Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

VẤN đề có TÍNH QUY LUẬT của sự HÌNH THÀNH tư TƯỞNG TRIẾT học ý NGHĨA TRONG NGHIÊN cứu LỊCH sử TRIẾT học HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.81 KB, 23 trang )

Những vấn đề có tính quy luật của sự hình thành
và phát triển t tởng triết học- ý nghĩa trong nghiên cứu lịch
sử triết học hiện nay

1. Mở đầu
Những học thuyết triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng
thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI tr.CN ở ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, La Mã
và ở một số nớc khác thời kỳ cổ đại từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ đợc
thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Triết học là hình thái ý thức xã hội ra
đời, tồn tại, phát triển cùng với lịch sử xã hội loài ngời đến nay. Lịch sử triết
học là lịch sử phát triển của t tởng triết học qua các giai đoạn khác nhau của
xã hội. Nh vậy, yếu tố nào mang tính quy luật đã tác động, chi phối đến sự
hình thành, phát triển những t tởng triết học đó?
Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, lịch sử triết học có hai nhóm
tính quy luật: nhóm tính quy luật phản ánh và nhóm tính quy luật giao lu.
Nhóm tính quy luật phản ánh bao gồm phản ánh điều kiện kinh tế, xã hội và
sự phát triển khoa học nhất là khoa học tự nhiên. Nhóm tính quy luật giao lu
bao gồm giao lu đồng loại và giao lu khác loại. Giao lu đồng loại bao gồm
giao lu theo lịch đại và giao lu theo đồng đại. Giao lu khác loại bao gồm giao
lu giữa triết học với các hình thái ý thức xã hội khác và giao lu giữa các hệ
thống triết học khác nhau.
2. Nội dung
Theo quan điểm mácxít, lịch sử t tởng triết học đợc phát sinh, phát triển
tuân theo những tính quy luật sau đây:
Một là, sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội.
Sự phát triển của t tởng triết học- một hình thái ý thức xã hội, phụ thuộc
vào tồn tại xã hội, mà trớc hết là phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất
vật chất. Mác khẳng định: Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con ngời,
và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: ngời ta phải có khả năng sống đã rồi
mới có thể làm ra lịch sử. Nhng muốn sống đợc thì trớc hết cần phải có thức


ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Nh vậy, hành vi lịch sử
đầu tiên là việc sản xuất trong những t liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy,
việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch
sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng nh hàng nghìn năm
về trớc, ngời ta phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời
sống con ngời1.
Trong lịch sử Phơng Đông cổ, trung đại là một vùng đất rộng lớn trải dài
từ Ai Cập, Babilon, ấn Độ tới Trung Quốc, điều kiện địa lý khá thuận lợi cho
con ngời cổ đại tồn tại và phát triển. Nơi đây đã có các trung tâm văn minh lớn
xuất hiện nh: nền văn minh sông Nin (Ai Cập), nền văn minh sông Tigơrơ và
Ơphơrát (Irắc), nền văn minh sông Hằng ( ấn Độ) và nền văn minh sông
Hoàng (Trung Quốc)... đã tạo nên các trung tâm kinh tế lớn, do đó có điều
kiện để phát triển kinh tế; c dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt, chăn
nuôi, phát triển thủ công nghiệp và thơng nghiệp... cùng với những nền văn
minh trên, những t tởng triết học, văn hoá đợc hình thành, phát triển hết sức đa
dạng và phong phú ở thời kỳ đó. Nổi bật nhất là hai trung tâm lớn đó là Trung
Quốc và ấn Độ.
Thời kỳ ấn Độ cổ đại (khoảng từ thiên niên kỷ thứ II tr.CN đến thế kỷ
thứ I tr.CN). Đất nớc ấn Độ là một nớc lớn ở miền Nam châu á, hai mặt Đông
Nam và Tây Nam giáp ấn Độ Dơng, phía Bắc là dãy núi Hymalaya, phía Nam
1

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 3, tr 39- tr 40.

1


là vùng đồng bằng ấn- Hằng do sông ấn, sông Hằng và sông Bramapoutra
chở phù sa bồi đắp nên. Do đó nền sản xuất vật chất phát triển mạnh nh: thuỷ
lợi, nghề thủ công nghiệp, buôn bán... từ nhu cầu đó của xã hội đã tạo ra động

lực mạnh mẽ cho khoa học phát triển, đây là thời kỳ phát triển t duy trừu tợng
của ngời ấn Độ cổ đại.
Về chế độ chính trị- xã hội: chế độ thị tộc tan rã, xã hội phân chia thành
các giai cấp khác nhau; các quốc gia chiếm hữu nô lệ phát triển và thờng gây
chiến tranh thôn tính lẫn nhau, dẫn tới hình thành các quốc gia lớn, các vơng
triều thống nhất ở ấn Độ; làm cho xã hội luôn diễn ra các cuộc đấu tranh hết
sức quyết liệt giữa các lực lợng đối lập. Thời kỳ này cũng hình thành hệ thống
các tôn giáo lớn ở ấn Độ cổ đại. Những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị- xã
hội đó là tiền đề về lý luận và thực tiễn làm nảy sinh và phát triển những t tởng
triết học ấn Độ cổ, trung đại. Triết học ra đời lý giải về nguồn gốc, nguyên lý
của vũ trụ, giải thích đời sống tâm linh và nỗi khổ của con ngời v.v..
Một số đặc điểm về t tởng triết học ấn Độ cổ, trung đại: bớc đầu đặt ra
và giải quyết nhiều vấn đề của triết học nh về bản thể luận, nhận thức luận,
nhân sinh quan, đạo đức...Triết học ở thời kỳ này đã thể hiện tính biện chứng
và tầm khái quát khá sâu sắc, đã đem lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng
di sản triết học của nhân loại. Triết học ấn Độ cổ, trung đại đã quan tâm giải
quyết vấn đề đời sống tâm linh, gắn với đời thực, việc thực. Triết học ấn Độ
cổ, trung đại trong mấy nghìn năm phát triển không diễn ra cuộc cách mạng t
tởng, nó chỉ phát triển dới hình thức chú thích, diễn giải, chỉ có sự phát triển
kế thừa, không có sự phủ định các học thuyết trớc đó. Hầu hết các trờng phái
đều biến đổi theo xu hớng từ vô thần đến hữu thần, từ ít hay nhiều duy vật
sang duy tâm hoặc nhị nguyên. Điều đó phản ánh sức ỳ của xã hội ấn Độ cổ,
trung đại- một xã hội dựa trên cơ sở của phơng thức sản xuất châu á trong
suốt mấy nghìn năm lịch sử.
Thời kỳ Trung Quốc cổ, trung đại (khoảng thiên niên kỷ thứ V tr.CN đến
cách mạng Tân hợi 1911), nền sản xuất vật chất phát triển mạnh chủ yếu là
trồng lúa nớc, sử dụng công cụ bằng đá, gỗ, đồ đồng, đồ sắt để thâm canh, thủ
công nghiệp và thơng nghiệp phát triển...Về chính trị xã hội, từ chế độ thị tộc
thiên nhợng phát triển đến chế độ thế tập vơng vị- chế độ phong kiến hình
thành và phát triển, duy trì , kéo dài suốt mấy chục thế kỷ (đến khi cách mạng

tân hợi 1911 mới kết thúc). Duy trì chế độ phong kiến trung ơng tập quyền,
nhà nớc cho phép mua bán đất tự do, phát canh thu tô... cho nên đã xuất hiện
chế độ t hữu về tài sản. Trong xã hội xuất hiện một tầng lớp mới- tầng lớp
những ngời có của, các thế lực có kinh tế nó chi phối xã hội, do đó, làm cho
quyền lực của chính quyền trung ơng bị suy giảm... đất nớc Trung Hoa cổ đại
bị chia cắt, các nớc ch hầu đua nhau động binh, gây chiến tranh thôn tính lẫn
nhau hết sức tàn khốc, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, lòng dân ly tán,
trật tự lễ nghĩa, cơng thờng xã hội đảo lộn, đạo đức con ngời, xã hội suy đồi...
vơng đạo suy vi, bá đạo trị vì. Chính điều kiện lịch sử đó đã đặt ra nhiều vấn
đề buộc các nhà t tởng phải lý giải. Do nhu cầu của thực tiễn lúc đó triết học ở
Trung Quốc đợc hình thành và phát triển rực rỡ, nhất là thời kỳ Xuân thuChiến quốc; thời kỳ này đợc gọi là bách gia tranh minh nhằm giải quyết các
vấn đề thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội đang đặt ra. Kết quả là hàng loạt
hệ thống các quan điểm về chính trị- xã hội, triết học, đạo đức đã xuất hiện.
Một số đặc điểm về t tởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại: hầu hết
triết học đều hình thành ở thời kỳ cổ đại với nhiều trung tâm, tính độc lập giữa
các trung tâm lớn; các nhà triết học không phải là các nhà khoa học tự nhiên,
mà là các nhà hoạt động chính trị, đạo đức, tôn giáo, không có mục đích biên
soạn thành các tác phẩm chuyên về triết học- không tự nhận là nhà triết học.
Vì vậy, đối tợng phản ánh của triết học thời kỳ này là phản ánh đời sống chính
trị- xã hội, đạo đức tâm linh con ngời đặc biệt là sự phản ánh thống nhất trời,

2


đất và ngời; triết học Trung Quốc cổ, trung đại phân kỳ theo thời đại, không
phân kỳ theo lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội.
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại (khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ III tr.CN):
về điều kiện kinh tế xã hội, lực lợng sản xuất phát triển mạnh, xã hội phân
chia thành các giai cấp, phân công lao động xã hội phát triển mạnh mẽ, có lực
lợng lao động trí óc và lao động chân tay, nhờ đó mà khoa học cũng phát triển

mạnh, nó đem lại cho xã hội nhiều thành tựu vĩ đại: toán học (Talét, Pitago,
Ơclít...), vật lý học (Acsimét, Arixtốt, Đêmmôcít...), thiên văn học (Talét tìm
ra lịch 1 năm có 360 ngày và đêm...). Nhờ có sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học do đó, ở thời kỳ này các nhà khoa học đã khám phá ra những luận điểm
sai lầm của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo về vũ trụ, về con ngời...Vì vậy, cuộc
đấu tranh giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ trên lĩnh vực t tởng đặc biệt là
trên lĩnh vực triết học diễn ra hết sức gay gắt.
Một số đặc điểm về t tởng triết học Hy Lạp cổ, trung đại: phát triển
phong phú về trờng phái, sự phân chia và đối lập giữa các trờng phái triết học
duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình vô thần và hữu thần... Trong đó,
điển hình là cuộc đấu tranh của hai đờng lối triết học duy vật của Đêmôcrít và
triết học duy tâm của Platôn. Các hệ thống triết học ra đời cơ bản đi sâu vào
giải quyết các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận triết học: đó là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Tuy nhiên chủ nghĩa duy vật còn thô sơ mộc
mạc và phép biện chứng còn ở trình độ tự phát. Ăngghen viết: Hình thức thứ
nhất là triết học Hy Lạp. T duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác
tự nhiên...do đó mà sau này, nó buộc phải nhờng chỗ cho những cách nhìn
khác...Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình là đúng hơn so với những ngời Hy
Lạp, thì về toàn thể những ngời Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu
hình2.
Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị- xã hội hình thành triết học cổ điển
Đức: nớc Đức còn điển hình về chế độ phong kiến với 360 quốc gia tự lập
trong một liên bang Đức hình thức và lạc hậu. Giai cấp phong kiến thống trị
hầu hết các quốc gia đó, giai cấp t sản sống rải rác ở những vơng quốc nhỏ,
tách rời nhau, ít về số lợng, nhỏ bé về chính trị, yếu kém về kinh tế, vừa muốn
làm cách mạng vừa sợ cách mạng, nên đã thoả hiệp với giai cấp phong kiếntầng lớp quý tộc Phổ đang thống trị lúc bấy giờ; giữ lập trờng cải lơng trong
việc giải quyết những vấn đề phát triển đất nớc. Về khoa học tự nhiên phát
triển rất mạnh. Nớc Đức đầu thế kỷ XVIII chịu ảnh hởng của triết học khai
sáng Pháp, do đó, xuất hiện trào lu ánh sáng Đức...Từ những tiền đề đó đã đặt
nền tảng cho quan niệm mới về triết học. Đặc điểm nổi bật của triết học cổ

