Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

VAI TRÒ của TRIẾT học CAN tơ đối với TRIẾT học cổ điển đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.35 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất, trong lịch sử tư
tưởng tây Âu và thế giới, cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của
thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học
hiện đại. Triết học cổ điển Đức, vì vậy, trở thành một trong ba thành phần quan
trọng, chủ yếu của tiền đề về lý luận, hình thành chủ nghĩa Mác (cùng với kinh tế
chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp).
Triết học cổ điển Đức ra đời và phát triển trong những điều kiện của chế độ
chuyên chế nhà nước Phổ và nó là sự bảo vệ về mặt tư tưởng cho chế độ đó. Do
ảnh hưởng của cuộc cách mạng tư sản Pháp và điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt
của xã hội Phổ lúc đó, đã tạo nên những nét riêng của triết học cổ điển Đức.
Triết học Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Triết học
Cantơ đi vào rất nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, nêu lên những lý tưởng mới lạ,
trừu tượng, nhưng cũng hết sức lý thú.
Cantơ đã khởi xướng một trào lưu triết học mới - triết học duy tâm phê
phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seling tiếp tục tìm tòi mở rộng, đến Hêghen
phát triển nó thành một hệ thống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơ bắc đã kết
thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình.
Triết học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức tạp. Cantơ là người đầu tiên
đã thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri thức Triết học trong lịch sử tư tưởng loài
người. Trên tinh thần phê phán các hệ thống triết học trước đó, Cantơ đã gạn lọc,
kế thừa và phát triển những yếu tố mà ông cho là đúng, từ đó xây dựng nên một hệ
thống triết học riêng theo mẫu mực mới - Triết học vạn năng.


2
Chương 1
KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội


mới, khẳng định vai trò của phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên
địa vị thống trị. Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự
phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ. Cuộc cách mạng công nghiệp Anh khẳng
định sức mạnh của con người trong nhận thức thế giới và đưa nước Anh trở thành
quốc gia tư bản lớn mạnh. Cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794), thể hiện khả
năng cải tạo thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách
mạng công nghiệp, đưa nước Pháp tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa.
Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó, ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải phóng ở
các nước châu Âu, phát triển hệ tư tưởng tư sản - một hệ tư tưởng mới và tiến bộ
trong lịch sử đương thời. Trong khi đó, nước Đức vẫn còn là một nước nửa phong
kiến. Tình trạng phân hoá cả về kinh tế lẫn chính trị đã kìm hãm sự phát triển và
làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ
TBCN. Đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội” và “mọi thứ đều nát
bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, chẳng còn tới một tia hy vọng chuyển biến
tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế
độ đã chết rồi”. Tuy nhiên, theo Ănghen “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một nét
đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật và
triết học Đức. Mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó, đều thấm đượm tinh thần
phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời.
Bước ngoặt kinh tế - xã hội có tính chất thời đại của Anh; bước ngoặt tư
tưởng xã hội có tính lịch sử thế giới của cách mạng tư sản Pháp; sự kế thừa truyền
thống triết học biện chứng Đức và đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự
nhiên, với những phát minh xuất sắc, vạch rõ tính biện chứng của quá trình tự
nhiên là những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử
nhân loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức.
Các nhà triết học Đức không phải là các nhà hoạt động cách mạng. Họ là
những nhà duy tâm. Tuy các học thuyết triết học của họ về sự phát triển đã gián
tiếp hoặc trực tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động, nhưng chúng
không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước Đức, không thể biến thành cách
mạng được, nó duy tâm và yếu hèn. Tính chất đó đã dẫn đến những hạn chế trong

triết học cổ điển Đức.
Vậy thì tại sao các nhà duy tâm tư sản Đức, trong điều kiện kinh tế - xã hội
thấp kém đó, lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết học? Lịch sử tư tưởng
đã chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy sinh trong lòng
một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn, nếu nó biết tiếp thu thành tựu mọi mặt
của các nước tiến bộ khác.


