằng, lối sống của cá nhân là kết quả tổng hợp của nhiều
yếu tố: sản xuất vật chất; điều kiện sống nh thế nào; truyền thống của mỗi dân
tộc; nền giáo dục xã hội; thể chất của mỗi cá nhân. v.v. trong đó sản xuất vật
chất là yếu tố xét đến cùng quyết định. Mác đã khẳng định: Con ngời tạo ra
hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con ngời đến mức ấy12.
Nh vậy, động lực của xã hội là do chính con ngời tạo ra với t cách con ngời là
lực lợng sản xuất đặc biệt.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng, cần phân biệt sự khác nhau giữa
quy luật lịch sử với các quy luật tự nhiên, phải loại bỏ những mối liên hệ nhân
tạo và phải tìm ra những mối liên hệ hiện thực, nhất là phải phát hiện ra các
quy luật chung chi phối sự phát triển của lịch sử. Trong giới tự nhiên, các quy
luật diễn ra tự động, bên ngoài ý thức của con ngời trái lại các quy luật xã hội
diễn ra thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Nhng cũng giống với các
quy luật tự nhiên, quy luật xã hội cũng bị chi phối bởi vô số những ngẫu
nhiên. Thông qua vô số ngẫu nhiên đó, chúng ta phát hiện ra quy luật nội tại
bị che giấu. Khi bàn về động lực của lịch sử Ăngghen phân tích sâu sắc động
lực bên trong- nội tại của lịch sử và ông kết luận: Nếu nh trong tất cả các thời
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr10.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 11.
12
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 55.

10
11


5

kỳ trớc, việc nghiên cứu những nguyên nhân thúc đẩy ấy của lịch sử đã hầu
nh không thể làm đợc, vì những mối liên hệ phức tạp và bị che lấp giữa những
nguyên nhân ấy với những hậu quả của chúng thì ngày nay, thời đại chúng ta
đã đơn giản hoá những mối liên hệ đó đến một mức mà cuối cùng điều bí ẩn
đã có thể giải đáp đợc13.
Khi xem xét đến động lực của lịch sử, chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng
để xác định động lực thực tế cuối cùng của lịch sử thì không thể nghiên cứu
những động cơ của các cá nhân, mà phải nghiên cứu những động cơ của
những ngời đã lay chuyển những quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn
vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi một dân tộc; những động cơ đã
đẩy họ... đến chỗ tiến hành những hành động lâu dài đa đến những biến đổi
lịch sử vĩ đại. Theo Ăngghen, động lực của toàn bộ lịch sử hiện đại chính là
cuộc đấu tranh giữa ba giai cấp lớn và những xung đột về quyền lợi của họgiai cấp địa chủ quý tộc, giai cấp t sản và giai cấp vô sản. Nh vậy, theo ông
đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Ăngghen
viết: Chính là cuộc đấu tranh của ba giai cấp lớn đó và những sự xung đột về
quyền lợi của họ14. Để tìm ra động lực của động lực, chủ nghĩa Mác- Lênin
đã chỉ ra rằng: nguồn gốc của giai cấp và đấu tranh giai cấp là do nguyên nhân
kinh tế quyết định và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp chiếm hữu ruộng
đất và giai cấp t sản, cũng nh cuộc đấu tranh giữa giai cấp t sản và giai cấp vô
sản, thì trớc hết, vấn đề là ở những lợi ích kinh tế. Chính mâu thuẫn trong kinh
tế phản ánh qua mâu thuẫn giữa các giai cấp. Mâu thuẫn đó tất yếu sẽ dẫn đến
phải phá gông xiềng cho lực lợng sản xuất bằng cách thay đổi phơng thức sản
xuất mới: Tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu tranh giai cấp và tất
cả các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức chính trị tất yếu của

chúng là thế nào đi nữa- vì bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu
tranh chính trị- xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải phóng về kinh tế15.
Nh vậy, khi nghiên cứu lịch sử xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra
quy luật vận động nội tại của xã hội do chính các yếu tố bên trong quy định.
Mỗi hình thái kinh tế- xã hội đợc coi nh một cơ thể xã hội phát triển theo quy
luật vốn có của nó, bởi vì xã hội là một bộ phận của tự nhiên do đó cũng vận
động theo quy luật tự nhiên. Nh vậy, một cơ thể xã hội riêng biệt nó cũng sẽ
có những quy luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó, và bớc
chuyển của nó lên hình thức cao hơn, tức là biến thành một cơ thể xã hội khác.
Theo đó, quá trình lịch sử tự nhiên đợc hiểu là: con ngời làm ra lịch sử của
mình và họ tạo ra những quan hệ xã hội của mình, đó chính là xã hội. Nhng xã
hội lại vận động theo quy luật khách quan vốn có không phụ thuộc vào ý thức,
hay ý muốn của con ngời, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một
cá nhân hay một lực lợng chính trị xã hội nào. Mác viết: Nhân loại bao giờ
cũng chỉ đặt ra cho mình những nhiệm vụ mà nó có thể giải quyết đợc, vì khi
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 438- tr 439.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 439.
15
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 441.
13
14


6

xét kỹ hơn, bao giờ ngời ta cũng thấy rằng bản thân nhiệm vụ ấy chỉ nảy sinh
khi những điều kiện vật chất để giải quyết nhiệm vụ đó đã có rồi, hay ít ra
cũng đang ở trong quá trình hình thành16.
Thực tế, nh sự phát triển của các phơng thức sản xuất Châu á cổ đại,
phong kiến và t sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần từ thấp đến

cao của các hình thái kinh tế- xã hội đợc Mác coi nh mỗi hình thái kinh tế- xã
hội nh một cơ thể phát triển theo quy luật vốn có của nó. Trong lịch sử đã đợc
chứng minh sự thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế- xã hội từ cộng
sản nguyên thuỷ, đợc thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội chiếm hữu
nô lệ đợc thay thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến đợc thay thế
bằng xã hội t bản chủ nghĩa...đó là quá trình tiến hoá bao hàm cả những bớc
nhảy vọt đã tạo ra sự tiến bộ trong lịch sử loài ngời, đó là một quá trình phát
triển một cách lịch sử tự nhiên trong sự tiến bộ phát triển của xã hội loài ngời
từ trớc đến nay.
Khi nghiên cứu các quy luật phát triển của xã hội nói chung và chủ
nghĩa t bản nói riêng, Mác đã dự báo và đa ra các kết luận khoa học là sẽ xuất
hiện một hình thái kinh tế xã hội mới- hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩađó cũng là hệ quả tất yếu của tiến trình chung của lịch sử nhân loại. Sự phát
triển chung, hay sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội này bằng hình thái kinh
tế- xã hội khác cao hơn, thờng đợc thông qua con đờng cách mạng xã hội.
Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lợng sản
xuất với quan hệ sản xuất thống trị, khi quan hệ sản xuất thống trị trở thành
xiềng xích của lực lợng sản xuất thì cách mạng xã hội nổ ra. Mác viết: Tới
một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lợng sản xuất vật chất của
xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay- đây chỉ là biểu
hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó- mâu thuẫn với những quan hệ sở
hữu, trong đó từ trớc đến nay các lực lợng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của các lực lợng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành xiềng xích của các lực lợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại, một cuộc
cách mạng xã hội17. Trong những thời kỳ cách mạng, khi cơ sở kinh tế thay
đổi, thì sớm hay muộn toàn bộ kiến trúc thợng tầng đồ sộ cũng phải thay đổi
theo. Mác kết luận rằng: hình thái kinh tế- xã hội t bản chủ nghĩa nhất định sẽ
đợc thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Từ đó, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đi đến kết luận: hình thái kinh tế- xã hội
t bản chủ nghĩa nhất định sẽ đợc thay thế bằng hình thái kinh tế- xã hội cộng
sản chủ nghĩa, và sự thay thế này cũng là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự thay

thế đó thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa mà hai tiền đề vật chất quan
trọng nhất của nó là sự phát triển của lực lợng sản xuất và sự trởng thành của
giai cấp vô sản, tác động vào quá trình đó, thúc đẩy quá trình đó sớm thu đ ợc
kết quả. Mác viết: Các quan hệ sản xuất t sản là hình thức đối kháng cuối
cùng của quá trình sản xuất xã hội, đối kháng không phải với ý nghĩa là đối
16
17

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.