điển Đức thời kỳ này là: đã xây dựng đợc phép biện chứng mới, đề cao con
ngời, đề cao tri thức lý tính và xu hớng tích hợp tri thức của nhân loại.
Điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị- xã hội hình thành triết học Mác: Thứ
nhất về điều kiện kinh tế xã hội: vào những năm 40 của thế kỷ XIX chủ nghĩa
t bản đã phát triển sang một giai đoạn mới- giai đoạn đại công nghiệp. Mác
viết: Giai cấp t sản, trong quá trình thống trị giai cấp cha đầy một thế kỷ, đã
tạo ra những lực lợng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lợng sản xuất của
tất cả các thế hệ trớc kia gộp lại3. Mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa t
bản ngày càng phát triển. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân
chống lại giai cấp t sản ngày càng phát triển cả về quy mô và tính chất- giai
cấp vô sản đã bớc lên vũ đài chính trị của mình. Từ điều kiện kinh tế xã hội
nh vậy đòi hỏi phải có một lý luận mới dẫn đờng- khác về nguyên tắc so với lý
luận trớc đó trong lịch sử, triết học Mác ra đời đã đáp ứng yêu cầu đó.
2
3

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1994, Tập 20, tr 491.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 4, tr 603.

3


Có thể nói rằng điều kiện kinh tế xã hội mà trực tiếp là nền sản xuất vật
chất xã hội và đấu tranh giai cấp là yếu tố chi phối đến sự hình thành và phát
triển của các t tởng triết học ở mỗi thời kỳ. Triết học ra đời khi lực lợng sản
xuất phát triển mạnh có sự phân công lao động xã hội, có ngời lao động chân
tay, có ngời lao động trí óc. Những ngời lao động trí óc chuyên nghiên cứu
trên lĩnh vực khoa học, qua đó các ngành khoa học phát triển trong đó có triết
học. Mác viết: Trớc hết con ngời cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải
lao động, trớc khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trớc khi có thể

hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học v.v.. 4. Đặc biệt, t tởng triết học là sự
phản ánh nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội; nó trực tiếp phụ thuộc vào
thực tiễn đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị xã hội. Do yêu cầu ấy đòi hỏi
phải có một lý luận, khái quát về sự phát triển của xã hội và dẫn đờng các cuộc
đấu tranh lúc bấy giờ, (triết học Trung Hoa cổ đại là một điển hình).
Ăngghen đã khái quát và đa ra một nguyên tắc phơng pháp luận cơ bản
định hớng cho việc nghiên cứu giới tự nhiên và lịch sử: Bằng chứng phải đợc
rút ra từ bản thân lịch sử...Bây giờ thì bất cứ ở đâu, vấn đề không còn là tởng tợng ra những mối liên hệ từ trong đầu óc, mà là phát hiện ra chúng từ những
sự thực5.
Hai là, sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc vào
sự phát triển của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên.
Trong lịch sử triết học, khoa học không phát triển thì triết học không có
khái quát mới. Trình độ phát triển của t duy triết học nhân loại phụ thuộc vào
trình độ nhận thức chung của nhân loại, tức là phụ thuộc vào sự phát triển của
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học phát triển, vừa là cơ sở, điều
kiện cho triết học phát triển. Ngợc lại triết học phát triển, vừa là kết quả, vừa
là cơ sở cho sự phát triển của các khoa học. Triết học với tính cách là một
khoa học phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học và văn hoá của nhân loại.
Ăngghen viết: Chủ nghĩa duy vật đã trải qua một loạt các giai đoạn phát
triển. Mỗi lần có một phát minh mang ý nghĩa thời đại ngay cả trong lĩnh vực
khoa học lịch sử- tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh khỏi thay đổi
hình thức của nó; và từ khi bản thân lịch sử cũng đợc giải thích theo quan
điểm duy vật chủ nghĩa thì ở đây, cũng mở ra một con đờng phát triển mới6.
Cả điều kiện kinh tế xã hội và trình độ phát triển khoa học, xét đến cùng quyết
định nội dung các luận thuyết triết học và trong chừng mực, quyết định cả
hình thức thể hiện t tởng triết học.
Thời kỳ cổ đại, triết học hoà tan với khoa học: các nhà khoa học đồng
thời là nhà triết học. Mác, Ăngghen đánh giá Đêmôcrít là: ông có bộ óc bách
khoa đầu tiên của Hy Lạp cổ đại, bởi vì ông vừa là nhà triết học, đạo đức học,
tâm lý học, toán học, sinh vật học, vật lý học, mỹ học, ngôn ngữ học, âm

nhạc...do vậy ông đã có nhiều cống hiến cho kho tàng tri thức nhân loại trong
đó có triết học.
Thời kỳ trung đại, triết học đứng trên khoa học; triết học là khoa học của
mọi khoa học (khoa học mà đặc biệt là khoa học tự nhên không phát triển),
triết học thời kỳ này mang tính chất kinh viện phục vụ cho tôn giáo và thần
học- nó chỉ bàn về mối quan hệ giữa các chung và cái riêng, giải thích cho sự
tồn tại của chúa.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 19, tr 166.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 449.
6 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, 1995, Tập 21, tr 409.
4
5

4


Thời kỳ hiện đại (từ khi xuất hiện triết học Mác), khoa học và triết học có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó triết học là hạt nhân, là phơng pháp
luận, còn khoa học là các ngành nghiên cứu cụ thể ở từng lĩnh vực khác nhau,
cung cấp thông tin, dữ liệu làm cơ sở để triết học có những khái quát mới.
Ăngghen nhắc lại cơ sở khoa học tự nhiên dẫn đến sự cáo chung của phép siêu
hình và sự hình thành phép biện chứng duy vật. Chính việc phát triển của khoa
học từ khoa học su tập về những vật chất bất biến sang khoa học hệ thống
hoá, khoa học về quá trình dẫn đến làm sụp đổ phơng pháp t duy siêu hình và
khẳng định phơng pháp t duy biện chứng. Ăngghen đánh giá ba phát minh vĩ
đại của thời đó là phát minh ra tế bào, phát minh ra định luật bảo toàn và
chuyển hoá năng lợng và học thuyết tế bào của Đácuyn, nhờ ba phát minh vĩ
đại đó mà khoa học tự nhiên có thể chứng minh những nét lớn của mối liên
hệ giữa các quá trình của tự nhiên không những trong các lĩnh vực riêng biệt,
mà cả mối liên hệ giữa các lĩnh vực riêng biệt ấy nói chung và có thể trình bày

một bức tranh bao quát về mối liên hệ trong tự nhiên 7. Qua phân tích, đấu
tranh có phê phán các học thuyết triết học trớc đó, Mác và Ăngghen đã chỉ ra
cơ sở duy tâm của triết học Hêghen, vạch ra mâu thuẫn chủ yếu giữa hệ thống
triết học bảo thủ, giáo điều với phơng pháp biện chứng cách mạng. Hệ thống
triết học của Hêghen đã coi thờng nội dung đời sống thực tế và xuyên tạc bức
tranh khoa học hiện thực. Chính phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã bất
lực trớc sự phân tích thực tiễn, phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật
chất và đặc biệt là bất lực trớc sự phân tích các sự kiện chính trị do không bám
sát thực tiễn, không bám vào sự phát triển của khoa học. Trong lĩnh vực xã hội
Phoiơbắc không bám sát thực tiễn, ông đa ra đạo đức, tình yêu và tôn giáo;
đạo đức của con ngời là tình yêu ngời với ngời, hạn chế hợp lý của bản thân
mình để đạt đến hạnh phúc; hạnh phúc là bẩm sinh, hạnh phúc là cơ sở của
đạo đức. Mặt khác Phoiơbắc mong muốn xoá bỏ tôn giáo nhng lại muốn xây
dựng một thứ tôn giáo mới- thứ tôn giáo tình yêu: tình yêu nam nữ là thiêng
liêng nhất. Ăngghen viết: Với t cách là nhà triết học, ông còn dừng lại ở nửa
đờng, nửa dới thì duy vật, nhng nửa trên thì lại duy tâm8. Mác và Ăngghen
đã xây dựng chủ nghĩa duy vật triết học chân chính khoa học bằng cách: bám
sát thực tiễn, bám sát sự phát triển của khoa học và xuất phát từ con ngời hiện
thực, con ngời hoạt động thực tiễn mà trớc hết là thực tiễn sản xuất vật chất và
thực tiễn đấu tranh chính trị để xây dựng nên học thuyết của mình- một chủ
nghĩa duy vật triết học hoàn bị, ở đó chủ nghĩa duy vật thì biện chứng, còn
phép biện chứng thì duy vật; lý luận triết học gắn bó chặt chẽ với thực tiễn- đó là
chủ nghĩa duy vật biện chứng cả trong tự nhiên và trong xã hội.
Nh vậy, triết học Mác ra đời đã chấm dứt tham vọng của nhiều nhà triết
học muốn biến triết học thành khoa học của mọi khoa học, đứng trên khoa
học. Mác và Ăngghen đã thực hiện đợc sự liên minh chặt chẽ giữa triết học
với khoa học cụ thể, giải quyết mối quan hệ đúng đắn giữa triết học với khoa
học cụ thể. Ăngghen viết: Chỉ có trong giai cấp công nhân thì cái khiếu lý
luận của ngời Đức mới tiếp tục tồn tại không tàn lụi đi...khoa học càng hành
động một cách dũng cảm và vô t thì nó càng phù hợp với lợi ích và nguyện

vọng của giai cấp công nhân9. Trên thực tế các ông đã xây dựng lý luận triết
học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học xã hội và khoa
học tự nhiên. Rõ ràng qua phân tích của Ăngghen chúng ta thấy mọi tham
vọng của các nhà triết học trớc đó mong muốn triết học là khoa học của mọi
khoa học đã bị ông phê phán và đánh đổ hoàn toàn. Ăngghen viết: Mọi mu
toan khôi phục lại triết học về tự nhiên không những là một việc thừa mà còn
Giáo trình triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr 182.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 427.
9 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 450- tr 451.
7
8

5


là một bớc thụt lùi10. Ông còn viết: Thế là chỉ còn lại cho triết học, đã bị
đuổi ra khỏi tự nhiên và lịch sử, có lĩnh vực t tởng thuần tuý, chừng nào mà
lĩnh vực đó còn tồn tại, đó là học thuyết về các quy luật của bản thân quá trình
t duy tức là phép lôgic học và phép biện chứng 11. Triết học Mác ra đời đã trở
thành thế giới quan khoa học và phơng pháp luận chung cần thiết cho sự phát
triển của mọi khoa học cụ thể. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay
càng chứng tỏ sự cần thiết phải có t duy biện chứng duy vật và ngợc lại, chỉ có
dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại để phát triển thì triết học Mác
mới không ngừng nâng cao đợc sức mạnh cải tạo thế giới của mình. Nh vậy,
mỗi lần có phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực tự nhiên, thì chủ
nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó, nh Ăngghen
đã từng chỉ ra.
Ba là, sự hình thành, phát triển của các t tởng triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hớng triết học cơ bản- chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm.