3
1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức
1.2.1. Những thành tựu và cống hiến
Tuy có những hạn chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của
triết học cổ điển Đức thật là vĩ đại. Nó đã mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã
hội và tiến trình lịch sử nhân loại và đề cao vai trò hoạt động của con người; coi
con người là chủ thể hoạt động như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một
vấn đề triết học.
Cantơ lần đầu tiên hiểu con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của quá
trình hoạt động của mình; khẳng định hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen
phát triển thêm tư tưởng này, coi bản thân lịch sử phương thức tồn tại của con
người, mỗi cá nhân là hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Họ đều đề cao sức
mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động của con người.
Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó đã khẳng
định, tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức
và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn
minh do chính mình tạo ra; nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn
bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên
các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng,
học thuyết về các quá trình phát triển... mà cao nhất là phép biện chứng.
Với cách nhìn tổng quát và phương pháp biện chứng, các nhà triết học cổ

điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt
được. Cả Cantơ và Hêghen đều có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng,
làm nền tảng cho thế giới quan của con người, khôi phục lại các quan niệm coi
triết học là khoa học của các khoa học.
Phải nói rằng, triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong
lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh
cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh hưởng to lớn đến
triết học hiện đại.
1.2.2. Những mặt hạn chế
Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức
thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ
về lập trường chính trị - xã hội. Hầu hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng
được hệ thống triết học chứa đựng những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời
đại, đặc biệt là triết học Cantơ và Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành,
thực hiện những cuộc cải cách mang tính cách mạng.
Chủ nghĩa duy tâm thần bí phía trước, và bên cạnh các nhà triết học cổ điển
Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học
khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy vật,
người ta không thể giải thích được thế giới. Bản chất của thế giới theo họ là tinh
thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được những vấn đề của thế giới bằng tinh thần.
Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ thống triết học duy tâm, thần bí.
Triết học cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống lại chế độ xã
hội cũ, nhưng nó mới chỉ là những tư tưởng, mà không đi vào chính trị xã hội và hoạt
động cách mạng. Đó là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên, tách rời hiện


4
thực khách quan. Các nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư tưởng, mà
không giám công khai chống lại thực tại đó. Họ sợ hãi hiện thực cách mạng và thoả
hiệp với giai cấp tư sản. Tư tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngoài triết học của

mình một lớp vỏ thần bí, duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã
tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã từng bước
khắc phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ XVII - XVIII.
Thành quả lớn nhất của nó là những tư tưởng biện chứng, đạt tới trình độ một hệ
thống lý luận và kế thừa phát triển chủ nghĩa duy vật nên trình độ mới, đỉnh cao
của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Triết học cổ điển Đức, cùng với kinh tế chính trị
học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự
xuất hiện triết học Mác.

Chương 2
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC CANTƠ ĐỐI VỚI
NỀN TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

3.1. Triết học lý luận
Triết học lý luận của Cantơ đề cập đến những vấn đề nhận thức luận và
logíc học, với mục đích xây dựng một nền tảng thế giới quan mới cho con người;
xác định giới hạn và đối tượng của tri thức con người, hay theo cách đặt vấn đề
của Cantơ là giải đáp vấn đề: tôi có thể biết được cái gì?
Triết học nhận thức chủ yếu là xây dựng lý thuyết tiên nghiệm; tri thức và
khả năng của các loại tri thức.
3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức
Tiền đề cho bộ ba tác phẩm “triết học phê phán ” của Cantơ là thuyết hai thế
giới: Thế giới vật tự nó (Ding and Sich) và thế giới hiện tượng (fonomen).
a) Về thuyết hai thế giới: Vấn đề quan hệ giữa tư tưởng và hiện thực vẫn
luôn là vấn đề phức tạp, nó như một câu hỏi treo trước nhà triết học. Trong khi các
nhà khoa học và triết học chưa có ý kiến thống nhất; khoa học và thần học đối lập
nhau trong việc giải quyết vấn đề đó, thì Cantơ nghiêng về phía cho rằng hiện thực
và tư tưởng là hai lĩnh vực khác nhau, không liên quan đến nhau.
Do hạn chế về khoa học, và chưa vượt qua tầm nhìn đương đại, Cantơ quan

niệm “cái vật tự do bí ẩn đặc biệt” ở đằng sau mỗi sự vật đó là “cái cân nguyên”,
“cái tồn tại thực sự”, là “bản chất” của vật chất, bản chất của thế giới.
Dựa vào thuyết động lực học, Cantơ cho rằng chính cái vật tự do bí ẩn ở
đằng sau sự vật chính là cái tạo ra “lực vận động”, như là một nguyên nhân đầu
tiên của vật chất, của vận động - cái tinh thần của tinh thần.
Thế giới hiện thực muôn màu muôn vẻ của nó như đất nước, sông núi, cỏ
cây,…và những quy luật dẫn dắt mọi quá trình của thế giới đó,…theo Cantơ, là
những cái đang tồn tại dưới dạng hình thức của thế giới vật tự nó. Cantơ đã coi
Thượng Đế không phải cái gì khác mà, đó là cái tự do, là linh hồn bất tử, là vật tự
nó - nghĩa là Thượng Đế cái tự nó tồn tại, con người không giải thích được và
cũng không thể biết được.


