Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học Quyết định hình phạt trong đồng phạm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.91 KB, 53 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ BÌNH

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG ĐỒNG PHẠM

NGUYỄN THỊ BÌNH

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG ĐỒNG PHẠM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Hồng Hải

HÀ NỘI - 2010
HÀ NỘI - 2010



phạt

MỤC LỤC
2.2.2.

42

2.2.3. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt

43

Trang phụ bìa

2.2.4. Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt

45

Lời cam đoan

2.3.

Mục lục

2.3.1. Các quy định của Bộ luật hình sự

48

Danh mục các bảng

2.3.2. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội


50

Trang

1.1.

Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quyết định hình phạt

Các căn cứ quyết định hình phạt

47

MỞ ĐẦU

1

2.3.3. Nhân thân người phạm tội

53

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG PHẠM

7

2.3.4. Những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự

55

Khái niệm, các đặc trưng cơ bản và ý nghĩa của đồng phạm


7

Chương 3:

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG ĐỒNG PHẠM VÀ

58

THỰC TIỄN ÁP DỤNG

1.1.1. Khái niệm đồng phạm

7

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đồng phạm

13

1.1.3. Ý nghĩa của khái niệm đồng phạm

16

3.1.1. Các nguyên tắc của quyết định hình phạt trong đồng phạm

58

17

3.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm


66

1.2.1. Người thực hành

18

3.2.

Thực tiễn quyết định hình phạt trong đồng phạm

74

1.2.2. Người tổ chức

21

3.3.

Hoàn thiện chế định quyết định hình phạt trong đồng phạm

86

1.2.3. Người xúi giục

23

KẾT LUẬN

91


1.2.4. Người giúp sức

25

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

93

1.2.

1.3.

Những loại người đồng phạm

Các hình thức đồng phạm

27

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH

32

HÌNH PHẠT

2.1.

Khái niệm và ý nghĩa của quyết định hình phạt

2.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt


32
32

2.1.2

Ý nghĩa của quyết định hình phạt

37

2.2.

Các nguyên tắc quyết định hình phạt

39

2.2.1.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quyết định hình

40

3.1.

Nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm

58


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được về mọi mặt của đời sống

Số hiệu

Tên bảng

Trang

phạm vẫn diễn biến phức tạp, chưa có chiều hướng giảm, số lượng các vụ án

bảng
3.1

Số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao về tổng kết

74

công tác xét xử các loại vụ án qua các năm 2005 - 2009
3.2

xã hội thì vẫn còn tồn tại không ít những hiện tượng tiêu cực. Tình hình tội

Số lượng các vụ án có đồng phạm


75

hình sự mà các tòa án phải thụ lý, giải quyết tăng hơn, trong đó có nhiều vụ
án lớn và ngày càng phức tạp, nghiêm trọng. Thực tiễn cho thấy, tội phạm
được thực hiện thông qua hình thức đồng phạm đang có xu hướng gia tăng.
Tính chất nguy hiểm, phức tạp và hậu quả của nó gây ra cho xã hội ngày càng
cao. Việc Bộ luật hình sự năm 1999 tiếp tục ghi nhận chế định đồng phạm
trong đó có các quy định cụ thể về đồng phạm đánh dấu một bước phát triển
về chất trong hoạt động lập pháp hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, qua thực tiễn
áp dụng chế định đồng phạm trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động
xét xử nói riêng thì thấy còn có nhiều vấn đề bất cập, đặc biệt là vấn đề quyết
định hình phạt trong đồng phạm. Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa
chọn một hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người phạm tội. Khi quyết định
hình phạt trong đồng phạm, nhiều Tòa án đã gặp không ít khó khăn do một số
quy định về quyết định hình phạt còn mang tính khái quát cao, chưa chặt chẽ,
một số quy định khác còn chưa theo kịp tiến trình phát triển của đời sống kinh
tế xã hội... Chính những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng
cao hiệu quả của hình phạt. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống đề tài "Quyết định hình phạt trong đồng phạm", làm rõ hơn về mặt lý
luận nhằm góp phần vào việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật hình sự Việt
Nam là yêu cầu cấp thiết, đáp ứng quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế, đặc
biệt khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài

phạm, chế định quyết định hình phạt một cách riêng lẻ. Có một số công trình


Ở nước ta, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về các nội

đề cập đến mối liên hệ giữa hai chế định này nhưng chỉ được xem xét mối

dung liên quan đến chế định đồng phạm, chế định quyết định hình phạt. Đáng

liên hệ giữa hai chế định này như khối kiến thức cơ bản ở một phần, một mục

chú ý là những công trình sau:

trong các giáo trình giảng dạy, một chương của sách chuyên khảo hay một

- Vấn đề pháp lý của quy phạm "nguyên tắc quyết định hình phạt" tại
Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam (Một số vấn đề lý luận-thực tiễn và hoàn
thiện pháp luật), của TSKH. Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1+2/1989.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Chương VII "Quyết
định hình phạt", trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 - Tập 1
phần chung" do TS. Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, 2001.
- Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, của Dương Tuyết
Miên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Mục VI,
Chương XIII "Quyết định hình phạt", trong sách: "Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 1999 - Phần chung", của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 2000.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Mục VI,
Chương XIX "Quyết định hình phạt", trong sách: "Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam phần chung" của Trung tâm đào tạo từ xa - Đại học Huế, do TS.Võ
Khánh Vinh chủ biên, Nxb Giáo dục, 2001.
- Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Chương XVI
"Quyết định hình phạt", của ThS. Trịnh Quốc Toản, trong sách: "Giáo trình

Luật hình sự Việt Nam phần chung" (tái bản lần thứ nhất), do TSKH Lê Cảm
chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2003.
Các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập và giải quyết nhiều
vấn đề bức xúc mà lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đặt ra. Tuy
nhiên, các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chế định đồng

2

phần của luận văn, luận án mà chưa có công trình nào đề cập đến việc nghiên
cứu với đúng tên gọi "Quyết định hình phạt trong đồng phạm" một cách có hệ
thống, toàn diện ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học.
Là người công tác trong ngành tòa án, có điều kiện nắm bắt tình hình
tội phạm cũng như tiếp xúc với thực tiễn công tác xét xử, tôi thấy tình hình tội
phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có diễn biến phức tạp và xu
hướng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, mức độ
nghiêm trọng, hậu quả thiệt hại..., gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự và
an toàn xã hội. Bởi vậy, tôi đã chọn đề tài "Quyết định hình phạt trong đồng
phạm" để viết luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên
cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trước yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm nói chung, đặc biệt là những tội phạm được thực hiện bằng hình thức
đồng phạm, Luận văn này nhằm mục đích làm rõ hơn, cụ thể hơn về mặt lý
luận những vấn đề quyết định hình phạt trong vụ án đồng phạm, góp phần
nâng cao hơn nữa hiệu quả của quyết định hình phạt trong vụ án hình sự có
đồng phạm.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này nghiên cứu quyết định hình
phạt trong vụ án hình sự có đồng phạm mà cụ thể là các vấn đề như:

- Một số vấn đề chung về đồng phạm;

3


- Một số vấn đề chung về quyết định hình phạt;

cao hoặc của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương ban hành có liên

- Nguyên tắc quyết định hình phạt trong đồng phạm;

quan đến nội dung của đề tài, những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm

- Các căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm;
- Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc quyết định
hình phạt trong đồng phạm;

trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
và địa phương... để phân tích, tổng hợp các luận chứng, các vấn đề được
nghiên cứu trong luận văn.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

- Việc áp dụng các quy định về quyết định hình phạt trong đồng phạm
trong thực tiễn xét xử.

Luận văn hoàn thành sẽ là chuyên khảo nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống và đồng bộ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định

3.3. Phạm vi nghiên cứu


hình phạt trong vụ án hình sự có đồng phạm. Trong luận văn này, tác giả đã

Luận văn nghiên cứu quyết định hình phạt trong đồng phạm dưới góc

giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:

độ luật hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999.

- Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

chế định như: (1) Một số vấn đề chung về đồng phạm bao gồm: khái niệm,

4.1. Cơ sở lý luận

đặc trưng cơ bản và ý nghĩa của đồng phạm; những loại người đồng phạm;

Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh

các hình thức đồng phạm. (2) Một số vấn đề chung về quyết định hình phạt;
các nguyên tắc của quyết định hình phạt; các căn cứ quyết định hình phạt.

phòng và chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật, cũng như thành tựu

- Nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình phạt trong đồng phạm;

của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà


- Thực tiễn quyết định hình phạt trong đồng phạm;

nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố
tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình
nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà
khoa học luật hình sự.

- Một số kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện chế định quyết định hình
phạt trong đồng phạm, đề xuất các hướng hoàn thiện pháp luật hình sự, các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có
đồng phạm.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ vấn đề tư
đó sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng
hợp, thống kê;... Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản
pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo
của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân tối

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là đề tài nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách có hệ thống và
toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong vụ
án hình sự có đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc
sỹ luật học. Trong quá trình hoàn thành luận văn, tác giả đã đưa ra những kết

4

5



quả nghiên cứu trong các tạp chí khoa học pháp lý, kết quả nghiên cứu của
một số nhà khoa học pháp lý.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỒNG PHẠM

6.2 .Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần vào việc quyết định hình phạt trong đồng phạm
của cơ quan Tòa án, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm

1.1. KHÁI NIỆM, CÁC ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỒNG PHẠM

của chế định quyết định hình phạt trong vụ án hình sự có đồng phạm trong

1.1.1. Khái niệm đồng phạm

lĩnh vực lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn; góp phần cá

Nghiên cứu thực tiễn công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm cho

thể hóa hình phạt và cá thể hóa tội phạm. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu

thấy một tội phạm có thể do một hoặc nhiều người thực hiện. Được coi là

tham khảo trong lĩnh vực pháp luật, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp

đồng phạm khi những người phạm tội có chung hành động và cùng cố ý thực

và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng


hiện một tội phạm cụ thể. Pháp luật hình sự các nước quan niệm không giống

và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở

nhau về khái niệm đồng phạm. Điểm qua quy định của một số nước trên thế

nước ta hiện nay.

giới quy định về khái niệm đồng phạm thấy rằng:

Ở chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu

Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định về người đồng phạm là người

chuyên khảo đồng bộ đầu tiên về quyết định hình phạt trong đồng phạm ở cấp

phối hợp với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc một người

độ Luận văn thạc sĩ. quyết định. Đồng thời tác giả luận văn còn chỉ ra những

tìm cách xúi giục người khác phạm tội hoặc đề nghị người khác phạm tội.

vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn áp dụng chế định này, trên cơ sở đó đưa ra

Hình phạt đối với người đồng phạm được quy định nhẹ hơn hình phạt nặng

một số kiến giải nhằm hoàn thiện chế định quyết định hình phạt trong đồng

nhất và có thể thấp hơn hình phạt nhẹ nhất áp dụng đối với tội đã hoàn thành


phạm

(Điều 2 Chương 23).
7. Kết cấu của luận văn

Bộ luật hình sự Thụy Điển quy định: "Khi xét xử từng người đồng

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đồng phạm.
Chương 2: Một số vấn đề lý luận chung về quyết định hình phạt.
Chương 3: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, thực tiễn áp dụng.

phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm do cố ý hay
vô ý" {Điều 4 (Chương 23)}. Như vậy, luật hình sự một số nước quan niệm
đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô ý.
Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định về khái niệm người đồng phạm
bao gồm người "đồng chính phạm" và "người xúi giục, người giúp sức". Theo
đó, hai hoặc nhiều người cùng thực hiện một tội phạm đều là những chính
phạm (Điều 60). Người xúi giục người khác hoặc xui người xúi giục sẽ bị xử
lý như người chính phạm (Điều 61). Người giúp đỡ chính phạm và người xui
người giúp đỡ chính phạm là người giúp sức (Điều 62). Hình phạt đối với

6

7


người giúp sức được giảm nhẹ hơn so với hình phạt đối với chính phạm (Điều


"Nhiều người cùng phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a

63). Người xúi giục hoặc giúp sức thực hiện một tội phạm mà đối với tội đó

tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả người trong một nhà cùng phạm tội, chỉ

bị xử phạt giam hình sự hoặc bị phạt tiền về tội hình sự nhỏ thì không bị xử

bắt tội người tôn trưởng" [28, tr. 53].

phạt, trừ trường hợp có quy định khác (Điều 64).
Bộ luật hình sự Pháp cũng quy định về chính phạm và đồng phạm

Điều 469 Quốc triều hình luật quy định:
Đồng mưu đánh người bị thương thì kẻ nào đánh nhiều đòn

(tòng phạm). Theo đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi bị coi là tội

nặng là thủ phạm; kẻ chủ mưu cũng phải cùng một tội; còn người

phạm hoặc chuẩn bị thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội trong trường hợp

tòng phạm thì được giảm một bậc; đánh đến chết thì xem xét chết vì

luật quy định (Điều 121.4). Người có ý thức giúp đỡ hoặc trợ lực và đã tạo

thương tích nào, kẻ đánh thương tích ấy nặng tội. Nếu không xét

điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị hoặc thực hiện tội phạm bị coi là đồng


được rõ ràng thì kẻ hạ thủ sau cùng xử nặng tội. Nếu đánh loạn xạ

phạm của một trọng tội hoặc khinh tội. Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe dọa,

không biết ai đánh trước sau, nhiều ít thì kẻ chủ mưu nặng tội nhất,

dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn để xúi giục hoặc có các

còn kẻ khác đều xử giảm tội một bậc [28, tr. 170-171].

chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm cũng bị coi là đồng phạm (Điều
121.7). Người đồng phạm bị phạt như chính phạm (Điều 121.6).

Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, lý luận và thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự nước ta đã sử dụng thuật ngữ "cộng phạm" để nói về khái

Về các loại người đồng phạm và trách nhiệm hình sự của những người

niệm đồng phạm. Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 1963 của ngành Tòa

đồng phạm, Điều 133 Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996 quy định:

án, "coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và hành

"các loại người đồng phạm gồm người thực hành, người tổ chức, người xúi giục

động, nghĩa là hoặc tổ chức, hoặc xúi giục, hoặc giúp sức, hoặc trực tiếp

và người giúp sức". Bộ luật hình sự Liên bang Nga, giống như Bộ luật hình sự


cùng tham gia tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội". Theo quan niệm

nước ta, quan niệm đồng phạm chỉ có trong các tội phạm cố ý. Điều 32 Bộ

này, dấu hiệu xác định đồng phạm là hai người trở lên cùng chung ý chí và

luật hình sự Liên bang Nga năm 1996 quy định: "Hai hay nhiều người cùng

hành động nhằm đạt kết quả phạm tội.

cố ý tham gia thực hiện một tội cố ý là đồng phạm".

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhằm bảo vệ chính quyền

Vấn đề đồng phạm được luật hình sự Việt Nam quy định từ sớm.

nhân dân non trẻ, bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được, bảo vệ trật tự

Quốc triều hình luật tuy chưa có quy định về khái niệm nhưng cũng đã đề cập

xã hội mới Nhà nước ta đã ban hành một số sắc lệnh về việc trừng trị một số

đến vấn đề đồng phạm tại một số điều như Điều 35, Điều 36, Điều 116, Điều

tội phạm trong đó có quy định việc xử lý các trường hợp cộng phạm theo

411, Điều 412, Điều 454, Điều 469, Điều 539 (1). Các điều trên không quy

nguyên tắc "Những người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của các tội


định về khái niệm đồng phạm mà chỉ quy định về những người đồng phạm,

phạm cũng bị xử lý như chính phạm" [16].

bao gồm: thủ phạm, kẻ chủ mưu, kẻ tòng phạm (người xúi giục, người giúp

Sắc lệnh số 223-SL ngày 17/11/1946 quy định: "Người phạm tội đưa

sức), đồng thời đã có những quy định phân hóa trách nhiệm hình sự của

hối lộ và nhận hối lộ có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là 3/4 tài sản. Những

những người đồng phạm. Ví dụ, Điều 53 Quốc triều hình luật quy định:

người đồng phạm khác cũng bị xử phạt như trên".

8

9


Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 đã quy

Như vậy, trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 thì chưa có

định về các loại người đồng phạm và phân hóa trách nhiệm hình sự khá rõ đối

một căn bản pháp luật hình sự nào quy định thống nhất về khái niệm cộng


với từng người người đồng phạm, tùy thuộc tính chất và mức độ tham gia

phạm đối với tội phạm nói chung. Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc xử

phạm tội của họ. Điều 2 Pháp lệnh trên quy định nguyên tắc trừng trị bọn

lý về hình sự đối với những trường hợp nhiều người có ý cùng thực hiện một

phản cách mạng là "nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn thủ ác, bọn

tội phạm, Bộ luật hình sự đã có điều luật riêng quy định về đồng phạm.

ngoan cố chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị

Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 quy định đồng phạm là trường hợp "có

lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải, giảm nhẹ hình phạt hoặc

hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm".

miễn hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội".

Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra định

Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng đã phân hóa trách nhiệm

nghĩa khoa học về khái niệm đồng phạm như sau: "Đồng phạm là hình thức

hình sự của các loại người: chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, xúi giục, người hoạt


phạm tội do cố ý được thực hiện với sự cố ý cùng tham gia của hai người trở

động đắc lực, người tham gia, giúp đỡ. Ví dụ, Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các

lên" [10, tr. 458].

tội phản cách mạng khi đề cập tội xâm phạm an ninh lãnh thổ đã quy định:
Kẻ nào xâm nhập lãnh thổ, phá hoại an ninh của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa thì bị xử phạt như sau:
a) Bọn cầm đầu, chỉ huy, bọn có tội ác nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 12 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình;
b) Bọn tham gia thì bị phạt tù từ 5 năm đến 12 năm;
c) Kẻ nào tiếp tế, chỉ đường, giúp đỡ cho bọn nói trên hoạt
động thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm [39].

Điều 20 Bộ luật hình sự nước ta quy định khái niệm đồng phạm ngay
tại khoản 1, sau đó mới quy định các loại người đồng phạm tại khoản 2. Như
vậy, để được coi là người đồng phạm với vai trò là người tổ chức, người xúi
giục, người giúp sức thì trước hết những người này phải thỏa mãn dấu hiệu
đồng phạm tại khoản 1, nghĩa là phải thỏa mãn dấu hiệu hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm.
Quan điểm phổ biến trong lý luận luật hình sự và thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự hiện nay cho rằng, để được coi là "cố ý cùng thực hiện một

Trong các pháp lệnh được ban hành dù vẫn chưa đưa ra khái niệm về

tội phạm" trong vụ đồng phạm thì ngoài việc mỗi người tham gia vào việc

đồng phạm nhưng nhận thức và quy định về đồng phạm đã có bước tiến bộ


phạm tội phải có lỗi cố ý, ít nhất họ còn phải nhận thức được sự cố ý tham gia

đáng kể. Đáng chú ý nhất là các văn bản nêu trên đã nêu nguyên tắc xử lý: khi

vào việc phạm tội của người thứ hai cùng với mình để thực hiện một tội

xét xử cần phân biệt giữa các hình thức đồng phạm khác nhau, phân biệt giữa

phạm. Xuất phát từ quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự và từ quan điểm phổ

hành vi "oa trữ" tức là hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do chiếm đoạt được

biến trên, nảy sinh vấn đề là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức

mà có là cộng phạm (nếu có hứa hẹn trước) với hành vi "oa trữ" không là

cho người khác thực hiện tội phạm nhưng không thỏa mãn dấu hiệu đồng

cộng phạm mà là một hành vi phạm tội riêng biệt (nếu không có hứa hẹn

phạm, ngoài một số điều luật quy định trách nhiệm hình sự riêng đối với

trước). Tòa án nhân dân tối cao đã có một số văn bản hướng dẫn khái niệm về

những người này thì lại không có cơ sở để truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình

cộng phạm đối với một số tội phạm cụ thể [31, tr. 29-32].

sự đối với họ. Ví dụ, vì những động cơ cá nhân nào đó mà một người xúi giục


10

11


người khác phạm một tội cụ thể, sau đó lại đi báo với cơ quan cơ thẩm quyền

sức người khác thực hiện tội phạm, nhưng không đồng phạm để giải quyết

bắt giữ người đó hoặc một người giúp sức cho người khác thực hiện tội phạm

vấn đề trách nhiệm hình sự hay quyết định hình phạt của người đó cần được

nhưng người được giúp sức (người trực tiếp thực hiện tội phạm) lại không

cân nhắc thêm.

nhận biết được sự giúp sức đó. Trong những trường hợp này, theo lý luận luật
hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thì không có quan hệ

1.1.2. Đặc trƣng cơ bản của đồng phạm

đồng phạm vì không có sự cùng cố ý giữa người xúi giục hoặc giúp sức với

Theo nội dung khái niệm về đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật

người trực tiếp thực hiện tội phạm. Vậy thì người xúi giục và người giúp sức

hình sự năm 1999, tội phạm được coi là đồng phạm đòi hỏi phải có những dấu


trong trường hợp này có phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập không? Bộ luật

hiệu đặc trưng và bắt buộc sau:

hình sự nước ta chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm hình sự của người xúi

a. Những dấu hiệu khách quan

giục hay giúp sức người khác phạm tội nhưng không đồng phạm với người đó

Thứ nhất, có sự tham gia của hai người trở lên thực hiện một tội

(trừ một số trường hợp hành vi xúi giục đã được xây dựng thành cấu thành tội

phạm. Đây là dấu hiệu bắt buộc thuộc về mặt khách quan của đồng phạm, nếu

phạm độc lập). Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng, trong trường hợp người xúi

thiếu về số lượng người tham gia thực hiện một tội phạm thì sẽ không có cầu

giục hoặc giúp sức người khác thực hiện tội phạm nhưng không thỏa mãn dấu

thành đồng phạm. Tội phạm do một người thực hiện chỉ là trường hợp phạm

hiệu đồng phạm thì vẫn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập về hành

tội riêng lẻ, cấu thành tội phạm độc lập, hậu quả phạm tội là do hành động và

vi xúi giục hoặc giúp sức thực hiện tội phạm. Tên tội danh trong trường hợp


ý chí của một người gây ra. Chỉ khi có từ hai người trở lên tham gia thực hiện

này có thể là tập hợp từ xúi giục hoặc giúp sức với từ chỉ tên tội mà người đó

tội phạm thì mới có sự bàn bạc và cùng nhau hành động [6, tr. 218].

xúi giục hoặc giúp sức. Điều luật viện dẫn cho trường hợp này sẽ là điều luật
xác định tội mà người đó xúi giục hoặc giúp sức cùng điều luật quy định về
người xúi giục hoặc giúp sức.