Đây là một hình thức giao lu đặc biệt giữa các hệ t tởng triết học trong
toàn bộ lịch sử của nó.
Lịch sử triết học có nhiều trờng phái triết học khác nhau, nhng chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm là hai trờng phái lớn nhất trong lịch sử, nó hình
thành từ khi triết học mới phát triển và tồn tại đến ngày nay.
Lịch sử triết học từ cổ đại đến nay là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm, vì vậy trong nghiên cứu lịch sử triết học tất cả các
trờng phái triết học đều quan tâm giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Đó là
quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và t duy hay giữa tự nhiên và tinh
thần; vai trò của con ngời trong nhận thức thế giới. Tất cả những hiện tợng mà
chúng ta gặp hàng ngày chỉ có thể là hiện tợng vật chất tồn tại bên ngoài ý
thức của con ngời, hoặc là hiện tợng tinh thần tồn tại trong ý thức của con ngời. Không có bất kỳ hiện tợng nào nằm ngoài hai lĩnh vực đó. Nh vậy, bất kỳ
trờng phái triết học nào cũng quan tâm nghiên cứu giải quyết vấn đề cơ bản
đó. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi vật
chất hay ý thức cái nào có trớc, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?.
Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giớ
hay không?.
Tuỳ vào cách trả lời đó mà các học thuyết triết học khác nhau chia thành
hai trào lu cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trớc, ý thức có sau; thế giới vật
chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con ngời, không do ai
sáng tạo ra; còn ý thức là phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con ngời;
không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất. Con ngời có thể nhận
thức đợc thế giới và các quy luật của thế giới.
Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cho rằng: tinh thần, ý
thức có trớc và là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên, của vật chất. Đa số các nhà
triết học duy tâm cũng thừa nhận thế giới là có thể nhận thức đợc, nhng chỉ là
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 434.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 449.


10
11

6


tự nhận thức, tự ý thức về bản thân ý thức. Họ phủ nhận thế giới khách quan là
nguồn gốc của ý thức, phủ nhận cảm giác, khái niệm, ý niệm của con ngời là
cái phản ánh các sự vật và hiện tợng của thế giới khách quan. Những nhà triết
học theo thuyết không thể biết đã bác bỏ khả năng nhận thức về thế giới của
con ngời, nh vậy họ cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
Ngay từ thời Trung Quốc cổ đại các nhà triết học đã đi tìm bản nguyên
của thế giới từ các yếu tố vật chất; họ đề cập chủ yếu về chính trị xã hội; họ đã
thấy đợc vai trò của nhận thức cảm tính và thực tiễn... Tuy nhiên, t tởng duy
tâm nổi trội hơn bởi vì, họ tuyệt đối hoá kiến trúc thợng tầng không thấy vai
trò của kinh tế; t tởng duy vật còn thô sơ, mộc mạc, tự phát.
Thuyết âm dơng, ngũ hành đã đa ra quan điểm: nguyên lý vận hành
đầu tiên và phổ biến của vạn vật là do sự tơng tác của hai thế lực đối lập nhau
đó là âm (-) và dơng (+); âm và dơng thống nhất trong thái cực và đổi đảo cho
nhau theo quy luật nhất định... Thuyết ngũ hành thì cho rằng: vạn vật đều do
kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ sinh ra, các yếu tố đó luôn vận động chuyển hoá
cho nhau theo quy luật tơng sinh, tơng khắc... Nho gia thì cho rằng: vạn vật
trong vũ trụ luôn sinh thành, biến hoá không ngừng theo đạo của nó... Đạo gia
đi giải thích thế giới bằng đạo và đức: đạo có trớc trời đất, sinh ra vạn vật,
có danh tính, có hình thể; đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba
sinh ra vạn vật...đức là biểu hiện của đạo trong hiện thực đạo làm cho vạn vật
sinh trởng, đức làm cho vạn vật tơi tốt.
Các trờng phái triết học ở ấn Độ cổ đại: nhìn chung lúc đầu các học
thuyết ra đời mang ít nhiều yếu tố duy vật, họ thừa nhận thế giới là do 4 yếu tố
vật chất (đất, nớc, lửa, gió) và yếu tố tinh thần tạo nên thế giới- danh và sắc.

Các trờng phái sau thờng biến đổi theo xu hớng duy tâm hoặc nhị nguyên
luận.
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, đờng lối Platôn đấu tranh với đờng lối Đêmôcrít
đã trở thành cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối triết học điển hình trong lịch sử
triết học. Đó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và thần học của Platôn
với hệ thống quan niệm duy vật của Đêmôcrít. Vì thế, hệ thống quan niệm
duy vật của Đêmôcrít đợc coi là giá trị tinh thần kết tinh của thời đại đó và đợc gọi là đờng lối Đêmôcrít. Đờng lối này hoàn toàn đối lập với đờng lối
Platôn- dòng hệ thống triết học duy tâm. Vì vậy, học thuyết của Đêmôcrít là
một bớc tiến khổng lồ lên phía trớc trong phát triển triết học duy vật ở Hy Lạp
cổ đại.
Thời kỳ trung đại triết học chịu ảnh hởng nặng nề của tôn giáo và thần
học, nó diễn ra cuộc đấu tranh giữa phái duy danh và phái duy thực: đấu tranh
giải quyết mối quan hệ giữa khái niệm chung và sự vật cá biệt, nó không có
đóng góp lớn cho lịch sử triết học.
Lịch sử phát triển của triết học từ khi xuất hiện triết học đến nay cả trờng
phái duy vật và duy tâm trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, nhng mỗi
giai đoạn khác nhau về nội dung, hình thức, trình độ, phơng pháp và các vấn
đề đặt ra... đó là nguồn gốc, động lực phát triển của lịch sử t tởng triết học. Có
thể nói cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối triết học Đêmôcrít và đờng lối Platôn
mở đầu cho cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong

7


lịch sử t tởng triết học. Đỉnh cao của cuộc đấu tranh này phải kể tới cuộc đấu
tranh giữa triết học của Hêghen với Phoiơbắc, hạt nhân hợp lý trong triết học
của các ông là tiền đề trực tiếp hình thành triết học Mác sau này. Quá trình
phát triển của lịch sử triết học là quá trình chủ nghĩa duy vật từng bớc chiến
thắng chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật của Đêmôcrít chiến thắng chủ
nghĩa duy tâm của Platôn; chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc đã chiến thắng chủ

nghĩa duy tâm của Hêghen- cuộc đấu tranh đó đã đạt đến đỉnh cao lúc bấy
giờ. Lênin viết: Hai nghìn năm phát triển của triết học cũng chỉ xoay quanh
trục Đêmôcrít- Platôn; Hê ghen đối xử với Đêmôcrít hoàn toàn nh một ngời
mẹ ghẻ, nhà duy tâm không chịu đựng nổi tinh thần duy vật; các nhà duy tâm
t sản hiện đại đối với Đêmôcrít nh một kẻ thù còn sống, điều đó minh hoạ đặc
sắc cho tính đảng của triết học12.
Quá trình đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm, cũng
đồng thời là một quá trình giao lu đặc biệt, bao gồm hấp thụ những gì tích
cực, tiến bộ, hợp lý, đồng thời lọc bỏ những gì lỗi thời, lạc hậu, tiêu cực, bất
hợp lý trong nội dung t tởng triết học. Đấu tranh giữa duy vật và duy tâm là
đấu tranh giữa hai mặt đối lập cơ bản nhất trong nội dung t tởng triết học nhân
loại. Thông qua cuộc đấu tranh nói trên mà triết học của mỗi thời đại có sự
phát triển mang tính độc lập tơng đối so với sự phát triển của điều kiện kinh tế
xã hội, văn hoá và khoa học, làm cho mỗi hệ thống triết học có thể vợt trớc
hoặc thụt lùi so với điều kiện vật chất của thời đại đó. Đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử t
tởng triết học, tạo thành động lực bên trong lớn nhất của sự phát triển t tởng
triết học nhân loại, là bản chất của toàn bộ lịch sử t tởng triết học.
Trong quá trình đấu tranh với các học thuyết đối lập, mỗi học thuyết triết
học cũng tự đấu tranh với bản thân mình để vơn lên một trình độ mới.
Ăngghen viết: Lý luận của chúng tôi không phải là một giáo điều, mà là sự
giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao hàm trong bản thân nó một
loạt những giai đoạn kế tiếp nhau 13. Lênin đã chỉ ra rằng: Chúng ta không
hề coi lý luận của Mác nh là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa
học mà những ngời xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống14.
Triết học chỉ xuất hiện khi xã hội xuất hiện giai cấp và có đấu tranh giai
cấp. Đấu tranh giai cấp diễn ra trên nhiều lĩnh vực; đấu tranh trên lĩnh vực t tởng lý luận, trong đó có triết học. Các trờng phái triết học đấu tranh với nhau
hoặc đứng về chủ nghĩa duy vật, hoặc đứng về chủ nghĩa duy tâm. Điều đó đã

chứng minh ở trên.
Bốn là, sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phụ thuộc vào
cuộc đấu tranh giữa hai phơng pháp nhận thức trong lịch sử là phơng pháp
biện chứng và phơng pháp siêu hình.
Lịch sử có nhiều cách trả lời khác nhau đối với vấn đề các sự vật, hiện tợng của thế giới xung quanh ta tồn tại nh thế nào, nhng đều quy về hai điểm
Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1981, T.29, tr 282- tr 285.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, tập 36, tr 785.
14 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.
12

