Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TƯ TƯỞNG TÍNH tất yếu KHÁCH QUAN PHẢI THÀNH lập ĐẢNG CỘNG sản TRONG TP TUYÊN NGÔN ĐẢNG CỘNG sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.25 KB, 21 trang )

T tởng của c. mác và ph. ăngghen về tính tất yếu khách
quan phảI thành lập đảng cộng sản trong tuyên ngôn
của đảng cộng sản,ý nghĩa trong xây dựng đảng.

Trên một thế kỷ rỡi đã trôi qua kể từ khi tác phẩm: Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời. Trong khoảng thời gian
đó, nhiều biến cố lịch sử đã diễn ra trên thế giới. Nhng lịch sử và thời gian
không làm giảm ý nghĩa của nó, trái lại càng khẳng định giá trị bền vững của
tác phẩm. Khi đánh giá về tác phẩm: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản V. I.
Lênin viết: Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng bộ sách, tinh thần của nó
đến bây giờ vẫn còn cổ vũ và thúc đẩy toàn thể giai cấp vô sản có tổ chức và
đang chiến đấu của thế giới văn minh1.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.ăngghen soạn
thảo, đợc xuất bản và công bố trớc toàn thế giới ngày 24 tháng 2 năm 1848 tại
Luân Đôn. Thực tiễn lịch sử chứng minh: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
ra đời đã thực sự trở thành cơng lĩnh chính trị và kim chỉ nam cho hành động
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là ngọn cờ dẫn dắt giai cấp vô
sản và nhân dân lao động toàn thế giới đấu tranh chống chủ nghĩa t bản, giải
phóng loài ngời thoát khỏi mọi áp bức bóc lột, xây dựng một xã hội mới - xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Việc hoàn thành và công bố tác
phẩm không phải là một sự kiện ngẫu nhiên mà đợc xuất phát từ những điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi, kết tinh của tinh hoa trí tuệ nhân
loại và công sức lao động sáng tạo, bền bỉ của C. Mác và Ph. ăngghen.

1

V. I. Lênin, Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1974, tr.10.


2


Cuối thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, loài ngời đã có bớc tiến dài trong
đời sống kinh tế xã hội, các công trờng thủ công có tính chất chuyên môn hoá
cao đợc hình thành và thay thế cho kiểu sản xuất phờng hội trớc đó. Những
phần tử đầu tiên của giai cấp t sản, giai cấp vô sản đợc hình thành, phát triển
từ đấy. Chủ nghĩa t bản dần dần hình thành phát triển ở phần lớn Châu Âu,
Bắc Âu thay thế cho chế độ phong kiến. Cuối thế kỷ XVIII là thời kỳ bão táp
của cách mạng t sản. Trên lĩnh vực kinh tế, nó là sự ra đời của cách mạng ở
các nớc nh Anh, Pháp, Đức.
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, loài ngời đã đạt đợc những thành
tựu to lớn về văn hoá, khoa học, t tởng với những phát minh vạch thời đại nh
Thuyết tơng đối của Anhxtanh, Thuyết tiến hoá của Đácuyn. Cũng ở thời gian
này cách mạng t sản diễn ra ở khắp nơi trên thế giới.
Về tình hình kinh tế, xã hội ở Châu Âu:
Những năm giữa thế kỷ XIX phơng thức sản xuất t bản chủ nghĩa đã
phát triển mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân có sự gia tăng nhanh chóng cả về số lợng, chất lợng, trong đó có cả
sự chuyển đổi về cơ cấu. Tỷ trọng giai cấp công nhân công nghiệp tăng đáng
kể, đây là bộ phận hạt nhân của giai cấp công nhân.
Với sự phát triển của chủ nghĩa t bản do lực lợng sản xuất có tính
chất xã hội hoá ngày càng cao mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ
chiếm hữu t nhân t bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản hiện đại ra đời và sớm bớc
lên vũ đài chính trị đấu tranh chống lại giai cấp t sản. Chính vì thế, mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp t sản ngày càng trở nên gay gắt. Những cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản trong những năm 30, đầu những năm 40 của thế
kỷ XIX đã cho thấy vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp vô sản, tiêu biểu là
cuộc đấu tranh của công nhân dệt ở thành phố Ly-ông (Pháp) năm 1837; cuộc
nổi dậy của công nhân dệt vùng Xilêdi (Đức) năm 1844; phong trào Hiến chơng ở Anh kéo dài 10 năm (1838-1848),Tuy các cuộc đấu tranh đó đều thất


