Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Quá trình hình thành các hệ thống quan điểm của Đảng về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.25 KB, 31 trang )



TIỂU LUẬN

Đề tài:
Quá trình hình thành các hệ thống quan điểm của Đảng
về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội

TP.HCM – 2016


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................2
I. Lý do chọn đề tài...........................................................................................................................2
II. Mục đích......................................................................................................................................3
III. Mục tiêu......................................................................................................................................4
B. NỘI DUNG......................................................................................................................................4
I. Nền tảng của con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.........................................................4
I.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội............................................................................................................................................4
I.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin về chủ nghĩa xã hội.............................................4
I.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội................9
I.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đườngg đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.................................................................................................................................................11
I.2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...................11
I.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam............................12
II. Tính tất yếu và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam...............................................13
II.1. Tính tất yếu của con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta..........................................13
II.2 Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.................................................................14
III. Quá trình hình thành hệ thống quan điểm của Đảng về con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta
........................................................................................................................................................16


III.1. Những quan điểm cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ Đại hội
thành lập Đảng đến Đại hội V....................................................................................................16
III.1.1. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng..............16
III.1.2. Quan điểm của Đảng trong đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng(2/1951)..............17
III.1.3. Quan điểm của Đảng trong đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960)...............18
III.1.4. Quan điểm của Đảng trong đại hội lần thứ IV của Đảng (1976)................................19
III.1.5. Quan điểm của Đảng trong đại hôi V (1982).............................................................20
III.2. Những quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta qua các kỳ đại hội:
VI, VII, VIII, IX, X và XI..........................................................................................................21
III.2.1. Đại hội VI của Đảng (12/1986) bước ngoặt trong đổi mới tuy của Đảng về phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội................................................................................................21
III.2.2. Quan điểm của Đảng trong đại hội VII (6/1991).......................................................22
III.2.3. Quan điểm của Đảng trong đại hội VIII (6/1996)......................................................23
III.2.4. Quan điểm của Đảng trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. (2001)................24
III.2.5. Quan điểm của Đảng trong đại hội X của Đảng (2006).............................................26
III.2.6. Quan điểm của Đảng trong đại hôi XI (12/1/2011)....................................................26
III.2.7 Quan điểm của Đảng trong đại hội thứ XI..................................................................28
C KẾT LUẬN.....................................................................................................................................30
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................31

A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trong các hình thái xã hội thì chủ nghĩa xã hội là một hình thái xây dựng xã
hội công bằng nhất, mà đặc trưng của nó là bảo vệ giai cấp vô sản đặc biệt là tầng lớp


Công – Nông. Đây là một xã hội lý tưởng bởi xã hội đó "sự phát triển tự do của một
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người". Trên thế giới cũng
có rất nhiều nước đã đi theo con đường này và cũng có nhiều thành tựu trên nhiều
lĩnh vực đặc biệt là sự xóa bỏ những áp bức bất công. Đây chính là con đường mà

bước ta phải đi theo, nó là một sự tất yếu. Nắm bắt được điều đó Chỉ tịch Hồ Chí
minh đã lựa chọn cho cách mạng Việt Nam đi theo Chủ nghĩa xã hội dựa trên tư
tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có sự nghiên cứu để phù
hợp với tình hình của nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Tuy nhiên quá trình hình thành các hệ thống quan điểm của Đảng về con
đường chủ nghĩa xã hội không hề đơn giản. Nó là một quá trình xuyên suốt gắn liền
với tình hình lịch sử và gắn liền với các đại hội của nước ta. Các quan điểm ấy được
thể hiện bằng các văn kiện trong các kỳ đại hội của Đảng từ khi thành lập đến nay.
Trên con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội Đảng ta gặp không ít khó khăn do
nước ta xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu lại trải qua nhiều cuộc đấu tranh
bảo vệ đất nước. Nhưng Đảng ta luôn luôn kiên định giữ vững lập trường không từ bỏ
con đường mà Bác Hồ đã chọn, cố gắng đưa đất nước từ từ đi lên.
Đến nay Đảng và nhà nước ta đã gặt hái được nhiều thành công trên con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạt được thành quả đó trước hết là nhờ sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng và Bác Hồ, tiếp đến là sự nỗ lực trong quá trình xây dựng các hệ thống
quan điểm vững vàng, cẩn trọng trong từng đường đi nước bước. Vì vậy việc nghiên
cứu Quá trình hình thành các hệ thống quan điểm của Đảng về con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội là rất quan trọng, để nâng cao một bước nhận thức lý luận và củng cố
niềm tin và thắng lợi xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
II. Mục đích
Hiểu được nền tảng các quan điểm của hệ thống chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nắm được quá trình hình thành các hệ thống quan điểm của Đảng thông qua
các kỳ đại hội Đảng và một số văn kiện quan trọng.


III. Mục tiêu
Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về Chủ nghĩa xã hội.
Tìm hiểu quá trình hình thành hệ thống quan điểm của Đảng và các kỳ đại hội

Đảng.