5
Cantơ đòi hỏi ở tri thức khoa học và triết học sự hoàn thiện tuyệt đối: coi đó
là tri thức lý tưởng của con người. Song, cũng như Hium và Lépnhít, một mặt
Cantơ cho rằng, để khoa học thực sự là khoa học thì nó phải dựa trên tri thức tiên
nghiệm, nghĩa là tri thức mang tính phổ quát và tất yếu (chân lý). Mặt khác, do
chưa thoát khỏi quan niệm siêu hình, Cantơ cho rằng mọi sự vận động trong thế
giới bên ngoài chúng ta chỉ là sự tồn tại dưới dạng đơn giản nhất, ngẫu nhiên. Với
ý đồ xây dựng nền tảng tri thức tiên nghiệm của khoa học, cũng như quan niệm
cho rằng mọi tri thức của con người không phải là sự phản ánh thế giới khách
quan, Can tơ khẳng định, vật tự nó là không thể nhận thức được.
b) Quan niệm về nhận thức: Theo Cantơ, con người nhận thức là nhờ kinh
nghiệm. Cantơ phân biệt hai loại kinh nghiệm: Kinh nghiệm thông thường và kinh
nghiệm khoa học.
Kinh nghiệm thông thườnglà kinh nghiệm được hình thành từ những “sự
trải qua” trong cuộc sống cũng như trong nhận thức nói chung của cá nhân.
Kinh nghiệm nhận thức khoa học là kinh nghiệm bậc cao: Kinh nghiệm của
tri thức với tư cách là “cơ quan năng động có sẵn khẳ năng nhận thức” - tức là ở

đó đã có sẵn yếu tố tiên nghiệm. Như vậy, đây là kinh nghiệm tiên nghiệm; nó là
công cụ để phát hiện cái tiên nghiệm mới.
Đối tượng của triết học không phải là nghiên cứu bản thân kinh nghiệm mà
chủ yếu là nghiên cứu cái tiên nghiệm và hậu nghiệm - siêu nghiệm, (tức nghiên
cứu cái có trước và có sau kinh nghiệm).
Siêu nghiệm xuất phát từ kinh nghiệm nhưng không phải là kinh nghiệm.
Nó là sự vượt qua kinh nghiệm thông thường, vượt qua những hiện tượng mà con
người nhận biết được bằng các giác quan. Những hình ảnh mà giác quan thu được
chỉ là những kinh nghiệm thông thường, ít có ý nghĩa trong nhận thức.
Tiên thiên là cái vốn có của tự nhiên mà thực chất, đó là cái tự do, cái bản
chất của thế giới ở con người (vì con người là một bộ phận của tự nhiên) thì tiên
thiên chính là các yếu tố bẩm sinh.
Cái tiên nghiệm, siêu nghiệm, tiên thiên do còn là kết quả của sự chuyển
hoá trong chủ thể nhận thức, cho nên nó có tính xã hội. Tuy nhiên về nguồn gốc,
về bản chất, nó thuộc tự nhiên. Bản tính thiện, bản tính sáng tạo, bản tính vươn tới
tự do của con người là những cái thuộc tiên thiên.
Con người với tư cách là chủ thể nhận thức vốn có tri thức tiên nghiệm.
Nhận thức là việc chủ thể dùng tri thức tiên nghiệm để xem xét sự vật. Nhận thức
bắt đầu từ khi các sự vật hiện tượng khách quan tác động các giác quan của con
người, gây nên những cảm giác. Từ toàn bộ những cảm giác đó, thông qua kinh
nghiệm mà chủ thể nhận thức xây dựng nên những hình ảnh, những khái niệm,
những phạm trù, những quy luật..., về hiện tượng nói riêng và về thế giới hiện
tượng nói chung. Thế giới hiện tượng, nói đến cùng, là do kinh nghiệm con người
“xây dựng” - thế giới nằm trong phạm vi của cái chủ quan do chính tri thức của
chủ thể nhận thức tạo ra.
Rõ ràng là, giữa thế giới vật tự nó và thế giới hiện tượng có một hố sâu ngăn
cách mà nhận thức của con người không thể vuợt qua. Trong quá trình nhận thức,