3


bại, nhng ý thức chính trị của giai cấp vô sản đã đợc xác định, đó là ý thức đấu
tranh giành chính quyền, ý thức xoá bỏ chế độ t hữu.
Những trào lu t tởng ảnh hởng tới phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân vào những năm giữa thế kỷ XIX.
Vào những năm này, các trào lu t tởng hình thành đa dạng, phong phú
và phức tạp. Song, trào lu t tởng có ảnh hởng nhiều nhất tới phong trào vô sản
là chủ nghĩa xã hội không tởng của Xanh Xi Mông, Xác-Lơ-Puriê, Rô Be
Ôoen. Điểm tiến bộ trong t tởng của các ông là mong muốn xây dựng một chế
độ công bằng, bác ái, mọi ngời đều có quyền bình đẳng. Nhng những t tởng
này lại có những hạn chế rất cơ bản là không giải thích đợc bản chất chế độ t
bản chủ nghĩa; cha vạch ra đợc quy luật vận động phát triển của xã hội; cha
nhận thấy đợc vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.T tởng đó cho rằng
con đờng đi tới chế độ công bằng, bình đẳng, bác ái không phải là cách mạng
xã hội mà là con đờng giáo dục, nêu gơng; chủ trơng cải tạo xã hội bằng pháp
luật, bằng thực nghiệmNhững hạn chế này không những không đáp ứng đ ợc
yêu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mà còn kìm hãm sự thống nhất về
t tởng trong phong trào công nhân. Trong khi đó, giai cấp công nhân, phong
trào công nhân đã phát triển mạnh mẽ, chủ nghĩa xã hội không tởng không thể
đáp ứng đợc sự phát triển này, đòi hỏi phải có một lý luận tiên tiến dẫn đờng.
Cùng thời điểm, ở Châu Âu xuất hiện nhiều tổ chức của giai cấp vô
sản, song cha có tổ chức nào thể hiện rõ tính chất của một tổ chức chính trị.
Một trong những tổ chức đợc C. Mác quan tâm nhiều hơn là Liên đoàn
những ngời chính nghĩa (thành lập 1836) do Jiô Dép Môn lãnh đạo. Đây là
một tổ chức mang tính quốc tế, bao gồm những phần tử tiên tiến của giai cấp
vô sản ở nhiều nớc tham gia. Liên đoàn những ngời chính nghĩa chịu nhiều
ảnh hởng của t tởng chủ nghĩa xã hội không tởng. Tổ chức này khi thành lập
có mời C. Mác và Ph. Ăngghen tham gia nhng hai ông đều từ chối. Mặc dù



4

không tham gia nhng hai ông vẫn thờng xuyên trao đổi th từ để từng bớc giác
ngộ t tởng chính trị của ban lãnh đạo Liên đoàn.
Mùa xuân năm 1847 ban lãnh đạo Liên đoàn những ngời chính
nghĩa đã đồng ý những điều kiện do C. Mác và Ph. Ăngghen đa ra và Mác,
Ăngghen đã chính thức tham gia tổ chức này. Mùa hè năm 1847, tại Đại hội
của Liên đoàn chính nghĩa C. Mác và Ph. Ăngghen trình bày rõ những
quan điểm chính trị của mình, Đại hội thảo luận và thừa nhận những quan
điểm đó. Đại hội đổi tên Liên đoàn những ngời chính nghĩa thành Liên
đoàn những ngời Cộng sản, đổi khẩu hiệu, chơng trình hành động Tất cả
mọi ngời đều là anh em thành khẩu hiệu Vô sản tất cả các nớc, đoàn kết
lại. Đại hội thống nhất coi đây là Đại hội lần thứ nhất của Liên đoàn những
ngời Cộng sản và tuyên bố mục đích Lật đổ chế độ t bản chủ nghĩa, xây
dựng xã hội mới - xã hội không còn giai cấp. Đại hội giao cho C. Mác và
Ph. Ăngghen soạn thảo Cơng lĩnh và Điều lệ của Liên đoàn.
Tại Đại hội thứ nhất của Liên đoàn đã đề ra phải soạn thảo cơng lĩnh
của những ngời cộng sản. Tháng 9 năm 1947 Ban chấp hành Trung ơng của
Liên đoàn đã phát bản dự thảo có tên Cẩm nang của những ngời Cộng sản
cho các khu bộ, chi bộ của Liên đoàn. Văn kiện mang đậm dấu ấn của chủ
nghĩa xã hội không tởng nên Mác, Ăngghen đã phản đối kịch liệt.
Nhày 22 tháng 10 năm 1947 tại phiên họp của Ban chấp hành của Liên
đoàn ở Pari, Mác và Ăngghen phê phán bản dự thảo Cẩm nang và Ban chấp
hành Liên đoàn đã đồng ý với hai ông là bác bỏ văn kiện này; Ban chấp hành
Liên đoàn đã giao cho Ăngghen soạn một dự thảo mới. Vì thế, cuốn: Những
nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản đợc Ăngghen viết ngay sau đó. Đây chính
là bản sơ thảo cơng lĩnh viết dới dạng hỏi đáp, gồm 25 câu. Đến 29 tháng 11
năm 1847 tại Đại hội lần thứ 2 của Liên đoàn những ngời Cộng sản Mác và
Ăngghen đã bảo vệ cơ sở khoa học này trớc Đại hội, Đại hội đã thảo luận và uỷ
quyền cho Mác, Ăngghen hoàn chỉnh cơng lĩnh của Liên đoàn. Mác, Ăngghen



5

đã đổi tên: Những nguyên lý của chủ nghĩa Cộng sản thành: Tuyên ngôn
của đảng Cộng sản.
Trong một thời gian ngắn, từ tháng 12/1847 đến tháng 1/1848 C.Mác
và Ph.Ăngghen đã tập trung sức lực, trí tuệ hoàn thành: Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản và gửi bản thảo sang Luân Đôn. Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản đợc xuất bản và công bố lần đầu tiên ở Luân Đôn vào ngày 24
tháng 2 năm 1848. Tháng 4 và tháng 5 năm đó Tuyên ngôn đợc in lại một
lần nữa, sau đó đợc xuất bản bằng nhiều thứ tiếng ở nhiều nớc khác nhau.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự ra đời của một học
thuyết cách mạng - Học thuyết Mác, một thế giới quan khoa học của chủ nghĩa
Cộng sản.
Lần đầu tiên trong lịch sử, loài ngời thực hiện đợc cuộc cách mạng t tởng với đỉnh cao của trí tuệ. Những quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và t
duy của con ngời đợc khám phá và hệ thống hoá. Toàn bộ thành tựu trí tuệ của
loài ngời đợc tổng kết và khái quát. Sự ra đời của: Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản đã đáp ứng những đòi hỏi cấp thiết về t tởng, lý luận và thực tiễn của phong
trào công nhân.
Trong: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, chủ nghĩa Mác đợc hình
thành cơ bản với tất cả các bộ phận cấu thành của nó gồm: triết học, kinh tế
chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Đặc biệt, trong tác phẩm C.
Mác và Ph. Ăngghen đã sử dụng tài tình phép biện chứng duy vật để luận
giải mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thợng tầng để xem xét một xã hội cụ thể, đó chính là xã
hội t bản. Đó là sự luận giải sự hình thành, phát triển và tất yếu diệt vong
của giai cấp t sản, đồng thời làm rõ sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô
sản, khẳng định giai cấp vô sản chỉ có thể giải phóng mình khi đồng thời
phải giải phóng toàn xã hội và chỉ rõ: giai cấp vô sản không thể hoàn thành