B. NỘI DUNG
I. Nền tảng của con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta
I.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội
I.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - lênin về chủ nghĩa xã hội
C.Mác và Ănghen khi luận giải bàn về cách mạng vô sản, cách mạng cộng sản
đã dự báo những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Không đặt ra nhiệm vụ phải
xác định đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên ở những bối cảnh khác nhau.
Lênin đã nêu lên nhiều quan điểm dự báo mà chúng ta có thể coi đó là đặc trưng của


chủ nghĩa xã hội – từ thành quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới thắng lợi. Tổng hợp những quan điểm của C.Mác, PH.Ănghen, V.I.Lênin có
thể thấy được những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được thể hiện như sau:
1. Cơ sở vật chất của Chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí
Các nhà kinh điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng mỗi một
phương thức sản xuất đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng – công cụ thủ công
đặc trưng cho cơ sở vật chất kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản. Nền đại công nghiệp
cơ khí là cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản. Mác - Ăngghen và Lênin đánh
giá rất cao vai trò của nền đại công nghiệp cơ khí đối với chủ nghĩa xã hội. Lênin
khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí, chính vì
thế, nếu không có kỹ thuật của tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên cơ
sở những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại thì không thể nói đến chủ nghĩa
xã hội được Lênin cũng đánh giá cao những thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong
lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là những thành tựu công nghiệp ở Đức và Mỹ.
2. Chủ nghiã xã hội xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công
hữu
Mác – Ăngghen quan niệm rằng mọi cuộc cách mạng xã hội nhằm lật

đổ chế độ cũ thiết lập chế độ xã hội mới bao giờ cũng phải “đưa vấn đề sở
hữu lên hàng đầu, coi đó là vấn đề cơ bản của phong trào, không kể nó đã
phát triển đến thế nào”.
Chủ nghĩa xã hội là sự xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xây dựng
chế độ sở hữu chung về tư liệu sản xuất. Mác - Ăngghen đã phân tích mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính xã hội hóa
cao với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; luận chứng tất yếu xã hội phải
trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất. Vì vậy xóa bỏ chế độ tư hữu và xây dựng chế độ
công hữu là tiêu chí đầu tiên của chủ nghĩa xã hội. Mục đích của chủ nghĩa cộng sản
không phải là xóa bỏ hoàn toàn mọi thứ sở hữu; chủ nghĩa xã hội không tước bỏ
quyền chiếm hữu sản phẩm xã hội của những người lao động mà chỉ tước bỏ quyền
dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác. Rõ ràng là đặc trưng của


chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa bỏ chế
độ sở hữu tư sản. Theo hai ông xóa bỏ tư hữu tư bản vì nó là nguồn gốc đẻ ra mọi áp
bức, bóc lột, bất bình đẳng.
Kế thừa những tư tưởng trên, LêNin nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc xóa
bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Mặc dù không gọi việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư
bản chủ nghĩa là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song Lênin cũng cho rằng chế độ sở
hữu tư bản chủ nghĩa là nguồn gôc gây ra mọi đau khổ của quần chúng nhân dân lao
động. Vì vậy để giải phóng người lao động cần phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ
nghĩa. Xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là việc làm cần
thiết và coi đó là mục tiêu đấu tranh của giai cấp vô sản là biến mọi tư liệu sản xuất
trở thành sở hữu xã hội. Chỉ có chấm dứt nạn tư bản bóc lột nhân dân lao động, tưc là
xóa bỏ chế độ tư hữu về công cụ lao động, trao tất cả các công xưởng, nhà máy và
hầm mỏ cho toàn xã hội thì người lao động mới được hưởng sản phẩm lao động do
tập thể làm ra.
Cùng với việc xóa bỏ chế độ tư hữu của bọn địa chủ và tư sản là việc thiết lập
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các ông coi đó là mục tiêu của chủ nghĩa xã

hội, là kết quả hợp quy luật của sự phát triển xã hội. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà
Lênin đã giải thích chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất “Từ chủ
nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội nghĩa là chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối sản phẩm theo lao động của mỗi
người”.
Tóm lại thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, đồng thời thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất là một trong những đặc trưng cơ bản, thậm trí là cơ bản
nhất của chủ nghĩa xã hội.
3. Chủ nghĩa xã hội điều tiết một cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội và nền sản
xuất hàng hóa
Mục đích của chủ nghĩa xã hội là chuyển ruộng đất, công xưởng và nói chung,
hết thảy mọi tư liệu sản xuất vào tay toàn xã hội và thay thế nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa bằng một nền sản xuất tiến hành theo một kế hoạch chung, nhằm phục vụ lợi
ích của hết thảy mọi thành viên trong xã hội. Dưới chủ nghĩa tư bản, các tờ rớt cũng