Trong đồng phạm, những người tham gia thực hiện tội phạm đều phải có
đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm, tức là họ phải có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt đủ tuổi theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự. Riêng đối với

Quan điểm này có yếu tố hợp lý là phản ánh được bản chất nguy hiểm

người thực hành còn phải có thêm dấu hiệu của chủ thể đặc biệt nếu cấu thành

cho xã hội của hành vi xúi giục và hành vi giúp sức trong trường hợp những

tội phạm của tội mà cả bọn cùng tham gia thực hiện đòi hỏi. Nếu trong một vụ

hành vi này không đồng phạm và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và

án có nhiều người tham gia thực hiện nhưng chỉ có một người tham gia thỏa

chống các loại hành vi nguy hiểm cho xã hội đáng kể bằng các biện pháp xử

mãn các điều kiện về chủ thể thì vụ án đó không có đồng phạm [30, tr. 16].


lý hình sự. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập, theo cách diễn đạt tại khoản 2

Ngoài ra, mỗi người đều phải có hành vi tham gia vào tội phạm. Những hành

Điều 20 Bộ luật hình sự thì hành vi xúi giục và giúp sức chỉ là hành vi xúi

vi này có thể là hành vi trực tiếp thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức, hành vi

giục, giúp sức với tính cách là hành vi đồng phạm, khi đã thỏa mãn dấu hiệu

xúi giục hoặc là hành vi giúp sức. Nếu không có một trong những loại hành vi

đồng phạm tại khoản 1 điều này. Vì vậy, việc viện dẫn quy định tại khoản 2

này thì không thể coi là cùng tham gia thực hiện một tội phạm, như vậy cũng

Điều 20 Bộ luật hình sự để áp dụng cho người có hành vi xúi giục hoặc giúp

không thể coi là người đồng phạm được.

12

13


Trong đồng phạm đòi hỏi mỗi người đều phải có hành vi tham gia vào
việc thực hiện tội phạm và những hành vi này phải có tính chất nguy hiểm đang
kể cho xã hội được coi là tội phạm. Khi có nhiều người cùng tham gia vào việc
thực hiện tội phạm, không phải mọi người đều tham gia như nhau mà có người
tham gia ít, có người tham gia nhiều, có sự tham gia của họ có tính chất quyết

định đến hoạt động tội phạm chung, hậu quả phạm tội chung nhưng có hành vi
của họ chỉ có tác động nhỏ, về hình thức hành vi của người này cũng là hành vi
đồng phạm nhưng vì tác động thực tế của nó là nhỏ nhặt, tính nguy hiểm cho xã
hội không đáng kể nên không coi là hành vi đồng phạm, không là tội phạm và
được xử lý bằng các biện pháp khác (khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự).

b. Những dấu hiện chủ quan
Thứ nhất, có sự cùng cố ý của những người tham gia thực hiện tội
phạm. Nếu thiếu dấu hiện này thi mặc dù hành vi của những người phạm tội
thỏa mãn dấu hiệu khách quan ở trên cũng sẽ không có đồng phạm mà chỉ là
hình thực nhiều người cùng phạm một tội [30, tr. 23]. Trong cuốn "Những vấn
đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" tác giả Nguyễn Niên
cho rằng: "Sự cùng cố ý phạm tội làm cho ý chí của những người đồng phạm
được thống nhất với nhau và hành động phạm tội của mỗi người đều thống nhất
trong sự chi phối chung của sự cùng cố ý thực hiện một tội phạm" [19, tr. 149].
Sự cùng cố ý trong đồng phạm phải được thể hiện ở hai mặt lý trí và ý chí.

Thứ hai, có sự cùng chung hành động của người tham gia vào việc

Mỗi người đồng phạm trong việc thực hiện tội phạm đều biết được hoạt động

thực hiện một tội phạm. Cùng tham gia thực hiện tội phạm có nghĩa là trong

phạm tội của nhau; đều ý thức được rằng, bằng hành vi phạm tội của mình

đồng phạm, mỗi người phải có hành vi tham gia vào việc thực hiện tội phạm

cùng với những hành vi phạm tội của những người khác, mình đã phạm tội

hoặc là hành vi trực tiếp thực hiện hoặc là hành vi tổ chức hoặc là hành vi xúi


hoặc góp phần thực hiện tội phạm. Tuy nhận thức được hành vi của mình gây

giục hoặc là hành vi giúp sức. Những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội
đáng kể của họ được thực hiện trong mối liên kết thống nhất, qua lại lẫn nhau.
Hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung và là điều kiện cho hành vi của
người khác, có ảnh hưởng tác động đến hành vi đó, làm cho nó thay đổi về
chất, có hiệu quả hơn. Hành vi của mỗi người là một khâu cần thiết cho hoạt
động tội phạm của cả bọn "nhằm thực hiện một tội phạm nhất định và để đạt
được một kết quả phạm tội thống nhất" [29, tr. 196]. Hậu quả của tội phạm là
là kết quả chung do hoạt động của tất cả những người cùng tham gia thực hiện
tội phạm mang lại. Hành vi của người thực hành là nguyên nhận trực tiếp làm
phát sinh hậu quả chung, còn hành vi của người khác thông qua hành vi của
người thực hành mà gây ra hậu quả đó. Những hành vi của người tổ chức,

nguy hiểm cho xã hội nhưng những người đồng phạm vẫn thực hiện vì mong
muốn có hoạt động phạm tội chung và mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho
hậu quả xảy ra.
Theo luật hình sự Việt Nam thì đồng phạm chỉ đặt ra đối với những
trường hợp cùng phạm tội cố ý. Ở những tội phạm được thực hiện với lỗi vô
ý, người phạm tội không có ý định phạm tội, không có sự bàn bạc thỏa thuận
cùng nhau thực hiện tội phạm, không mong muốn hoặc không bỏ mặc cho
hậu quả xảy ra, giữa họ không có sự cùng cố ý nên trong trường hợp này
không có đồng phạm xảy ra. Mỗi người phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập
về hành vi vô ý phạm tội của mình [6, tr. 222].

người xúi giục bao giờ cũng phải xảy ra trước hành vi của người thực hành.

Thứ hai, có mục đích trong đồng phạm. Với những tội phạm luật hình


Còn hành vi của người giúp sức có thể xảy ra trước hoặc đồng thời với hành

sự quy định mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm

vi phạm tội của người thực hành nhưng không khi nào xảy ra sau khi hành vi

thì những người đồng phạm phải có mục đích phạm tội đó. Nếu không thỏa

của người thực hành đã kết thúc [6, tr. 220].

mãn dấu hiệu cùng mục đích phạm tội thì sẽ không có đồng phạm. Đối với

14

15


những tội phạm mà mục đích và động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của

thức phạm tội do nhiều người thực hiện nhưng không có đồng phạm. Việc xác

cấu thành tội phạm thì khi tham gia vào việc thực hiện tội phạm, những người

định đúng đắn các dấu hiệu của đồng phạm và các loại người đồng phạm có ý

đồng phạm có thể có những mục đích và động cơ khác nhau.

nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Thực tiễn áp

1.1.3. Ý nghĩa của khái niệm đồng phạm

Chế định đồng phạm nói chung và khái niệm đồng phạm nói riêng lần
đầu tiên được quy định trong luật hình sự của nước ta có ý nghĩa về mặt lập
pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự
của nước ta.

dụng pháp luật hình sự đã xảy ra trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng sai
lầm trong việc xác định đồng phạm, dẫn đến việc truy tố, xét xử không đúng
quy định của pháp luật.
Trong mối quan hệ với luật tố tụng hình sự, khái niệm đồng phạm có ý
nghĩa là một trong những cơ sở để thực hiện nhiều chế định của luật tố tụng
hình sự như chế định chứng cứ (xác định những vấn đề phải chứng minh

Về mặt lý luận, khái niệm đồng phạm được quy định trong Bộ luật
hình sự năm 1999 để từ đó xác định các quy phạm khác của chế định đồng
phạm về những loại người đồng phạm, các giai đoạn thực hiện tội phạm trong
đồng phạm, tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiện tội phạm trong đồng
phạm, các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong đồng phạm; là
cơ sở lý luận cho việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề khác mang tính đặc
thù đối với đồng phạm như các giai đoạn thực hiện tội phạm, các hình thức
đồng phạm, tổ chức phạm tội… Khái niệm đồng phạm cùng với cấu thành tội
phạm là cơ sở pháp lý để phân biệt những hành vi đồng phạm với những hành

trong vụ án hình sự, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ), chế định vật
chứng…
Ngoài ra, khái niệm đồng phạm còn có ý nghĩa là cơ sở cho một số ngành
khoa học pháp lý có liên quan đến khoa học luật hình sự như tội phạm học, tâm
lý học tư pháp… trong khi nghiên cứu các vấn đề về tội phạm có tổ chức, tội
phạm trong vị thành niên, vấn đề đồng phạm dưới góc độ tâm lý học để đề xuất
những biện pháp phòng, chống tội phạm có hiệu quả thiết thực hơn [30, tr. 35].
1.2. NHỮNG LOẠI NGƢỜI ĐỒNG PHẠM


vi liên quan đến tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự những người đồng

Trong việc thực hiện tội phạm của mình, hành vi của những người đồng

phạm. Việc nhận thức đúng đắn khái niệm đồng phạm và xác định chính xác

phạm không hoàn toàn giống nhau mà vai trò, tình chất và mức độ tham gia

đồng phạm trong thực tiễn xét xử là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện

phạm tội của họ là khác nhau.

nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự, nguyên tắc xử lý
được quy định tại Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1999 nhằm xử lý đúng người,
đúng tội, không kết tội oan và không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, khái niệm
đồng phạm có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong nghiên cứu lý luận
cũng như trong thực tiễn xét xử.

Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự ở nước ra cũng như các nước trên
thế giới, chúng ta thấy, khái niệm người đồng phạm chưa được chú ý đúng
mức mà chỉ chú ý đến từng loại người đồng phạm cụ thể. Ví dụ: Quốc triều
hình luật không có quy phạm định nghĩa về người đồng phạm mà chỉ có quy
định về người đồng phạm là thủ phạm, chủ mưu, kẻ tòng phạm. Các văn bản

Bên cạnh những ý nghĩa nói trên, khái niệm đồng phạm còn có ý

pháp luật hình sự do Nhà nước ta ban hành từ sau Cách mạng tháng tám cho

nghĩa trong việc xác định tính chất nguy hiểm cho xã hội của đồng phạm khi


đến trước thời điểm Bộ luật hình sự của nước ta ra đời cũng không đưa ra

so sánh với các hình thức phạm tội khác như hình thức phạm tội riêng lẻ, hình

khái niệm về người đồng phạm mà chỉ có quy định lúc đầu là chính phạm,

16

17


tòng phạm, sau là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, người xúi giục, người tham gia,

không có quy phạm định nghĩa về người thực hành nằm trong khái niệm

người giúp sức. Để có khái niệm đúng đắn về người đồng phạm, chúng ta

chính phạm bao gồm người tổ chức, chỉ huy các hoạt động phạm tội hoặc giữ

phải xuất phát từ khái niệm đồng phạm là khái niệm cơ bản của chế định đồng

vai trò chính trong đồng phạm. Một số nước như Liên bang Nga, Cộng hòa

phạm. Từ đó, có thể đưa ra khái niệm chung về người đồng phạm như sau:

liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, Vương quốc Bỉ có quy phạm định nghĩa về

"Người đồng phạm là người cố ý tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng


người thực hành. Đặc biệt là Bộ luật hình sự Liên bang Nga có quy phạm

với người khác [30, tr. 37].

định nghĩa về người thực hành khá chi tiết:

Như vậy, người đồng phạm không những phải thỏa mãn các điều kiện

Người thực hành là người trực tiếp tham gia thực hiện tội

của chủ thể tội phạm, mà còn phải thỏa mãn dấu hiệu cố ý tham gia vào việc

phạm với những người khác (những người đồng thực hành) cũng

thực hiện tội phạm với người khác. Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh chống tội

như người thực hiện tội phạm bằng cách sử dụng những người khác

phạm, khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 đã chia những người đồng

mà những người này không phải chịu trách nhiệm hình sự do độ

phạm thành bốn loại, bao gồm: người thực hành, người tổ chức, người xúi

tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự hoặc những tình tiết khác do bộ

giục, người giúp sức "Cơ sở để phân biệt các loại người đồng phạm là tính chất

luật này quy định [Dẫn theo 30, tr. 38-39].


sự tham gia của họ vào việc thực hiện tội phạm" [29, tr. 181]. Nhìn chung,
những đặc điểm chủ quan ở những người đồng phạm là giống nhau, vì vậy
những đặc điểm thuộc phương diện khách quan trở thành tiêu chuẩn cơ bản
phân biệt những loại người đồng phạm.
1.2.1. Ngƣời thực hành

Bộ luật hình sự năm 1999 tại khoản 2 Điều 20 quy định: "Người thực
hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm". Trong lý luận luật hình sự và
thực tiễn áp dụng luật hình sự, người trực tiếp thực hiện tội phạm được hiểu ở
hai dạng sau:
- Dạng thứ nhất: đó là những người tự mình trực tiếp thực hiện hành

Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, người thực hành đã được

vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể. Trong

đề cập đến với những tên gọi khác nhau: thủ phạm, thủ, chánh yếu phạm.

thực tiễn xét xử của Tòa án, dạng người thực hành này thường hay gặp nhất.

Trong các văn bản pháp luật hình sự do Nhà nước ta ban hành trước khi có Bộ

Người phạm tội có thể trực tiếp sử dụng công cụ, phương tiện nhưng cũng có

luật hình sự cũng đã có những cách gọi khác nhau đó là: các sắc lệnh ban

thể không sử dụng công cụ, phương tiện để phạm tội.

hành ngay sau khi Cách mạng tháng 8 gọi là chính phạm, đồng phạm, đến


Trong thực tiễn công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, có

Pháp lệnh ngày 30-12-1967 trừng trị các tội phản cách mạng thì gọi là bọn

những trường hợp người thực hành thực hiện trọn vẹn các dấu hiệu của một

tham gia. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật hình sự trên mới chỉ quy định tên

hành vi phạm tội cụ thể. Đối với những tội đòi hỏi chủ thể đặc biệt, ví dụ như:

của loại người đồng phạm này mà chưa có quy phạm định nghĩa thế nào là

"tội hiếp dâm", "tôi tham ô tài sản"… thì người thực hành (hoặc những người

người thực hành.

thực hành phải có đầy đủ dấu hiện của chủ thể đặc biệt. Còn những người tổ

Bộ luật hình sự của nhiều nước trên thế giới như Cộng hòa dân chủ
nhân dân Trung Hoa, Vương quốc Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển… cũng

18

chức, người xúi giục, người giúp sức không cần có dấu hiệu của chủ thể đặc biệt
[6, tr. 223].

19


- Dạng thứ hai: đó là những người không trực tiếp thực hiện hành vi

nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong cấu thành tội phạm nhưng lợi dụng
hoặc sử dụng người khác để người này trực tiếp thực hiện hành vi khách quan
gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Xét về hình thức, người bị sử dụng hay bị
lợi dụng đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội
phạm nhưng xét về bản chất thì họ không có lỗi mà hậu quả ấy do người đã sử
dụng, lợi dụng họ gây ra hoặc họ có lỗi vô ý. Vì vậy, người bị sử dụng vào
việc phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người sử dụng,
lợi dụng họ gây ra hoặc họ có lỗi vô ý. Vì vậy, người bị sử dụng vào việc
phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người sử dụng, lợi
dụng họ.

tội danh, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, quyết định hình
phạt.
Khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự quy định: "Người thực hành là
người trực tiếp thực hiện tội phạm". Lý luận luật hình sự và thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự nước ta đã thừa nhận người thực hành (hoặc người thực
hiện tội phạm nói chung) không chỉ là người trực tiếp thực hiện tội phạm mà
còn là người trực tiếp tham gia vào việc thực hiện tội phạm cùng với những
người khác (có thể họ chỉ thực hiện một phần trong chuỗi hành vi thuộc mặt
khách quan của tội phạm). Người thực hành cũng có thể là người sử dụng
người khác như một phương tiện để thực hiện ý định phạm tội của mình. Ví
dụ, sử dụng người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, người không có

Trong thực tiễn xét xử có thể xảy ra các trường hợp sau:

năng lực trách nhiệm hình sự, người không nhận thức được tính chất nguy

- Sử dụng người không có năng lực nhận thức, người chưa đủ tuổi

hiểm cho xã hội của hành vi của mình, người bị cưỡng bức về tinh thần đến


chịu trách nhiệm hình sự để người này trực tiếp thực hiện hành vi khách quan,

mức không có điều kiện lựa chọn quyết định thực hiện hành vi theo ý muốn

gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.

của mình v.v. Rõ ràng, khái niệm người thực hành quy định tại khoản 2 Điều

- Sử dụng người không có lỗi hoặc chỉ có lỗi vô ý vì bị sai lầm về
những tình tiết khách quan của tội phạm.
- Sử dụng người khác gây thiệt hại bằng việc cưỡng bức, uy hiếp về
tính mạng, sức khỏe hoặc về tinh thần ở mức độ cao nên họ không phải chịu
trách nhiệm hình sự về việc gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội [30, tr. 40].

20 Bộ luật hình sự chưa thể hiện hết các dạng người thực hành trên. Do vậy,
khái niệm này cần được mô tả cụ thể, chi tiết hơn theo hướng Bộ luật hình sự
không quy định khái niệm đồng phạm mà chỉ quy định khái niệm người thực
hiện tội phạm (người thực hành) và các loại người tổ chức thực hiện tội phạm,
người xúi giục thực hiện tội phạm, người giúp sức thực hiện tội phạm. Sau đó
quy định người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thực hiện tội phạm

Đối với những tội phạm đòi hỏi chủ thể phải trực tiếp thực hiện như

(có thể là người đồng phạm hoặc không phải đồng phạm theo quy định hiện

tội hiếp dâm, tội loạn luân… thì người thực hành không thể là người sử dụng

hành) phải chịu trách nhiệm hình sự theo điều luật tương ứng Phần các tội


hoặc lợi dụng người khác để những người này thực hiện hành vi khách quan

phạm của Bộ luật hình sự, nghĩa là điều luật quy định về trách nhiệm hình sự

đó được mà chỉ có người thực hành ở dạng thứ nhất.

của người thực hiện tội phạm, đồng thời có viện dẫn quy định về người tổ

Hành vi của người thực hành giữ vị trí trung tâm trong một vụ án đồng
phạm vì khi giải quyết trách nhiệm hình sự đối với người đồng phạm như định

20

chức, người xúi giục hay người giúp sức thực hiện tội phạm.
1.2.2. Ngƣời tổ chức

21


Người tổ chức được đề cập đầu tiên trong Quốc triều hình luật với các

Những vai trò trên có thể do những người phạm tội khác nhau đảm

tên gọi người khởi xướng, người đứng đầu, kẻ chủ mưu, trong đó nguyên tắc

nhận, nhưng cũng thể chi do một người nắm giữ. Người tổ chức là người giữ

trừng trị người tổ chức được đặt ra là: "kẻ chủ mưu nặng tội nhất, còn kẻ khác

vai trò tổ chức thực hiện một tội phạm cụ thể hoặc thành lập băng, nhóm


đều xử giảm một bậc".

phạm tội hoặc một tổ chức phạm tội có cơ cấu phối hợp chặt chẽ sẽ là điều

Các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta được ban hành sau
Cách mạng tháng Tám [31, tr. 260, 193] cho đến khi Bộ luật hình sự ra đời,
cũng như các bộ luật trên đều không có quy phạm định nghĩa về người tổ
chức. Các văn bản này chỉ quy định về người tổ chức với các tên gọi chủ

kiện hoạt động của đồng bọn trong tổ chức nên hành vi phạm tội của người tổ
chức nguy hiểm nhất trong vụ đồng phạm. Vì vậy, đoạn 2 khoản 2 Điều 3 Bộ
luật hình sự quy định nguyên tắc xử lý là "nghiêm trị người chủ mưu, cầm
đầu, chỉ huy…"
1.2.3. Ngƣời xúi giục

mưu, cầm đầu, tổ chức, chỉ huy.
Luật hình sự của nhiều nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Vương

Các bộ luật trước đây như Quốc triều hình luật, Hoàng Việt luật lệ dù

quốc Bỉ, Vương quốc Thụy điển, Vương quốc Nhật Bản… đều không đề cập

chưa có quy phạm định nghĩa nhưng đều đề cập người xúi giục. Điều 21 Hoàng

khái niệm người tổ chức. Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định về người tổ

Việt luật lệ quy định: "90 tuổi trở lên, 07 tuổi trở xuống, dù có phạm tội chết

chức như sau: "Người tổ chức là người tổ chức hoặc lãnh đạo việc thực hiện


cũng không phải chịu tội phạm nào. Có ai xúi giục thì bắt tội người ấy".

tội phạm hay là người thành lập, lãnh đạo tổ chức phạm tội hoặc cộng đồng
phạm tội".