13

8


chính đối lập nhau là biện chứng và siêu hình. Phép biện chứng và siêu hình
dùng để chỉ hai phơng pháp t duy đối lập nhau, đó là phơng pháp t duy biện
chứng và phơng pháp t duy siêu hình. Sự phát triển của lịch sử triết học cũng
chính là sự phát triển của trình độ nhận thức, của phơng pháp t duy nhân loại,
thông qua cuộc đấu tranh giữa biện chứng và siêu hình. Đây cũng là sự đấu
tranh giữa hai mặt đối lập, tạo nên động lực bên trong của sự phát triển t tởng
triết học nhân loại.
Sự đối lập hai phơng pháp biện chứng và siêu hình biểu hiện: quan điểm
siêu hình chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt, không liên hệ, không vận
động, phát triển- tính chất t duy cứng nhắc, nhìn sự vật đứng im, không có sự
phát sinh, phát triển. Mác viết: Nó chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn
tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quyên
mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy

rừng15. Quan điểm biện chứng không chỉ thấy sự vật cá biệt mà còn thấy mối
liên hệ phổ biến; không chỉ thấy sự tồn tại mà cả sự sinh thành và tiêu vong
của sự vật; không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động của
sự vật- tính chất t duy mềm dẻo, linh hoạt, không tách rời, nhìn sự vật luôn
vận động trong sự phát sinh, phát triển chuyển hoá không ngừng. Lênin viết:
Phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập16.
Cả hai phơng pháp biện chứng và siêu hình đã xuất hiện từ thời cổ đại, nó
gắn liền với khoa học và thực tiễn cũng đấu tranh với nhau và trải qua các giai
đoạn khác nhau:
Phép biện chứng tự phát thời cổ đại, thể hiện rõ nét trong triết học Trung
Hoa và Hy Lạp cổ đại. Các nhà biện chứng cổ đại đã thấy rằng các sự vật, hiện
tợng của thế giới tồn tại trong những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau,
trong đó tất cả đều vận động, biến hoá, sinh thành và tiêu vong. Do khoa học
và thực tiễn cha đạt trình độ phân tích giới tự nhiên nên các nhà biện chứng cổ
đại mới chỉ chú ý đến sự vận động, sự quá độ, những mối liên hệ nhiều hơn là
chú ý đến cái đang vận động, đang quá độ, đang liên hệ với nhau. Nh vậy,
phép biện chứng thời kỳ cổ đại còn nguyên thuỷ, ngây thơ, tự phát nhng căn
bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài đó cha phải là kết quả
nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.
Từ nửa cuối thế kỷ XV trở đi, khoa học tự nhiên phát triển rất mạnh mẽ.
Nó đã đi sâu phân tích, chia nhỏ giới tự nhiên, cố định những mảng riêng biệt
để nghiên cứu, đã đem đến những thành tựu vĩ đại trong nhận thức thế giới,
phơng pháp đó đã để lại cách xem xét thế giới một cách siêu hình. Phơng pháp
ấy đã thống trị trong triết học (Lốccơ, Bêcơn). Mặc dù vậy phơng pháp siêu
hình đã đóng một vai trò tích cực trong quá trình nhận thức thế giới. Khi khoa
học phát triển, từ việc nghiên cứu có tính chất su tập, mô tả từng sự vật, hiện tờng của thế giới, đòi hỏi chuyển sang nghiên cứu các sự vật hiện tợng trong
qúa trình phát sinh, vận động, phát triển của nó thì phơng pháp t duy siêu hình
không còn phù hợp nữa. Đòi hỏi phải có cách nhìn mới về giới tự nhiên, phép
15
16


C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 37- tr 38.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, tập 29, tr 240.

9


biện chứng duy tâm xuất hiện mà điển hình là phép biện chứng duy tâm của
Hêghen. Mâu thuẫn lớn nhất của triết học của ông là mâu thuẫn giữa phơng
pháp biện chứng với hệ thống duy tâm.
Chính sự phát triển của khoa học và thực tiễn, mà trực tiếp là sản xuất vật
chất và đấu tranh giai cấp, đòi hỏi phải có cách xem xét mới. Phép biện chứng
duy vật của Mác và Ăngghen đã xuất hiện, các ông đã cải biến phép biện
chứng duy tâm của Hêghen, thống nhất với chủ nghĩa duy vật nhân bản của
Phoiơbắc- đã cải biến cho ra đời phép biện chứng duy vật, làm cho chủ nghĩa
duy vật trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ăngghen viết: Phép biện
chứng là khoa học về những quy luật phổ biến nhất của mọi vận động17.
Nh vậy, đấu tranh giữa phơng pháp nhận thức biện chứng và siêu hình đã
gắn liền với cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và duy tâm trong lịch sử
triết học, nhng không phải là đồng nhất với nhau, không hoà trộn vào nhauthống nhất trong sự khác biệt.
Năm là, sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phụ thuộc vào sự
kế thừa và phát triển các t tởng triết học trong tiến trình lịch sử.
Đây là quy luật giao lu t tởng triết học cùng loại theo chiều dọc tiến trình
lịch sử. Giao lu t tởng triết học cùng loại trong lịch sử là một phơng thức tái
tạo t tởng. Sự tái tạo t tởng của một hệ thống triết học là một quá trình triển
khai những tiềm thế tồn tại ở cái ban đầu, cái xuất phát của cả hệ thống triết
học đó trong lịch sử. Triết học của mỗi thời đại lịch sử bao giờ cũng dựa vào
tài liệu lịch sử của triết học các thời đại trớc, lấy đó làm tiền đề, làm điểm
xuất phát cho hệ thống triết học của mình.
Phép biện chứng duy vật của Mác đã kế thừa tất cả yếu tố tiến bộ của các

hình thức trớc đó mà trực tiếp là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Nhng
phép biện chứng của chủ nghĩa Mác hoàn toàn đối lập với phép biện chứng
duy tâm của Hêghen. Trớc hết, Ăngghen đã chỉ ra sự hình thành chủ nghĩa
duy vật biện chứng là kết quả của quá trình cải tạo căn bản phép biện chứng
của Hêghen. Hêghen là ngời đầu tiên trong lịch sử triết học trình bày toàn bộ
giới tự nhiên, lịch sử và t duy dới dạng một quá trình nghĩa là sự vận động
biến đổi và phát triển không ngừng; ông cũng nêu ra hệ thống những quy luật,
phạm trù của phép biện chứng. Ăngghen viết: ở Hêghen, phép biện chứng là
sự tự phát triển của khái niệm 18. Phạm trù trung tâm xuyên suốt toàn bộ phép
biện chứng của Hêghen là phát triển; từ ý niệm tuyệt đối, tha hoá thành
giới tự nhiên, cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực thì hợp lý;
Hêghen viết: tính hiện thực trong sự phát triển của nó tự bộc lộ ra là tính tất
yếu19...Đó là luận điểm thể hiện tính hai mặt trong lập trờng của Hêghen: vừa
mang tính cách mạng khoa học vừa bảo thủ, phản động về mặt triết học. Luận
điểm trên của Hêghen không chỉ muốn bảo vệ, duy trì mọi cái đang tồn tạinền chuyên chế nhà nớc quân chủ Phổ, mà điều cơ bản nhất theo ông, không
phải tất cả những gì hiện đang tồn tại cũng là hiện thực mà thuộc tính hiện
thực chỉ thuộc về những gì đồng thời là tất yếu. Rõ ràng mâu thuẫn lớn nhất
của triết học Hêghen là mâu thuẫn giữa hệ thống và phơng pháp- hệ thống duy
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 767.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 249.
19 Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr 143.
17
18

10


tâm đã bóp nghẹt phơng pháp biện chứng. Ăngghen viết: Hêghen không bị
đơn giản gạt ra một bên. Trái lại, ngời ta lấy phơng diện cách mạng đã trình
bày trên kia của triết học Hêghen, tức là phơng pháp biện chứng, làm điểm

xuất phát. Nhng hình thức hiểu Hêghen thì phơng pháp ấy lại không dùng đợc20. Ăngghen viết tiếp: ở Hêghen, sự phát triển biện chứng biểu hiện trong
giới tự nhiên và trong lịch sử...chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của ý
niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu, nhng dù sao
cũng độc lập đối với mọi bộ óc đang t duy của con ngời. Sự xuyên tạc có tính
chất t tởng hệ ấy là cái cần phải gạt bỏ. Chúng tôi lại xem xét một lần nữa một
cách duy vật rằng những ý niệm trong đầu óc của chúng ta, coi đó là những
phản ánh của sự vật hiện thực, chứ không phải xem xét những sự vật hiện
thực, coi đó là những phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý
niệm21. Trên cơ sở đó, Ăngghen định nghĩa về phép biện chứng duy vật:
Phép biện chứng đã đợc coi là khoa học về những quy luật phổ biến nhất của
mọi vận động22. Quy luật của thế giới bên ngoài cũng nh của t duy con ngời,
thành hai loại quy luật đồng nhất về chất nhng về biểu hiện thì khác nhau theo
ý nghĩa là bộ óc con ngời có thể áp dụng những quy luật đó một cách có ý
thức, và chỉ ra tính thứ nhất của biện chứng khách quan và biện chứng thứ hai
của tính chủ quan- biện chứng của ý niệm chỉ là sự phản ánh vào ý thức sự vận
động biện chứng của thế giới hiện thực, cần phải sửa chữa, phát triển và cải
tạo phép biện chứng nói chung và phép biện chứng duy tâm của Hêghen bằng
cách: Phép biện chứng của Hêghen đã đợc đặt đầu lên trên hay nói đúng hơn,
từ chỗ trớc kia nó đứng bằng đầu, bây giờ ngời ta đặt cho nó đứng bằng
chân23. Nh vậy, Mác và Ăngghen đã chỉ ra cơ sở duy tâm của triết học
Hêghen, vạch ra mâu thuẫn chủ yếu giữa hệ thống triết học bảo thủ, giáo điều
với phơng pháp biện chứng cách mạng. Hệ thống triết học của Hêghen đã coi
thờng nội dung đời sống thực tế và xuyên tạc bức tranh khoa học hiện thực.
Phép biện chứng duy tâm của Hêghen đã bất lực trớc sự phân tích thực tiễn,
phân tích sự phát triển của nền sản xuất vật chất và đặc biệt là bất lực trớc sự
phân tích các sự kiện chính trị, đó cũng là thể hiện tính chất hai mặt trong triết
học Hêghen.
Mặt khác, Mác và Ăngghen đã khắc phục tính phiến diện, không triệt để
của chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Phoiơbắc đã phê phán triết học
của Cantơ và triết học của Hêghen và khẳng định: thế giới tự nhiên là vật chất,

không do ai sinh ra, nó vĩnh viễn và vô hạn, nguyên nhân của tự nhiên ngay
trong bản thân nó, ngoài tự nhiên và con ngời không còn gì nữa. Bàn về vấn đề
ý thức Phoiơbắc cho rằng ý thức là thuộc tính của bộ óc: quan hệ thực sự của
t duy đối với tồn tại là: tồn tại là chủ thể, t duy là thuộc tính. Con ngời là một
bộ phận của tự nhiên và là chủ thể, còn t duy là thuộc tính của nó, có nghĩa là
t duy là thuộc tính của con ngời. Nhng khi bàn về con ngời, ông không thấy
tính hiện thực của con ngời, không thấy bản chất xã hội của con ngời, không
thấy tính thực tiễn của con ngời, hiểu con ngời một cách chung chung phi lịch
sử, phi giai cấp. Trong lĩnh vực xã hội ông đa ra đạo đức, tình yêu và tôn giáo;
theo ông đạo đức của con ngời là tình yêu ngời với ngời, hạn chế hợp lý của
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 248- tr 249.
Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr181.
22 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 767.
23 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 430.
20
21