6

tri thức con người ngày càng phong phú, ngày càng sâu sắc. Nhưng đó chỉ là tri
thức phong phú và sâu sắc về thế giới hiện tượng. Về nguyên tắc nhận thức chỉ là
nhận thức thế giới hiện tượng. Cho nên, tri thức dù có phong phú đến đâu cũng
không thể tiếp cận với thế giới vật tự nó. Trong khi đó, bản chất của sự vật nói
riêng và của thế giới nói chung là ở vật tự nó, ở thế giới vật tự nó. Vậy là, đối với
thế giới, thì nhận thức là bất khả tri.
Trong luận đề về sự tồn tại của vật tự nó thì Cantơ là nhà duy vật, ở đây tính
thứ nhất không phải là ý thức mà là “ vật tự nó”. Song vật tự nó là bản tính tinh
thần, cho nên ông lại là nhà duy tâm. Khi nghiên cứu các hình thức và giới hạn
của nhận thức, ông cho rằng vật tự nó là siêu nghiệm, không nhận thức được. Cảm
giác là cơ sở của tri thức, nhưng không một loại tri thức nào, dù cao nhất, có thể
tiếp cận tới vật tự nó, ông là nhà bất khả tri.
3.1.2. Học thuyết về tri thức
Học thuyết về tri thức được Cantơ xây dựng trên cơ sở lý thuyết phán đoán.
Tri thức bao giờ cũng được thể hiện và sinh ra dưới các hình thức phán đoán. Phán
đoán luôn luôn diễn ra trong một quan hệ nào đó giữa hai khái niệm đóng vai trò
của chủ ngữ và tân ngữ.
Phán đoán phân tích: Trong một số phán đoán, tân ngữ chưa đưa ra được
một tri thức mới nào về đối tượng so với tri thức được chứa đựng ở chủ ngữ. Phán
đoán có tính kinh nghiệm và có tính giải thích.
Phán đoán tổng hợp là loại phán đoán mà tân ngữ đã gia tăng cho chủ ngữ
một nội dung mới. Nó chứng minh rằng mọi vật đều nằm trong không gian. Phán
đoán này đúng đối với mọi thời điểm, nó có tính tiên nghiệm. Cantơ còn gọi loại
phán đoán này là phán đoán mở rộng, vì tân ngữ gia tăng cho chủ ngữ một nội
dung mới mà trước đó bản thân chủ ngữ chưa có.
Cantơ quan niệm phán đoán tổng hợp tiên nghiệm là loại phán đoán cao
nhất của sự nhận thức. Và, vì vậy nó có ý nghĩa quyết định trong quá trình nhận
thức. Do đó, vấn đề cơ bản đối với nhiệm vụ Cantơ đặt ra cho triết học lý thuyết
của mình như vấn đề cội nguồn của tri thức, các loại tri thức và khả năng của các
loại tri thức được tập trung vào vấn đề về khả năng của phán đoán tổng hợp tiên

nghiệm trong từng loại tri thức đó.
Cantơ đối lập hai loại tri thức : tri thức hạn chế và tri thức khoa học.Tri thức
hạn chế xuất phát từ kinh nghiệm, nó không chính xác, chưa hoàn thiện. Tri thức
khoa học là tri thức trên kinh nghiệm, có trước kinh nghiệm, nó hoàn toàn chính
xác và hoàn thiện. Đó là tri thức trong toán học, trong khoa học tự nhiên lý thuyết,
và trong siêu hình học.
Nghiên cứu khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong tổng thể tri
thức khoa học và triết học, mà Cantơ gọi là “nghiên cứu tiên nghiệm”, còn học
thuyết mà Cantơ xây dựng nên nhằm giải đáp cho sự nghiên cứu đó, ông gọi là
chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm. Nhiệm vụ của triết học Cantơ là phê phán các triết
học cũ, xây dựng một triết học mới, cho nên triết học của ông là “Triết học duy
tâm tiên nghiệm phê phán”.