7

kháng cá nhân, mà với ý nghĩa là đối kháng nảy sinh từ những điều kiện sinh
hoạt xã hội của các cá nhân; nhng những lực lợng sản xuất phát triển trong
lòng xã hội t sản đồng thời cũng tạo ra những điều kiện vật chất để giải quyết
đối kháng ấy. Cho nên với hình thái xã hội t sản, thời kỳ tiền sử của xã hội
loài ngời đang kết thúc18.
Nh vậy, hình thái kinh tế xã hội t bản chủ nghĩa là hình thái kinh tế- xã
hội cuối cùng trong lịch sử có quan hệ sản xuất với hình thức đối kháng, là
hình thái xã hội cuối cùng trong lịch sử có sự đối kháng trong quá trình sản
xuất xã hội: còn chiếm hữu t nhân, còn áp bức bóc lột, và chính sự phát triển
của lực lợng sản xuất trong lòng xã hội t bản sẽ tạo điều kiện vật chất để xoá
bỏ quan hệ sản xuất, thiết lập quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất cộng
sản chủ nghĩa. Nói cách khác, Mác đã dự báo rằng hình thái kinh tế- xã hội t
bản chủ nghĩa nhất định sẽ bị diệt vong do chính sự phát triển ngày càng cao
của lực lợng sản xuất ở ngay trong lòng xã hội đó và sự diệt vong là không thể
tránh khỏi. Mặt khác, chính giai cấp t sản đã tạo ra những cơ sở vật chất để tự
thủ tiêu mình. Đó là phát hiện thiên tài của Mác. Xã hội cũ cha mất đi khi tiền

đề vật chất của nó cha mất đi, xã hội mới cha ra đời khi tiền đề vật chất của nó
cha xuất hiện. Mác viết: Không một hình thái xã hội nào diệt vong trớc khi tất
cả những lực lợng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát
triển, vẫn cha phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao
giờ xuất hiện trớc khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó cha
chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ19.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng khoa học cũng là động lực lịch sử
nó trở thành một lực lợng cách mạng; khoa học đích thực là giải phóng con
ngời, phục vụ lợi ích con ngời, do đó thông qua khoa học, nhất là khoa học tự
nhiên để rút ra các kết luận mới chính là làm tăng sức mạnh chiến đấu của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Con ngời vận dụng khoa học để phát triển sản xuất,
tạo ra năng xuất lao động nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của mình
do đó làm cho lực lợng sản xuất không ngừng phát triển.
Đáp ứng mong muốn xây dựng một xã hội mà ở đó không có ngời bóc
lột ngời, con ngời đợc giải phóng và đợc phát triển toàn diện đã trở thành hiện
thực khi cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và giành thắng lợi. Chủ nghĩa xã
hội mở đầu là Cách mạng Tháng mời Nga (năm 1917) đã đánh dấu một bớc
ngoặt lịch sử nó đã trở thành chủ nghĩa xã hội hiện thực- phong trào cách
mạng hiện thực, nó đã phát động đợc giai cấp công nhân và quần chúng cách
mạng dới sự lãnh đạo của đảng cộng sản- đội tiền phong của giai cấp công
nhân- lãnh tụ của phong trào công nhân đứng lên làm cách mạng đã giành đợc
thắng lợi và trở thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa đối trọng với chủ nghĩa t
bản, đó là sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội mới xã hội chủ nghĩa. Đây là
bằng chứng đầy sức thuyết phục cả về lý luận và thực tiễn- khẳng định tính
18
19

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15- tr 16.



8

chân lý, tính hiện thực sức sống mãnh liệt và chủ nghĩa nhân đạo cao cả của
chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tiễn cho chúng ta thấy rằng lực lợng sản xuất chỉ có thể phát triển
khi có một quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. Quan hệ sản
xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lợng
sản xuất. Khi mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ
gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết nếu con ngời không phát hiện đợc, cũng nh
khi mâu thuẫn đã đợc phát hiện mà không đợc giải quyết hoặc giải quyết một
cách sai lầm, chủ quan duy ý chí...thì tác động kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ
trở thành nhân tố phá hoại to lớn đối với lực lợng sản xuất.
Về mặt xã hội, chúng ta thấy rằng vai trò mối quan hệ của cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc thợng tầng đợc thể hiện ở chỗ: nếu cơ sở hạ tầng thay đổi thì
sớm hay muộn sự thay đổi kiến trúc thợng tầng cũng sẽ diễn ra. Quá trình đó
thực hiện không chỉ trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng- từ xã
hội này sang xã hội khác- mà còn đợc thực hiện ngay trong bản thân mỗi hình
thái kinh tế- xã hội. Mác chỉ rõ: Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến
trúc thợng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng 20. Khi cơ sở kinh
tế thay đổi thì kiến trúc thợng tầng đồ sộ ấy cũng bị đảo lộn, nó không thể
thay đổi tức thì mà có bộ phận thay đổi ngay (nh nhà nớc, pháp luật, hệ t tởng
thống trị...), có bộ phận còn tồn tại dai dẳng (nh tâm lý, phong tục tập quán...).
Khi bàn về nhà nớc, ta thấy về vai trò của nhà nớc và pháp quyền cũng
có ý nghĩa hết sức to lớn. Mác viết: Không chỉ lấy bản thân những quan hệ
pháp quyền cũng nh những hình thái nhà nớc, hay lấy cái gọi là sự phát triển
chung của tinh thần của con ngời, để giải thích những quan hệ và hình thái đó,
mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những
điều kiện sinh hoạt vật chất21.
Trong khi luận giải nội dung những quy luật cơ bản chi phối sự vận

động, phát triển của xã hội thì đồng thời Mác cũng chỉ rõ nguyên nhân xét đến
cùng quyết định sự bùng nổ cách mạng xã hội- đó là nguyên nhân kinh tế, từ
sự phát triển của lực lợng sản xuất tới mức mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
xuất vốn tạo địa bàn cho nó phát triển và mâu thuẫn đó trở thành xiềng xích
kìm hãm sự phát triển của nó khi ấy bùng nổ một cuộc cách mạng xã hội.
Đồng thời, Mác cũng khẳng định với quan hệ sản xuất t sản- hình thức đối
kháng cuối cùng của quá trình sản xuất xã hội và những lực lợng sản xuất phát
triển trong lòng xã hội t bản cũng tạo ra điều kiện vật chất giải quyết đối
kháng đó. Điều đó khẳng định tính tất yếu diệt vong của xã hội t bản chủ
nghĩa và sự ra đời của xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng là một tất yếu lịch sử.
Mác viết: Với hình thái xã hội t sản, thời kỳ tiền sử của xã hội loài ngời đang
kết thúc22.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 15.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 14.
22
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG, H.1993, tr 16.
20
21


9

Thực tiễn lịch sử phát triển của xã hội loài ngời đã và đang trải qua năm
hình thái kinh tế- xã hội từ thấp đến cao, từ cộng sản nguyên thuỷ đến cộng
sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, đó là một quá trình lịch
sử tự nhiên lâu dài, điều đó không phải do ý muốn chủ quan của bất cứ một ai,
hay một lực lợng chính trị, một lực lợng siêu nhiên nào, mà nó là quy luật
khách quan của sự vận động, phát triển của xã hội loài ngời. Cho tới nay hình
thái kinh tế- xã hội phát triển cao nhất là hình thái kinh tế- xã hội cộng sản
chủ nghĩa, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng mời Nga, nó đã mở ra một thời

đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, xét đến cùng nó là một quá trình lịch sử tự nhiên, thể hiện tính
quy luật chung của sự phát triển của xã hội loài ngời từ thấp đến cao.
2. Tính quy luật đặc thù của việc bỏ qua một vài hình thái kinh tế- xã
hội trong sự phát triển của lịch sử.
Nh vậy, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lịch sử xã hội
loài ngời đã phát triển qua năm hình thái kinh tế- xã hội một cách tuần tự từ
thấp đến cao. Song, do đặc điểm về lịch sử, về không gian và thời gian, không
phải quốc gia nào cũng phải trải qua tuần tự các hình thái kinh tế- xã hội đó từ
thấp đến cao theo lợc đồ chung. Thực tế lịch sử xã hội loài ngời đã chứng
minh một số quốc gia trong quá trình phát triển đã bỏ qua một vài hình thái
kinh tế- xã hội để phát triển đến hình thái kinh tế- xã hội cao hơn nh: có quốc
gia chuyển từ cộng đồng nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ, nhng có
quốc gia khác lại chuyển ngay sang chế độ phong kiến. Chẳng hạn nh ngời
thổ dân châu úc, châu Mỹ đi từ xã hội nô lệ lên thẳng chủ nghĩa t bản; nớc
Nga, Ba Lan, Đức từ hình thái kinh tế- xã hội cộng sản nguyên thuỷ tiến lên
hình thái kinh tế- xã hội phong kiến bỏ qua hình thái kinh tế- xã hội chiếm
hữu nô lệ; nhiều nớc châu Âu chủ nghĩa t bản ra đời từ trong lòng của xã hội
phong kiến, còn ở Mỹ từ hình thái kinh tế- xã hội chiếm hữu nô lệ tiến lên
hình thái kinh tế- xã hội t bản chủ nghĩa không trải qua chế độ phong kiến.
Việt Nam trong tiến trình phát triển lịch sử đã bỏ qua hình thái kinh tế- xã hội
chiếm hữu nô lệ tiến lên hình thái kinh tế- xã hội phong kiến v.v..
Từ thực tiễn lịch sử đó, Mác đã nêu lên những t tởng và khả năng phát
triển rút ngắn trong những điều kiện lịch sử nhất định. Khi nghiên cứu tình
hình cách mạng ở một số nớc Phơng đông, Mác và Ăngghen đã thấy đợc khả
năng quá độ từ một nớc lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mác khẳng định
cách mạng sẽ nổ ra ở Phơng đông mà nơi đó tập trung nhiều mâu thuẫn nhất...
cũng bằng sự phân tích những mâu thuẫn trong lòng xã hội t bản, đó là mâu
thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất thống trị, các ông đã đề cập
nhiều đến khả năng quá độ nổ ra cách mạng vô sản trớc tiên ở các nớc t bản