11


bản thân mình để đạt đến hạnh phúc. Ông cũng cho rằng hạnh phúc là bẩm
sinh, hạnh phúc là cơ sở của đạo đức. Mặt khác ông mong muốn xoá bỏ tôn
giáo nhng lại muốn xây dựng một thứ tôn giáo mới- tôn giáo tình yêu- tình
yêu nam nữ là thiêng liêng nhất. Ăngghen viết: Với t cách là nhà triết học,
ông còn dừng lại ở nửa đờng, nửa dới thì duy vật, nhng nửa trên thì lại duy
tâm; ông không biết bác bỏ Hêghen bằng vũ khí phê bình, mà chỉ đơn thuần
vứt bỏ Hêghen, coi là vô dụng, trong khi ấy thì so với sự phong phú bách khoa
của hệ thống Hêghen, bản thân ông cũng không đa ra đợc điều gì tích cực, nếu
không phải là chỉ đa ra đợc một tôn giáo huênh hoang về tình yêu và một đạo
đức học nghèo nàn, bất lực24. Mác và Ăngghen đã xây dựng chủ nghĩa duy

vật triết học chân chính khoa học bằng cách xuất phát từ con ngời hiện thựccon ngời hoạt động thực tiễn mà trớc hết là thực tiễn sản xuất vật chất và thực
tiễn đấu tranh chính trị- xã hội.
Tóm lại, với việc kết hợp một cách tài tình giữa việc giải phóng chủ nghĩa
duy vật khỏi tính chất trực quan, máy móc siêu hình và giải phóng phép biện
chứng khỏi tính chất duy tâm thần bí, Mác và Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch
sử, đã sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, ở đó chủ nghĩa duy
vật thì biện chứng, còn phép biện chứng thì duy vật; lý luận triết học gắn bó
chặt chẽ với thực tiễn- đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Về chủ nghĩa duy vật lịch sử, lần đầu tiên trong lịch sử Mác và Ăngghen
đã xây dựng đợc hệ thống quan điểm triết học khoa học về lĩnh vực xã hội, đó
là một trong những phát minh vĩ đại của các ông. Mác viết: Trái lại, triết học
về lịch sử, đặc biệt triết học về lịch sử mà Hêghen là đại biểu, thừa nhận rằng
những động cơ bề ngoài và cả những động cơ thực sự của những nhân vật hoạt
động trong lịch sử, quyết không phải là những nguyên nhân cuối cùng của các
sự biến lịch sử, rằng đằng sau những động cơ đó, còn có những động lực khác
cần phải phát hiện ra...Hêghen đã đề ra nhiều ý kiến hay và sâu sắc về những
ngời Hylạp thời cổ, song không vì thế mà chúng ta có thể bằng lòng với sự
giải thích đó, nó chỉ là một câu nói trống rỗng thôi 25. Ăngghen coi cái đã
đúng với giới tự nhiên mà do đó chúng ta coi là một quá trình phát triển lịch
sử, thì cũng đúng với tất cả các bộ môn của lịch sử xã hội và cũng đúng với
toàn bộ các khoa học nghiên cứu những cái thuộc về con ngời (và thuộc về
thần thánh)26. Theo Ăngghen, phải loại bỏ những mối liên hệ nhân tạo và
phải tìm ra những mối liên hệ hiện thực, nhất là phải phát hiện ra các quy luật
chung chi phối sự phát triển của lịch sử. Đó là nhiệm vụ của chủ nghĩa duy vật
lịch sử. Ăngghen phân biệt sự khác nhau giữa quy luật lịch sử- đối tợng
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật lịch sử với các quy luật tự nhiên- đối tợng
nhận thức của các khoa học tự nhiên. Trong giới tự nhiên, các quy luật diễn ra
tự động, bên ngoài ý thức của con ngời trái lại các quy luật xã hội diễn ra
thông qua hoạt động có ý thức của con ngời. Nhng cũng giống với các quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội cũng bị chi phối bởi vô số những ngẫu nhiên.

Thông qua vô số ngẫu nhiên đó, chúng ta phát hiện ra quy luật nội tại bị che
giấu. Khi bàn về động lực của lịch sử Ăngghen phân tích sâu sắc động lực bên
trong- nội tại của lịch sử và ông kết luận: Nếu nh trong tất cả các thời kỳ trC. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 427.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 437- tr 438.
26 Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr182.
24
25

12


ớc, việc nghiên cứu những nguyên nhân thúc đẩy ấy của lịch sử đã hầu nh
không thể làm đợc, vì những mối liên hệ phức tạp và bị che lấp giữa những
nguyên nhân ấy với những hậu quả của chúng thì ngày nay, thời đại chúng ta
đã đơn giản hoá những mối liên hệ đó đến một mức mà cuối cùng điều bí ẩn
đã có thể giải đáp đợc27.
Nh vậy, theo Ăngghen khi xem xét đến một vấn đề rất quan trọng của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đó là vấn đề động lực của lịch sử. Theo Ăngghen,
chủ nghĩa duy vật cũ không bao giờ đặt vấn đề đó ra cả và vì vậy quan điểm
của họ về lịch sử, về bản chất, là quan điểm thực dụng chủ nghĩa; nó đánh
giá mọi cái theo động cơ của hành động 28. Hêghen lại không tìm động lực đó
ở trong bản thân lịch sử mà lại du nhập những động lực đó từ ngoài, từ hệ t tởng triết học, vào trong lịch sử. Ăngghen đã phê phán quan điểm trên và cho
rằng: chủ nghĩa duy vật cũ không trung thành với bản thân mình, vì nó coi
những động lực lý tởng tác động trong lĩnh vực lịch sử là những nguyên nhân
cuối cùng, chứ không nghiên cứu xem cái gì ẩn sau những động lực đó là
những gì29. Đối lập với quan điểm của chủ nghĩa duy vật cũ và chủ nghĩa duy
tâm của Hêghen, Ăngghen cho rằng để xác định động lực thực tế cuối cùng
của lịch sử thì không thể nghiên cứu những động cơ của các cá nhân, mà phải
nghiên cứu những động cơ của những ngời đã lay chuyển những quần chúng
đông đảo, những dân tộc trọn vẹn; rồi đến những giai cấp trọn vẹn trong mỗi

một dân tộc; những động cơ đã đẩy họ... đến chỗ tiến hành những hành động
lâu dài đa đến những biến đổi lịch sử vĩ đại 30. Ăngghen đã chỉ ra rằng, động
lực của toàn bộ lịch sử hiện đại chính là cuộc đấu tranh giữa ba giai cấp lớn và
những xung đột về quyền lợi của họ- giai cấp địa chủ quý tộc, giai cấp t sản và
giai cấp vô sản. Nh vậy theo ông đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã
hội có giai cấp phát triển. Ăngghen viết: Chính là cuộc đấu tranh của ba giai
cấp lớn đó và những sự xung đột về quyền lợi của họ31. Để tìm ra động lực
của động lực, Ăngghen đi sâu vào xem xét nguồn gốc của giai cấp và đấu
tranh giai cấp, ông chỉ ra rằng, nguồn gốc của giai cấp và kết cấu của giai cấp
xã hội là do nguyên nhân thuần tuý kinh tế quy định và cuộc đấu tranh giai
cấp giữa giai cấp chiếm hữu ruộng đất và giai cấp t sản, cũng nh cuộc đấu
tranh giữa giai cấp t sản và giai cấp vô sản, thì trớc hết, vấn đề là ở những lợi
ích kinh tế. Chính mâu thuẫn trong kinh tế phản ánh qua mâu thuẫn giữa các
giai cấp. Mâu thuẫn đó tất yếu sẽ dẫn đến phải phá gông xiềng cho lực lợng
sản xuất bằng cách thay đổi phơng thức sản xuất mới. Từ những phân tích
trên, Ăngghen đi đến kết luận: Tất cả các cuộc đấu tranh chính trị đều là đấu
tranh giai cấp và tất cả các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, dù hình thức
chính trị tất yếu của chúng là thế nào đi nữa- vì bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp
nào cũng đều là đấu tranh chính trị- xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề giải
phóng về kinh tế32.
Nh vậy, trong quá trình nghiên cứu lịch sử Mác và Ăngghen đã không
phủ nhận mà đánh giá cao vai trò của các nhà triết học trớc đó mà tiêu biểu là
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 438- tr 439.
Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr183.
29,30 Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr184.
27

28
30
31

32

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 439.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t 21, tr 441.

13


triết học của Hêghen và triết học của Phoiơbắc. Các ông phê phán triết học trớc đó cha có quan điểm đúng đắn về thực tiễn do đó thiếu triệt để, chỉ duy vật
về tự nhiên, cha thoát khỏi quan niệm duy tâm về lịch sử xã hội. Trong lúc đó,
phép biện chứng duy tâm của Hêghen coi sự vận động phát triển theo quy luật
biện chứng là ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới, phủ nhận quá trình vận
động biện chứng của thực tiễn lịch sử xã hội. Các ông đã vận dụng quan điểm
duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội và mở rộng vào nghiên cứu
một lĩnh vực đặc thù của thế giới vật chất là tồn tại có hoạt động con ngời, tồn
tại thống nhất, khách quan- chủ quan. Với việc kết hợp một cách thiên tài giữa
quá trình cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật và cải tạo những quan điểm duy
tâm về lịch sử xã hội, Mác và Ăngghen đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận
thức xã hội loài ngời, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của t tởng khoa học33.
Lịch sử triết học đã chứng minh: ngay chủ nghĩa duy vật cũng trải qua
các thời kỳ phát triển của nó, nó cũng kế thừa từ những t tởng cũ, bổ sung,
phát triển hoàn thiện trở thành t tởng chính thống ở mỗi thời kỳ lịch sử nhất
định: chủ nghĩa duy vật cổ đại, đó là chủ nghĩa duy vật chất phác, xuất phát từ
giới tự nhiên để giải thích thế giới. Nó ra đời từ nhu cầu hình thành các tri
thức khoa học và từ cuộc đấu tranh giữa giai cấp chủ nô tiến bộ chống lại giai
cấp chủ nô quý tộc bảo thủ. Nó cha có cơ sở khoa học vững chắc để chống lại
chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật siêu hình (thế kỷ XVIIXVIII) do hạn chế về trình độ khoa học và lợi ích của giai cấp t sản, nó đã mổ
xẻ sự vật chi tiết thành các bộ phận riêng lẻ để nghiên cứu do đó nó mang tính

chất siêu hình, nó chống lại thế giới quan duy tâm, tôn giáo của giai cấp
phong kiến. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, nó đợc xây dựng trên cơ sở khoa
học hiện đại và thực tiễn của thời đại.
Nh vậy, các t tởng triết học ở giai đoạn sau bao giờ nó cũng đợc chọn lọc,
sửa chữa lại, lý giải lại và phát triển phù hợp với điều kiện lịch sử mới và theo
tinh thần mà nó đại biểu về t tởng. Đây chính là sự phủ định biện chứng, bao
gồm duy trì những giá trị tiềm thế và cải tạo có phê phán những thành tựu t tởng có giá trị, nghĩa là sự kế thừa biện chứng trên con đờng phát triển của lịch
sử t tởng triết học.
Sáu là, sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phụ thuộc vào sự
liên hệ, ảnh hởng, kế thừa, kết hợp giữa các học thuyết triết học trong mối
quan hệ dân tộc và quốc tế.
T tởng triết học nhân loại không phải là tổng số đơn thuần của các hệ
thống triết học hình thành trong từng nớc riêng lẻ, tách rời, độc lập với nhau.
Những học thuyết triết học phát sinh và phát triển ở mỗi nớc, bằng các phơng
thức khác nhau, đều nằm trong mối quan hệ lẫn nhau nhất định với những học
thuyết triết học ở các nớc khác, vừa chịu ảnh hởng, vừa tác động trở lại các
học thuyết triết học khác. Đây chính là tính quy luật về sự giao lu cùng loại,
cùng thời đại lịch sử của các t tởng triết học khác nhau ở các vùng, miền, các
quốc gia, dân tộc khác nhau.
33

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr 216.