Sau Cách mạng tháng 8, sắc lệnh của Nhà nước ta cũng không đề cập
gì đến người xúi giục. Tuy nhiên, tại Hội nghị tổng kết công tác ngành tòa án

Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 thì:
"người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm".
- Người chủ mưu: là người chủ động về mặt tinh thần gây ra tội phạm,
có sáng kiến thành lập các băng, nhóm tội phạm, đề xuất những âm mưu và
vạch ra đường lối, phương hướng hoạt động chung cho tổ chức, kích động,

năm 1968, Tòa án nhân dân tối cao đưa ra khái niệm "người xúi giục" như
sau: "kẻ xúi giục là kẻ biết có tổ chức phản cách mạng, hưởng ứng mục đích
của tổ chức phản cách mạng, không biết hoặc không biết đầy đủ về toàn bộ tổ
chức phản cách mạng…" [31, tr. 30-31]
Luật hình sự của nhiều nước trên thế giới như Cộng hòa liên bang
Đức, Vương quốc Bỉ, Vương quốc Nhật Bản… có quy phạm định nghĩa về

thúc đẩy đồng bọn hoạt động.
- Người cầm đầu: là người đứng ra thành lập các băng, ổ, nhóm tội
phạm, hoặc tham gia soạn thảo kế hoạch, phương hướng chính cho tổ chức
phát triển và hoạt động hoặc các kế hoạch để thực hiện tội phạm.
- Người chỉ huy: là người giữ vai trò trực tiếp điều khiển việc thực
hiện tội phạm cụ thể của đồng bọn trong băng, ổ nhóm phạm tội; trực tiếp đôn
đốc đồng bọn làm theo mệnh lệnh của mình hay theo kế hoạch phạm tội đã định


người xúi giục. Bộ luật hình sự Vương quốc Nhật Bản đưa ra khái niệm về
người xúi giục như sau: "Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác thực hiện tội phạm sẽ bị xử lý như người chính phạm" [Dẫn theo
30, tr. 52].
Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "người xúi giục
là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm".

sẵn.

22

23


Xúi giục là hành vi tác động đến tư tưởng người khác, làm xuất hiện ý

Giữa hành vi của người xúi giục và hành vi của người bị xúi giục có

thức phạm tội và thúc đẩy thực hiện ý định đó. Người xúi giục là người nghĩ

mối quan hệ nhân quả. Hành vi xúi giục là nguyên nhân dẫn đến tội phạm do

ra việc phạm tội và thúc đẩy cho tội phạm đó được thực hiện thông qua người

người bị xúi giục thực hiện, còn hành vi phạm tội của người bị xúi giục là

khác. Người xúi giục đã có hành vi tác động đến tư tưởng và ý chí của người

mục đích và là kết quả của hành vi xúi giục. Thực tiễn xét xử cho thấy người


khác khiến người này từ chỗ chưa có ý định phạm tội đến chỗ nảy sinh ý định

xúi giục có thể hoặc không cùng trực tiếp tham gia thực hiện tội phạm với

phạm tội và thực hiện ý định đó. Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội

người bị xúi giục.

phạm thể hiện rất đa dạng như mua chuộc, lôi kéo, dụ dỗ, lừa phỉnh, đe dọa…
nhưng khái quát lại chỉ có hai phương thức thực hiện đó là: thuyết phục và bắt
buộc.

Với những tội phạm luật hình sự quy định động cơ, mục đích là động
cơ bắt buộc trong cấu thành tội phạm, để thỏa mãn điều kiện của đồng phạm,
người xúi giục và người bị xúi giục phải có cùng động cơ, mục đích phạm tội.

Phương thức thuyết phục tức là dùng lý lẽ, vật chất để người khác tin
theo mà thực hiện tội phạm, như cho tiền, quà tặng, dụ dỗ, lừa phỉnh.

Còn trong những trường hợp khác, người xúi giục và người bị xúi giục có thể
có động cơ và mục đích khác nhau.

Phương thức bắt buộc tức là buộc người khác phải chất nhận thực hiện

Lý luận luật hình sự và thực tiễn áp dụng hình sự nước ta cũng đã thừa

tội phạm như đe dọa, cưỡng ép, khống chế. Việc lựa chọn phương thức nào

nhận trường hợp một người xúi giục người khác phạm tội nhưng sự xúi giục


phụ thuộc vào bản chất của người xúi giục và mối quan hệ của người xúi giục

không có kết quả, người bị xúi giục không nghe theo thì chỉ riêng người xúi

và người bị xúi giục.

giục phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đã xúi giục. Nếu một người đã giúp

Hành vi xúi giục phải trực tiếp, cụ thể. Nghĩa là người xúi giục phải

sức người khác thực hiện một tội phạm nhưng người này đã không thực hiện

trực tiếp nhằm vào một hoặc một số người cụ thể và phải nhằm gây ra việc

tội phạm đó, hoặc không sử dụng sự giúp sức thì người giúp sức phải chịu

thực hiện một tội phạm cụ thể. Hành vi xúi giục được thực hiện bằng lỗi cố ý.

trách nhiệm hình sự về tội đã xúi giục [41, tr. 40]. Trong trường hợp này, vẫn

Người xúi giục nhận thức được hành vi xúi giục của mình là nguy hiểm cho

giữ nguyên trình tự và nội dung quy định tại khoản 1 và 2 Điều 20 Bộ luật

xã hội, nhận thức được hậu quả của hành vi ấy nhưng vẫn thực hiện vì mong

hình sự hiện hành nhưng tại khoản 2 điều luật này, sau khi quy định khái niệm

muốn người bị xúi giục thực hiện tội phạm.


các loại người đồng phạm, cần bổ sung một đoạn theo hướng: trong trường

Hành vi xúi giục có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội khác

hợp người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức thực hiện tội phạm không

nhau phụ thuộc vào bản chất của người xúi giục, người bị xúi giục cũng như

phải là người đồng phạm thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập về hành

mối quan hệ giữa họ với nhau.

vi tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức thực hiện tội phạm của mình theo điều luật

Xúi giục người có nhân thân xấu, có tiền án, tiền sự phạm tội khác với
trường hợp xúi giục người có nhân thân tốt. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn, sự nhẹ dạ của những người vị thành niên để thúc đẩy, xúi giục họ phạm
tội là trường hợp có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội.

24

tương ứng Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự về tội phạm mà người đó tổ
chức, xúi giục hay giúp sức và viện dẫn điều khoản quy định về người tổ
chức, người xúi giục hoặc giúp sức thực hiện tội phạm.
1.2.4. Ngƣời giúp sức

25


Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, các bộ luật như Quốc Triều


Giúp sức về tinh thần: là những hành vi tạo những điều kiện thuận lợi

hình luật, Hoàng Việt luật lệ, đều chưa đưa ra khái niệm người giúp sức.

cho người thực hành thực hiện tội phạm nhưng không mang tính chất như chỉ

Hoàng Việt hình luật có khái niệm về người giúp sức nhưng nội hàm của khái

dẫn, góp ý, cung cấp thông tin liên quan đến thực hiện tội phạm; hứa hẹn

niệm này rộng bao gồm cả những hành vi liên quan đến tội phạm như che

trước sẽ che giấu người phạm tội che giấu các công cụ, phương tiện phạm tội

giấu tội phạm, không tố giác tội phạm.

hoặc tiêu thụ các vật có được bằng việc thực hiện tội phạm [30, tr. 60]

Sau Cách mạng tháng 8, những văn bản pháp luật hình sự của Nhà

Hành vi giúp sức khác hành vi xúi giục ở chỗ nó làm cho người thực

nước ta có đề cập đến người giúp sức với thuật ngữ tòng phạm song cũng

hành đã có ý định phạm tội quyết tâm thực hiện tội phạm, còn hành vi xúi

không có quy phạm định nghĩa về loại người đồng phạm này. Tuy nhiên, khái

giục tác động mạnh đến tư tưởng, ý chí của người bị xúi giục (người thực


niệm giúp sức lại được nêu ra trong sách báo pháp lý: "Người giúp sức là

hành) làm cho người này nảy sinh ý định phạm tội và thực hiện ý định đó.

những người có hành vi giúp đỡ cho việc thực hiện tội phạm của những kẻ

Phạm vi trách nhiệm hình sự của người giúp sức được giới hạn bởi giai đoạn

cộng phạm khác được dễ dàng".

phạm tội mà người thực hành đạt được [6, tr. 228].

Bộ luật hình sự năm 1999 tại khoản 2 Điều 20 quy định: "Người giúp

Hành vi giúp sức khác hành vi xúi giục ở chỗ nó làm cho người thực

sức là người tạo ra những điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện

hành đã có ý định phạm tội quyết tâm thực hiện tội phạm, còn hành vi xúi

tội phạm".

giục tác động mạnh đến tư tưởng, ý chí của người bị xúi giục (người thực

Theo định nghĩa nêu trên thì người giúp sức chỉ là người tạo ra những
điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho người thực hành thực hiện tội phạm chứ
người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm. Hành vi giúp sức thường
được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động; có thể được thực hiện
trước hoặc trong khi tội phạm đang xảy ra.