phát triển và nổ ra đồng loạt. Nhng do điều kiện hoàn cảnh thế giới có nhiều
thay đổi bởi quy luật phát triển không đều về kinh tế của chủ nghĩa t bản,
cùng với bản chất bóc lột nặng nề giai cấp vô sản, do đó phong trào đấu tranh
mạnh mẽ của giai cấp vô sản phát triển lên cao, nó sẽ tác động đến nhiều nớc,


10

Mác cũng dự báo rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra ở các nớc t
bản có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên trong điều kiện bối cảnh đó Mác
và Ăngghen dự báo khả năng cách mạng vô sản nổ ra đồng loạt trên phạm vi ở
tất cả các nớc t bản phát triển.
Mác và Ănghen cũng đã dự báo những vấn đề về quá độ của chủ nghĩa
xã hội. Mác viết: Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một
trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tởng mà hiện thực phải
khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực,
xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những
tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra23. Mác đã chỉ ra rằng, khả năng vận động của
cuộc cách mạng vô sản phải bằng chính sự vận động của hiện thực khách
quan, mà mỗi dân tộc phải năng động sáng tạo, không đợc trông chờ, không
máy móc. Chỉ có đợc kết quả khi chính chúng ta phải tự mình đấu tranh xoá
bỏ chủ nghĩa t bản ngay tại dân tộc mình, tại quốc gia mình, đó là điều kiện trớc tiên, quyết định đến sự vận động phát triển của mỗi dân tộc sẽ góp phần
làm xã hội loài ngời vận động phát triển.
Kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận Mác trong điều kiện lịch sử mới,
khi chủ nghĩa t bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Bằng thiên tài của
mình Lênin đã khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội không thể thắng lợi đồng
thời ở tất cả các nớc mà chỉ có thể giành thắng lợi ở một số nớc, thậm chí có
thể giành thắng lợi ở một nớc thuộc mắt khâu yếu nhất trong dây chuyền của
chủ nghĩa đế quốc. Dự báo thiên tài này của Lênin không mâu thuẫn với nhận
định của Mác và Ăngghen trớc đây về khả năng giành thắng lợi của giai cấp

vô sản. Trên thực tế, nó đã trở thành hiện thực, Lênin đã lãnh đạo giai cấp vô
sản Nga làm cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mời giành thắng lợi, mở đầu
một thời đại mới- thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản tiến lên chủ nghĩa cộng
sản trên phạm vi toàn thế giới, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Sau này,
chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục bảo vệ và phát triển lý luận của chủ nghĩa MácLênin và cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra ở một vài, thậm
chí ở một nớc thuộc địa mà ở đó tập trung những mâu thuẫn chủ yếu của thời
đại, điều đó cũng đợc chứng minh bằng thực tiễn cách mạng Tháng Tám ở
Việt Nam.
Cùng với việc khẳng định thắng lợi của cách mạng vô sản có thể nổ ra ở
các nớc lạc hậu chậm phát triển, Lênin còn chỉ ra tính đa dạng của các hình
thức quá độ với các nhịp điệu và mức độ khác nhau trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Ngời viết: Tất cả các dân tộc đều tiến tới
chủ nghĩa xã hội, song các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn
giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ đa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình
thức khác của chế độ dân chủ vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô
sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của xã hội với những mức độ khác
nhau24.
23
24

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 3, tr 51.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, tập 30, tr 159- tr 160.


11

Nh vậy, tiến trình lịch sử của một dân tộc, một quốc gia cụ thể có thể có
những hình thức, bớc đi khác nhau, bởi vì mỗi quốc gia cụ thể thờng xuyên bị
những yếu tố bên trong, bên ngoài tác động chi phối cũng không giống nhau,
nh hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ hợp tác

giao lu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố đó có thể góp phần kìm hãm,
hoặc thúc đẩy sự phát triển của mỗi dân tộc cũng khác nhau theo một hớng đi
nhất định. Có thể nói, tình trạng chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc rất
có thể làm gián đoạn hoặc phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên, hoặc sẽ tạo
điều kiện để ổn định, phát triển của lịch sử mỗi dân tộc. Hơn nữa, các quá
trình của lịch sử của xã hội loài ngời diễn ra không đều, thờng xuất hiện
những trung tâm phát triển mạnh về sản xuất vật chất, kỹ thuật, về văn hoá,
tiến bộ xã hội. Chính những trung tâm ấy phát triển mạnh làm lan toả, quan hệ
giao lu, đua tranh phát triển giữa các dân tộc có trình độ phát triển khác nhau.
Đó là cơ sở thúc đẩy tiến bộ, làm xuất hiện khả năng một số nớc tận dụng đợc
cơ hội thuận lợi có thể bỏ qua một hình thái kinh tế- xã hội nào đó để rút ngắn
mà không phải lặp lại tuần tự các quá trình phát triển của lịch sử. Chính qua
nghiên cứu sâu sắc thực tiễn của lịch sử, Lênin đã đặt vấn đề khả năng đi lên
chủ nghĩa xã hội của các nớc lạc hậu (các nớc tiền t bản) bỏ qua chế độ t bản
chủ nghĩa cũng trở lên hiện thực. Ngời viết: Không nghi ngờ gì nữa, ở một nớc trong đó những ngời sản xuất tiểu nông chiếm tuyệt đại đa số dân c, chỉ có
thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá
độ đặc biệt, hoàn toàn không cần thiết ở những nớc t bản phát triển25. Song,
để thực hiện đợc nhiệm vụ đó, Lênin chỉ ra giai cấp vô sản ở các nớc đó phải
biết áp dụng sách lợc và đờng lối chính trị cộng sản và những điều kiện tiền t
bản chủ nghĩa, phải có sự giúp đỡ của các nớc xã hội chủ nghĩa phát triển. Với
các điều kiện đó các nớc lạc hậu vẫn có thể tiến tới chủ nghĩa cộng sản bỏ qua
chế độ t bản chủ nghĩa. Theo Lênin sự bỏ qua ấy vẫn là hợp với quy luật tự
nhiên trong tiến trình phát triển, chứ không phải là sự áp đặt chủ quan hay là ý
muốn, thích hay không thích của bất cứ quốc gia nào, bởi vì, sự phát triển rút
ngắn đã trở thành hiện thực trong lịch sử. Vì vậy, sự rút ngắn chẳng những
không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính tự nhiên lịch sử mà
còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử tự nhiên. Chỉ trừ khi ngời ta
rút ngắn một cách duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan thì lúc đó sự phát
triển rút ngắn mới trở lên đối lập với quá trình lịch sử tự nhiên. Trong thực tiễn
đã có một số quốc gia, dân tộc đã bỏ qua (nh đã nêu ở trên).

Nh vậy, cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và thực tiễn lịch sử
phát triển của xã hội loài ngời đã chứng minh, sự phát triển của các hình thái
kinh tế- xã hội chẳng những diễn ra bằng con đờng tuần tự theo quy luật
chung phổ biến mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử
nhất định, thể hiện tính đặc thù, tính đa dạng phong phú của sự phát triển của
xã hội loài ngời.
25

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 43, tr 68- tr 69.