14


Sự phát triển t tởng triết học là kết quả của sự thống nhất và liên hệ lẫn
nhau giữa các t tởng triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế.
Ăngghen đã phân tích sự hình thành các tôn giáo và khi xem xét tôn giáo
phát triển từ tôn giáo dân tộc thành tôn giáo thế giới, đạo Cơ đốc phát triển từ

chế độ chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến, sự ra đời của giai cấp t sản
gắn liền với cải cách tôn giáo, đạo Tin lành ra đời đối lập với đạo Thiên chúa
phong kiến, Ăngghen đã kết luận: Tôn giáo, một khi đã hình thành, luôn luôn
chứa đựng một chất liệu truyền thống; hệt nh là trong tất cả các lĩnh vực t tởng
nói chung, truyền thống là một lực lợng bảo thủ rất lớn. Song những sự biến
đổi xảy ra trong chất liệu đó, đều phát sinh từ những quan hệ giai cấp, nghĩa là
từ những quan hệ kinh tế giữa những ngời gây ra những sự biến đổi ấy34.
Chứng tỏ rằng các t tởng tôn giáo ít nhiều đều là kết quả của sự liên hệ lẫn
nhau giữa các t tởng triết học trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế
Bảy là, sự hình thành, phát triển của t tởng triết học phụ thuộc vào
mối quan hệ với các t tởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ
thuật.
Đây là một tính quy luật về sự giao lu khác loại, giao lu giữa hình thái ý
thức triết học với các hình thái ý thức xã hội khác. Đây cũng là một biểu hiện
của tính độc lập tơng đối của ý thức xã hội trong đó các hình thái ý thức xã
hội có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Hình thái ý thức nào, tôn giáo hay nghệ
thuật, đạo đức hay pháp quyền... đều có ảnh hởng lớn đến nội dung t tởng triết
học là tuỳ điều kiện lịch sử cụ thể. Song, trong nhiều trờng hợp, hệ t tởng triết
học trở thành cơ sở lý luận của hệ t tởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật. Ngợc lại, các hệ t tởng khác loại này trở thành cái biểu hiện
của triết học. Hêghen cho rằng Cái gì hợp lý thì hiện thực và cái gì hiện thực
thì hợp lý đó là luận điểm thể hiện lập trờng hai mặt của ông, nó do lợi ích
giai cấp chi phối t tởng triết học. Các ông chỉ rõ, kiến trúc thợng tầng nhà nớc
là sản phẩm của cơ sở sản xuất, xã hội công dân, bao gồm toàn bộ sự giao tiếp
vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của những
lực lợng sản xuất. Nó bao gồm toàn bộ đời sống thơng nghiệp và công nghiệp
của một giai đoạn, xã hội công dân, trong bất cứ thời đại nào cũng là cơ sở của
nhà nớc và còn có ý nghĩa quyết định đến lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất.
Đặc biệt triết học có mối quan hệ chặt chẽ với hệ t tởng và nhà nớc pháp

quyền: t tởng triết học trở thành cơ sở lý luận của hệ t tởng chính trị, nhà nớc
pháp quyền, và ngợc lại hệ t tởng chính trị, nhà nớc pháp quyền có cho phép
hoặc không cho phép triết học nào đó tồn tại hay không tồn tại khi nó có lợi
hay không có lợi cho hệ t tởng, nhà nớc pháp quyền đó. Ăngghen đã xem xét
mối quan hệ với cơ sở kinh tế của một số yếu tố của kiến trúc thợng tầng nh
nhà nớc và pháp luật, chính trị và hệ t tởng chính trị, triết học và tôn giáo. Khi
xem xét mối quan hệ giữa nhà nớc và xã hội công dân, Ăngghen khẳng định
nhà nớc là yếu tố tuỳ thuộc, còn xã hội công dân, tức là lĩnh vực của những
quan hệ kinh tế, là yếu tố quyết định35.
Nếu nh nhà nớc và công pháp là do các quan hệ kinh tế quyết định thì t
pháp cũng thế, vì t pháp, theo Ăngghen, về thực chất, chỉ xác nhận những
quan hệ kinh tế hiện có và nếu quy tắc pháp luật t sản chỉ là sự biểu hiện, dới
34
35

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 449.
Triết học, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr186.

15


hình thức pháp lý, của những điều kiện sinh hoạt kinh tế của xã hội, thì điều
đó có thể diễn ra tốt hay xấu tuỳ theo hoàn cảnh 36. Vấn đề chính trị và hệ t tởng chính trị cũng vậy, nhng dờng nh trong thực tế ý thức về mối liên hệ giữa
chính trị và hệ chính trị với cơ sở kinh tế bị mờ dần đi và thậm chí có thể hoàn
toàn biến mất. Còn những hệ t tởng cao hơn, xa hơn cơ sở kinh tế nh triết học
và tôn giáo, thì do những khâu trung gian mà mối liên hệ đó bị lãng quên.
Song dù sao, theo Ăngghen, mối quan hệ đó vẫn tồn tại và những t tởng triết
học từ thế kỷ XV trở đi qua triết học Pháp, triết học Anh và đến triết học của
Hêghen đều phản ánh sự phát triển của giai cấp t sản.
Mặt khác, nhờ sự giao lu đồng loại và khác loại mà một dân tộc có thể

trình độ phát triển kinh tế không cao, nhng lại có trình độ phát triển triết học
khá cao, vợt xa các dân tộc khác. Đó là một thực tế lịch sử nh triết học Trung
Quốc cổ đại, triết học cổ điển Đức...Mặt khác tôn giáo cũng là hình thái ý
thức xã hội, xa đời sống vật chất hơn cả và hình nh nó xa lạ với đời sống vật
chất. Nhng thực ra xét đến cùng, tôn giáo cũng nh các hình thái ý thức xã hội
khác đều gắn liền với những điều kiện sinh hoạt vật chất của con ngời. Tôn
giáo vừa chứa đựng yếu tố truyền thống vừa bị chi phối bởi hệ t tởng thống trị
và bị nó lợi dụng.
3. ý nghĩa trong nghiên cứu lịch sử triết học
Lịch sử triết học với tính cách là một khoa học, là lịch sử vận động, phát
triển có quy luật của các t tởng triết học. Do đó nghiên cứu lịch sử triết học
trong tình hình hiện nay có ý nghĩa vô cùng to lớn bởi vì:
Một là, nghiên cứu lịch sử triết học có ý nghĩa to lớn vì lịch sử triết học
có khả năng bao quát lịch sử xã hội sâu rộng dới hình thức lý luận, cho ta khả
năng hiểu biết và khái quát sự phát triển lịch sử t tởng và lịch sử t tởng triết
học của nhân loại. Lịch sử t tởng triết học là hình thức t tởng- lý luận trừu tợng
nhất ở mỗi thời đại lịch sử. Do vậy nghiên cứu lịch sử triết học giúp mỗi ngời
làm giàu trí tuệ của mình bằng cách thâu tóm trí tuệ của mỗi thời đại lịch sử
đợc kết tinh trong triết học. Ăngghen viết: Một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học thì không thể không có t duy lý luận37. Trong công tác
nghiên cứu khoa học và học tập giúp cho chúng ta hiểu biết sâu thêm về giá trị
lịch sử văn hoá phơng Tây, để phát huy củng cố niềm tin duy vật triệt để, tin
vào triết học Mác xít, tin vào sức sống trờng tồn của chủ nghĩa Mác. Thế kỷ
XXI nhân loại sẽ không có tơng lai nếu không có chủ nghĩa Mác. Với tinh
thần kế thừa tinh hoa t tởng văn hoá nhân loại chúng ta phải biết kế thừa, đồng
thời phải biết phát triển, vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác nói chung
và triết học Mác nói riêng- nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật vào giải quyết các vấn đề trong đời sống xã hội- trong thực
tiễn của nền sản xuất vật chất. Không có văn minh Hy Lạp cổ đại thì không có
văn minh châu Âu hiện đại... Giờ đây, triết học Mác không những giải thích

thế giới mà vấn đề là cải tạo thế giới: Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế
giới bằng nhiều cách khác nhau; vấn đề là cải tạo thế giới38.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 21, tr 443.
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1994, tập 20, tr 489.
38 C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tâp 3, tr 12.
36
37

16


Lịch sử triết học là lịch sử phát triển t duy của nhân loại dới hình thức lý
luận triết học, giúp ta nắm đợc kinh nghiệm của sự nhận thức khoa học, sự
hình thành và phát triển của phơng pháp nhận thức khoa học trong lịch sử. Do
vậy, nghiên cứu lịch sử triết học giúp ta xây dựng phơng pháp nhận thức khoa
học, phơng pháp t duy đúng đắn, rèn luyện năng lực t duy độc lập, phê phán,
biết tranh luận, tự tranh luận, kế thừa, lọc bỏ, phát triển nhận thức khoa học;
giúp ta xây dựng thế giới quan, phơng pháp luận khoa học, thoát khỏi ảnh hởng tự phát của quan điểm duy tâm, siêu hình phiến diện.
Hai là, nghiên cứu lịch sử triết học, giúp chúng ta hiểu rõ tính chất đúng
đắn, tiến bộ của thế giới quan duy vật, trang bị cho ta vũ khí sắc bén trong
cuộc đấu tranh t tởng lý luận hiện nay, đồng thời khắc phục tính chất hạn chế,
sai lầm của thế giới quan duy tâm trên cơ sở khoa học. Lịch sử phép biện
chứng từ lúc khởi thuỷ cho đến nay là lịch sử đấu tranh, tìm tòi chân lý, phát
triển nhận thức khoa học. Bởi vì, sản xuất vận động trong điều kiện thống trị
của một giai cấp nhất định, biểu hiện trong hình thức nhà nớc, vì vậy bất cứ
cuộc đấu tranh cách mạng nào cũng nhằm chống lại giai cấp thống trị cũ. Mác
viết: Những điều kiện trong đó những lực lợng sản xuất nhất định có thể đợc
sử dụng, là những điều kiện thống trị của một giai cấp nhất định trong xã hội,
giai cấp quyền lực của nó- quyền lực do sở hữu của nó mang lại,- thờng có sự
biểu hiện duy tâm- thực tiễn dới hình thức nhà nớc riêng của mỗi thời kỳ, và vì

vậy, mọi cuộc đấu tranh cách mạng đều nhằm chống giai cấp đã thống trị cho
đến lúc bấy giờ39. Cách mạng cộng sản khác về chất đối với tất cả các cuộc
cách mạng trớc đó: nó xoá bỏ t hữu; xoá bỏ giai cấp: Trong hết thảy các cuộc
cách mạng trớc đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên nh cũ,- và
bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là
một sự phân phối lao động mới cho những ngời khác; trái lại, cách mạng cộng
sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất lao động trớc đây, nó xoá bỏ lao động
và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp40. Cách
mạng cộng sản không chỉ xoá bỏ những quan hệ kinh tế, chính trị cũ, mà còn
cải tạo đông đảo quần chúng...do đó cách mạng là cần thiết: Để ý thức cộng
sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra đợc trong đông đảo quần chúng, cũng nh để đạt đợc chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự biến đổi của đông đảo quần
chúng, sự biến đổi này chỉ có thể thực hện đợc trong một phong trào thực tiễn,
trong cách mạng; do đó, cách mạng là tất yếu... có năng lực xây dựng cơ sở mới
cho xã hội41.
Nắm vững lý luận và phơng pháp luận khoa học của chủ nghĩa MácLênin, t tởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ
đảng viên, đặc biệt là lực lợng vũ trang trong nhận thức cũng nh trong hành
động, trong mỗi việc làm. Bởi vì, Ăngghen đã chỉ ra rằng: mỗi lần có phát
minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật
không tránh khỏi phải thay đổi hình thức của nó. Trên thực tế triết học Mác
đã, đang và sẽ trở thành thế giới quan khoa học và phơng pháp luận chung cần
thiết cho sự phát triển của mọi khoa học cụ thể nói chung và cho phong trào
39 40,41

C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 100.