7
3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm
trong toán học.
Cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức, theo Cantơ, gắn liền với lý thuyết
về không gian và thời gian.
Không phải là sự vật hiện tượng tồn tại một cách khách quan trong không
gian và thời gian. Khái niệm không gian và thời gian được hình thành nhờ cảm
tính chủ quan xác định khi có sự vật tồn tại và được lĩnh hội. Như vậy - thời gian
xuất hiện là do cảm giác chủ quan. Nhưng cái gây nên cảm giác chủ quan và chính
cảm giác đó lại ở bên ngoài, cho nên không gian là cái có trước kinh nghiệm, là
điều kiện cho mọi kinh nghiệm có thể xảy ra. Chúng là những khái niệm tiên
thiên. Không gian là hình thức bên ngoài của kinh nghiệm cảm tính tiên nghiệm.
Hình thức nhận thức cảm tính là cấp độ phán đoán tổng hợp tiên nghiệm
trong toán học, không gian thời gian là nền tảng cho toán học. Theo Cantơ, các
biểu tượng không gian là cơ sở của tri thức hình học: Thời gian là biểu tượng của
tri thức số học và đại số.

3.1.4. Giác tính phân tích và khả năng nhận thức của khoa học tự nhiên.
Trong cấp độ thứ nhất của nhận thức, theo Cantơ, do những sự vật khách
quan tác động đến giác quan của chúng ta mà xuất hiện những cảm giác lộn xộn.
Những cảm giác lộn xộn đó được trực giác cảm tính đưa vào trật tự không gian
thời gian, trở thành các tri giác. Những tri giác đó còn mang tính chủ quan của cá
thể. Để chúng trở thành kinh nghiệm tức trở thành một cái gì đó khách quan hơn
thì nhận thức phải bước lên hình thức cao hơn – giác tính.
Tư duy sử dụng khái niệm phạm trù là tư duy của giác tính phân tích. Đây là
loại hoạt động tư duy khoa học, nó có nhiệm vụ quy tụ các tri giác đa dạng, biến
các tri giác cảm tính thành những tri thức khách quan được mọi người thừa nhận.
Để làm được điều đó, trước hết giác tính phải xây dựng một hệ thống các
phạm trù. Trong mỗi nhóm và giữa các nhóm phạm trù dù chưa có sư tương tác
biện chứng thực sự, song về hình thức đã có được các yếu tố của các mối quan hệ,
ràng buộc có tính biện chứng. Tuy nhiên, các phạm trù mới chỉ đơn thuần là
những hình thức của tư tưởng, chưa bao hàm một nội dung nào cả. Vì thế, để có
nội dung và trở thành tri thức, các phạm trù phải được vận dụng vào kinh nghiệm
cảm tính. Cantơ coi nhiệm vụ cơ bản ở đây là dùng phép phán đoán tiên nghiệm
các phạm trù, tức vận dụng chúng vào kinh nghiệm quy tụ các tư liệu cảm tính đa
dạng dưới sự thống nhất của khái niệm, và bằng cách khắc phục những hạn chế
của chủ nghĩa duy cảm và duy lý trước đây.
Cantơ cho rằng không một hình thức cảm tính trực giác nào, không một
phạm trù khoa học nào, thậm chí không một loại tri thức nào dù cao đến đâu, lại
có thể xác định được, với tới được thế giới khách quan.
3.1.5. Biện chứng tiên nghiệm về khả năng của siêu hình học
Vấn đề cơ bản thứ ba trong triết học phê phán của Cantơ là vấn đề khả năng
phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong siêu hình học, tức là trong triết học tự biện.
Đây cũng chính là vấn đề về năng lực biện chứng tiên nghiệm.
Lý tính con người luôn khao khát vươn tới lĩnh vực vật tự nó để đạt tới tri
thức tuyệt đối. Song quá trình vươn tới tri thức đó luôn luôn nẩy sinh những mâu
thuẫn, những nghịch lý (antinomi).