sứ mệnh lịch sử nếu không thành lập đợc chính đảng của giai cấp. Đảng


6

Cộng sản ra đời là vấn đề tất yếu khách quan, xuất phát từ vấn đề giai cấp
và đấu tranh giai cấp, từ yêu cầu thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của giai
cấp vô sản. Đảng là ngời đa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là ngời lãnh đạo và tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản đến thắng
lợi.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đợc trình bày gồm phần mở đầu và
4 chơng. Các lần tái bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đều viết những lời tựa và bổ
sung thêm một số vấn đề mà trớc đó bản Tuyên ngôn cha đề cập tới. Phần
mở đầu C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ tính cách mạng và niềm tin tất thắng
của những ngời cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh của mình. Chơng 1- T sản
và vô sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích sâu sắc quá trình phát sinh,
hình thành và phát triển của chủ nghĩa t bản, từ đó các ông chỉ ra: chính sự
vận động nội tại, khách quan của xã hội t bản sẽ dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của
giai cấp t sản và sự thắng lợi tất yếu của giai cấp vô sản; giai cấp vô sản có sứ
mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa t bản và xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Chơng 2- Những ngời vô sản và những ngời cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng
ghen giải thích mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản, tính tiên
phong của Đảng, mục đích, nhiệm vụ và chiến lợc, sách lợc của đảng, phê
phán sự vu khống của giai cấp t sản đối với ngời cộng sản trên một số vấn đề.
Chơng 3- Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, chơng này các ông
xác định thái độ cụ thể đối với từng trào lu t tởng xã hội phi vô sản. Cụ thể,
các ông phê phán trào lu chủ nghĩa xã hội phản động phong kiến, phân tích
sâu sắc chủ nghĩa xã hội bảo thủ tiểu t sản, đánh giá thích đáng chủ nghĩa xã
hội không tởng. Chơng 4- Thái độ của những ngời cộng sản với những đảng
đối lập, chơng này các ông trình bày lập trờng kiên định của Đảng Cộng sản
về những vấn đề chiến lợc, sách lợc.

Sau khi nghiên cứu tác phẩm, tôi xin tập trung làm rõ : T tởng của
C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu khách quan phải thành lập Đảng


7

Cộng sản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản , ý nghĩa trong xây dựng
Đảng .
Bằng phơng pháp t duy biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng
minh một cách khoa học về sự phát triển của xã hội loài ngời. Theo hai ông,
lịch sử phát triển của xã hội loài ngời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan
rã cho tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các giai cấp bị áp
bức bóc lột với giai cấp bóc lột: Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trớc đến
ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp.
Ngời tự do và ngời nô lệ, quí tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ
cả phờng hội và thợ bạn, nói tóm lại, những kẻ áp bức và những ngời bị áp
bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không
ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết
thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự diệt
vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau 2. Mác và Ăngghen cho rằng xã hội
t sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không
xoá bỏ đợc những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem lại những giai cấp mới,
những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới thay thế cho
những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà
thôi.
Đến xã hội t bản hiện đại cũng phân chia thành hai giai cấp lớn thù
địch với nhau, đó là giai cấp t sản và giai cấp vô sản. Nội dung cơ bản của sự
vận động của lịch sử xã hội hiện đại là cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và
giai cấp t sản. Cuộc đấu tranh đó đa tới sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa t
bản và thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản: Tuy nhiên, đặc điểm của thời đại

chúng ta, thời đại của giai cấp t sản, là đã đơn giản hoá những đối kháng giai
cấp. Xã hội ngày càng chia thành hai phe lớn thù địch với nhau, hai giai cấp
lớn hoàn toàn đối lập nhau: giai cấp t sản và giai cấp vô sản3. Đối với giai cấp
2
3

C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tâp 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 596, 597.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr .597.


8

t sản, Mác và Ăngghen cũng đã xác định rõ vị trí lịch sử của giai cấp này.
Nhờ áp dụng những thành quả mới của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, những
công trờng thủ công đợc thay thế bằng những xí nghiệp hiện đại, những chủ
công trờng thủ công đã trở thành những chủ xí nghiệp tức là những nhà t sản
hiện đại. Các ông cho rằng, đại công nghiệp đã tạo ra thị trờng thế giới, thị trờng thế giới thúc đẩy cho thơng nghiệp, hàng hải, những phơng tiện giao
thông tiến bộ phát triển mau chóng lạ thờng. Sự phát triển này lại tác động trở
lại đến việc mở rộng công nghiệp; mà công nghiệp, thơng nghiệp, hàng hải, đờng sắt càng phát triển thì giai cấp t sản càng lớn lên, làm tăng những t bản
của họ lên và đẩy các giai cấp do thời trung cổ để lại xuống phía sau.
Nh vậy, Mác và Ăngghen đã cho chúng ta thấy rằng, bản thân giai cấp
t sản hiện đại cũng là sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một
loạt những cuộc cách mạng trong phơng thức sản xuất và trao đổi. Mỗi bớc
phát triển của giai cấp t sản đều có một bớc tiến bộ chính trị tơng ứng, là cơ sở
chủ yếu để độc chiếm hẳn đợc quyền thống trị trong nhà nớc đại nghị hiện
đại: Giai cấp t sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử.
Bất cứ ở chỗ nào mà giai cấp t sản chiếm đợc chính quyền thì nó đạp
đổ những quan hệ phong kiến, gia trởng và điền viên4.
Nh vậy, khi mới ra đời, giai cấp t sản là lực lợng cách mạng có một vai
trò hết sức to lớn trong lịch sử. Đại diện cho sự phát triển của lực lợng sản