40
41

17



công nhân nói riêng. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học ngày nay càng
chứng tỏ sự cần thiết phải có t duy biện chứng duy vật và ngợc lại, chỉ có dựa
trên những thành tựu của khoa học hiện đại để phát triển thì triết học Mác mới
không ngừng nâng cao đợc sức mạnh cải tạo thế giới của mình. Mác chỉ rõ:
Giống nh triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp
vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình42.
Đấu tranh không khoan nhợng với chủ nghĩa duy tâm, xét lại đang xuyên
tạc chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh kể cả trong nhận thức cũng nh
trong hành động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lực lợng vũ trang hiện nay, đồng thời bám sát cuộc sống, tổng kết kinh nghiệm
phát triển lý luận phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đó là nhiệm vụ của những
ngời cộng sản hiện nay. Kẻ thù đang tìm cách tuyên truyền xuyên tạc chống
lại Đảng, Nhà nớc và nhân dân ta hiện nay, bóp méo chủ nghĩa Mác chúng
đang rêu rao về giải phóng, phát triển toàn diện, dân chủ, nhân quyền con ngời phi giai cấp, đó chỉ là con ngời tộc loại, con ngời toàn thể, một cách chung
chung...mục đích nhằm che đậy đấu tranh giai cấp mà thôi; điều chỉnh quan
hệ sản xuất, các hình thức sở hữu v.v.nhng tự bản thân chủ nghĩa t bản không
thể vợt qua chính nó. Đòi hỏi các Đảng ta và các lực lợng vũ trang nhân dân,
cũng nh toàn thể giai cấp công nhân Việt Nam cần hết sức cảnh giác và đấu
tranh không khoan nhợng với mu đồ đó. Đồng thời kiên quyết phê phán các
trào lu t tởng lợi dụng chủ nghĩa duy tâm bóp méo vai trò con ngời trong nền
sản xuất vật chất. Đó là thái độ đúng đắn của những ngời cộng sản. Đó cũng
là thể hiện công khai tính đảng của triết học, biến triết học của mình thành vũ
khí tinh thần của giai cấp vô sản. Do gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản, triết học Mác trở thành hạt nhân lý luận khoa học
cho thế giới quan cộng sản của giai cấp công nhân, là điều kiện tiên quyết để
giai cấp công nhân thực hiện đợc sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình. Trong lực lợng vũ trang, với lập trờng nhất nguyên duy vật và phơng pháp biện chứng
cách mạng, phải nắm chắc học thuyết quân sự vô sản giải quyết một cách
đúng đắn, khoa học các vấn đề về tính chất xã hội của chiến tranh; về nguồn
gốc, bản chất của chiến tranh, của quân đội; giải quyết mối liên hệ nội tại và
sự phụ thuộc tất yếu của chiến tranh, của quân đội vào chính trị, vào cơ sở

kinh tế...đó cũng là tạo ra những nhận thức mới về xây dựng quân đội chính
quy, tinh nhuệ và từng bớc hiện đại, chuẩn bị và tiến hành chiến tranh bảo vệ
tổ quốc xã hội chủ nghĩa đồng thời có cơ sở khoa học để loại trừ chiến tranh ra
khỏi đời sống xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với thế giới quan, t duy triết học duy vật biện
chứng, Ngời đã tìm thấy con đờng cứu nớc đúng đắn cho dân tộc, đó là con đờng cách mạng vô sản. Ngời chỉ rõ: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ
nghĩa Mác- Lênin43. Hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam không những đánh
giá cao vai trò lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn khẳng định chủ
nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và của toàn dân tộc Việt Nam và qua thực tiễn hơn 75
năm qua dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, dới sự lãnh đạo tài tình
42
43

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 1, tr 589.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 2, tr 268.

18


của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi hoàn
toàn chấm dứt ách đô hộ hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, hàng trăm
năm của các thế lực thực dân cũ và mới đa đất nớc thống nhất giang sơn thu
về một mối, cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Qua hơn 20 năm đổi mới chẳng
những đất nớc Việt Nam đứng vững không bị sụp đổ (nh kẻ thù tởng) mà còn
đa nớc ta thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên. Đó đã góp thêm một
bằng chứng hùng hồn về sức sống và giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác- Lênin
khi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã bám sát thực tiễn, không ngừng bổ sung
lý luận phù hợp với thực tiễn đa sự nghiệp cách mạng tiến lên- điều đó càng

khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh.
Ba là, nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy, chỉ có triết học nào gắn liền
mật thiết với cuộc sống, với thực tiễn mới giúp con ngời tìm ra chân lý khách
quan, giải thích đúng đắn thế giới và cải biến có hiệu quả thế giới hiện thực vì
cuộc sống con ngời thì triết học đó có sức sống trờng tồn. Triết học MácLênin có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống xã hội. Sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, đã trở thành
nguồn động lực to lớn thúc đẩy cả lý luận và thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân phát triển. Nhận thấy khoa học là động lực lịch sử nó trở thành một
lực lợng cách mạng; khoa học đích thực là giải phóng con ngời, phục vụ lợi
ích con ngời, do đó thông qua khoa học, nhất là khoa học tự nhiên để rút ra
các kết luận mới chính là làm tăng sức mạnh chiến đấu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Qua nghiên cứu lịch sử triết học cho chúng ta thấy lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin là nhân đạo cao cả vì theo Mác chỉ ra lý luận của các ông là
nhằm giải phóng con ngời. Con ngời ở đây là con ngời hiện thực; lý luận của
các ông không phải không dựa trên một tiền đề nào khác, mà là tiền đề của
việc nghiên cứu con ngời- con ngời hiện thực, con ngời sản xuất vật chất. Đó
là những tiền đề hiện thực, là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn
cũng nh những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Đây chính là điểm
khác nhau căn bản giữa quan điểm của Mác với tất cả những quan điểm trớc
đó về con ngời. Con ngời ở Bauơ và Stuyếcnơ, đợc xem xét nh một thực thể
tinh thần. Con ngời ở Phoiơbắc, đợc xem xét một cách cụ thể, bằng xơng,
bằng thịt, con ngời tộc loại, mang nặng tình cảm, tình yêu, đạo đức họ đã
không thể giải thích đợc vì sao ở mỗi thời đại khác nhau lại có những con ngời
khác nhau. Con ngời của họ là con ngời bất biến, trừu tợng, phi lịch sử tách rời
hoạt động xã hội và hoạt động sản xuất vật chất.. Nhng do thiếu một quan
điểm thực tiễn, nên chủ nghĩa triết học nhân bản của Phoiơbắc mang tính chất
trực quan. Do đó, trong cuộc sống ông không hiểu đợc bản chất của con ngời,
dừng lại ở con ngời chung chung trừu tợng, phi lịch sử không gắn với sản xuất

vật chất. Các nhà duy vật Pháp đã thấy đợc sự phụ thuộc của con ngời vào
hoàn cảnh. Con ngời theo họ, đó là sản phẩm của hoàn cảnh, hoàn cảnh quyết
định bản chất của nó. Tuy nhiên ở họ vẫn cha thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn
đó là: Con ngời do hoàn cảnh quyết định, nhng con ngời lại cải tạo hoàn cảnh.
Vì thế, chủ nghĩa duy vật Pháp đã đi tìm bản chất của con ngời trong bản tính
tự nhiên của nó.

19


Trái với các quan điểm đó, Mác và Ăngghen quan niệm về con ngời thực
tiễn- con ngời hoạt động xã hội và hoạt động sản xuất vật chất các ông phân
biệt rõ về mặt sinh vật và mặt xã hội trong khái niệm con ngời- con ngời
sống... con ngời đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình, đó
là con ngời sống, hành động, và sản xuất- con ngời xã hội, nó là thuộc tính cơ
bản, là đặc trng cơ bản, quyết định mặt sinh vật và là điều kiện, phơng tiện
hình thành nhân cách của con ngời, con ngời lịch sử là con ngời phải gắn với
sản xuất vật chất và hình thức giao tiếp, gắn liền với phơng thức sản xuất và do
chính phơng thức sản xuất ấy sản sinh ra. Mác viết: Con ngời là sản phẩm
của những hoàn cảnh và của giáo dục, con ngời làm thay đổi hoàn cảnh44.
Chỉ có quan điểm thực tiễn đúng đắn mới có thể giải thích đợc vì sao ý thức
con ngời phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan; vì sao ý thức lại có
vai trò to lớn trong cải tạo hiện thực khách quan muốn nhận thức đúng bản
chất con ngời không có con đờng nào khác là phải xuất phát từ quan điểm
thực tiễn. Trong con ngời, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con
ngời là bản năng đã đợc ý thức. Điều quan trọng nhất, quan hệ của con ngời
với tự nhiên diễn ra trong sản xuất vật chất, trong hoạt động thực tiễn. Bản
chất của con ngời không phải ở tính tự nhiên mà cái tạo nên sự hình thành và
phát triển của bản chất ấy chính là sự biến đổi của các quan hệ xã hội: Bản
chất con ngời không phải là một cái trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt.

Trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngời là tổng hoà những quan hệ xã
hội45. Các quan hệ xã hội luôn là cái đợc xác định và vận động biến đổi
không ngừng, điều đó cho thấy, bản chất của con ngời cũng là cái cụ thể và luôn
vận động, phát triển; con ngời tạo ra hoàn cảnh nh thế nào thì hoàn cảnh cũng tạo
ra con ngời nh thế ấy- con ngời và hoàn cảnh gắn chặt với nhau, con ngời không
thể tách rời hoàn cảnh- hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội...Do đó, những cá
nhân là nh thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản
xuất của họ. Tất nhiên cũng cần phải thấy rằng, lối sống của cá nhân là kết
quả tổng hợp của nhiều yếu tố: sản xuất vật chất; điều kiện sống nh thế nào;
truyền thống của mỗi dân tộc; nền giáo dục xã hội; thể chất của mỗi cá nhân.
v.v. trong đó sản xuất vật chất là yếu tố xét đến cùng quyết định. Mác đã
khẳng định: Con ngời tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo
ra con ngời đến mức ấy46.
Mong muốn xây dựng một xã hội mà ở đó không có ngời bóc lột ngời,
con ngời đợc giải phóng và đợc phát triển toàn diện là mong muốn của các
nhà t tởng trớc Mác. Song những mong muốn đó không trở thành hiện thực vì
nó không đi vào nghiên cứu xã hội cụ thể, con ngời cụ thể, thiếu đờng lối, phơng pháp cách mạng...do đó nó chỉ là khẩu hiệu chung chung và rơi vào chủ
nghĩa xã hội không tởng mà thôi. Chủ nghĩa xã hội mở đầu là Cách mạng
Tháng mời Nga (năm 1917) đã đánh dấu một bớc ngoặt lịch sử nó đã trở thành
chủ nghĩa xã hội hiện thực- phong trào cách mạng hiện thực, nó đã phát động
đợc giai cấp công nhân và quần chúng cách mạng dới sự lãnh đảo của đảng
cộng sản- đội tiền phong của giai cấp công nhân- lãnh tụ của phong trào đứng
lên làm cách mạng và đã giành đợc thắng lợi và đã trở thành một hệ thống xã
hội chủ nghĩa đối trọng với chủ nghĩa t bản. Đó là bằng chứng đầy sức thuyết
phục cả về lý luận và thực tiễn- khẳng định tính chân lý, tính hiện thực sức
sống mãnh liệt và chủ nghĩa nhân đạo cao cả của chủ nghĩa Mác- Lênin nói
chung và triết học Mác nói riêng.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr10.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 11.
46 C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr 55.