Dựa vào những dấu hiệu khách quan, hành vi giúp sức được chia làm
hai loại: giúp sức về vật chất và giúp sức về tinh thần.
Giúp sức về vật chất: là cung cấp công cụ, phương tiện để sử dụng vào
việc thực hiện tội phạm, giúp sức về kỹ thuật, giúp đỡ bằng chân, tay, chỉ
điểm, chứa chấp, dẫn đường, che giấu người phạm tội, xóa các dấu vết, tang
vật của tội phạm hoặc tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết khác để người
thực hành thực hiện tội phạm dễ dàng, thuận lợi.

hành) làm cho người này nảy sinh ý định phạm tội và thực hiện ý định đó.
Phạm vi trách nhiệm hình sự của người giúp sức được giới hạn bởi giai đoạn
phạm tội mà người thực hành đạt được [5, tr. 131].
1.3. CÁC HÌNH THỨC ĐỒNG PHẠM

Khoa học luật hình sự Việt Nam căn cứ vào những đặc điểm của mối
quan hệ giữa những người đồng phạm về mặt chủ quan và khách quan để
phân loại các hình thức đồng phạm.
- Căn cứ vào dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm được chia
thành hai loại: đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó những người
cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm đều có vai trò là người thực hành.
Những người đồng phạm không có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo.
Trong trường hợp này, mỗi người đồng phạm đều thực hiện hành vi khách

26

27


quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của điều luật thuộc phần các tội


tội phạm; đồng phạm phức tạp có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn đồng

phạm của Bộ luật hình sự. Dấu hiệu cơ bản để phân biệt đồng phạm giản đơn

phạm giản đơn.

với đồng phạm có một người thực hành là mỗi người thực hành có thể thực
hiện một phần hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm,
nhưng tổng hợp hành vi của những người đồng phạm thỏa mãn dấu hiệu
khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm thì tội phạm do những người

- Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan, chia các hình thức đồng phạm thành
đồng phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu trước:
Đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong

đồng thực hành thực hiện vẫn được coi là tội phạm hoàn thành, đặc điểm này

đó không có sự thỏa thuận, bản bạc với nhau trước giữa những người đồng

để phân biệt với hình thức đồng phạm chỉ có một người thực hành. Đồng

phạm hoặc có sự bàn bạc, thỏa thuận với nhau trước nhưng không đáng kể. Ở

phạm giản đơn còn có đặc điểm đặc trưng là thời gian, địa điểm phạm tội

hình thức đồng phạm này, mối liên hệ về mặt chủ quan giữa những người

của những người đồng thực hành trùng hợp nhau. Khi định tội danh đối với

đồng phạm ở mức thấp nhất, chỉ giới hạn ở mặt nhận thức của một người


hành vi của những người đồng phạm ở hình thức đồng phạm đồng thực

đồng phạm tham gia hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác

hành, ta căn cứ vào điều luật tương ứng thuộc phần các tội phạm của Bộ luật

thường là vào thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm hoặc trong quá trình thực

hình sự mà không cần viện dẫn điều luật quy định đồng phạm thuộc phần

hiện tội phạm. Lý do không cho những người đồng phạm chuẩn bị những điều

chung của Bộ luật hình sự.

kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, phối hợp chặt chẽ với nhau cũng

Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm có sự phân công vai trò
của những người cùng tham gia thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của
những người đồng phạm không những khác nhau ở nội dung phạm tội và hình

như áp dụng các biện pháp che giấu, phối hợp chặt chẽ với nhau cũng như áp
dụng các biện pháp che giấu, xóa dấu vết của tội phạm như ở đồng phạm có
thông mưu trước.

thức phạm tội mà còn khác nhau về thời gian, địa điểm phạm tội. Phần lớn

Đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm có sự thỏa

các hình thức đồng phạm có thông mưu trước, bởi vì hành vi tổ chức, hành vi


thuận, bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng thực hiện trước khi hoạt động tội

xúi giục, hành vi giúp sức thường được tiến hành trước thời điểm người thực

phạm. Thực tiễn cho thấy đồng phạm có thông mưu trước có tính chất và mức

hành thực hiện hành vi phạm tội. Sự thỏa thuận giữa những người đồng phạm

độ nguy hiểm hơn so với hình thức đồng phạm không có thông mưu trước. Sự

ở hình thức đồng phạm này có thể trước thời điểm thực hiện tội phạm một

thông mưu trước cũng có thể rất chi tiết, cụ thể, nói lên mức độ phối hợp cao

thời gian dài, cũng có thể ngay trước thời điểm thực hiện tội phạm. Sự khác

giữa những người đồng phạm trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm.

nhau cơ bản giữa đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp ở chỗ đồng

Cũng có thể có những trường hợp, những người đồng phạm không chỉ thỏa

phạm phức tạp thì chỉ có một người hoặc một số người đồng phạm thực hiện

thuận, bàn bạc trước về một tội phạm mà còn có thể về một số tội phạm cùng

hành vi trong cấu thành tội phạm trong khi đó, ở đồng phạm giản đơn thì tất

thực hiện, có kế hoạch chi tiết thực hiện từng tội phạm cụ thể. Cách thức trao


cả những người đồng phạm đều thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành

đổi, thỏa thuận giữa những người đồng phạm có thể bằng lời nói, thư từ hoặc
các tín hiệu riêng.

28

29


- Căn cứ vào những đặc điểm về mặt khách quan và chủ quan, đồng
phạm được chia thành hai loại: đồng phạm có tổ chức và đồng phạm thường.

Giống như các hình thức đồng phạm khác, phạm tội có tổ chức phải
có từ hai người trở lên cố ý cùng tham gia tội phạm và có sự thống nhất ý chí

Đồng phạm có tổ chức là hình thức phạm tội có sự câu kết chặt chẽ

của những người cùng thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, đặc điểm chủ yếu nhất

của những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc của các

nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cao hơn cả của

thành viên cùng một tổ chức tội phạm [5, tr. 131].

hình thức đồng phạm này là sự cấu kết chặt chẽ thể hiện cả ở mặt khách quan

Đồng phạm thường là hình thức đồng phạm không có sự câu kết chặt

chẽ giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm.

và chủ quan. Về mặt khách quan, trước khi phạm tội thường đã hình thành
một tổ chức tội phạm với các quy mô khác nhau (lớn, nhỏ) của những người
đồng phạm. Tổ chức tội phạm đó thường tồn tại trong một khoảng thời gian

* Phạm tội có tổ chức

dài nhằm thực hiện nhiều tội phạm hay phạm tội nhiều lần và là các tội

Trong các hình thức đồng phạm có thông mưu trước thì phạm tội có tổ

nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, có sự thỏa thuận,

chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Các văn bản pháp luật hình sự trước đây

bàn bạc trước và phân công vai trò đã hình thành nên mối quan hệ và sự thống

của nước ta [31, tr. 326; 9; 453] tuy có đề cập phạm tội có tổ chức nhưng đều

nhất hành động của họ chặt chẽ và bền vững [2, tr. 22].

chưa có quy định về khái niệm của hình thức này. Trong các văn bản đó, phạm tội
có tổ chức mới chỉ được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt.

Trên thực tế, đồng phạm có tổ chức được thể hiện ở các dạng sau:
- Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội được

Hình thức phạm tội có tổ chức được quy định trong luật hình sự một


hình thành với phương thức hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững. Trong

số nước như Cộng hòa Pháp, Vương quốc Bỉ, Liên bang Nga, Malaysia… với

tổ chức này có mối quan hệ chỉ huy - phục tùng, có sự phân công vai trò cụ

các tên gọi và quan niệm khác nhau: băng có tổ chức, cướp có băng nhóm,

thể của từng người đồng phạm. Có thể tổ chức phạm tội không có những tên

nhóm có tổ chức [30, tr. 89-90].

chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp của những tên tội phạm chuyên nghiệp

Khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Phạm tội có tổ
chức là hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng
thực hiện tội phạm". Tình tiết phạm tội có tổ chức không những là tình tiết
tăng nặng quy định ở Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 mà còn là tình tiết
định khung hình phạt tại nhiều điều luật. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn quy
định những trường hợp tổ chức thực hiện tội phạm thành những tội danh riêng
biệt. Ví dụ: Điều 275 "Tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc
ở lại nước ngoài trái phép"; Điều 148 "Tổ chức tảo hôn"; Điều 248 "Tổ chức

để thống nhất cùng nhau thực hiện hoạt động phạm tội.
- Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo kế
hoạch đã thống nhất trước.
- Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã
thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, đầy đủ
mọi mặt như chuẩn bị công cụ, phương tiện hoạt động, chuẩn bị kế hoạch che
giấu tội phạm [5, tr. 75-76].


đánh bạc" v.v.

30

31


Tội phạm có tổ chức là hệ thống các tội phạm được thực hiện bằng

Chương 2

đồng phạm có tổ chức hay các tội phạm được thực hiện do thành lập, tham gia

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

các tổ chức phạm tội trong khoảng thời gian không gian xác định.

VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

Như vậy, việc phân loại các hình thức đồng phạm góp phần đánh giá
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội phục vụ cho
việc xây dựng và hoàn thiện chế định đồng phạm trong phần chung của Bộ
luật hình sự. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chính là căn
cứ thống nhất để phân loại các hình thức đồng phạm.

2.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

2.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt
Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong

những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm

* Tổ chức phạm tội
Trong các nhóm phạm tội thì tổ chức phạm tội có tính chất nguy hiểm
nhất, bởi vì những thành viên của tổ chức phạm tội không chỉ thỏa thuận với
nhau về việc cùng tham gia thực hiện hoạt động tội phạm mà còn thống nhất
hình thành những tổ chức bất hợp pháp bền vững, chặt chẽ.

vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện
trước hết ở chỗ Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt. Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định Tòa án nhân dân là
cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 128),
Tòa án xét xử những vụ án hình sự (Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm

Tổ chức phạm tội được thành lập với mục đích để thực hiện một hoặc

2002). Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "Hình phạt là biện pháp

nhiều tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tổ chức

cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế

phạm tội được kết cấu theo kiểu phân công vai trò giữa các thành viên nên để

quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật

đạt được mục đích phạm tội thì các thành viên cùng nhau phối hợp, điều

hình sự và do Tòa án quyết định". Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước


chỉnh sự đóng góp cá nhân vào hậu quả phạm tội chung. Tổ chức phạm tội

được Nhà nước giao cho tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định áp

còn có đặc trưng cơ bản nữa là luôn chịu sự điều hành của một nhóm cầm

dụng với người phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài tòa án

đầu. Chính nhóm cầm đầu này đảm bảo sự phối hợp phạm tội của các thành

nhân dân có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp

viên và hướng các hoạt động này vào mục đích của tổ chức phạm tội [30, tr.

với mức hình phạt cụ thể được quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho

107-112].

người phạm tội.
Quyết định hình phạt là là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt
động xét xử. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho
việc đạt được các mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục người bị kết án
trở thành người có ích cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung
(Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngược lại, quyết định một hình phạt

32

33



không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không thể có khả

Hình phạt do tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của

năng đạt được các mục đích đó. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người

vụ án có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhưng trong mọi trường

phạm tội có đạt được mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt được ở

hợp bao giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều

mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt. Nếu

đó có nghĩa, để bảo đảm sự tương xứng khi quyết định hình phạt phải cân

tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt như là phương tiện chủ

nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện,

yếu để trừng trị người phạm tội thì sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá

cân nhắc nhân thân người phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm

nặng. Trong trường hợp này, người phạm tội luôn luôn mang tư tưởng phải

nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, hình phạt được quyết định đối với bị cáo

chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của mình,


phải bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do.

gây ra oán hờn và không tin tưởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành.

Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Quyết định hình phạt là một giai

Một hình phạt như vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho

đoạn rất quan trọng, một nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự thể

người phạm tội được cải tạo, giáo dục để hoàn lương trở thành công dân có

hiện ở việc tòa án căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án để lựa chọn loại và

ích cho xã hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất,

mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật theo một thủ tục nhất định

mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa

áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội.

riêng và phòng ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính người phạm tội và

Ngay từ thời kỳ phong kiến, quyết định hình phạt trong đồng phạm đã

những người khác có thái độ coi thường pháp luật ; không tạo ra sự tin tưởng,

được đề cập tới. Điều 35 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Nhiều người cùng


đồng tình cần thiết để giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào

phạm một tội thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một

cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

bậc". Trong trường hợp này, chính phạm vừa là thủ phạm thực tế, vừa là thủ

Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan

phạm tinh thần vì vậy bị phạt nặng hơn cả. Cũng theo Bộ luật Hồng Đức,

trọng, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do

người chủ mưu hay thủ phạm về tinh thần thì bị xử ngang bằng với người thủ

thẩm phán và hội thẩm tiến hành đối với người thực hiện tội phạm theo một

phạm. Trong một số trường hợp nhất định, người chủ mưu còn bị xử lý nặng

trật tự pháp lý nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình

hơn người khác (ví dụ Điều 103). Tuy còn ở mức sơ lược, nhưng Bộ luật

sự, bởi vì để quyết định hình phạt, tòa án phải dựa vào kết quả của các giai

Hồng Đức đã phân hóa đường lối xử lý với những người đồng phạm. Xét ở

đoạn tố tụng hình sự khác nhau như kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và


thời điểm lịch sử, thì có thể nói đây là tiến bộ lớn nhất của Bộ luật Hồng Đức.

kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử để xác định một loại và một

Dưới thời Pháp thuộc, chế định quyết định hình phạt trong đồng phạm

mức hình phạt cụ thể tối ưu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa

được quy định khác nhau ở hai bộ luật của Nam Kỳ và Trung Kỳ. Tại Nam

tội phạm. Loại và mức hình phạt được quyết định áp dụng đối với bị cáo phải

Kỳ, Bộ hình luật Canh Cải năm 1912 không phân loại mức độ trách nhiệm

được thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự của những người đồng phạm. Trách nhiệm hình sự của những người

hình sự và được công bố một cách công khai khi tuyên án.

tòng phạm cũng giống như của người chính phạm. Người chính phạm chịu

34

35


hình phạt nào thì người tòng phạm chịu hình phạt ấy. Tại Điều 59 Bộ luật

phạt trong trường hợp đồng phạm đã có bước phát triển đáng kể [31, tr. 193],


Canh Cải quy định: "Các người tòng phạm trọng tội hay khinh tội đều bị phạt

thể hiện:

đồng hình với người chính phạm trừ khi luật quy định khác". Như vậy, Hình

Thứ nhất, đã có sự phân biệt hình thức đồng phạm khác nhau thì có

luật canh cải đã không cá thể hóa hình phạt đối với những người đồng phạm.

hình thức xử lý khác nhau (ví dụ: Nghiêm trị đồng phạm có tổ chức để phân

Hình phạt áp dụng cho những người đồng phạm có tính chất "cào bằng",

biệt với các hình thức đồng phạm khác).

không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội của từng người đồng phạm.

Thứ hai, đã có sự phân biệt giữa các vai trò khác nhau của những
người đồng phạm để từ đó đường lối xử lý cũng khác nhau (ví dụ: Nghiêm trị

Theo Bộ hình luật Trung Kỳ 1933 tại Trung Kỳ đã có sự phân hóa

bọn chủ mưu cầm đầu).

trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm nhưng còn ở mức đơn giản.

Thứ ba, đã có sự phân biệt giữa hành vi oa trữ nếu có sự hứa hẹn trước


Người chính phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc hơn người tòng phạm. Tại Điều

là hành vi đồng phạm, nếu không có sự hứa hẹn trước thì cấu thành một tội

68 Hình luật Trung Kỳ quy định: Khi nào nhiều người đồng can một tội đại

phạm độc lập, từ đó phân hóa đường lối xử lý khác nhau.

hình hoặc trừng trị mà xét rõ là đúng tội thời chiểu theo hướng lệ, quan tòa
án phải xét trong những người ấy hoặc một người hoặc nhiều người là chính

Ở miền Nam, Bộ luật hình sự của ngụy quyền Sài Gòn (ban hành ngày
20-12-1972) có quy định về quyết định hình phạt trong đồng phạm nhưng

yếu phạm mà theo tội danh chính yếu phạm còn những người khác thời cho là

không áp dụng nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự đối với những

tùng phạm mà nghĩ xử tội bằng phân nửa tội người chánh yếu phạm trừ ra khi

người đồng phạm. Việc quy định như vậy là do ảnh hưởng của tư tưởng Bộ

nào luật có quy định riêng ra.

luật hình Canh Cải năm 1912. Tại Điều 103 quy định: "Tòng phạm một trọng

Cách mạng tháng 8 thành công, thời gian đầu sau khi giành được
chính quyền, các Tòa án tiến hành quyết định hình phạt trong đồng phạm theo


tội hay khinh tội sẽ bị xử phạt như chánh phạm, trừ khi nào luật quy định
khác".

nguyên tắc: "Người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của các tội phạm

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước thống nhất và tiến lên chủ

cũng bị xử phạt như chính phạm" [40]. Nguyên tắc nói trên có hạn chế là

nghĩa xã hội, Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã đáp ứng kịp thời yêu cầu

không phân hóa trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Người

mới của thực tiễn. Vấn đề quyết định hình phạt trong đồng phạm đã được quy

tòng phạm cũng bị xử lý giống người chính phạm mặc dù tính chất, mức độ

định chính thức trong Bộ luật hình sự năm 1985. Điểm tiến bộ của Bộ luật

nguy hiểm cho xã hội khác nhau.

hình sự năm 1985 so với những văn bản pháp luật hình sự trước đây khi quy

Miền Bắc được giải phóng và tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam
tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ở miền bắc, các văn bản pháp
luật hình sự được ban hành thời kỳ này có sự phát triển hơn hẳn so với những
văn bản pháp luật hình sự trước đó. Việc quy định chế định quyết định hình

định về chế định này là nhà làm luật đã đưa ra các căn cứ quyết định hình
phạt. Theo khoản 4 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1985, các căn cứ đó bao

gồm:
- Tính chất của đồng phạm;
- Tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm;

36

37


- Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình
sự của từng người đồng phạm.

vàng" trong xã hội để họ từ bỏ ý định phạm tội, tự giác chấp hành pháp luật
của Nhà nước. Hơn nữa, việc tòa án tuyên hình phạt thỏa đáng cho người

Ngoài ra, đường lối xử lý đối với những người đồng phạm đã được

phạm tội sẽ có tác dụng giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân, làm

quy định ở Điều 3 Bộ luật hình sự 1985 - nguyên tắc xử lý tội phạm, đó là

cho quần chúng nhân dân thấy được sự nghiêm minh của luật pháp để tự giác

"nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy... khoan hồng đối với người tự thú,

tuân thủ pháp luật, tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng chống tội

thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải".

phạm.


Nền kinh tế thị trường đã đưa đến những biến đổi sâu sắc trong đời

Thứ hai, quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt

sống kinh tế xã hội. Bộ luật hình sự 1985 ra đời trong nền kinh tế tập trung

được mục đích của hình phạt: trừng trị và giáo dục. Việc quyết định hình phạt

quan liêu bao cấp, mặc dù được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng vẫn không

phải đảm bảo cho hình phạt đã tuyên đạt được cả hai mục đích này. Trừng trị

đáp ứng được trước những đòi hỏi mới của thực tiễn. Trước thực tế đó đòi hỏi

và giáo dục là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn

phải có bộ luật hình sự mới vừa kế thừa những thành tựu của Bộ luật hình sự

nhau và là hai mặt của một thể thống nhất trong khi quyết định hình phạt và

năm 1985 vừa kết hợp với những tiến bộ của pháp luật hình sự hiện đại để có

Tòa án không được coi nhẹ mặt nào. Chỉ khi hình phạt được quyết định một

khả năng giải quyết được thực tiễn. Bộ luật hình sự năm 1999 đã đáp ứng

cách chính xác và công bằng thì mục đích của hình phạt mới đạt được, tức là

được cả hai yêu cầu nói trên. Điểm mới của bộ luật này khi quy định về quyết


có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và

định hình phạt trong đồng phạm là nhà làm luật đã tách khoản 4 Điều 17 Bộ

giáo dục người khác. Hình phạt được quyết định quá nhẹ so với tính chất và

luật hình sự năm 1985 ra khỏi chế định đồng phạm và quy định thành một chế

mức độ nguy hiểm của tội phạm đã được thực hiện sẽ sinh ra ở người phạm

định độc lập trong chương quyết định hình phạt (Điều 53). Quyết định hình

tội và ở những người khác thái độ xem thường pháp luật, còn hình phạt được

phạt trong đồng phạm là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt.

quyết định quá nặng sẽ gây ra ở người bị kết án sự không tin tưởng vào tính

Việc sắp xếp như vậy là rất hợp lý và theo trình tự logic chặt chẽ.

công bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến hành tố tụng,

2.1.2 Ý nghĩa của quyết định hình phạt
Thứ nhất, quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về

từ đó dẫn đến hậu quả là là giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa
chung của hình phạt.

chính trị-xã hội và pháp lý. Quyết định hình phạt góp phần củng cố và giữ


Thứ ba, quyết định hình phạt đúng là cơ sở quan trọng để có thể nâng

vững pháp chế, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Hình phạt mà tòa án tuyên

cao hiệu quả của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào rất nhiều

cho người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho

yếu tố khác nhau như xây dựng pháp luật hình sự, quyết định hình phạt, chấp

xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt đã tuyên thỏa đáng sẽ làm cho người

hành hình phạt, tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho công dân. Trong

bị kết án thấy được tính chất sai trái của hành vi của mình cũng như sự cần

các yếu tố trên thì quyết định hình phạt là yếu tố quan trọng nhất. Việc xây

thiết của bản án đã tuyên cho họ, từ đó tự giác tuân thủ pháp luật; đồng thời

dựng hệ thống pháp luật hình sự hoàn thiện chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình

hình phạt đã tuyên thỏa đáng sẽ đủ sức răn đe những người không "vững

phạt trong thực tế được đúng. Mặt khác, việc chấp hành hình phạt chỉ phát

38

39



huy tác dụng nếu tòa án quyết định hình phạt đúng. Những yếu tố xã hội khác

đến việc áp dụng không đúng các quy phạm pháp luật hình sự dẫn đến việc

đảm bảo hiệu quả của hình phạt như vấn đề tuyên truyền giáo dục pháp luật

quyết định hình phạt sai.

cho công dân để công dân tự giác chấp hành hình phạt sẽ không thể phát huy

Trong luật hình sự Việt Nam, các nguyên tắc quyết định hình phạt

tác dụng khi quyết định hình phạt không đúng. Nếu hình phạt quá nhẹ hay quá

không được ghi nhận chính thức trong Bộ luật hình sự mà được thể hiện

nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ làm cho

thông qua nội dung các quy phạm pháp luật hình sự. Để có cơ sở đưa ra các

người bị kết án không thấy được tính nghiêm minh của bản án và từ đó không

nguyên tắc quyết định hình phạt, cần phải dựa vào những tiêu chuẩn nhất

tích cực lao động cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội cũng như

định. Những tiêu chuẩn đó là: Thứ nhất, phải là những tư tưởng chỉ đạo đầu


gây ra dư luận không tốt trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng tới niềm tin

tiên; thứ hai, phải được thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp trong luật hình sự;

của quần chúng nhân dân đối với pháp luật, không động viên được quần

thứ ba, phải là những tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của tòa án

chúng tham gia tích cực vào công tác đấu tranh vào phòng chống tội phạm và

trong lĩnh vực quyết định hình phạt; thứ tư, những tư tưởng đó phải phù hợp

như vậy hiệu quả của hình phạt chắc chắn sẽ không đạt được [18, tr. 10-12].

với chính sách hình sự trong từng giai đoạn phát triển của Nhà nước. Căn cứ

2.2. CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

Thật ngữ "nguyên tắc" có nguồn gốc từ tiếng Latin: Principium (nguyên
lý) và có nghĩa là tư tưởng đầu tiên, tư tưởng chỉ đạo trong khoa học, hiện

vào những tiêu chuẩn trên, việc quyết định hình phạt cần phải dựa vào
những nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;

tượng hoặc quá trình. Nguyên lý đó cũng được áp dụng để nghiên cứu pháp

- Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa;

luật nói chung và các chế định của nó nói riêng.


- Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt;

Để quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý đối với

- Nguyên tắc công bằng (công minh) [42, tr. 409].

người phạm tội dù họ thực hiện một tội phạm hay thực hiện nhiều tội phạm,
khi áp dụng các chế tài luật hình sự, tòa án phải tuân theo một số nguyên tắc

2.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quyết định hình phạt

nhất định. Các nguyên tắc đó được gọi là các nguyên tắc quyết định hình phạt.

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc quan trọng

Đây là những tư tưởng chỉ đạo, kim chỉ nam cho hoạt động của tòa án khi

và cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nói đến pháp

chọn và quyết định loại và mức hình phạt đối với từng bị cáo trong từng vụ án

chế là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật của Nhà nước, các tổ chức xã hội

cụ thể, là tiền đề, là điều kiện cho việc giáo dục và cải tạo người bị kết án

và công dân. Có tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi

được tốt, góp phần vào việc phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Các


quyết định hình phạt thì các nguyên tắc khác của luật hình sự mới được đảm

nguyên tắc quyết định hình phạt là một trong những nội dung quan trọng của

bảo thực hiện.

chế định quyết định hình phạt, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các nguyên tắc

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được coi là nguyên tắc cơ bản,

quyết định hình phạt tạo tiền đề thuận lợi để quyết định hình phạt đúng pháp

xuyên suốt toàn bộ các hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự.

luật. Nếu nhận thức không đúng các nguyên tắc quyết định hình phạt sẽ dẫn

Trong các nguyên tắc quyết định hình phạt, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ

40

41


nghĩa đóng vai trò quan trọng hàng đầu, vi phạm nguyên tắc pháp chế cũng có

những quy định có tính chất làm cơ sở pháp lý để Tòa án dựa vào đó quyết

nghĩa là vi phạm các nguyên tắc khác ở các mức độ khác nhau. Tư tưởng cơ

định hình phạt cho người phạm tội được chính xác.


bản bao trùm của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi quyết định hình
phạt được thể hiện ở chỗ, khi áp dụng hình phạt đối với người bị kết án, tòa
án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của luật hình sự.

Nội dung thứ ba của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là tính hợp
lý của quyết định hình phạt. Tính hợp lý thể hiện ở chỗ trong số những
phương án giải quyết khác nhau mà luật cho phép, tòa án phải lựa chọn

Nội dung của nguyên tắc này, trước hết, được thể hiện ở chỗ khi quyết

phương án tối ưu nhất, vừa phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã

định hình phạt, tòa án phải tuân theo trình tự và các điều kiện áp dụng các loại

hội của các hành vi phạm tội, vừa phục vụ yêu cầu chính trị-xã hội trong từng

hình phạt cụ thể và chỉ có thể tuyên những hình phạt, với mức phạt được quy

giai đoạn, ở từng địa phương. Do đó, tòa án phải áp dụng đúng các quy định

định trong Bộ luật hình sự.

của pháp luật hình sự. Áp dụng đúng không có nghĩa là chỉ áp dụng đúng lời

Hình phạt với tính chất là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của

văn các các quy định của pháp luật hình sự mà còn phải hiểu đúng tinh thần lời

Nhà nước có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người bị kết án.


văn của pháp luật, tìm hiểu các quy phạm pháp luật hình sự theo quan điểm

Do vậy, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội phải hết sức chặt chẽ.

chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, do người thực hiện

Tòa án chỉ được phép áp dụng một hình phạt đối với người bị kết án khi hình

tội phạm thường gây ra những hậu quả pháp lý nhất định và bị quần chúng nhân

phạt này được Bộ luật hình sự quy định cho chính tội phạm đó. Trong Phần

dân căm ghét, cho nên khi quyết định hình phạt đối với họ, tòa án phải cân

chung Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể hệ thống hình phạt chính và

nhắc cả tình hình chính trị, xã hội, kinh tế ở địa phương để quyết định hình phạt

hình phạt bổ sung, điều kiện áp dụng hình phạt, quyết định hình phạt, trong Phần

cho hợp lý [15, tr. 165].

các tội phạm của Bộ luật này, cũng đã quy định các cấu thành tội phạm cụ thể
với các loại và mức hình phạt tương ứng có thể áp dụng đối với người thực hiện

2.2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quyết định hình phạt
Tư tưởng nhân đạo luôn được thể hiện rõ nét trong đường lối chính

tội phạm.

Nội dung thứ hai của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong khi
quyết định hình phạt là tòa án phải tuân thủ các quy định của Bộ luật hình sự
về nội dung, phạm vi, điều kiện áp dụng các loại hình phạt, về tổng hợp hình

sách của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước ta. Trong luật hình sự
Việt Nam, tư tưởng nhân đạo được thể hiện xuyên suốt thông qua các quy
phạm pháp luật hình sự, hình thành nên nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ
nghĩa. Cùng với nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo

phạt. Theo đó, khi quyết định hình phạt, tòa án phải viện dẫn đầy đủ các căn

xã hội chủ nghĩa không chỉ là một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt

cứ pháp lý trong bản án, nghĩa là tòa án phải chỉ rõ các điều luật được vận

Nam mà còn là nguyên tắc đặc thù cho hoạt động quyết định hình phạt.

dụng trong phần quyết định của bản án. Tòa án cần phải triệt để tuân thủ khi
xác định và lựa chọn loại hình phạt, mức phạt cụ thể cần áp dụng cho người
phạm tội. Ngoài ra, Tòa án cũng cần tuân thủ một cách nghiêm chỉnh các quy
định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự…, bởi vì đây là

42

Trước hết, khi quyết định hình phạt, tòa án phải đặt mục đích giáo
dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội là mục đích
quan trọng hàng đầu. Do đó, khi quyết định hình phạt, tòa án phải cân nhắc

43



lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của người phạm tội trong một tổng thể

nhân thân người phạm tội để tuyên một hình phạt giảm nhẹ cho bị cáo [18, tr.

thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Nhân đạo xã hội chủ nghĩa đòi hỏi

39].

phải có thái độ đúng đắn đối với lợi ích của toàn xã hội, của Nhà nước và của
người phạm tội. Bởi lẽ, không thể nói đến nhân đạo được nếu khi quyết định
hình phạt mà quá đề cao lợi ích của Nhà nước, của xã hội, hạ thấp, xem
thường lợi ích của người phạm tội, hoặc ngược lại.
Nguyên tắc nhân đạo khi quyết định hình phạt thể hiện ở chỗ luật hình
sự nước ta quy định các quy phạm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt

Nguyên tắc nhân đạo còn thể hiện ở việc hạn chế sự trừng trị. Tức là
trong một vụ án, tòa án có thể tuyên một trong những mức cho phép đối với bị
cáo: cần thiết tối thiểu, mức cao hơn cần thiết tối thiểu, mức tối đa, thì ở góc
độ của việc hạn chế sự trừng trị, tòa án nên tuyên mức hình phạt cần thiết tối
thiểu. Trong mọi trường hợp không cho phép tòa án quyết định hình phạt với
mức "dự trữ", tức là quá mức cần thiết.

đối với những người phạm tội ít nguy hiểm cho xã hội và những người phạm
tội lần đầu, những người thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc

2.2.3. Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định hình phạt

tội, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra. Đối với những


Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt là nguyên tắc chung của luật hình sự,

người này, khi quyết định hình phạt, tùy theo các tình tiết của vụ án, mức phạt tù

đồng thời cũng là nguyên tắc của quyết định hình phạt. Yêu cầu của nguyên

và nhân thân người phạm tội, Tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo, khi có

tắc này là mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện và trừng phạt, không bỏ lọt

nhiều tình tiết giảm nhẹ có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất hoặc

tội phạm.

chuyển sang loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn… Còn đối với những người
phạm tội đặc biệt nguy hiểm, những người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm
tội có tổ chức… luật hình sự nước ta có những quy định quyết định hình phạt rất
nghiêm khắc nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền lợi của xã hội, của nhà nước và
mọi công dân khỏi sự xâm hại của tội phạm. Nhưng khi quyết định hình phạt đối
với những người này, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi phải chọn một biện pháp
nghiêm khắc thích hợp, phải tuân theo một nguyên lý cơ bản là người bị kết
án cũng là con người và mọi người lầm đường lạc lối có thể được giáo dục,
cải tạo, để trở thành người lao động có ích cho xã hội. Ngoài ra, khi quyết
định hình phạt, tòa án phải cân nhắc đến tất cả những đặc điểm tốt thuộc về
nhân thân người phạm tội trong phạm vi luật định vì nhân thân người phạm
tội không chỉ phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

Cá thể hóa hình phạt là nguyên tắc tất yếu của việc quyết định hình
phạt đối với người có hành vi phạm tội. Nguyên tắc này được nhà làm luật thể
hiện trước hết ở Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999. Hình phạt được áp dụng

đối với những tội nghiêm trọng và ít nghiêm trọng là khác nhau. Người phạm
tội nghiêm trọng có thể phải chịu hình phạt tù, còn đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng có thể áp dụng một trong những hình phạt từ cảnh cáo, phạt tiền
(với tư cách là hình phạt chính), cải tạo không giam giữ cho đến hình phạt tù.
Nội dung của cá thể hình phạt cũng được thể hiện ở các điều luật quy định các
giai đoạn phạm tội, đồng phạm, hệ thống các hình phạt và các điều kiện áp
dụng chúng, cũng như quy định việc quyết định hình phạt đối với một số
người phạm tội như người chưa thành niên, người già yếu, phụ nữ có thai.

phạm tội mà còn phản ánh khả năng cải tạo giáo dục của người phạm tội cũng

Do đó, cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng

như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Tòa án xem xét các đặc điểm tốt thuộc về

của chế định hình phạt và là nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt. Khi
quyết định hình phạt, tòa án phải cân nhắc tất cả các tình tiết có trong vụ án

44

45


×