có thể tổ chức một cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội là chưa đủ cái khác giữa chủ
nghĩa xã hội với các tờ rớt trong chủ nghĩa tư bản là ở chỗ chủ nghĩa xã hội dựa vào
toàn thể xã hội để tổ chức một cách có kế hoạch nền sản xuất xã hội. Điều đó bao
hàm cả tính kế hoạch lẫn người điều khiển kế hoạch, và như vậy khi xã hội tự mình
nắm lấy toàn bộ tư liệu sản xuất để đem dùng chung cho toàn thể xã hội theo một kế
hoạch thống nhất, thì không những tình trạng con người bị nô dịch bởi tư liệu sản
xuất của chính họ bị xóa bỏ và tình trạng vô chính phủ trong nền sản xuất xã hội
được thay thế bằng sự tổ chức có kế hoạch, có ý thức mà cả nền sản xuất hàng hóa
cũng sẽ bị thủ tiêu và sự thống trị của hàng hóa đối với người sản xuất cũng sẽ bị thủ
tiêu.
4. Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới
Trong nhiều tác phẩm của mình Mác - Ăngghen đã luận giải rằng một khi xã
hội đã lấy toàn bộ tư liệu sản xuất để sử dụng chung cho toàn thể xã hội theo một kế
hoạc thống nhất, nhằm cùng nhau khai thác lực lượng sản xuất vì lợi ích chung của

mọi thành viên trong xã hội thì việc quản lý các ngành sản xuất không thể là công
việc của tất cả các thành viên trong xã hội. Kế thừa những quan điểm đó Lênin còn
nêu rõ nguyên nhân chủ nghĩa xã hội tạo ra năng xuất lao động cao hơn so với chủ
nghĩa tư bản ngoài cơ sở vật chất là nền đại công nghiệp hiện đại, còn do những yếu
tố vốn có của chủ nghĩa xã hội, đó là cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Nhưng muốn có được cách tổ chức, quản lý cần phải học tập và tiếp thu những tiến
bộ mới nhất của chủ nghĩa tư bản.
5. Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
Nguyên tắc phân phối theo lao động tức là việc phân phối tư liệu sinh hoạt cho
mỗi người sản xuất, “sẽ do thời gian lao động của người đó quyết định”, bởi vì thời
gian lao động là cái để do phần tham gia của cá nhân người sản xuất vào lao động
chung và do đó, cả cái phần tham dự của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu
dùng cá nhân trong toàn bộ sản phẩm. Nhưng phương thức phân phối đó sẽ thay đổi
tùy theo bản thân loại cơ cấu sản xuất xã hội và tùy theo trình độ phát triển lịch sử
tương ứng của những người sản xuất. Phân phối theo động là cách thức phân phối


trong giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Cách thức này hợp với chủ nghĩa
xã hội vì:
Thứ nhất: trong chủ nghĩa xã hội của cải làm ra chưa đạt đến mức thật dồi
dào, lao động còn là nghĩa vụ, là phương tiện để sinh sống chứ chưa trở thành nhu
cầu bậc nhất của đời sống nhu dưới chủ nghĩa cộng sản.
Thứ hai: Chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển chưa phải là dựa trên những cơ
sở riêng của bản thân nó mà là thoát thai từ xã hội cũ, cho nên vẫn còn những dấu vết
của xã hội cũ.
Thứ ba: Dưới chủ nghĩa xã hội vẫn còn những người trốn tránh lao động,
muốn làm ít hưởng nhiều, tránh việc nặng tìm việc nhẹ. Vì thế Lênin cho rằng xã hội
phải kiểm tra, kiểm soát nghiêm mức độ lao động và tiêu dùng của từng người.
6. Chủ nghĩa xã hội khi đã xây dựng xong, Chủ nghĩa cộng sản được thực hiện thì xã
hội sẽ không còn giai cấp

C.Mác coi chủ nghĩa xã hội là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ những
sự khác biệt giai cấp nói chung, đây là mục tiêu cần đạt tới chủ nghĩa xã hội. Mác Ăngghen luôn tin rằng chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đã được thiết lập
thì cùng với nhà nước mọi sự khác biệt giai cấp, mọi đối kháng giai cấp sẽ không còn
nữa và chế độ người bóc lột người cũng bị xóa bỏ.
Tiếp thu tư tưởng của Mác – Ăngghen, Lênin khẳng định mục đích của chúng
ta là xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ sẽ xóa bỏ hiện tượng loài người
chia thành giai cấp.
Lênin chỉ rõ sự ra đời của các giai cấp bắt nguồn từ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Nói cách khác, chế độ tư hữu là nguyên nhân của sự phân chia
xã hội thành các giai cấp và áp bức giai cấp. Vì vậy việc thủ tiêu chế độ tư hữu sẽ thủ
tiêu tình trạng phân chia xã hội thành giai cấp.
7. Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức, bóc lột tạo điều kiện
cho con người phát triển toàn diện
Ănghen coi thắng lợi của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản là dấu hiệu giải
phóng tất cả các dân tộc bị áp bức và khẳng định: không một dân tộc nào có thể trở
thành tự do trong khi còn tiếp tục áp bức những dân tộc khác. Xóa bỏ nạn người bóc


lột người thì “nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác” mới cỏ thể được xóa bỏ, nhưng
muốn vậy thì phải gắn liền với vấn đề giải phóng dân tộc.
Tiếp thu tư tưởng của Mác – Ăngghen, Lênin khẳng định áp bức, bóc lột là tai họa
lơn đối với người lao động. Sự thay thế của các xã hội trước chủ nghĩa xã hội chẳng
qua chỉ là sự thay thế của các hình thức áp bức bóc lột đối với người lao động. Chỉ có
chủ nghĩa xã hội mới có khả năng giải phóng con người khỏi các hình thức áp bức
bóc lột đó.
8. Chủ nghĩa xã hội thực hiện sự bình đẳng xã hội
Ngay từ đầu khi quan niệm chủ nghĩa xã hội là một xã hội mới tốt đẹp, Mác Ăngghen đã xuất phát từ ước mơ bao đời về một xã hội công bằng, về việc xóa bỏ
chế độ người bóc lột người đã từng tồn tại trong xã hội loài người nhiều thế kỷ, ước
mơ về tổ chức một xã hội kiểu mới, trong đó mọi người đều bình đẳng, đều có quyền
tham gia lao động sản xuất, đều có hạnh phúc.