8
Học thuyết antinomi của Cantơ có nhiều hạn chế. Ông chỉ thừa nhận mâu
thuẫn trong tư tưởng của con người, chưa thấy mâu thuẫn luôn luôn tồn tại trong
thế giới tự nhiên. Các atinomi đó chưa hoàn toàn là những mâu thuẫn biện chứng,
vì giữa các chính đề và phản đề của chúng chưa có sự thống nhất và chuyển hoá lẫ
nhau. Giải quyết mâu thuẫn cũng không phải chỉ dừng lại ở việc phân tích từng
mặt đối lập rồi kết luận đúng sai. Trên thực tế, quá trình nẩy sinh và giải quyết
mâu thuẫn là động lực thúc đẩy sự vật phát triển.
Tuy nhiên, học thuyết biện chứng tiên nghiệm của Cantơ bao hàm nhiều tư
tưởng tích cực. Ông thấy antinomi là bản chất của lý tính con nguời chứ không
phải những lỗi lôgic thông thường. Cantơ là người đầu tiên tìm cách bao quát toàn
bộ những nguyên lý tư duy đối lập nhau của thời đại, trên quan niệm thống nhất,
vạch ra những vấn đề còn bỏ ngỏ trong các vấn đề về bản chất của tư duy. Hêghen
đánh giá rằng “việc tìm ra các antinnomi cần đươc xem như một thành tựu rất
quan trọng của nhận thức, bởi bằng việc đó vận động biện chứng của tư duy đựơc
đề cao”.
3.2 Triết học thực tiễn.
Nếu triết học lý thuyết nghiên cứu khả năng nhận thức của con người, thì
triết học thực tiễn nghiên cứu các hoạt động thực tiễn của con người nhằm giải đáp
vấn đề “tôi cần phải làm gì?”.
Nếu nhận thức của con người chỉ dừng lại ở giới hạn hiện tượng luận, thừa
nhận vật tự nó là bất khả tri, thì trong hoạt động thực tiễn của mình, con người vẫn
thường xuyên tác động đến các sự vật xung quanh. Con người không chỉ nhận
thức thế giới hiện tượng mà còn luôn hướng tới, vươn tới thế giới vật tự nó như là
đối tượng hoạt động của mình. Chính điều đó làm cho Cantơ thấy quan hệ giữa
triết học lý thuyết và triết học thực tiễn trở nên hết sức phức tạp. Một mặt, ông
muốn xây dựng một hệ thống triết học thực tiễn thực sự khoa học. Mặt khác, “thực
tiễn” theo Cantơ, về cơ bản độc lập với quá trình nhận thức của con người. Bản

thân thực tiễn cũng được Cantơ hiểu theo nhiều nghĩa. Hoạt động thực tiễn sản
xuất vật chất hầu như chưa được ông quan tâm.
3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.
Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với học
thức và giáo dục của Rutxo, Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức là độc lập với
mọi lĩnh vực hoạt động khác của con nguời. Nếu trong triết học lý thuyết, cảm
giác là nguồn gốc duy nhất của tri thức, của giác tính với các phạm trù và quy luật
của hiện tượng luận, thì ở đây, lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên
tắc và chuẩn mực đạo đức. Trong lĩnh vực này, “các nguyên lý cảm tính nói chung
không thích hợp để có thể từ đó người ta xây dựng nên các quy luật đạo đức”.
Nguyên lý đạo đức cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm
theo yêu cầu của lý trí, cái mà Cantơ gọi là “mệnh lệnh tuyệt đối”. Theo Cantơ,
chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được
coi là hành động có đạo đức
Phạm trù trung tâm của đạo đức học Cantơ là Tự do. Hai mặt mâu thuẫn
trong con người của đạo đức theo quan niệm của Rútxô được Cantơ giải quyết
bằng cách ông chuyển cái đạo đức trong tình cảm, lương tâm thành mệnh lệnh của
lý trí. Cái lý trí mà ông hiểu là có sức mạnh từ bên ngoài. Thực chất, sự vươn tới


9
đạo đức của con người đối với Cantơ chính là khát vọng vươn tới Tự do - hiểu
theo con người vươn tới các ý niệm phổ quát và tất yếu cũng như theo nghĩa con
người vươn tới lý tưởng cao đẹp của mình.
Ngay từ cuối thời kỳ tiền phê phán, Cantơ đã hình thành tư tưởng chia lý
tính ra những thành tố khác nhau, tư đó hình thành các bộ phận khác nhau trong
triết học. Bất kỳ một triết học nào theo ông cũng hoặc là triết học lý thuyết hoặc là
triết học thực tiễn. Triết học lý thuyết là lý luận về nhận thức và từ đó tìm ra
nguyên tắc nhận thức. Triết học thực tiễn là lý luận về phẩm hạnh và tìm ra
nguyên tắc vươn tới phẩm hạnh - sự lựa chọn Tự do. Đối tượng của triết học lý