12

Trên con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội, chính nớc ta cũng là một quốc
gia nằm trong tiến trình lịch sử tự nhiên của xã hội loài ngời. Vừa mang tính
quy luật chung, mà ở Việt Nam còn mang tính quy luật đặc thù, đó là chúng ta
đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát
triển, cha trải qua thời kỳ phát triển t bản chủ nghĩa. Song (theo lôgích nội tại
của sự phát triển của xã hội Việt Nam) đó là con đờng hiện thực, phù hợp với
quy luật phát triển chung của tiến trình lịch sử nhân loại. Bởi vậy, sự lựa chọn
con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa của Đảng
Cộng sản Việt Nam là đúng đắn và hợp quy luật khách quan.
II. Những điều kiện để nớc ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
chế độ t bản chủ nghĩa.
1. Nhận thức về con đờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
t bản chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của
Đảng đã xác định: Con đờng đi lên của nớc ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa26. Nh vậy, Đảng ta khẳng định đi
lên chủ nghĩa xã hội, nớc ta nhất định phải trải qua một thời kỳ quá độ. Điều

đó hoàn toàn đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin và phù hợp với
thực tiễn nớc ta. Theo nguyên lý chung, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thờng
có hai dạng cơ bản, đó là, từ chủ nghĩa t bản đi lên chủ nghĩa xã hội và quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Nh vậy, nớc ta quá độ
đi lên chủ nghĩa xã hội thuộc hình thức thứ hai. Qua nghiên cứu chúng ta thấy
rằng nớc ta tuy có những nét chung của hình thức quá độ bỏ qua chế độ t bản
chủ nghĩa, nhng nớc ta lại có những đặc điểm riêng do điều kiện đặc thù của
lịch sử cách mạng nớc ta. Đó là, nớc ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền
kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ lực lợng sản xuất thấp, từ quan hệ
sản xuất tiền t bản. Điều đó chỉ ra cho chúng ta phải xây dựng một phơng thức
sản xuất mới, có nền công nghiệp hiện đại, nền nông nghiệp phát triển...đồng
nghĩa là cả một quá trình rất lâu dài và cực kỳ khó khăn. Cùng với kinh tế, thể
chế chính trị còn rất nhiều bất cập bởi vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ
một nớc thuộc địa nửa phong kiến, cha trải qua nền dân chủ t sản, lại chịu ảnh
hởng nặng nề của chế độ phong kiến, giai cấp công nhân còn ít về số lợng,
chất lợng còn nhiều hạn chế. Xã hội nớc ta trải qua chiến tranh hết sức tàn
khốc, để lại nhiều hậu quả nặng nề, các quan hệ xã hội còn nhiều bất cập,
phức tạp. Trong khi đó, nớc ta lại chịu ảnh hởng nặng nề của hệ t tởng phong
kiến, t tởng tiểu nông, văn minh nông nghiệp, những tàn d lạc hậu, của chế độ
cũ để lại còn khá phổ biến, đời sống hởng thụ văn hoá của nhân dân còn nhiều
hạn chế. Cùng với những khó khăn về chính trị, kinh tế, xã hội, đó là sự chống
phá của kẻ thù bên trong và bên ngoài, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp
khó lờng. Sự sụp đổ của các nớc xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông âu, đã
26

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr 84.


13


mất đi sự giúp đỡ to lớn, khiến cho chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội càng trở
lên hết sức khó khăn.
Trong những điều kiện ấy, trong xã hội, mà thậm chí cả trong đội ngũ
đảng viên còn có nhiều biểu hiện mơ hồ, thiếu tin tởng vào con đờng quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Có những t tởng cho rằng
ta nên quay lại phát triển theo các bớc tuần tự, có nghĩa là phát triển theo con
đờng t bản chủ nghĩa sau đó mới đi lên chủ nghĩa xã hội thì chắc chắn hơn.
Thực ra đó là quan điểm hết sức phản động, họ cố tình không hiểu tiến trình
lịch sử, không hiểu điều kiện khách quan và xu thế phát triển của thời đại; họ
không hiểu và nhận thức đợc tính khoa học, tính tất yếu của lịch sử. Cũng có
quan điểm cho rằng chúng ta quá độ bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa trong điều
kiện không còn sự giúp đỡ của Liên xô và của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa
thì khó có thể thành công. Thực ra, quan điểm này họ nhìn nhận một cách
máy móc, cứng nhắc, không thấy sự phát triển của thời đại, sự tác động mạnh
mẽ của khoa học công nghệ hiện đại đã làm cho xu thế toàn cầu hoá, quốc tế
hoá, làm cho hợp tác quốc tế tăng lên. T tởng đó biểu hiện của sự hoài nghi,
thiếu tin tởng vào sự lãnh đạo của Đảng và nguyện vọng cháy bỏng của nhân
dân ta. Trong khi đó, có quan điểm nhất trí với con đờng quá độ bỏ qua chế độ
t bản chủ nghĩa, song, lại hiểu việc bỏ qua là phải bỏ qua cả giai đoạn, bỏ qua
tất cả những gì của chủ nghĩa t bản đem lại, họ không thấy rằng những thành
quả của chủ nghĩa t bản đem lại về vốn, khoa học, công nghệ, trình độ quản
lý, cơ sở vật chất kỹ thuật...không chỉ phục vụ cho chính xã hội t bản mà với ý
nghĩa nào đó nó đã đem lại cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại; do
vậy, quan điểm này rơi vào chủ nghĩa siêu hình, phủ định sạch trơn, không có
kế thừa trong sự phát triển.
Tóm lại, tất cả các quan điểm trái ngợc trên đây đều thể hiện điểm
chung đó là: thiếu tính khoa học, khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, sự
nhận thức mới chỉ dừng lại ở trình độ nhận thức bên ngoài, cha hiểu sâu sắc
bản chất bên trong của vấn đề; họ cố tình không nhận thức đợc những vấn đề
khách quan đó.

Với cách nhìn nhận một cách khoa học, Đảng ta đã xác định: bỏ qua
chế độ t bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đờng duy nhất đúng,
phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, phù hợp với xu thế thời
đại ngày nay. Mặc dù đó là con đờng khó khăn phức tạp, lâu dài, phải trải qua
nhiều bớc trung gian quá độ, việc bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là quyết định
đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta. Bởi vì, nớc ta bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa,
thực chất là một kiểu phát triển rút ngắn, nhng vẫn tôn trọng quá trình phát
triển lịch sử tự nhiên, không đợc chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Đó là
sự quá độ gián tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là việc rút ngắn những cơn
đau đẻ kéo dài nghĩa là rút ngắn giai đoạn và bớc đi của tiến trình lịch sử lên
chủ nghĩa xã hội. Cho nên, chúng ta phải biết sử dụng, thậm chí tạo điều kiện
cho một số nhân tố t bản đã có hoặc cha có ở nớc ta phát triển trong quỹ đạo
của chủ nghĩa xã hội, đó là sự bỏ qua có kế thừa, chọn lọc, đồng thời cũng là


14

tôn trọng quy luật vận động khách quan của xã hội nớc ta. Chúng ta bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa, bỏ qua chế
độ chính trị t bản chủ nghĩa...mặt khác chúng ta lại tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt đợc dới chế độ t bản chủ nghĩa, đặc biệt là về
khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lợng sản xuất, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đặt nền
móng cho chủ nghĩa xã hội. Để bỏ qua cần phải thiết lập chuyên chính vô sản,
xây dựng nhà nớc pháp quyền, nhng bản chất phải là nhà nớc của dân, do dân
và vì dân. Đồng thời phải mở rộng quan hệ giao lu, hợp tác quốc tế, nhất là
trao đổi về khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, chống khép kín, bế quan
toả cảng...song phải giữ đợc bản sắc của dân tộc, hoà nhập nhng không hoà
tan. Đặc biệt là về chính trị, phải giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, chống đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập...

Tóm lại, việc nhận thức đúng đặc điểm về quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là cơ sở trớc tiên để chúng ta hành động
đúng trong quá trình cải tạo, xây dựng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Nh
Lênin nhận xét: chủ nghĩa t bản nh là sản vật tự nhiên của nền sản xuất và tiểu
trao đổi, bởi vậy, chúng ta phải biết lợi dụng chủ nghĩa t bản để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Ông viết: Trong một nớc tiểu nông trớc hết các đồng chí phải
bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa t bản nhà nớc tiến
lên chủ nghĩa xã hội27.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với thế giới quan, t duy triết học duy vật biện
chứng, Ngời đã tìm thấy con đờng cứu nớc đúng đắn cho dân tộc, đó là con đờng cách mạng vô sản. Ngời chỉ rõ: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Mác- Lênin28. Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam không những đánh
giá cao vai trò lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn khẳng định chủ
nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và của toàn dân tộc Việt Nam và qua thực tiễn hơn 75
năm qua dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, dới sự lãnh đạo tài tình
của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi hoàn
toàn chấm dứt ách đô hộ hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, hàng trăm
năm của các thế lực thực dân cũ và mới, đa đất nớc thống nhất, giang sơn thu
về một mối, cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua hơn 20 năm đổi mới chẳng
những đất nớc Việt Nam đứng vững không bị sụp đổ (nh kẻ thù tởng) mà còn
đa nớc ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Công cuộc đổi mới ở nớc
ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đó đã góp thêm một bằng
chứng hùng hồn về sức sống và giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác- Lênin khi
mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã bám sát thực tiễn, không ngừng bổ sung lý
luận phù hợp với thực tiễn đa sự nghiệp cách mạng tiến lên, điều đó càng
27
28

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 44, tr 189.