Lênin khẳng định cuộc cách mạng của giai cấp vô sản sẽ hoàn toàn xóa bỏ sự
phân chia xã hội thành giai cấp và do đó sẽ xóa bỏ mọi sự bất bình đẳng xã hội và bất
bình đẳng chính trị do sự phân chia đó gây ra. Nói cách khác, cơ sở của mọi sự bất
bình đẳng xã hội và bất bình đẳng chính trị là do sự phân chia giai cấp gây ra. Để xóa
bỏ mọi bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng chính trị cần xóa bỏ sự phân chia xã hội
thành giai cấp và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được vấn đề đó. Tuy nhiên
dưới chủ nghĩa xã hội, bình đẳng không có nghĩa là ngang nhau về mọi phương diên
mà phải luôn hiểu rằng đó là sự bình đăng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội của con
người.
I.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Nói về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vừa có tính phổ biến vừa mang nét đặc thù, các
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn giống nhau mà mang theo đặc
điểm của dân tộc mình.


Những phác thảo ban đầu về đặc trưng của chủ nghĩa xã hội khác về chất so
với các xã hội trước đó, chủ nghĩa Mác - Lênin cũng bước đầu nêu ra một số cách
thức, biện pháp để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở kinh tế,
chính trị, xã hội, và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Khi khẳng định sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu, Mác - Ăngghen cũng
khẳng định tính tất yếu của cuộc cách mạng cộng sản, cách mạng công nhân, cách
mạng vô sản, thực chất là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xác định rõ thực chất, nội dung, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, các hình thưc quá độ phù hợp với từng quốc gia.
Căn cứ vào những luận điểm về phạm trù thời kỳ quá độ của C.Mác nêu trong
“Phê phán cương lĩnh Gôta”, Lênin đã phân chia quá trình hình thành và phát triển
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thành ba giai đoạn:
Giai đoạn 1. “Những cơn đau đẻ kéo dài”

Giai đoạn 2. “Giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
Giai đoạn 3. “Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”
Ba là, không ngừng mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa gắn với việc xây dựng
và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa là liên minh giữa giai cấp
công nhân với các tầng lớp lao động khác trên cơ sở liên minh công – nông dưới sự
lãnh của Đảng.
Năm là, đi lên chủ nghĩa xã hội cần kế thừa những giá trị quý báu trong thời kỳ
tư bản chủ nghĩa.
Sáu là, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản – nhân tố quyết định thành
công con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Mác - Ăngghen đã phân tích về mối quan hệ
giữa những người vô sản với những người cộng sản, chỉ rõ vai trò lãnh đạo của
những người cộng sản đối với cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa. Phát triển tư tưởng
đó, Lênin đã luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhân tố quyết
định thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội.


I.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đườngg đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
I.2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lý luận hình thái kinh tế - xã
hội, trong đó phương thức sản xuất là nền tảng. Hồ Chí Minh đã tiếp thu những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo và đưa ra nhiều kiến
giải mới phù hợp với Việt Nam. Người khẳng định và trò quyết định của sức sản xuât
đối với sự phát triển của xã hội cũng như đối với sự chuyển biến từ xã hội nọ sang xã
hội kia.
Trên cơ sở nền tảng kinh tế mới, chủ nghĩa xã hội sẽ xác lập một hệ thống các
giá trị đặc thù mang tính nhân bản thấm sâu vào các quan hệ xã hội. Người đã khẳng
định, trong lịch sử loài người có 5 hình thức quan hệ sản xuất chính, và nhấn mạnh

“không phải quốc gia dân tộc nào cũng đều trải qua các bước phát triển tuần tự như
vậy”. Người sớm đến với tư tưởng quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không trải
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ đặc điểm lịch sử truyền thống dân
tộc: nước ta không trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ, mang đậm dấu ấn phong kiến
phương đông, mâu thuẫn giai cấp không gay gắt, quyết liệt, kéo dài, như ở phương
Tây, do đó hình thành quốc gia dân tộc từ sớm; ngay từ buổi đầu dựng nước, chúng ta
liên tục phải đấu tranh chống ngoại xâm, hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền
thống; là nước nông nghiệp, lấy đất và nước làm nền tảng với chế độ công điền hình
thành cộng đồng bền chặt. Tất cả điều này là giá trị cơ bản của tinh thần và tư tưởng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Tinh thần yêu nước, yêu thương đùng bọc trong hoạn
nạn đấu tranh, cố kết cộng đồng quốc gia dân tộc.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ truyền thống văn hóa lâu đời, bản
sắc riêng. Đó là nền văn hóa lấy nhân nghĩa làm gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý;
nền văn hóa mang tính dân chủ; có tính chất khoan dung; một dân tộc trọng hiền tài,
hiếu học. Hồ Chí Minh đã quan niệm Chủ nghĩa xã hội là thống nhất với văn hóa, chủ