44
45

20


Bốn là, nghiên cứu lịch sử triết học, trang bị cho chúng ta thế giới quan
khoa học và cách mạng, nâng t duy của chúng ta lên tầm biện chứng thì cũng
đồng thời trang bị cho ta vũ khí t tởng, chuẩn mực phê phán, đánh giá, đấu
tranh với các trào lu t tởng phản khoa học, phản động. Mặt khác những ngời
cộng sản đã lấy chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng kim chỉ nam cho hành
động của mình, vì thế họ luôn luôn bám sát thực tiễn, phát hiện cái mới và
những mâu thuẫn nảy sinh để giải quyết, từ đó khái quát, hoàn thiện lý luận đa
lý luận vào cuộc sống, góp phần thúc đẩy cuộc sống và thực tiễn cách mạng
tiến lên. Nghiên cứu lịch sử hình thành, phát triển của t tởng triết học nhân
loại giúp chúng ta khẳng định sự xuất hiện triết học mácxít là tất yếu lịch sử,
phù hợp với lôgic khách quan của sự phát triển t tởng triết học nhân loại; thấy
đợc triết học mácxít không nằm bên ngoài mà đã và đang phát triển giữa dòng
văn minh nhân loại, khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của triết học
mácxít. Bởi vì triết học của Mác và Ăngghen đã trình bày một cách có hệ
thống những cơ sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Các ông khẳng định rằng: cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen
cũng nh chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc đều sẽ đợc khắc phục và bị
xoá bỏ. Nghiên cứu lịch sử t tởng triết học còn cho thấy tiếp cận triết học
mácxít chính là tiếp cận t duy triết học của nhân loại ở trình độ hiện đại và
tính tất yếu phải mở rộng, phát triển triết học mácxít trong điều kiện mới của
thời đại. Chúng ta thấy rằng triết học Mác là học thuyết phản ánh thế giới vật
chất luôn luôn vận động phát triển. Triết học Mác luôn là hệ thống mở và đợc
bổ sung hoàn thiện, coi triết học của Mác chỉ là kim chỉ nam cho nhận thức và
hành động, cần phải vận dụng một cách sáng tạo trong những điều kiện hoàn

cảnh cụ thể. Ăngghen viết: Lý luận của chúng tôi không phải là một giáo
điều, mà là sự giải thích quá trình phát triển, quá trình này bao hàm trong bản
thân nó một loạt những giai đoạn kế tiếp nhau 47. Lênin ngời học trò xuất sắc
của Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: Chúng ta không hề coi lý luận của Mác
nh là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin
rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những ngời xã hội
chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở
thành lạc hậu đối với cuộc sống48.
Năm là, nghiên cứu lịch sử triết học cho thấy tính tất yếu của cuộc đấu
tranh với các quan điểm sai lầm, phản động, cơ hội, xét lại... nhằm bảo vệ và
phát triển triết học mác xít hiện nay. Hiện nay chủ nghĩa xã hội đang lâm vào
khủng hoảng, thoái trào, điều đó không phải do lý luận Mác sụp đổ mà là sự
khủng hoảng, sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể- có tính chất
giáo điều, điều đó cũng có nghĩa là các nhà cộng sản cha nắm bắt kịp thời
thực tiễn cuộc sống xã hội đang vận động- sự phát triển của khoa học công
nghệ, sự bùng nổ thông tin...để khái quát, phát triển lý luận, làm cơ sở định hớng và cải tạo thế giới theo đúng tính thần của Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ
huấn: Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần
phải sáng tạo ra, không phải là một lý tởng mà hiện thực phải khuôn theo.
Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, xoá bỏ trạng
47
48

C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1999, t 36, tr 785.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, tập 4, tr 232.

21


thái hiện nay49. Tuy nhiên một số Đảng cộng sản và phong trào công nhân
quốc tế vẫn kiên định đờng lối lấy lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng,

kim chỉ nam cho hành động của đảng, kịp thời đổi mới bổ sung, phát triển lý
luận ấy phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mỗi nớc do đó không những
đang đứng vững mà còn có sự phát triển mạnh mẽ, điều đó khẳng định chủ
nghĩa Mác- Lênin nói chung, triết học Mác nói riêng không hề bị lỗi thời nh
kẻ thù đang xuyên tạc. Bởi vì thực chất của quan niệm duy vật biện chứng đối
với quá trình lịch sử là việc thừa nhận những tính quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội do chính hoạt động vật chất của con ngời tạo nên, chúng
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan, vào ý thức con ngời. Đồng thời các ông
phân tích và chỉ ra rằng: quy luật tự nhiên vận động không phụ thuộc vào con
ngời, nhng quy luật xã hội vận động phải thông qua quá trình hoạt động của
con ngời nó mới bộc lộ. Mác chỉ rõ: Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của
những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những
t bản, những lực lợng sản xuất do tất cả những thế hệ trớc để lại; do đó, mỗi
thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động đợc truyền lại, trong những hoàn cảnh
đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một
hoạt động hoàn toàn thay đổi; những sự kiện đó, ngời ta đã xuyên tạc chúng
bằng t biện khiến cho dờng nh lịch sử sau là mục đích của lịch sử trớc50.
Nghiên cứu lịch sử triết học giúp chúng ta khẳng định rằng triết học Mác là
sáng tạo và khoa học, là hệ thống mở, không ngừng đợc bổ sung, hoàn thiện,
phát triển do đó, nó không thể bị lạc hậu, lỗi thời nh các thể lực phản động,
xét lại đang rêu rao xuyên tạc. Mác và Ăngghen đã công khai tính đảng của
triết học- một hệ thống triết học mang tính triệt để khi nó đứng hẳn trên lập trờng của một trong hai trờng phái chính của triết học- chủ nghĩa duy vật hoặc
chủ nghĩa duy tâm. Lênin nhấn mạnh: Triết học hiện đại cũng có tính đảng
nh triết học hai nghìn năm về trớc51. Bản thân triết học nó không có mục đích
tự thân mà triết học sinh ra do nhu cầu của phe phái...trong xã hội có giai cấp
tính đảng biểu hiện ra là tính giai cấp. Lênin viết tiếp: Hai nghìn năm phát
triển của triết học cũng chỉ xoay quanh trục Đêmôcrít- Platôn; Hêghen đối xử
với Đêmôcrít hoàn toàn nh một ngời mẹ ghẻ, nhà duy tâm không chịu đựng
nổi tinh thần duy vật; các nhà duy tâm t sản hiện đại đối với Đêmôcrít nh một
kẻ thù còn sống, điều đó minh hoạ đặc sắc cho tính đảng của triết học 52. Mác

và Ăngghen biến triết học của mình thành vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản.
Do gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, triết
học Mác đã trở thành hạt nhân lý luận khoa học cho thế giới quan cộng sản
của giai cấp công nhân. Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong
triết học Mác là sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
lý luận của chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bớc chuyển
biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác- một điều kiện tiên
quyết để giai cấp công nhân thực hiện đợc sứ mệnh lịch sử vĩ đại của mình.
Hiện nay các thế lực thù địch đã và đang chống phá cách mạng nớc ta hết
sức tinh vi và quyết liệt, nhất là trên mặt trận lý luận t tởng. Chúng sử dụng
chiến lợc diễn biến hoà bình chống phá ta về đờng lối chủ trơng chính sách
C. Mác và Ph. Ănghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tập 3, tr 51.
C.Mác-Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập 3, tr 65.
51V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1980, T.18, tr 445.
52V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1981, T.29, tr 282- tr285.
49
50

22


của Đảng, tiến tới phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin, đặc biệt là triết học Mác.
Vì vậy cuộc đấu tranh chống chiến lợc diễn biến hoà bình diễn ra rất quyết
liệt, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi phải linh hoạt, khôn khéo...lấy cái tích cực
đẩy lùi cái tiêu cực trong đời sống xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc, phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, không đợc để kẻ địch lợi dụng. Thực hiện mục tiêu đa nớc ta thoát khỏi
khủng hoảng, xây dựng xã hội dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh; quốc phòng, an ninh đợc giữ vững, thợng sách là không để
xảy ra chiến tranh. Vì vậy đội ngũ các nhà khoa học đặc biệt là khoa học xã

hội và nhân văn phải tiến hành nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận trong
đó có triết học Mác.
Trong quân đội, đội ngũ các nhà khoa học đặc biệt là khoa học xã hội và
nhân văn quân sự phải triển khai các đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp nhiều
luận cứ khoa học góp phần bổ sung, phát triển đờng lối quan điểm của Đảng,
nhất là trong lĩnh vực quốc phòng an ninh. Xây dựng và nâng cao bản lĩnh
chính trị cho cán bộ chiến sỹ và trực tiếp đấu tranh chống các quan điểm thù
địch sai trái một cách có cơ sở khoa học. Nh Mác đã dạy: ngời đi giáo dục
cũng phải đợc giáo dục. Tích cực chủ động tạo ra các giá trị văn hoá mới, giữ
vững nền tảng tinh thần của quân đội và xã hội, nhằm xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bớc hiện đại. Đề xuất những giải pháp cần
thiết, phù hợp để tiếp tục xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, nâng cao
hiệu quả CTĐ, CTCT trong mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nớc giao cho các lực
lợng vũ trang nhân dân. Các nhà khoa học xã hội và nhân văn quân sự hơn lúc
nào hết phải có lập trờng, quan điểm vững vàng, thế giới quan khoa học, có
kiến thức sâu rộng, có năng lực, có phơng pháp t duy khoa học, sắc bén về lý
luận, nhạy cảm trong thực tiễn, cảnh giác cách mạng cao, dũng cảm ..để tiến
công địch trên mặt trận đấu tranh lý luận t tởng hiện nay. Đồng thời phải bám
sát định hớng lớn trong công tác đấu tranh trên mặt trận lý luận t tởng của
Đảng, của quân đội, bám sát cuộc sống của xã hội, quân đội, của cán bộ chiến
sỹ, đổi mới nội dung, hình thức, phơng pháp đấu tranh; chủ động đoàn kết
phối hợp chặt chẽ với các lực lợng tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh
chống chiến lợc diễn biến hoà bình đập tan mọi âm mu phá hoại và gây bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch nhất là trên lĩnh vực t tởng lý luận hiện
nay. Vì vậy hơn bao giờ hết các nhà khoa học phải chiếm lĩnh khoa học và
phải có t duy lý luận sắc bén, nh Mác viết: một dân tộc muốn đứng vững trên
đỉnh cao của khoa học, thì không thể không có t duy về lý luận sắc bén.

23




×