thuyết chủ yếu là thế giới hiện tượng, của triết học thực tiễn là hành vi tự do và
phẩm hạnh tự do - vươn tới vật tự nó.
Tóm lại, đạo đức học của Cantơ tuy có nhiều điểm duy tâm, vì tính phi lịch
sử, phi giai cấp, cũng như thiếu cơ sở thực nghiệm, nhưng nó chứa đựng nhiều tính
nhân đạo sâu sắc. Đối lập với những quan niệm ích kỷ, thực dụng, hẹp hòi, nó là sự
kết tinh những giá trị đạo đức chung của loài người trong lịch sử, đồng thời thể hiện
những khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, nhằm
giải phóng con người khỏi gông cùm của chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội
mới, đem lại tự do và hạnh phúc cho loài người.
3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.
Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền của Cantơ, một mặt có ý nghĩa
triết học và xã hội to lớn, mặt khác nó mang tính hai mặt và mâu thuẫn.
Chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng tư sản pháp, Cantơ cụ thể hoá mệnh
lệnh tuyệt đối trong đạo đức học, thành yêu cầu chung ở mọi lĩnh vực thực tiễn:
chính tri, xã hội. Mỗi người hãy hành động sao cho tự do của bạn phải tồn tại cùng
với tự do của tất cả mọi người.
Lịch sử là phương thức tồn tại của loài người mà cụ thể là của từng cá nhân
như một chủ thể. Lịch sử tập trung cao ở lịch sử xã hội. Một mặt, lịch sử là quá
trình mà ở đó, bằng hoạt động của chính mình, con người ngày càng phát triển bản
chất và khả năng của mình; mặt khác, đây là lĩnh vực để con người thể hiện mục
đích và lý tưởng đạo đức. Cho nên, tiến trình lịch sử nhân loại là sự tiếp tục cho
quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên. Nó diễn ra theo hướng ngày càng tiến bộ
và hoàn thiện. Nó gạt bỏ dần những cản trở đi ngược lại nó.
Nhà nước là công cụ liên kết mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp
luật, nhằm giám sát và bảo đảm sự tự do và bình đẳng cho mọi công dân. Sự hình
thành nhà nước một mặt là do khế ước, mặt khác đó là sự hình thành có tính tất
yếu, do yêu cầu xã hội yêu cầu. Nhà nước ở đây là nhà nước pháp quyền do nhân
dân tập hợp lại để thực hiện tự do và bình đẳng. Cantơ cho rằng: Chế độ cộng hoà
là chế độ phù hợp nhất với nhu cầu phát triển của xã hội, nhằm mục đích vì hạnh
phúc con người

Phát triển quan điểm tư sản về xã hội, Cantơ bảo vệ chế độ tư hữu và cố
gắng củng cố nó bằng những lập luận theo kiểu tư sản: Sự tồn tại của xã hội tư sản
là có tính tiên thiên, tính tự nhiên và do đó nó có tính bất khả xâm phạm. Ông
chứng minh rằng, quyền tư hữu tài sản là có nguồn gốc tiên thiên, do đó nó là vĩnh
cửu, phổ biến và tuyệt đối cần thiết.


10
Cantơ cũng nêu lên tư tưởng độc đáo và sâu sắc về quyền bình đẳng của con
người. Bình đẳng không phải là về tài năng mà là về cơ hội để phát triển và áp
dụng tài năng. Ông cũng xác định là có quyền độc lập của người công dân, nhưng
quyền độc lập đó được ông hiểu theo kiểu cá nhân chủ nghĩa, vốn chỉ tồn tại trong
xã hội tư bản.
Về chiến tranh và hoà bình: Cantơ kêu gọi tất cả các dân tộc hãy thiết lập
mối quan hệ hoà bình hữu nghị. Ông kêu gọi tất cả các quốc gia trên hành tinh hãy
đoàn kết xây dựng một “liên bang”, trong khi vẫn đảm bảo cho mỗi dân tộc được
độc lập và tự do về chính trị. Xây dựng một thế giới hoà bình và hữu nghị theo
những lý tưởng nhân đạo cao cả, phải được coi là mục đích cao đẹp nhất. Những
tư tưởng nêu trên thực sự là những viên gạch đặt nền móng cho nhiều quan niệm
duy vật lịch sử sau này của Mác - Ănghen.
3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người
Mặc dù có mâu thuẫn, có tính chủ quan và tính hình thức của nó, mỹ học
của Cantơ vẫn là một sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là một
bước tiến rất quan trong trong sự phát triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên
tài nghệ thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa, nhưng về mặt nhận thức
luận lại quan trọng ở chỗ, nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc tính của lý thuyết sao
chép tự nhiên. Xu hướng chủ yếu trong phép phân tích cái đẹp thuần khiết là xu
hướng hình thức, nhưng phép phân tích ấy cũng vạch rõ chỗ khác nhau giữa chủ
nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói về tính tất yếu và tính phổ biến của phê phán thẩm
mỹ với xu hướng tương đối chủ nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ quan. Với lý