xuất đang lên, giai cấp t sản đã làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp phong kiến
quí tộc, giành địa vị thống trị.
Sau khi nắm đợc chính quyền nhà nớc, giai cấp t sản liền phá huỷ
những quan hệ sản xuất phong kiến, gia trởng, thuần phác, thiết lập sự thống
trị của quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa. Giai cấp t sản đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của khoa học kỹ thuật, xoá bỏ tất cả những gì không phù hợp với
lợi ích của bản thân giai cấp mình, mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển.
4

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.599.


9

Chính vì vậy, cha đầy một thế kỷ, giai cấp t sản đã tạo ra đợc một lực lợng sản
xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lợng sản xuất của tất cả các thế hệ trớc kia
gộp lại. Đó là một tiến bộ của lịch sử.
Để thực hiện mục đích chính trị, quyền thống trị của mình, giai cấp t
sản vốn đã có bản chất là một giai cấp t hữu và bóc lột nên vai trò cách mạng
của giai cấp t sản bị hạn chế ngay từ đầu. Giai cấp t sản chỉ làm đơn giản hoá
giai cấp và đối kháng giai cấp mà thôi. Nó phân chia xã hội thành hai phe thù
địch với nhau, hai giai cấp hoàn toàn đối lập nhau; giai cấp vô sản và giai cấp
t sản nảy sinh đấu tranh ngay từ khi chủ nghĩ t bản ra đời. Sự tiến bộ của lịch
sử không chỉ do công lao riêng của giai cấp t sản mà trớc hết là do công lao
của quần chúng nhân lao động. Đặc biệt, Mác và Ăngghen chỉ rõ: khi thiết lập
quyền thống trị, giai cấp t sản đã bóc lột giai cấp vô sản và quần chúng nhân
dân lao động hết sức tinh vi và xảo quyệt. Xã hội t bản chứa đựng đầy dẫy các
tệ nạn xã hội : nạn thất nghiệp, tệ mại dâm Nó tạo ra một thứ đạo đức mới
có tiền bằng mọi giá, không để lại giữa ngời với ngời một mối quan hệ nào
khác ngoài lợi ích trần trụi và lối tiền trao cháo múc không tình nghĩa : Giai

cấp t sản đã xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và
làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần5.
Giai cấp t sản đã biến phẩm giá của con ngời thành giá trị trao đổi; nó
đã đem tự do buôn bán duy nhất thay cho biết bao quyền tự do đã đợc ban cho
và đã giành đợc một cách chính đáng: Tóm lại, giai cấp t sản đã đem sự bóc
lột công nhiên, vô sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn thay cho sự bóc lột đợc che đậy bằng
những ảo tởng tôn giáo và chính trị6.
Giai cấp t sản càng đầu t sản xuất bấy nhiêu, mâu thuẫn giai cấp càng
sâu sắc bấy nhiêu. Với bản chất là một giai cấp t hữu và bóc lột, giai cấp t sản
không những đã rèn vũ khí để giết mình mà nó còn tạo ra những ngời sử dụng
vũ khí ấy, đó chính là giai cấp công nhân hiện đại. Mác và Ăngghen đã chứng
5
6

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.
C. Mác và Ph. Ăngghen,Sách đã dẫn, tập 4, tr. 600.


10

minh một cách khoa học về sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa t
bản, về tính tất yếu của sự quá độ từ chủ nghĩa t bản sang một hình thái kinh
tế xã hội cao hơn đó là chủ nghĩa cộng sản. Hai ông chỉ rõ bớc quá độ đó
không phải diễn ra tự phát mà phải bằng con đờng cách mạng. Hai ông đã
phát hiện ra lực lợng xã hội có khả năng thực hiện bớc quá độ đó là giai cấp
công nhân - giai cấp vô sản hiện đại, là ngời có sứ mệnh lịch sử đào huyệt
chôn chủ nghĩa t bản và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn - chế độ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử đó là khách quan do địa vị kinh
tế - xã hội của giai cấp vô sản trong lịch sử quy định.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, giai cấp vô sản là giai cấp tiêu biểu cho

lực lợng sản xuất tiến bộ nhất, là giai cấp đợc rèn luyện trong nền sản xuất đại
công nghiệp, là sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, cho nên giai
cấp vô sản là giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất, có khả
năng hành động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật cao nhất,
là giai cấp duy nhất đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. C. Mác và Ph. Ăngghen
còn chỉ rõ : Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp t sản thì chỉ
có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản
lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp.7
Tuy nhiên, để thực hiện đợc sứ mệnh lịch sử đó thì điều kiện tiên
quyết là giai cấp vô sản phải tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì chỉ
khi nào giai cấp vô sản tổ chức đợc chính đảng chính trị độc lập của mình, thì
khi đó cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản mới chuyển từ đấu tranh tự phát
sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo: Sự tổ chức nh vậy của những
ngời vô sản thành giai cấp và do đó thành chính đảng, luôn luôn bị sự cạnh
tranh giữa công nhân với nhau phá vỡ. Nhng nó cũng luôn luôn đợc tái lập và
luôn luôn mạnh mẽ hơn. Nó lợi dụng những bất hoà trong nội bộ giai cấp t sản
7

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập4, tr.610.