nghĩa xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản về mặt văn hóa
và giải phóng con người.
Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ tư duy triết học phương
Đông: Coi trọng hòa đồng, đạo đức nhân nghĩa.
Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ yêu cầu thực tiến của cách mạng
Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại.
Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ thứ XX đặt ra yêu câu khách quan là tìm một
ý thức hệ mới đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn đem lại
thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Trong khi đó thắng lợi của cách mạng tháng 10
Nga đã mở ra con đường hiện thực giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, đó là thực
tiễn đã mở ra cho cách mạng Việt Nam.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh là kết quả tác động tổng hợp

của các nhân tố truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế; kinh tế, chính trị, đạo
đức, văn hóa. Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm cách tiếp cận về chủ nghĩa xã
hội, đóng góp vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
I.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Theo tư tưởng của Người chủ nghĩa xã hội là một xã hội ngày càng tiến, vật
chất ngày càng tăng, tinh thần ngày cang tốt, đó là Chủ nghĩa xã hội. Người còn cụ
thể hóa thêm: “Chủ nghĩa xã hội là cái gì ? Là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung
sướng, tự do”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội là một chế
độ do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Một là: Xuất phát từ quan điểm giải phóng nhân dân lao động là sự
nghiệp của chính nhân dân.
Hai là: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân và vì nhân dân. Nhưng để nhân dân
thực hiện vai trò cách mạng của mình đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mình cần có
sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không


ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động. Xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản
xuất Xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó
người với người là bạn bè, là đống chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát
triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi
được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
Tóm lại, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một quan niệm

khoa học, hoàn chỉnh, hệ thống, dựa trên học thuyết hình thái kinh tế -xã hội của
Mác, đồng thời có bổ sung thêm một số đặc trưng khác phản ánh truyền thống, đặc
điểm của Việt Nam. Những đặc trưng này đã bao quát tất cả các mặt của đời sống xã
hội và chứa đựng trong đó một hệ thống các giá trị đặc thù, mà giá trị trung tâm là
con người với các lợi ích của nó. Đây là mô hình cấu trúc chủ nghĩa xã hội theo quan
niệm Hồ Chí Minh.
II. Tính tất yếu và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
II.1. Tính tất yếu của con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
quốc tế là quy luật phát triển của xã hội loài người.
Dựa vào học thuyết hình thái kinh tế - xã hội Người khẳng định, sự ra đời của chủ
nghĩa xã hội là một tất yếu kinh tế, nguyên nhân sâu xa là sự phát triển của sức sản
xuất xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là do nhu cầu giải phóng con người một
cách triệt để (theo 3 trình độ từ thấp đến cao: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng từng cá nhân để hình thành những nhân cách phát triển toàn diện).Sự ra đời
của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu đạo đức xã hội (Người lý giải theo quy luật đấu
tranh giữa thiện - ác, tốt - xấu và quy luật chung là cái thiện, cái tốt nhất định sẽ chiến
thắng cái ác, cái xấu).


Trong Thường thức chính trị Người viết: “Chủ nghiac cộng sản ra đời thì lúc đó
mọi người đều sống có đạo đức”.Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là một tất yếu của văn
minh nhân loại.
Chủ nghĩa xã hội ra đời là do tác động của tất cả các nhân tố: kinh tế, chính trị,
đạo đức, xã hội, văn hoá. Do vậy, sự ra đời của nó là không cưỡng lại được. Người nói:
Không có một lực lượng nào ngăn trở được mặt trời mọc. Không có một lực lượng nào
ngăn trở được xã hội loài người tiến lên. Không có một lực lượng nào ngăn trở Chủ
nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, sự ra đời của CNXH ở Việt Nam cũng là một sản phẩm tất
yếu của quá trình phát triển lịch sử. Bởi vì:

Sau khi nước ta giành được độc lập theo con đường cách mạng vô sản thì đi lên
xây dựng CNXH là một bước phát triển hợp quy luật.
Chỉ có xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa thì nước nhà mới thật
sự độc lập, nhân dân lao động mới thực sự được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Vì vậy để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức bóc lột đưa xã hội Việt Nam đi
lên trở thành một nước phát triển thì con đường Chủ nghĩa xã hội là con đường duy
nhất và đúng đắn nhất trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ, và đó là một quá trình tất yếu.
II.2 Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nước ta xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu chính vì vậy con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải quá độ. Tức là, phải bỏ qua giai đoạn
tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy đã gặp nhiều khó khăn thử thách.
Khi nói về thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh đã căn cứ vào thực tiễn cụ thể của
Việt Nam để xây dựng quan niệm và lý giải những vấn đề của phương thức quá độ
gián tiếp từ một nước chậm phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội và tìm tòi những lý luận
của người gắn liền với loại hình quá độ này.
Theo Hồ Chí Minh, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nước ta có những đặc điểm sau đây:


Thứ nhất: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, trên nền tảng liên minh công nhân, nông
dân và tri thức đã được củng cố vững chắc, Việt Nam tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới không bắt đầu bằng một cuộc đảo
lộn chính trị, dành chính quyền. Đặc điểm này được Hồ Chí Minh hết sức lưu ý và
luận chứng đầy đủ. Về phương diện kinh tế, miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác, thể hiện trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội và làm cơ sở cho sự tồn tại một hệ thống mâu thuẫn

có tính chất khác nhau, trong đó Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến mâu thuẫn cơ bản
của thời kỳ quá độ. Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao của đất nước theo xu
hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội quá thấp kém.
Thứ hai: Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện vừa có hòa bình,
vừa có chiến tranh; đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành Cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân ở miền Nam. Hai cuộc cách mạng này quan hệ chặt chẽ với nhau, phản
ảnh đúng thực chất và quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: Về phương diện quốc tế sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế thuận lợi. Chủ nghĩa xã hội đã thành công ở một loạt
nước, chúng ta nhận được sự hỗ trợ, hợp tác mạnh mẽ từ bên ngoài, theo tinh thần
quốc tế chân chính, nhưng mặt khác lại luôn luôn bị chủ nghĩa đế quốc tìm cách phá
hoại công cuộc hòa bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó buộc chúng ta phải có ý
thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi, hạn
chế những khó khăn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bao gồm hai nội dung lớn:


Thứ nhất: Xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây
dựng các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội để chủ
nghĩa xã hội có thể phát triển trên cơ sở chính nó.
Thứ hai: Cải tạo xã hội, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo và xây dựng,
trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội dung cốt yếu nhất, chủ chốt, lâu dài.
Trong tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh về bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt
Nam là phải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài, tùy theo hoàn cảnh”, nhưng chớ
ham làm mau, ham rầm rộ…Đi bước nào vững chắc bước ấy, cứ tiến dần dần.
Về phương pháp, biện pháp, cách thức tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Người luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo,

chống giáo điều, dập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo
ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Như vậy con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phải quá độ, bỏ qua
tư bản chủ nghĩa và kết hợp hài hòa giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ cách mạng.
Mọi đường đi nước bước đều có sự lãnh đạo của Đảng, nền tảng là tư tưởng Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
III. Quá trình hình thành hệ thống quan điểm của Đảng về con đường chủ nghĩa
xã hội ở nước ta
Quá trình hình thành hệ thống quan điểm của Đảng về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội được gắn liền với đặc điểm tình hình của mỗi giai đoạn khác nhau của
cách mạng Việt Nam và được thể hiện ở mỗi kỳ đại hội Đảng.
III.1. Những quan điểm cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
từ Đại hội thành lập Đảng đến Đại hội V
III.1.1. Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Trong tình hình phát triển của cách mạng Việt Nam năm 1930 Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời đây là Đảng đầu tiên ở Việt Nam ra đời dẫn dắt nhân dân Việt Nam
đấu tranh và đưa nước ta theo con đường Chủ nghĩa xã hội.


Mục tiêu, lý tưởng của cách mạng Việt Nam đã được khẳng định ngay trong
cương lĩnh đầu tiên của Đảng là xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam,
nhưng trước hết phải làm cách mạng tư sản dân quyền (cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân). Cách mạng tư sản dân quyền được xác định là “thời kỳ dự bị” của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ chuyển lên
con đường cách mạng vô sản.
Ngay từ khi tiến hàng cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng ta đã ý thức rõ rệt
về việc chuẩn bị đường lối đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau khi kháng chiến
thành công. Những nhận thức ban đầu về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội theo định
hướng của Cương lĩnh đó được đề cập đến trong một số văn kiện quan trọng của
Đảng:

Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 5 (3/1948) đã nêu lên những
quan điểm sau đây: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, các nước dân chủ mới cần có 3
điều kiện:
- Quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản ngày một vững chắc.
- Thành phần kinh tế xã hội hóa ngày một rộng lớn mà có thể lấn dần kinh tế tư
nhân.
- Được các nước xã hội chủ nghĩa thành công và các nước dân chủ khác giúp
đỡ.
Quá trình tiến dần từ dân chủ mới lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh
lâu dài, khó khăn, về quân sự chính trị, kinh tế và hành chính, văn hóa giáo dục. Nhờ
Liên Xô và các nước dân chủ mới giúp sức, nhờ chính quyền nhân dân do công nhân
lãnh đạo ngày một củng cố có thể bước tới chủ nghĩa xã hội.
III.1.2. Quan điểm của Đảng trong đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng(2/1951)
Những quan điểm sau đây đã được nêu lên trong Chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam.
Cách mạng Việt Nam mang tính chất một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, có nhiệm vụ phản đế, phản phong phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây


cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Những nhiệm vụ đó quan hệ khăng khít với nhau, nhưng
trước mắt, tập chung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Trong quá trình chủ yếu của nó, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt
Nam chưa vượt quá khuôn khổ dân chủ tư sản. Nhưng phát triển đến một mức nào đó
thì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sẽ chuyển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Thực chất cuộc cách mạng này là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới tiến triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Con đường đi lên của cách mạng này là con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là con đường đấu tranh lâu dài, trải qua 3 giai
đoạn.
Giai đoạn 1: Nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc.
Giai đoạn 2: Nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ tàn tích phong kiến, thực hiện người

cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
Giai đoạn 3: “Nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tháng 11/1953,
Đảng lao động Việt Nam công bố Cương lĩnh ruộng đất nhằm xóa bỏ chế độ phong
kiến, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng.
Như vậy, ở giai đoạn này, quan điểm về con đường xã hội chủ nghĩa của Đảng ta đã
có những bước phát triển mới hơn so với Cương lĩnh 1930, bước đầu đề cập đến
những nội dung cụ thể.
III.1.3. Quan điểm của Đảng trong đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960)
Đại hội lần thứ III coi cách mạng xã hội chủ nghĩa là quá trình cải tiến cách
mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc nước ta từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu
cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở toàn dân
và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình
trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu tiến lên một nền kinh tế cân đối và hiện đại.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình bao gồm hai mặt: Cải tạo xã hội
chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai mặt đó có quan hệ khăng khít với nhau,
ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau. Thời kỳ đầu lấy cải tạo làm trọng tâm, thời kỳ sau


lấy xây dựng làm trọng tâm và tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đại hội
cũng nêu lên những quan điểm về mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng, xây dựng
kinh tế và cách mạng tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật, xây dựng kinh tế với củng cố quốc
phòng, phân công và hợp tác quốc tế, viện trợ và tự lực cánh sinh.
Đại hội lần thứ III đã đánh dấu sự phát triển quan trọng trong quan điểm lý
luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là kết quả của một quá trình nghiên
cứu chuẩn bị và từng bước phát triển, cụ thể hóa thêm những quan điểm lý luận của
Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam.
III.1.4. Quan điểm của Đảng trong đại hội lần thứ IV của Đảng (1976)
Đã đề ra hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội của cả nước trong điều kiện

đã hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng xã hội chủ nghĩa trên thế giới
đang lớn mạnh. Đại hội đã đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong giai đoạn mới: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan
hệ sản xuất; cách mạng về khoa học kỹ thuật; cách mạng về tư tưởng văn hóa, trong
đó cách mạng về quan hệ khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột
người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác; thường xuyên
củng cố quốc phòng; giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành
công tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần
tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đường kinh tế đó, chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp và thủ công
nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ ở miền Nam. Song kết quả của cải tạo xã hội chủ
nghĩa lại làm cho nền kinh tế đất nước rơi vào khủng hoảng .Trong bối cảnh đó, Hội
nghị trung ương lần thứ 6 khóa IV đã tập trung tìm mọi cách cho sản xuất “bung ra”-


mà trước hết là tạo sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp là tiêu điểm đáng chú ý
của Hội nghị này.
Trên lĩnh vực công nghiệp, chủ trương “ba phần kế hoạch và mở rộng hình
thức trả lương khóa, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các
đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước được áp dụng.Trên lĩnh vực cải tạo xã hội
chủ nghĩa, vấn đề tận dụng sức mạnh của các thành phần kinh tế đã được đặt ra; xuất
phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất thích
hợp; chính sách đối với thành kinh tế các thể từng bước được mềm hóa cho đúng thực
tế hơn.

III.1.5. Quan điểm của Đảng trong đại hôi V (1982)
Đại hội V đã đưa ra tư tưởng về sự phân chia thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thành nhiều chặng: “chặng đường trước mắt của thời kỳ quá độ ở nước ta gồm thời
kỳ 5 năm 1981 – 1985 kéo dài đến năm 1990”; xác định mục tiêu phấn đấu cho
từng giai đoạn cụ thể của chặng đường.
Tháng 8/1986, trong quá trình chuẩn bị dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội
VI , Bộ chính trị đã xem kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh tế,
từ đó rút ra kết luận đối với một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế:
- Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có
chọn lọc.
- Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc
trưng cuả thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng một lúc làm hai nhiệm
vụ chiến lược ở hai miền.
- Trong cơ chế quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm tập trung, nhưng đồng thời
phải sử dụng đúng quan hệ hàng hóa – tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ quan chế tập trung
quan liêu bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ
chế một giá.


III.2. Những quan điểm về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta qua
các kỳ đại hội: VI, VII, VIII, IX, X và XI
III.2.1. Đại hội VI của Đảng (12/1986) bước ngoặt trong đổi mới tuy của Đảng về
phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội
Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm trước đó, Đại hội VI rút ra
những bài học quý giá, có tầm chỉ đạo trong việc xác định phương hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta:
Một là: Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy
dâ làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
Hai là: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo

quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là
iều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Ba là: Phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong
điều kiện mới.
Bốn là: Phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một Đảng
ầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động với tư cách là động lực
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó công tác vận động quần chúng,
phải quán triệt sâu sắc các nguyên tắc chỉ đạo sau:
Một là: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.
Hai là: Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực
của nhân dân và kết hợp hài hòa các mục tiêu, thống nhất quyền lợi Vi nghĩa vụ công
dân.
Ba là: Các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng
Bốn là: Công tác quần chúng là trách nhiệm của Đảng, nhà nước và các đoàn
thể.
Những quan niệm nhận thức của Đảng ở Đại hội VI đặt cơ sở cho sự hình
thành lý luận đổi mới, mà còn xây dựng những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và


