Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC MÔN TOÁN CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VỸ DẠ - TP HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.4 KB, 30 trang )

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TOÁN 2
Đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM BỒI DƯỠNG NĂNG
LỰC TỰ HỌC MÔN TOÁN CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VỸ
DẠ - TP HUẾ
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
III. MỤC ĐÍCH
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
VI.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VII. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Thế nào là Tự học
1.1.2. Quan niệm về tự học của học sinh tiểu học.
1.1.3. Các phương thức tự học
1.1.4. Quá trình dạy - tự học
1.1.5. Chu trình dạy và tự học
1.1.6. Những biểu hiện của năng lực tự học ở học sinh tiểu học.
1.1.7. Sự cần thiết phải bồi dưỡng khả năng tự học ở học sinh tiểu học
1.1.8. Ý nghĩa của tự học đối với học sinh tiểu học
1.1.9. Hình thành thói quen tự học cho học sinh tiểu học
1.1.10.Đặc điểm của học sinh tiểu học liên quan đến hoạt động học tập môn
Toán.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Về phía học sinh


1.2.2. Về phía giáo viên
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TỰ HỌC MÔN
TOÁN CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VỸ DẠ - TP HUẾ
2.1. Sơ lược về trường tiểu học Vỹ Dạ
2.2. Khảo sát khả năng tự học môn Toán cho học sinh Trường tiểu học Vỹ
Dạ - TP Huế.


2.2.1 . Cách tiến hành
2.2.2. Kết quả khảo sát
2.3. Nguyên nhân và biện pháp nhằm bồi dưỡng khả năng tự học môn Toán
cho học sinh tiểu học
2.3.1. Nguyên nhân
2.3.2. Một số biện pháp nhằm bồi dưỡng khả năng tự học môn Toán cho học
sinh tiểu học
2.3.2.1. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học
2.3.2.2. Tăng cường sử dụng các phương pháp tự học tích cực
2.3.2.3 Đổi mới hình thức giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh
2.3.2.4. Tăng cường kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tự học của
học sinh.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM BỒI DƯỠNG KHẢ
NĂNG TỰ HỌC MÔN TOÁN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
3.1. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN
3.2. ĐỐI VỚI HỌC SINH
3.3. ĐỐI VỚI NHÀ TRƯỜNG
3.4. ĐỐI VỚI PHỤ HUYNH HỌC SINH
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO



A. MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Mục tiêu của Giáo dục Tiểu học là đào tạo, giáo dục học sinh phát triển
toàn diện. Trong đó môn Toán có một vị trí đặc biệt quan trọng, các kiến
thức, kĩ năng của môn Toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong cuộc
sống, chúng rất cần thiết để học các môn khác ở tiểu học và học tiếp
môn Toán ở trung học. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng dạy và học môn
Toán ở tiểu học đang là vấn đề được đặt ra hàng đầu.
- Việc phát huy tích cực, tự giác học tập của học sinh đóng vai trò quan
trọng trong quá trình dạy học, trong tình hình hiện nay, việc dạy học lấy
học sinh làm trung tâm đòi hỏi ở người học sinh yêu cầu cao là phải tích
cực, độc lập, tự giác. Tính tích cực, tự giác giúp học sinh tự tin, chủ
động trong hoạt động học tập, trở thành chủ thể của hoạt động học tập.
- Ngày nay, vấn đề cốt lõi của phương pháp dạy học mới là dạy cho học
sinh cách học, hình thành cho học sinh cách học, khả năng tự học, ham
học, học suốt đời, học mọi lúc, mọi nơi, lấy tự học làm cốt.
- Vấn đề tự học, tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan
tâm quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa
8 từng nêu rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra
năng lực tự học, tự sáng tạp của học sinh. Bảo đảm mọi điều kiện và
thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự
đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”.
- Như vậy, tự học là phương pháp hiệu quả nhất để chiếm lĩnh tri thức một
cách tối ưu và bồi dưỡng cho học sinh tiểu học khả năng tự học là một
việc làm cần thiết, vì từ thói quen, khả năng tự học ấy các em sẽ không
ngừng củng cố, hoàn thiện kiến thức của bản thân và chính các em sẽ tự
mình mở cánh cửa bước vào chân trời tri thức bao la của nhân loại để trở
thành người công dân có ích cho xã hội.