11

để buộc giai cấp t sản phải thừa nhận bằng luật pháp, một số quyền lợi của
giai cấp công nhân. Chẳng hạn nh đạo luật ngày lao động 10 giờ ở Anh 8.
Mác và Ăngghen còn nhấn mạnh: Nói chung, những xung đột xảy ra trong
xã hội cũ đã thúc đảy quá trình phát triển của giai cấp vô sản về nhiều mặt.
Giai cấp t sản sống trong một trạng thái chiến tranh không ngừng: trớc hết
chống lại quý tộc, sau đó, chống lại các bộ phận của chính ngay giai cấp t sản

mà quyền lợi xung đột với sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối cùng, luôn luôn
chống lại giai cấp t sản của tất cả các nớc ngoài. Trong hết thảy những cuộc
đấu tranh ấy, giai cấp t sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi giai cấp vô sản,
yêu cầu họ giúp sức, và do đó, lôi cuốn họ vào phong trào chính trị. Thành
thử, giai cấp t sản đã cung cấp cho những ngời vô sản những tri thức của bản
thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó. 9 Hoặc: Trớc hết, giai
cấp t sản sinh ra những ngời đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp
t sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu nh nhau 10. Cũng nh lời
tựa cho lần xuất bản: "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" năm 1888, C. Mác và
Ph. Ăngghen chỉ rõ: Chính do bản thân các sự biến và do những thành bại
trong cuộc đấu tranh chống t bản- do những thất bại nhiều hơn là do những
thành công - mà công nhân không thể không cảm thấy rằng tất cả các môn
thuốc vạn ứng của họ đều vô dụng, họ không thể không đi tới chỗ nhận thấy tờng tận những điều kiện thực sự của công cuộc giải phóng giai cấp công
nhân11. Điều kiện đó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Và nh vậy, theo Mác và Ăngghen, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp
có lợi ích khác nhau, dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích. Đó là nguồn gốc cơ bản
của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp thoạt đầu là
đấu tranh vì quyền lợi kinh tế. Cuộc đấu tranh đó phát triển đến một trình độ
nhất định thì chuyển hoá thành đấu tranh chính trị: Tất cả những phong trào
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr.609.
10
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 613.
11
C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 518,521.
8
9


12


lịch sử, từ trớc đến nay, đều là do thiểu số thực hiện, hoặc đều mu lợi cho
thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mu lợi
ích cho khối đại đa số. Giai cấp vô sản, tầng lớp ở bên dới nhất của xã hội hiện
đại, không thể vùng dậy, vơn mình lên nếu không làm nổ tung toàn bộ cái thợng tầng kiến trúc bao gồm những tầng lớp cấu thành xã hội quan phơng .
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp t sản, dù về mặt
nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhng lúc đầu lại mang
hình thức đấu tranh dân tộc. Đơng nhiên là trớc hết, giai cấp vô sản mỗi nớc
phải thanh toán xong giai cấp t sản nớc mình đã12. Theo hai ông, khi cuộc
đấu tranh giai cấp phát triển đến một trình độ nào đó thì chính đảng của giai
cấp ra đời. Chính đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên của
cuộc đấu tranh giai cấp đạt đến trình độ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất
mọi hoạt động của giai cấp, nhằm hớng các nỗ lực chung vào mục tiêu chống
lại giai cấp đối lập và nhà nớc thống trị của giai cấp đó. Đó chính là giai cấp
và nhà nớc t sản.
Chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách
quan của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản với giai cấp t sản, là
điều kiện tiên quyết để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Theo Mác và Ăng ghen, vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân đợc quyết định trớc hết là do địa vị của giai cấp đó trong nền sản xuất xã
hội, chứ không phải chỉ vì số lợng của giai cấp đó, hoặc chỉ vì nó là giai cấp
bị bóc lột nhiều nhất trong xã hội t bản. Là giai cấp tiêu biểu cho lực lợng sản
xuất tiến bộ nhất, là giai cấp đợc rèn luyện trong nền sản xuất công nghiệp, là
sản phẩm của chính bản thân nền đại công nghiệp, là giai cấp bị tớc đoạt hết t
liệu sản xuất, buộc phải đi làm thuê cho nhà t sản. Giai cấp công nhân là giai
cấp tiên tiến nhất, có tinh thần triệt để cách mạng nhất, có khả năng hành

12

C. Mác và Ph. Ăng ghen:Sách đã dẫn, tập 4, tr.611.



13

động cách mạng kiên quyết nhất, có tính tổ chức và kỷ luật cao nhất, là giai
cấp duy nhất đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
Tuy nhiên, theo Mác và Ăngghen, giai cấp công nhân muốn thực hiện
đợc vai trò lịch sử thế giới thì điều kiện tiên quyết là giai cấp công nhân phải
tổ chức ra chính đảng độc lập của mình. Vì, chỉ khi nào giai cấp vô sản tổ
chức đợc chính đảng chính trị độc lập của mình, thì khi đó cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát, lẻ tẻ, rời rạc sang đấu
tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, và cũng chỉ khi đó thì giai cấp vô sản
mới chuyển từ giai cấp tự mình thành giai cấp vì mình. Mác và Ăngghen
khẳng định: Trong cuộc đấu tranh của mình, chống quyền lực liên hợp của
các giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi đợc tổ chức thành một chính
đảng độc lập với tất cả các chính đảng cũ do các giai cấp có của lập nên thì
mới có thể hành động với t cách là một giai cấp. Việc tổ chức nh vậy giai cấp
công nhân thành một chính đảng là cần thiết để đảm bảo thắng lợi của cách
mạng xã hội và thắng lợi của mục đích cuối cùng của nó là : thủ tiêu các giai
cấp13. Ăngghen còn chỉ rõ: Để cho giai cấp vô sản đủ vững mạnh để chiến
thắng trong giờ phút quyết định, cần phảI - và điều này Mác và tôi chủ trơng
từ năm 1847- thành lập một đảng riêng biệt khác hẳn các đảng khác và đối lập
hẳn với các đảng này, một đảng giai cấp tự giác14.
Nh vậy, theo t tởng của Mác và Ăngghen, chính vai trò lịch sử toàn thế
giới và địa vị lãnh đạo của giai cấp công nhân, chính việc thực hiện những
mục tiêu cao cả của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh cách mạng xoá
bỏ nền thống trị của giai cấp t sản đã quyết định tính tất yếu khách quan và sự
cần thiết phải thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản.
Nh vậy, chính đảng của giai cấp vô sản mà C. Mác và Ph. Ăngghen đề
cập tới phải là một Đảng cách mạng, một Đảng độc lập mang bản chất giai cấp