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, tập 2, tr 268.


15

khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh.
Cách mạng cộng sản chủ nghĩa khác về chất đối với tất cả các cuộc cách
mạng trớc đó: nó xoá bỏ t hữu; xoá bỏ giai cấp. Mác viết: Trong hết thảy các
cuộc cách mạng trớc đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên nh cũ,và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là
một sự phân phối lao động mới cho những ngời khác; trái lại, cách mạng cộng
sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất lao động trớc đây, nó xoá bỏ lao
động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp 29.
Cách mạng cộng sản chủ nghĩa không chỉ xoá bỏ những quan hệ kinh tế, chính
trị cũ, mà còn cải tạo đông đảo quần chúng...do đó cách mạng là cần thiết: Để
ý thức cộng sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra đợc trong đông đảo quần chúng, cũng
nh để đạt đợc chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự biến đổi của đông
đảo quần chúng, sự biến đổi này chỉ có thể thực hiện đợc trong một phong trào
thực tiễn, trong cách mạng; do đó, cách mạng là tất yếu... có năng lực xây dựng
cơ sở mới cho xã hội30.
Nh vậy, đây là cơ sở khoa học để khẳng định con đờng và tính tất yếu đi lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta. Đi lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta là hoàn toàn phù hợp với quy luật khách
quan và xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Việc bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở
nớc ta vẫn nằm trong tiến trình lịch sử tự nhiên, vẫn nằm trong tiến trình phát triển
chung của thế giới. Mặt khác, đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ
nghĩa ở nớc ta nó vẫn phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại ngày naythời đại ngày nay là thời đại qua độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế
giới.
2. Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để nớc ta bỏ
qua chế độ t bản chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu

thế toàn cầu hoá, đã quốc tế hoá lực lợng sản xuất. Vì thế ở đây đã chứa đựng
dới một hình thức ít nhiều phát triển nh Ăngghen đã phân tích đó nh là
những phơng tiện để xoá bỏ chủ nghĩa t bản. Chính vì vậy, thông qua con đờng giao lu hợp tác đa phơng hoá, đa dạng hoá để các nớc chậm phát triển có
thể đi vào con đờng phát triển rút ngắn, ngay cả khi chủ nghĩa t bản vẫn còn
tồn tại và phát triển.
Đây là một tính quy luật về sự giao lu giữa các nền văn minh với nhau
mà trớc hết là nền sản xuất vật chất, mối quan hệ kinh tế, tạo ra các hình thức
trao đổi sản phẩm do chính mình làm ra và dẫn đến sự giao lu với các bộ phận
của kiến trúc thợng tầng. Nhà nớc là sản phẩm của cơ sở sản xuất, xã hội, bao
gồm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát
triển nhất định của những lực lợng sản xuất, bao gồm toàn bộ đời sống thơng
29
30

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 100.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 100.


16

nghiệp và công nghiệp của một giai đoạn xã hội, trong bất cứ thời đại nào
cũng là cơ sở của nhà nớc nó quyết định đến lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất, nó giao lu với nhau trong khu vực và ngoài khu vực.
Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa, không phải
cho đến bây giờ mới xuất hiện, mà nó là mục đích ngay từ khi Đảng cộng sản Việt
Nam ra đời năm 1930. Trong chính cơng sách lợc vắn tắt cho đến luận cơng chính
trị năm 1930, Đảng ta đã khẳng định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ t bản chủ nghĩa. Đó là sự vận dụng đúng đắn sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Đó là Đờng lối chính trị đúng
đắn, phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với nguyện vọng của giai cấp và khát vọng
cháy bỏng của toàn dân tộc Việt Nam.

Do tính chất, đặc điểm của thời đại, sự phát triển rất cao của lực lợng
sản xuất, tính chất quốc tế hoá của lực lợng sản xuất đã tạo nên một xu thế
mới trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc. Nớc ta nằm trong quỹ đạo chung
của xu thế đó, với nhận thức nhạy bén, chủ động, Đảng ta đã nhanh chóng
nắm bắt thời cơ, khắc phục đợc những thách thức lớn của thời đại tác động
đến nớc ta. Trớc hết, thắng lợi trong thế kỷ XX, mà trực tiếp là thành tựu của
hai mơi năm đổi mới, làm cho thế và lực của ta lớn mạnh lên nhiều. đánh giá
về thành tựu sau hai mơi năm đổi mới, con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc
ta hiện nay, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ X đã
khẳng định: Công cuộc đổi mới ở nớc ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử. Đất nớc đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản
và toàn diện. Kinh tế tăng trởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, phát triển kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa đợc đẩy mạnh. Đời sống
nhân dân đợc cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc đợc củng cố và tăng cờng. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh đợc giữ
vững. Vị thế nớc ta trên trờng quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp
của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nớc tiếp tục đi lên
với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đờng lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống những quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội chủ nghĩa và con đờng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản31. Có thể thấy điều
đó, trong tốc độ phát triển kinh tế, tăng trởng tơng đối vững chắc, đời sống của nhân
dân đợc cải thiện đáng kể, một bộ phận nhân dân ta đã trở lên giàu có, văn hoá,
khoa học kỹ thuật đợc phát triển tốt, vị thế của nớc ta trên trờng quốc tế đợc tăng cờng, chúng ta đã tham gia rất nhiều vào các tổ chức quốc tế với một vai trò hết sức
quan trọng, nh tổ chức Liên hợp quốc, ASEAN, sắp tới chúng ta gia nhập vào
WTO...Trong quá trình hội nhập chúng ta đã tận dụng đợc rất nhiều thành tựu của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại để củng cố, xây dựng,
phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, xây dựng đợc các ngành
31


Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Hà Nội 2006, tr 10- tr 11.


17

công nghiệp mũi nhọn, các công trình, cơ sở hạ tầng lớn quan trọng, với cách đặt
vấn đề đi tắt, đón đầu, với nhiều hình thức, bớc đi thích hợp ở nhiều trình độ phát
triển, phù hợp với trình độ phát triển ở nớc ta. Phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, từng bớc làm chuyển biến nớc ta từ một nớc nông
nghiệp, lạc hậu, trình độ sản xuất thấp, dần dần trở thành một nớc có nền công
nghiệp với mục tiêu từ nay đến năm 2020.
Thực tiễn đã chứng minh, từ một nớc nông nghiệp thiếu lơng thực trầm
trọng và kéo dài, đến nay chúng ta đã trở thành nớc đứng thứ hai thế giới về xuất
khẩu gạo, đó là một điều kỳ diệu, mà thế giới phải ghi nhận, ở một nớc đi lên từ một
nền nông nghiệp sản xuất nhỏ là phổ biến, trình độ canh tác còn thấp kém. Từ một
nớc có tỷ lệ 90% dân số mù chữ, nay nớc ta đã phổ cập tiểu học, một số tỉnh, thành
phố đã phổ cập trung học cơ sở và trung học phổ thông, tỷ lệ cán bộ có trình độ đại
học và sau đại học ngày càng tăng nhanh, nớc ta có nhiều đoàn tham dự các cuộc
thi thế giới đã giành đợc kết quả cao. Khó khăn lớn nhất hiện nay, từ khi các nớc xã
hội chủ nghĩa ở Đông âu và Liên xô sụp đổ, nớc ta không còn có sự giúp đỡ nh thời
gian trớc đây, vốn, khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại... còn thiếu thốn nhiều.
Chúng ta tởng chừng không thể đứng vững, nhng với Đờng lối tự chủ, độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, bằng chiến lợc, sách lợc khôn khéo, nhạy bén của
Đảng cộng sản Việt Nam, chẳng những nớc ta đứng vững qua cơn bão táp của sự
sụp đổ dây truyền của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa, mà nớc ta còn phát triển
đi lên nh một tấm gơng mẫu mực về đờng lối độc lập, tự chủ. Mặt khác, quan hệ
giao lu, hợp tác với hầu hết các quốc gia, các tổ chức quốc tế, vị thế của nớc ta trên
trờng quốc tế tăng lên, thế giới đã khâm phục nớc ta trong đấu tranh giải phóng dân
tộc, nay khâm phục chúng ta trên con đờng đổi mới hội nhập quốc tế. Điều đó, tạo