con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua đổi mới, như một cuộc cảibiến
cách mạng lâu dài, toàn diện và triệt để có kế thừa và có phát triển.
III.2.2. Quan điểm của Đảng trong đại hội VII (6/1991)
Đảng ta đã xác định phương hướng để đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội đó là:
- Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, do
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tăng dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
- Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đai,
gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm nhằm
từng bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng

cao năng suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân lao động
- Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chê thị trường, có sự
quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân nhân dân lao động.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối theo lao động và theo hiệu quả kinh tế là chủ
yếu.
- Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa làm
cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời
sống tinh thần của xã hội, kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả
các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, xây dựng một
xã hội công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình
độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
- Thực hiện chính sách đại đoàn kết giai cấp, các dân tộc, các ton giáo và
đoàn kết quốc tế.
- Xây dựng Chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ tổ quốc


- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức
ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cuả Đảng là; làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cương lĩnh xây dưng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thể
hiện sự nhân thức sâu sắc hơn vè thời kỳ quá độ, thòi kỳ chuyển biến cách mạng lên
chủ nghĩa xã hội.
III.2.3. Quan điểm của Đảng trong đại hội VIII (6/1996)
Đại hội VIII đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng: “Sản xuất hàng hóa không
đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ
nghĩa xã hội đã được xây dựng”.

Nét nổi bật của Đại hội VIII của Đảng là khẳng định mạnh mẽ, kiên định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm lệch lạc lớn
và kéo dài, đẫn đến chệch hướng mà hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ (khóa VIII) đã
nêu ra là nguy cơ không thể xem nhẹ.
Ý nghĩa lịch sử trọng đại của Đại hội VIII của Đảng là đề ra nục tiêu cho một
giai đoạn tương đối dài của đất nước đến năm 2020: hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ
biến nước ta thành một nước công nghiệp, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, với nội dung cơ bản là có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế
hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm chăm lo phát triển nguồn lực con
người và thức hiện công bằng xã hội; trong đó nổi bật là vấn đề phát huy trí tuệ người
Việt Nam thể hiện trong khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo. Đó là một bước
phát triển quan trọng về lý luận và thực tiễn cách mạng ở nước ta.
Cùng với sự phát triển kinh tế, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong cả các khâu phân phối lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát huy khả năng của
người lao động, giải quyết các vấn đề xã hội để làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến


tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, được học
hành, chữa bệnh, từng bước thực hiện điều mong ước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, pháy huy vai trò làm chủ của nhân dân,
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Đại hội VIII
của Đảng phát triển cao hơn một bước.
Xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa,
xây dựng cơ chế làm chủ của nhân dân, bao gồm làm chủ gián tiếp, làm chủ trực tiếp
cùng các hình thức tự quản ở cơ sở là bước phát triển và cụ thể hóa tư tưởng dân chủ
của Cương lĩnh. Trên con đường đi tới năm 2020, giai đoạn 1996 – 2000 đóng vai trò
quan trọng, đạt nền móng co việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các giai

đoạn tiếp theo. Đại hội VIII đã nêu lên những quan điểm cơ bản của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là: giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; công
nghiệp hóa, hiện đại hóa quôc tế là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh
tế; lấy việc phát huy nhân tốn con người làm yếu tố cơ bản cho phát triển nhanh và
bền vững; khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; lấy
hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn phương án đầu tư và phát
triển, kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
III.2.4. Quan điểm của Đảng trong đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. (2001)
* Mục tiêu cách mạng
Từ những bài học, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở trong nước và thế
giới, đặc biệt là từ thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được, Đảng vững tin
khẳng định sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn đúng đắn và
hợp quy luật.
Đảng ta đã nhiều lần chỉ rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng bất di bất dịch của
nhân dân ta là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã
hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện này, mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là “xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Như
vậy, so với các đại hội trước, Đại hội IX đã bổ xung thêm từ dân chủ và trong mục


tiêu để phản ánh đầy đủ hơn, rõ ràng hơn nhận thức của chúng ta về vấn đề dân chủ,
về vấn đề bản chất của chủ nghĩa xã hội.
* Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiệp thu và kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản, đặc biệt là về khoa
học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong thời kỳ quá độ từng bước tạo ra những nhân tố mới, tiến bộ, tạo ra sự

biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực.
Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt
Nam là con đường rút ngắn và cần phải áp dụng phương thức qua độ gián tiếp, tiến
dần từng bước.
* Về mô hình kinh tế tổng quát
Lần này Đại hội IX đưa ra khái niệm: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa” với nội hàm vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhưng có một bước phát triển mới so với các Đại hội VI, VII, VIII. Đó là đã
khái quát được các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
* Về đấu tranh giai cấp và động lực phát triển đất nước
Đại hội IX khẳng định: Trong thời kỳ quá độ có nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội
khác nhau, nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp đã thay đổi nhiều cùng với
những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp
xã hội là mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác
lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Lợi ích cơ bản lâu dài của các giai cấp thống nhất với lợi ích của dân tộc trong
mục tiêu chung là độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng dân chủ văn minh. Đảng ta đã chỉ rõ động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân


×