thuyết về cái đẹp nương tựa cái cao cả, chứng tỏ trong chừng mực nào đó, Cantơ
đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và những phạm trù thẩm mỹ và mối liên hệ
lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và chủ quan trong khái niệm thẩm mỹ.
Cũng như các nhà tư tưởng khác, Cantơ muốn trả lời câu hỏi: Con người từ
đâu đến và nó sẽ đi về đâu? cái gì đang đợi nó? và nó sẽ đi tớitương lai như nthế
nào? Đối với chúng ta không ai chờ đón chỉ ở một cá nhân lại có thể trả lời được
câu hỏi lớn lao của cả loài người. Cantơ đã đi sâu vào các quan hệ con ngưòi
không chỉ từ khía cạnh nhận thức luận mà cả khía cạnh bản thể luận, làm rõ quan
hệ tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội trong con người. Và nếu Cantơ
chưa giải quyết được những vấn đề đó thì chỉ là vì ông chưa đứng trên cơ sở lý
luận nhận thức duy vật biện chứng và duy vật lịch sử một cách triệt để.
Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu con người của Cantơ là ở chỗ, Cantơ đã
quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên - vật chất của sự nảy sinh và sự
phát triển xã hội. Ông đã xây dựng học thuyết về vai trò của tính mâu thuẫn xã hội
và tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch sử. Ông tin vào tiến bộ xã hội
và thắng lợi của các yếu tố đạo đức trong con người và xem mục đích của lịch sử
là xây dựng một xã hội công bằng và con người phát triển hài hoà. Các qua điểm
của Cantơ về tiến trình lịch sử là một trong những bước tiến lớn lao trên con
đường loài người xây dựng lý thuyết duy vật - Biện chứng về sự phát triển.


11
KẾT LUẬN
Cantơ là một trong những nhà triết học vĩ đại của lịch sử tư duy phương Tây
trước Mác. Triết học Cantơ “là nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện
đại, những hạn chế trong triết học không làm lu mờ công lao đó của Cantơ”.
Giá trị lớn lao trước hết của triết học Cantơ là nó đã đặt ra một loạt vấn đề
căn bản của nhận thức luận, về phương pháp biện chứng, về nguồn gốc của những
khái niện và các phạm trù lôgíc chủ yếu và vị trí của chúng trong tư duy khoa học
cũng như trong quá trình nhận thức.

Cantơ cũng đã đề xuất nhiều tư tưởng có ý nghĩa quan trong trong các lĩnh
vực chính trị, xã hội, pháp quyền, những vấn đề tôn giáo, chiến tranh và hoà
bình…Trên con đường tìm tòi đó, Cantơ đã đưa ra nhiều tư tưởng mới mẻ có ý
nghĩa vạch thời đại.
Đóng góp quan trọng của Cantơ là đã phác họa bức tranh của quá trình nhận
thức qua ba giai đoạn từ thấp đến cao. Công lao của Cantơ là đã khẳng định tính
phổ biến của các cặp phạm trù, tìm ra những yếu tố của mối liên hệ biện chứng
giữa các cặp phạm trù đó. Cantơ là một trong những người đầu tiên trong lịch sử
triết học đặt ra vấn đề mâu thuẫn trong nhận thức, và luận giải vấn đề đó theo tinh
thần biện chứng.
Lý tưởng nhân đạo của triết học Cantơ cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá
trị. Nó cho ta phương pháp nhìn nhận tương lai để đấu tranh chống lại chủ nghĩa
phi nhân đạo của thuyết vị khoa học-kỹ thuật hiện đại; chống lại quan niệm tách
biệt mâu thuẫn và đối lập giữa tiến bộ khoa học - công nghệ với tiến bộ xã hội loài
người; và ý ghĩa lớn lao nhất có tính quyết định, có tính nhân loại bao trùm nhất là
nó cho ta thấy rằng, ý nghĩa của cuộc sống con người không phải là cái gì trừu
tượng mà là thực tiễn cụ thể; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện tại mà còn của
tương lai, của những khả năng.



×