cho chúng ta có điều kiện thuận lợi chuyển giao công nghệ hiện đại phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, cùng với vốn đầu t từ nhiều nguồn
khác nhau, chúng ta có thể khẳng định rằng, nớc ta tiếp tục có sự phát triển, kinh tế
tiếp tục tăng trởng, đúng nh Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc của
Đảng lần thứ X đã khẳng định. Đón nhận những tác động của điều kiện khách quan
hết sức phức tạp và nhạy cảm, với một đờng lối độc lập, tự chủ, chúng ta có quan
điểm hợp tác rõ ràng, hội nhập một cách chủ động, hội nhập chứ không hoà tan, đổi
mới chứ không đổi màu, hợp tác bình đẳng các bên đều có lợi, chứ không phải hợp
tác vô nguyên tắc, phát triển kinh tế- xã hội và phát triển đất nớc bằng mọi giá.
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu
hoá, thành tựu các nớc t bản đa lại cũng là điều kiện thuận lợi để chúng ta sử dụng
nh những bớc trung gian quá độ về kinh tế để đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế
tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và nớc ta nói riêng. Chính sự
nghiệp đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, mà trớc hết là đổi mới t duy chính trị
về đổi mới và phát triển kinh tế do Đại hội VI mở ra, đã giúp chúng ta đón nhận
những tác động của điều kiện khách quan nh những luồng gió mới tốt lành thắp
sáng soi đờng cho dân tộc ta. Đó là sự nhận thức đúng quy luật vận động một cách
khoa học, cách mạng, biện chứng, lịch sử, cụ thể. Điều đó đã nhấn chìm những t tởng bảo thủ trì trệ muốn kìm hãm sự phát triển của đất nớc, của dân tộc, những t t-


18

ởng dập khuôn máy móc siêu hình, hoài nghi, thiếu khoa học cũng chỉ là sự yếu
kém về nhận thức. Điều đó đã vợt lên trên t tởng bỏ qua phủ định sạch trơn, thiếu
biện chứng.
Thực tiễn sau hai mơi năm đổi mới đã chứng minh điều đó, những điều kiện
khách quan, xu thế thời đại hiện nay đối với dân tộc ta là cơ hội thuận lợi giúp đất nớc ta hoàn toàn có khả năng bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa để quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, trong điều kiện các nớc xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và Đông âu sụp
đổ. Chỉ có điều, điều kiện khách quan thuận lợi đó muốn trở thành hiện thực, nó phụ
thuộc rất lớn vào sự tiếp nhận, kết hợp, chuyển hoá của những nhân tố chủ quan, đó

là Đảng cộng sản Việt Nam và toàn thể dân tộc Việt Nam chúng ta.
Công cuộc đổi mới vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội do Đảng cộng sản
Việt Nam khởi xớng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), đến
nay đã đạt đợc những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Đúng nh Báo cáo Chính trị tại
Đại hội đại biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ X đã khẳng định: Công cuộc đổi mới
ở nớc ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử 32, đã đa cách mạng nớc
ta bớc sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Có thể khẳng định rằng, vai trò to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới, trong nhận thức và nắm bắt điều kiện khách quan thuận lợi để
chuyển hoá, phù hợp với điều kiện thực tiễn phát triển của Việt Nam, phù hợp với
xu thế rõ rệt của thời đại, nó phù hợp với tâm t nguyện vọng cháy bỏng của toàn dân
tộc ta. Đó là nhân tố chủ quan- nhân tố chính trị hết sức quan trọng có tính chất
quyết định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Bàn về nhân tố chính
trị, Lênin viết: Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, song, chính trị không
thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế33.
Đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ở nớc ta là nguyện
vọng, quyết tâm và ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Đây là sự lựa
chọn chính trị tự nguyện của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, không có sự lựa
chọn nào khác, không có con đờng nào khác, chỉ có con đờng đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Những cơ sở kinh tế kỹ thuật và tài nguyên quốc
gia cũng nh thành quả to lớn của sự nghiệp cách mạng là những tiền đề kinh tế kỹ
thuật để chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nớc hơn hai mơi năm
qua đã khẳng định tính đúng đắn của việc bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Nh Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn Quốc của Đảng lần thứ X đã khẳng định những thành tựu trong công cuộc đổi
mới đất nớc sau hai mơi năm qua.
Thực tiễn lịch sử nhân loại đã chứng minh, do những điều kiện không gian,
thời gian khác nhau, có một số nớc trong quá trình phát triển không đi theo tuần tự
tất cả các hình thái kinh tế- xã hội theo lợc đồ từ thấp đến cao (nh đã chứng minh ở

32

Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Hà Nội 2006, tr 10- tr 11.
33

V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1976, tập 42, tr 349- tr 350.


19

trên). Nhng xét về toàn diện quá trình phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội là
quá trình lịch sử tự nhiên, là cơ sở khoa học để khẳng định chúng ta có đủ điều kiện
để đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa. Mặc dù, hiện nay chúng
ta có cả những thuận lợi và khó khăn, có cả cả thời cơ và thách thức.
Trớc hết về những thuận lợi đó là: Đảng ta là đảng Mácxít chân chính có bản
lĩnh chính trị kiên định vững vàng và giàu kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng- đây là một yếu tố chính trị có ý nghĩa quyết định trong việc
chuyển hoá nhân tố của thời đại thành sức mạnh bên trong của dân tộc; nhân dân ta
có truyền thống yêu nớc nồng nàn, luôn gắn bó với chế độ, và tin tởng vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, tạo ra những động lực to lớn của cách mạng Việt
Nam. Những cơ sở kinh tế chính trị- xã hội của chủ nghĩa xã hội ở nớc ta ngày càng
đợc củng cố. Mặt khác, với nguồn nhân lực dồi dào, tài nguyên đất nớc phong phú
là những điều kiện thuận lợi để chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những thành
tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nớc đã tạo ra cho chúng ta có thế và lực mới.
Nớc ta nằm ở khu vực kinh tế phát triển năng động, xu thế hội nhập mở cửa sẽ tiếp
thu trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến tạo ra những thuận lợi cho quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp phải những khó khăn thách thức, cản trở quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội đó là: Do có sự tác động của điều kiện quốc tế đa đến

nh sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực, chủ nghĩa đế quốc tập trung
chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, xu hớng toàn cầu hoá tạo ra sự cạnh
tranh gay gắt; hậu quả của chế độ đô hộ phong kiến hàng nghìn năm, chiến tranh
tàn khốc kéo dài ròng rã, tàn d t tởng, tâm lý, tập quán cũ...đó là những trở lực cha
thể khắc phục ngày một, ngày hai. Mặt khác, trong quá trình đổi mới đất nớc còn
nảy sinh các nguy cơ nh chệch hớng xã hội chủ nghĩa, tụt hậu về kinh tế, diễn biến
hoà bình, tệ quan liêu tham nhũng...Từ những khó khăn trên đây chúng ta thấy thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng hết sức khó khăn và
phức tạp.
Bằng hệ thống lý luận cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin
chúng ta có thể khẳng định rằng trong điều kiện hiện nay Việt Nam có đủ điều kiện
và khả năng đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nớc ta, đó là con đờng hợp quy luật và có khả
năng hiện thực.
Thực tiễn đã chứng minh, không phải bất cứ một lực lợng nào trong xã hội
cũng có thể làm đợc, mà chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mới có đủ khả năng gánh
vác- chính lịch sử đã đặt lên vai những ngời cộng sản chân chính Việt Nam trọng
trách đó. Từ khi có Đảng lãnh đạo, giành đợc chính quyền và Đảng trở thành Đảng
cầm quyền, với lý luận sắc bén cách mạng và khoa học, với bản lĩnh chính trị vững
vàng Đảng đã vận dụng sáng tạo vào cách mạng Việt Nam, mới mời năm tuổi Đảng
lãnh đạo cách mạng giành đợc chính quyền về tay nhân dân bằng cách mạng Tháng
Tám năm 1945; tiếp tục lãnh đạo cách mạng đấu tranh giành và giữ chính quyền
trong điều kiện ngàn cân treo sợi tóc, song cách mạng vẫn vợt qua. Đảng tiếp tục


20

lãnh đạo chín năm trờng kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lợc và giành đợc
thắng lợi Tháng 5 năm 1954, đa Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cùng với cả
dân tộc Đảng tiếp tục lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam,

đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới của tên đế quốc đầu sỏ nhất thế giới
đó là đế quốc Mỹ xâm lợc; sau 30 năm ròng rã chúng ta đã giành đợc thắng lợi
bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy của cả dân tộc vào mùa xuân 1975, đánh dấu
bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đại thắng. Chiến thắng đế quốc Mỹ năm 1975,
cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bớc xây dựng và thực hiện nhà nớc kiểu mớinhà nớc của dân, do dân và vì dân. Xây dựng hệ thống chính trị đủ mạnh để đa nền
kinh tế và đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Những kết quả đạt đợc đó, nó
đã minh chứng cho sự kiên định vững vàng của Đảng và nhân dân ta quyết tâm đi
lên chủ nghĩa xã hội, kiên quyết bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa ngay từ đầu mới
giành đợc quyền lãnh đạo, đó là sự nhất quán rất cao độ, không có gì lay chuyển đợc- đó là nguyên tắc bất di, bất dịch của Đảng và của cả dân tộc Việt Nam ta. Đồng
thời nó cũng chứng tỏ vai trò to lớn của Đảng cộng sản Việt Nam, chứng tỏ sự lãnh
đạo tài tình của Đảng trong việc sáng tạo, kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin vận dụng
vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, nhân tố kinh tế- lực lợng sản xuất- suy đến cùng là
nhân tố quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Song nhân tố chính trị- xét về
mặt chủ thể của lịch sử, đến lợt nó lại trở thành nhân tố quyết định trong bớc đờng
phát triển của mỗi dân tộc, nó thúc đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển theo con
đờng lịch sử tự nhiên của xã hội. Với t cách là nhân tố chủ quan, Đảng cộng sản
Việt Nam là nhân tố chính trị hàng đầu đã đợc khách quan hoá có đủ khả năng
nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan của lịch sử, đó là biết tiếp nhận và
chuyển hoá nhân tố khách quan của thời đại trở thành nguồn lực bên trong để tạo
thành sức mạnh vật chất to lớn để xây dựng đất nớc. Trớc hết là nhận thức đúng các
quy luật kinh tế, nó tồn tại và phát triển khách quan, song không phải lúc nào cũng
nhận thức đầy đủ, khoa học về nó, bởi vì quy luật xã hội thờng đợc bộc lộ lại thông
qua hoạt động và tác động của con ngời. Nh trớc thời kỳ đổi mới (1986) chúng ta
nhận thức quy luật kinh tế có mặt, có lúc còn sai lầm, còn chủ quan nóng vội, duy ý,
chí đốt cháy giai đoạn, triệt tiêu một số yếu tố của lực lợng sản xuất, áp đặt chủ
quan một số yếu tố của quan hệ sản xuất mới để nó đi trớc do đó, làm cho lực lợng sản xuất không phát triển, kinh tế đình trệ, xã hội rối ren...đời sống nhân dân
khổ cực. Song với đờng lối đổi mới đúng đắn, với tinh thần thẳng thắn nhìn thẳng
vào sự thật đổi mới t duy mà trớc hết là t duy kinh tế từ Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986), Đảng ta đã khắc phục đợc những sai lầm đó. Từng bớc Đảng đã nhận thức

đúng, sáng, rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội, về thực
tiễn cách mạng, về các quy luật kinh tế và các quy luật khác một cách khách quan
để phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay. Đúng nh Báo cáo
Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn Quốc của Đảng lần thứ X đã khẳng định: Đờng
lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn; hệ thống những quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa xã hội


21

và con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ
bản34. Chúng ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, phát triển nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giải phóng và thúc đẩy lực
lợng sản xuất phát triển nhanh, xây dựng đợc quan hệ sản xuất phù hợp với nhiều
hình thức sở hữu, phù hợp với trình độ tổ chức, quản lý, phân phối theo khả năng lao
động, vì vậy đã kích thích đợc ngời sản xuất. Mặt khác, Đảng ta đã giữ vững nguyên
tắc trong quá trình đổi mới. Báo Nhân Dân số ra ngày 13 tháng 6 năm 2006 viết:
Đã xác định đợc những nguyên tắc cơ bản của đổi mới:
1/ Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà là làm cho
mục tiêu ấy thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã
hội, bằng những hình thức, bớc đi và biện pháp thích hợp.
2/ Đổi mới nhằm phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, phù hợp điều
kiện, hoàn cảnh của Việt Nam; không máy móc, giáo điều.
3/ Đổi mới tổ chức và phơng thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, tăng cờng vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực quản lý của nhà nớc.
4/ Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời lắng nghe tiếp nhận một cách
nghiêm túc những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo
của Đảng và trong công tác xây dựng Đảng.

5/ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
6/ Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện
lịch sử mới35.
Với mục đích là phục vụ cho việc xây dựng một phơng thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa, do đó phải chăm lo đến đời sống của nhân dân lao động, bởi vì nguồn lực
con ngời là lực lợng sản xuất đặc biệt, có nh thế mới tạo động lực của sự phát
triển. Chính vì vậy đời sống nhân dân đợc cải thiện đáng kể, xã hội ổn định, điều đó
chứng minh tính đúng đắn của Đảng trong nhận thức và phát triển, tôn trọng quy
luật khách quan. Cùng với phát triển kinh tế trong nớc, chúng ta thực hiện chính
sách mở cửa thu hút vốn đầu t, tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế để nâng cao khả
năng phát triển kinh tế, chuyển giao công nghệ tiên tiến để phát triển lực lợng sản
xuất. Từng bớc tạo ra thế và lực mới cho nớc ta ngày càng lớn mạnh trên trờng quốc
tế. Đảng ta cũng đã xác định: Đã xác định về cơ bản chủ trơng, đờng lối, chính
sách phát triển kinh tế Việt nam. Đó là, chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung định hớng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trờng bớc đầu đợc
phác ra là kinh tế Việt Nam phải nâng lên tầm kinh tế tri thức, phải tạo ra thế mạnh
34

Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Hà Nội 2006, tr 10- tr 11.
35

Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Báo Nhân Dân, ngày 13-6-2006, tr 3.


22

của đất nớc, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải nâng cao đợc

đời sống của nhân dân, cải thiện đợc bộ mặt xã hội; kinh tế phát triển theo hớng đa
thành phần, đa sở hữu, các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng
trớc pháp luật, cùng phát triển, cùng hợp tác, cùng cạnh tranh lành mạnh, tạo thành
những mắt xích quan trọng hợp thành nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa; đa dạng hoá và nâng cao tính chủ động của các chủ thể làm kinh tế; kinh tế
nhà nớc nắm vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể, kinh tế t nhân đóng vai trò rất quan
trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế; hình thành các tập đoàn kinh tế
mạnh, đủ sức cạnh tranh với kinh tế thế giới; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế
giữa các vùng, miền cho phù hợp đặc điểm Việt Nam; kinh tế Việt Nam phải có
mối liên hệ hội nhập với kinh tế thế giới, độc lập trong đa dạng, hội nhập theo nhiều
chiều36.
Với quan điểm giữ vững độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong
bất cứ hoàn cảnh nào. Đảng ta đã có các quyết sách phù hợp làm cho sự nghiệp đổi
mới, phát triển đất nớc thu đợc những kết quả có ý nghĩa lịch sử. Thực tiễn sự
nghiệp đổi mới đã chứng minh sự nhận thức đúng đắn quy luật kinh tế một cách
khách quan, tạo cơ sở cho những bớc tiếp theo. Trong khó khăn càng thấy vai trò to
lớn của Đảng, vì vậy, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam luôn là nhân tố
quyết định đến sự thắng lợi của dân tộc ta.
Việc thực hiện nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ
nghĩa, đó là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, dễ nảy sinh tự phát đi lên kinh tế
t bản chủ nghĩa, dễ có nguy cơ đi chệch hớng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Đảng
ta luôn coi trọng việc hoàn thiện cơ chế chính sách, pháp luật, vừa bảo đảm quản lý
đợc sự phát triển của nền kinh tế, song cũng không cản trở sự phát triển, tạo ra môi
trờng kinh tế thuận lợi, năng động để thu hút vốn đầu t, bằng luật đầu t cởi mở, bảo
đảm đợc độc lập tự chủ của nền kinh tế phát triển theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy, trong đờng lối kinh tế phát triển đất nớc, Đảng ta đã xác định: Đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đa nớc ta trở thành một nớc công nghiệp, u tiên phát triển lực lợng sản xuất, đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp định hớng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao
độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế

quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trởng kinh tế đi liền với
phát triển văn hoá, từng bớc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trờng37. Để tiếp tục
thực hiện Chiến lợc phát triển kinh tế- xã hội mời năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội
IX của Đảng đề ra, Đại hội X đã xác định mục tiêu và phơng hớng tổng quát của 5
năm 2006- 2010 là: Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt
mọi nguồn lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc; phát triển văn hoá; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cờng quốc phòng và an ninh, mở rộng quan
hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính
36

Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Báo Nhân Dân, ngày 13-6-2006, tr 3.