vô sản rõ rệt, độc lập cả về chính trị, t tởng và tổ chức, không bị lệ thuộc vào
13
14

C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, Hà Nội, 1983, tr.207.
C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 704.


14

giai cấp t sản, không bị giai cấp t sản lợi dụng, Đảng gắn bó chặt chẽ với giai
cấp vô sản và nhân dân lao động. Mặt khác, độc lập nhng Đảng không phải là
hội kín, tách khỏi quần chúng nhân dân lao động nói chung và giai cấp vô sản
nói riêng; Đảng liên hệ chặt chẽ với quần chúng, không đối lập với các Đảng và
các tổ chức khác của giai cấp vô sản. Đảng phải tích cực hoạt động để đa t tởng
chủ nghĩa xã hội khoa học vào các tổ chức đó và hớng hoạt động của các tổ
chức đó theo quỹ đạo của cách mạng vô sản. Những cuộc đấu tranh đã tạo điều
kiện cho giai cấp vô sản đoàn kết thành tổ chức. Sự tổ chức nh vậy thành chính
đảng. Sự tồn tại, phát triển của đảng vì sứ mệnh của giai cấp vô sản. Đảng kết
thúc vai trò của mình khi sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản hoàn
thành.
Trong cuộc đấu tranh, Đảng Cộng sản không chỉ tập hợp trong hàng
ngũ của mình giai cấp vô sản mà cả các tầng lớp trung gian, những nhà tiểu
công nghiệp, tiểu thơng, thợ thủ công, nông dân. Song, khi sắp rơi vào hàng
ngũ vô sản, họ đã tự nguyện từ bỏ quan điểm của chính họ để đứng trên quan
điểm của giai cấp vô sản, bảo vệ lợi ích tơng lai của họ. Hơn nữa, khi cuộc đấu
tranh giai cấp tiến gần tới giờ quyết định, giai cấp thống trị bị phân hoá, một
bộ phận nhỏ tách ra khỏi giai cấp này đi theo giai cấp vô sản. Đó là bộ phận
những nhà t tởng t sản vơn lên nhận thức đợc về mặt lý luận toàn bộ cuộc vận
động. Thực tiễn đó đã khẳng định rằng các tầng lớp trung gian và cả giai cấp

thống trị cũng có thể từ bỏ lập trờng giai cấp của mình để tham gia vào hàng
ngũ của giai cấp vô sản.
Trong thực tiễn lúc đó, C.Mác, Ăngghen đã chứng kiến phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế xuất hiện nhiều tổ chức tự xng là đảng vô sản
đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản nhng trên thực tế nó không phải là
một đảng độc lập, một đảng thực sự cách mạng của giai cấp vô sản, đủ sức
đóng vai trò lãnh tụ của giai cấp vô sản nh: đảng hiến chơng ở Anh ra đời năm
1832, nó là hình thức của đảng vô sản nhng thực chất chỉ là cái đuôi của giai


15

cấp t sản chống lại giai cấp vô sản. Khi những ngời lãnh đạo của Liên đoàn
những ngời chính nghĩa đồng ý để C.Mác và Ph.Ăngghen cải tổ triệt để tổ
chức này thì các ông đã có nhiều chủ trơng và việc làm tích cực nh: Đổi tên
của Liên đoàn những ngời chính nghĩa thành Liên đoàn những ngời Cộng
sản và tuyên truyền, xây dựng làm cho tổ chức này trở thành một chính Đảng
cách mạng của giai cấp vô sản. Theo Mác và Ăngghen: Mục đích trớc mắt
của những ngời cộng sản cũng là mục đích trớc mắt của tất cả các đảng vô sản
khác: tổ chức những ngời vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai
cấp t sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Những quan điểm lý luận
của những ngời cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những
nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Những
nguyên lý ấy chỉ là biểu hiện khái quát những quan hệ thực tại của một cuộc
đấu tranh giai cấp hiện có, của một sự vận động lịch sử đang diễn ra tr ớc mắt
chúng ta 15 . Từ đó, hai Ông cũng chỉ rõ : Vậy là về mặt thực tiễn, những ngời
cộng sản là một bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng vô sản ở tất cả các nớc, là bộ phận luôn thúc đẩy phong trào tiến lên, về mặt lý luận, họ hơn bộ
phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình
và kết quả chung của phong trào vô sản 16.
Nh vậy, theo C. Mác và Ph. Ăngghen, Đảng thể hiện tính vô sản rõ rệt,

Đảng mang bản chất giai cấp vô sản, Đảng phải luôn đứng vững trên lập trờng
của giai cấp vô sản để giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt động của
Đảng. Cơng lĩnh chiến lợc, sách lợc của Đảng phải luôn xuất phát từ lợi ích
của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và phù hợp với thực tiễn mỗi nớc.
Mục đích và lợi ích của Đảng Cộng sản và giai cấp vô sản là thống nhất, Đảng
Cộng sản luôn đại biểu trung thành và phấn đấu cho quyền lợi của toàn thể
giai cấp vô sản. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản cũng là sứ mệnh lịch sử

C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 615.
C. Mác và Ph. Ăngghen, Sách đã dẫn, tập 4, tr. 615.