37

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr 24.


23

trị- xã hội; sớm đa nớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm
2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp theo hớng hiện đại38.
Nh vậy, với nhận thức đầy đủ khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và
phát triển, một lần nữa khẳng định tính sáng tạo của Đảng ta, trong việc vận
dụng đúng quy luật kinh tế khách quan. Đảng ta đã chỉ rõ phát triển kinh tế là
yếu tố đi trớc quyết định là nhiệm vụ trung tâm, song cũng rất cụ thể. Việc
hiện đại hoá phải thể hiện cần và có thể rút ngắn thời gian so với nớc đi trớc,
vừa có những bớc đi tuần tự, vừa có bớc nhảy vọt, tăng trởng phải bền vững đi
đôi với công bằng tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trờng, nâng cao đời sống của

nhân dân trên tất cả các mặt kinh tế xã hội văn hoá tinh thần...chỉ ra nguồn lực
bên trong và nguồn lực bên ngoài để phát triển.
Cùng với nhân tố chính trị là Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng ta không
bao giờ coi công lao ấy, sự nhiệp ấy là tự mình làm ra, mà Đảng rất coi trọng
các nhân tố khác, biết phát huy nội lực và ngoại lực, tiềm năng của đất nớc về
kinh tế, mà Đảng rất coi trọng đến lực lợng quần chúng nhân dân, coi đó là sự
nghiệp của quần chúng. Bởi vì, dân tộc ta có truyền thống cực kỳ quý báu, đó
là truyền thống anh hùng trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng
tạo, chịu khó thông minh trong lao động sản xuất và tinh thần tự lực, tự cờng
xây dựng đất nớc, phòng chống thiên tai...truyền thống ấy tạo nên bản sắc văn
hoá Việt Nam, tạo thành động lực quan trọng trong phát triển đất nớc. Bằng
việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng
đất nớc, lại một lần nữa khẳng định tính đúng đắn sáng tạo của Đảng trớc tình
hình mới. Kế thừa truyền thống quý báu của dân tộc, Đảng ta luôn giơng cao
ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, đó là đờng lối chiến lợc đúng đắn, là nguồn
sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của
toàn xã hội. Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp,
các thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng, miền của đất nớc,
ngời trong Đảng và ngời ngoài Đảng ... lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc,
thống nhất, vì dân giàu nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh làm
điểm tơng đồng. Về vấn đề này Đảng đã xác định: Có những nhận thức mới
về đại đoàn kết dân tộc với tinh thần phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc vì dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; tiếp
tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khẳng
định đúng yếu tố lợi ích, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, kết hợp hài
hoà các lợi ích thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp hài hoà lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính
đáng của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; xem dân chủ vừa là mục tiêu,

vừa là động lực của cách mạng, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu
38

Đảng cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khoá IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng, Hà Nội 2006, tr 15- tr 16.


24

nớc là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; đồng thuận xã hội là mẫu số chung nhằm đạt tới sự cố kết xã hội và
chống sự phân biệt xã hội, áp bức giai cấp; vai trò giám sát, phản biện xã hội
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đợc xem nh là những nhân tố mới
nhằm mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; nhận thức tín ngỡng, tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đã, đang và sẽ tồn tại cùng nhau
trong cuộc hành trình đổi mới, tiến lên dới lá cờ đại nghĩa của dân tộc39.
Có thể nói trong thời khắc hết sức quan trọng của đất nớc, chúng ta lại
tự hào, có Đảng thông minh, trí tuệ, sáng tạo, biết vận dụng cơ hội, vợt qua
thách thức đề ra đợc Đờng lối chính trị đúng đắn. Chúng ta càng tự hào khi
Đảng ta không chỉ có trí tuệ mà còn biết nhìn thẳng vào sự thật, sửa chữa,
khắc phục những khuyết điểm sai lầm, trên cơ thể của chính bản thân Đảng,
để cho Đảng càng khoẻ mạnh, trởng thành đáp ứng đợc với yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Đảng ta đã xác định: Trong hai mơi
năm đổi mới, Trung ơng các khoá đã tập trung lãnh đạo công tác xây dựng
Đảng và đổi mới hệ thống chính trị. Những vấn đề mới về xây dựng Đảng thể
hiện ở các báo cáo tổng kết, ở tinh thần đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nhằm
chống nguy cơ sai lầm về đờng lối, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
Đảng, sai lầm về lựa chọn và bố trí cán bộ; tệ tham nhũng lãng phí, quan liêu
xa rời nhân dân, xa rời thực tế; xây dựng đạo đức, nhân cách đảng viên; nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch,

vững mạnh; giữ vững ổn định chính trị; giải quyết một bớc vấn đề đảng viên
làm kinh tế40. Chúng ta có nói nhiều, bao nhiêu đi chăng nữa về vai trò của
Đảng, của nhân dân ta cũng không thể hết đợc, mà bằng chính thành tựu Đảng
đem lại qua hai mơi năm đổi mới đã nói thay điều đó.
Qua phân tích những điều kiện khách quan, nhân tố chủ quan trong nớc
và quốc tế, xu thế thời đại...chúng ta một lần nữa khẳng định con đờng đi lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là hợp với quy luật vận động
khách quan của tiến trình lịch sử, là cơ sở khoa học và cách mạng, đó là con
đờng hợp quy luật và ngày càng trở thành hiện thực. Sự nhận thức đúng đắn
và nhất quán trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng. Thông qua
đó Đảng ta và nhân dân ta đã không đi vào con đờng t bản chủ nghĩa- con đờng tiếp tục bị áp bức bóc lột bất công- để đi vào kỷ nguyên mới kỷ nguyên
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nớc ta độc lập tự do, nhân
dân ta đợc hởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng đợc học hành, đó là con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.
Kết luận

39
40

Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Báo Nhân Dân, ngày 13-6-2006, tr 3.
Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Báo Nhân Dân, ngày 13-6-2006, tr 3.


25

Chúng ta khẳng định rằng, Đảng ta và nhân dân ta lựa chọn con đờng đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn,
sáng tạo. Con đờng đi nh vậy là hoàn toàn có cơ sở khoa học cả về lý luận và

thực tiễn, là con đờng hiện thực phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên. Song
để thực hiện thắng lợi, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải biết chủ động tiếp
nhận tối đa những điều kiện khách quan thuận lợi để chuyển hoá thành nội lực
tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển kinh tế, đồng thời phát huy tính năng
động của nhân tố chủ quan trong việc nắm bắt thời cơ định ra đờng lối chiến lợc, sách lợc một cách đúng đắn, đặc biệt là vai trò lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Phát huy vai trò to lớn của toàn dân tộc trong quá trình xây
dựng đất nớc, đồng thời phải trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, không ngừng bổ sung, phát triển lý
luận, tổng kết thực tiễn trong điều kiện lịch sử mới. Chúng ta thấy rằng triết
học Mác là học thuyết phản ánh thế giới vật chất luôn luôn vận động phát
triển, luôn là hệ thống mở và đợc bổ sung hoàn thiện, coi triết học của Mác
chỉ là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động, cần phải vận dụng một cách
sáng tạo trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Bàn về vấn đề này, Mác và
Ăngghen viết: Lý luận của chúng tôi không phải là một giáo điều, mà là sự
giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao hàm trong bản thân nó một
loạt những giai đoạn kế tiếp nhau 41. Lênin đã chỉ ra rằng: Chúng ta không
hề coi lý luận của Mác nh là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa
học mà những ngời xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống 42. Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết tiếp: Nói cách khác chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó. Dù sao thì
cũng không thể cấm bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đa
thêm vào đó những t liệu mà Mác ở thời mình không thể có đợc43.
Nh vậy, kiên định con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta hiện nay
không trái với nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, phù hợp với quy luật
khách quan, đồng thời có sự bổ sung, sáng tạo, vận dụng vào điều kiện cụ thể
của đất nớc. Đảng ta vừa phải tránh giao động, vừa phải tích cực chủ động tìm
tòi, vận dụng sáng tạo trong điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam, bởi vì chúng
ta đi lên chủ nghĩa xã hội không có mô hình có sẵn, cha có tiền lệ trong lịch
sử, do vậy vốn đã khó khăn nay còn khó khăn hơn. Bàn về mô hình chủ nghĩa

xã hội chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ rõ: Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản
không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tởng
mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong
trào hiện thực, xoá bỏ trạng thái hiện nay44.
Chúng ta bám chắc vào cơ sở khoa học để đấu tranh phê phán những quan
điểm duy tâm về xã hội bảo vệ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, tập 36, tr 785.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.
43
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001, Tập 1, tr 466.
44
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 3, tr 51.
41
42


×