15
16


16

của Đảng cộng sản. Kẻ thù của giai cấp vô sản là giai cấp t sản cũng là kẻ thù
của Đảng Cộng sản.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong, bộ tham mu chiến đấu, ngời vạch ra
cơng lĩnh, chiến lợc, sách lợc cho giai cấp, do vậy Đảng Cộng sản phải đợc
trang bị lý luận tiên phong và phải thực sự tiên phong về mặt lý luận. Đảng
Cộng sản phải lấy những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học làm nền
tảng t tởng, có nh vậy mới xác định đúng đắn các vấn đề trong lãnh đạo và xây
dựng Đảng. Chỉ khi đợc lý luận tiên phong dẫn đờng và tích cực đấu tranh bảo
vệ t tởng khoa học thì Đảng Cộng sản mới làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.
C.Mác và Ph.Ăngghen không những là ngời đầu tiên nêu lên những t tởng về
chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản mà còn là những ngời đầu tiên
tham gia xây dựng chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản. Đồng thời các
ông đã tích cực tuyên truyền t tởng của chủ nghĩa cộng sản khoa học vào

phong trào vô sản, coi đó là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định để
làm cho Đảng Cộng sản thực sự là một chính đảng cách mạng.
Để tiến tới thành lập chính Đảng cách mạng của giai cấp vô sản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa xã hội khoa học
bằng cách viết bài đăng trên các báo, thành lập uỷ ban thông tin cộng sản ở
Bỉ, Anh, Pháp, Đức để thống nhất về t tởng, tổ chức của những ngời xã hội
chủ nghĩa và vô sản tiên tiến của tất cả các nớc. Khi đợc mời tham gia Liên
đoàn những ngời chính nghĩa C.Mác và Ph.Ăngghen đã đấu tranh đa chủ
nghĩa xã hội khoa học vào tổ chức này thay cho chủ nghĩa cộng sản không tởng, làm cho Liên đoàn những ngời Cộng sản lần đầu tiên trở thành một
chính đảng cách mạng, khoa học.
Cuộc đấu tranh của các chính đảng là sự biểu hiện hoàn chỉnh nhất,
đầy đủ nhất và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp. Đảng là
một tổ chức chính trị, là sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh chính trị
của một giai cấp, và chủ yếu, trớc hết nó đại biểu quyền lợi của giai cấp đó.


17

Bất kỳ một chính đảng nào cũng ra đời theo quy luật đó. Không có đảng siêu
giai cấp. Đảng bao giờ cũng mang tính chất của một giai cấp.
Vì vậy, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân
phải lập ra chính đảng của mình với t cách là lãnh tụ chính trị, bộ tham mu
chiến đấu, thực sự tiên phong cả về lý luận và thực tiễn, cả về t tởng và tổ chức
để lãnh đạo phong trào công nhân.
Hiện nay, nhiều học giả t sản và bọn cơ hội xét lại hiện đại trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang ra sức phủ nhận vai trò lãnh
đạo của các Đảng Cộng sản. Họ bắt đầu từ sự phủ nhận vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân và những thành quả cách mạng của nó. Hậu quả của sự sụp đổ
ở Liên Xô và ở một số nớc Đông Âu mà Đảng Cộng sản đã giành đợc chính
quyền trớc đây không phải vì bản thân chủ nghĩa xã hội khoa học mà vì các

Đảng Cộng sản ở các nớc ấy phạm sai lầm chủ quan, duy ý chí, mà chủ yếu ở
sự nhận thức và vận dụng nó một cách sơ cứng, giáo điều; càng không phải ỏ
chỗ giai cấp công nhân đã mất vai trò lịch sử thế giới của mình. Vai trò ấy đợc quyết định trớc hết và chủ yếu bởi vai trò của nó trong nền sản xuất xã hội
và do điều kiện lịch sử quy định một cách khách quan. Giai cấp công nhân đã
và vẫn là giai cấp đại diện cho phơng thức sản xuất tiên tiến. Song, chúng ta
cũng cần có một nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện đại. Đó là giai cấp
công nhân có khoa học, kỹ thuật, có trí tuệ, đợc trí thức hoá.
Qua bao thăng trầm của lịch sử, những biến động trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, của cách mạng thế giới, song những quan điểm, t tởng
đợc C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản
vẫn giữ nguyên giá trị.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, đánh dấu sự ra đời của chủ
nghĩa Mác, đồng thời Tuyên ngôn cũng là cơng lĩnh chính trị của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của Tuyên ngôn chấm dứt thời kỳ
khủng hoảng về lý luận cách mạng, về đờng lối cách mạng, đáp ứng đòi hỏi của


18

phong trào công nhân lúc đó. Khi Tuyên ngôn đợc công bố, tác phẩm đã tác
động rất lớn để các Đảng Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới ra đời lãnh đạo
cách mạng và phong trào công nhân.
Tác phẩm là cuốn kinh điển chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học và
giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Những t tởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là những chỉ dẫn hết sức
quan trọng, có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng và hoạt động của các
Đảng Cộng sản. Nó đợc Lênin, Hồ Chí Minh và những lãnh tụ cộng sản trên thế
giới không những vận dụng trung thành mà còn bảo vệ, phát triển trở thành một
học thuyết cách mạng, khoa học của giai cấp vô sản thế giới. Trung thành và vận
dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nh những t tởng trong tác phẩm:

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã coi trọng đặc biệt việc xây dựng Đảng để lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi. Ngời ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào phong trào cách mạng, trớc hết vào phong trào công nhân
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đó là sự kết hợp của chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nớc. Từ ngày thành
lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định Đảng là đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Mục đích của Đảng là
xây dựng nớc Việt Nam độc lập, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội, cuối cùng là chủ nghĩa cộng
sản, góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới và của phong
trào cộng sản, công nhân quốc tế. Đảng luôn khẳng định việc nâng cao bản
chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng là t tởng xuyên suốt trong
công tác xây dựng Đảng; thờng xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả
về chính trị, t tởng và tổ chức, cả về lý luận và thực tiễn, cả về cơng lĩnh, đờng
lối, tổ chức của Đảng và tính tiên phong, gơng mẫu của đội ngũ đảng viên.


19

Ngày nay, nhân dân ta đang tiếp tục thực hiện sự nghiệp đổi mới đất
nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của toàn
Đảng, toàn dân, đặc biệt là vai trò tiên phong của Đảng. Trong khi xác định
xây dựng kinh tế là trọng tâm, Đảng ta coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt. Kiên trì giữ vững, tăng cờng sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng
Đảng vững mạnh về mọi mặt là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
sự nghiệp đổi mới đất nớc ta hiện nay.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định:

Những thành tựu và yếu kém trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo của Đảng và những u điểm, khuyết
điểm trong công tác xây dựng Đảng 17. Đánh giá về những thành tựu đã đạt đợc qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX về công tác xây
dựng Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: Công tác xây
dựng Đảng đạt một số kết quả tích cực. Công tác giáo dục chính trị t tởng, công
tác tổ chức và cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống
chính trị ở cơ sở, phát triển đảng, công tác kiểm tra có những chuyển biến mới.
Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động sáng tạo, giữ
gìn phẩm chất đạo đức18. Để đạt đợc những thành tựu trên là nhờ đờng lối
đúng đắn của Đảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nớc, điều
hành năng động của chính phủ và nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X cũng chỉ ra những yếu
kém, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng: Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cha đạt yêu cầu. Tình trạng suy thoái về t tởng chính trị, đạo đức lối
sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở
đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức
17

ĐCSVN,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr.137.
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội,2006, tr.61,65

18,19 ĐCSVN,Văn

18


20

tạp nảy sinh. Công tác t tởng còn thiếu tính thuyết phục. Công tác lý luận cha

làm sáng tỏ đợc một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Công tác tổ
chức và cán bộ còn nhiều mặt yếu kém. Chất lợng và hiệu quả kiểm tra, giám
sát cha cao19. Những khuyết điểm và yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: T duy của Đảng
trên một số lĩnh vực chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trơng
lớn cha đợc làm rõ nên cha đạt đợc sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt
khoát trong hoạch định chính sách chỉ đạo điều hành20. Nh vậy, trong công tác
xây dựng Đảng, Đảng ta đã nhìn nhận, đánh giá đúng đắn những thành tựu, chỉ
rõ những yếu kém, khuyết điểm và tìm ra nguyên nhân yếu kém để khắc phục
sửa chữa, nhằm lãnh đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi.
Vì vậy, phải luôn tuyệt đối kiên định với sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc càng đòi hỏi phải giữ vững, tăng cờng sự lãnh đạo và phát huy tính
tiền phong của Đảng. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chẳng
những là vấn đề cơ bản mà còn là vấn đề có tính cấp thiết hiện nay. Đảng ta chủ
trơng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng
theo Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII và Nghị quyết TW4 khoá IX, đó chính
là những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. Nội dung tiến hành cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng phải
toàn diện cả chính trị, t tởng, cả con ngời và tổ chức, cả phẩm chất, năng lực và
phơng pháp lãnh đạo, tác phong công tác, trong đó cần tập trung vào những nội
dung then chốt là: Nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo chính trị, tăng cờng công tác giáo dục chính trị, t tởng, đạo đức, lối sống và kiến thức mọi mặt
cho cán bộ, đảng viên; đổi mới nội dung, phơng thức lãnh đạo của Đảng gắn
với đổi mới hệ thống chính trị, trớc hết là đối với Nhà nớc; đổi mới công tác
19
20

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tr.65.



21

quần chúng của Đảng, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng và các tệ
nạn xã hội. Bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cờng đoàn kết thống nhất
trong Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, làm trong sạch đảng, nâng
cao chất lợng đội ngũ đảng viên, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, đã trải qua nhiều thử thách, trở thành một Đảng Mác- Lênin kiên cờng,
trởng thành về chính trị, vững vàng trớc những biến cố vô cùng khó khăn của
lịch sử ở trong nớc và trên thế giới. Đó là thành công của học thuyết Mác
Lênin về Đảng đợc vận dụng sáng tạo và việc xây dựng một chính đảng cách
mạng của giai cấp công nhân trong một nớc có nền kinh tế chậm phát triển,
vốn là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Hiện nay trên thế giới, bọn cơ hội, xét lại và giai cấp t sản đang tìm
mọi cách xuyên tạc nhằm phủ nhận giá trị t tởng trong: Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản cũng nh học thuyết Mác Lê nin về Đảng, thì việc nghiên
cứu, nắm vững giá trị t tởng trong Tuyên ngôn và các nguyên lý của học
thuyết Mác - Lênin về Đảng càng có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta những cơ sở
lý luận để quán triệt và vận dụng sáng tạo đờng lối, chính sách, xây dựng
Đảng ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong cách mạng, ngời
lãnh đạo chính trị duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam.



×