- Một nét nổi bật hiện nay là học sinh tiểu học chưa biết cách học, chưa học
tập một cách tích cực. Nếu dạy học một cách thụ động sẽ không đáp ứng
được yêu cầu mới của xã hội. Dạy học sinh biết tự học là một sự thay đổi về
chất của quá trình dạy học. Trang bị cho học sinh phương pháp tự học,
phương pháp suy nghĩ tức là đã dạy cho các em “học một để hiểu biết nhiều
hơn thế” để giúp học sinh biến quá trình giáo dục thành tự giáo dục. Để làm
được điều đó cần đề ra một số biện pháp thích hợp, hiệu quả nhằm hình
thành bồi dưỡng cho học sinh khả năng tự học đáp ứng mục tiêu đổi mới
phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học ở tiểu học. Vì những


lí do trên mà chúng tôi chọn đề tài “THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN
PHÁP NHẰM BỒI DƯỠNG KHẢ NĂNG TỰ HỌC MÔN TOÁN CHO
HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VỸ DẠ - TP HUẾ” để nghiên cứu nhằm
đưa ra một số biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả dạy và học môn Toán ở
tiểu học.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
- Trong “Tự đào tạo để dạy học” (seformer pour enseigner) giáo sư giáo
dục viện đại học đào tạo giáo viên thuộc Hàn Lâm Viện RETEIL ( Pháp,
1993) đã đưa ra những công trình nghiên cứu nhằm góp thêm tiếng nói
về cách tiếp cận khọa học và tính phương pháp luận về dạy học: “biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Xu thế của phương pháp
dạy học Toán trên thế giới hiện nay, nhìn chung đều thể hiện ý chí
chuyển từ các kiểu tiếp cận truyền thống sang kiểu tiếp cận mang tính
đổi mới . Từ hệ thống phương pháp thụ động sang phương pháp dạy học
tích cực, biến chủ thể nhận thức thành chủ thể hành động, đặt người học
vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học, thầy chỉ đạo để học sinh tự
lĩnh hội kiến thức mới.
- Đề cập đến phương pháp tự học môn Toán của học sinh tiểu học đã có
một số tác giả: Đỗ Trung Hiệu – Đỗ Đình Hoan – Vũ Dương Thụy – Vũ

Quốc Chung với “Phương pháp dạy học môn Toán”. Phạm Đình Thực
với “Phương pháp dạy học môn Toán ở bậc tiểu học”. Ngoài ra, còn một
số báo, tạp chí xuất bản năm 2000, báo tự học, báo dạy học ngày nay
cũng đề cập đến vấn đề này. Nhưng các tác giả này chỉ nêu một cách
khái quát mà chưa đi sâu vào các biện pháp cụ thể. Chính vì vậy mà
chúng tôi chọn đề tài này nghiên cứu để góp phần nâng cao khả năng tự
học môn Toán cho học sinh tiểu học.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu thực trạng khả năng tự học môn Toán cho học sinh trường tiểu
học Vỹ Dạ - TP Huế.
- Giúp giáo viên và học sinh tiếp cận với phương pháp dạy học mới.
- Vận dụng tốt các biện pháp để nâng cao khả năng tự học môn Toán cho
học sinh tiểu học Vỹ Dạ - TP Huế.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
2. Tìm hiểu thực trạng và các biện pháp để nâng cao khả năng tự học môn
Toán cho học sinh trường tiểu học Vỹ Dạ - TP Huế.
3. Đưa ra một số ý kiến đề xuất.
V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Học sinh lớp 5 trường tiểu học Vỹ Dạ - TP Huế.
- Các biện pháp để tự học môn Toán áp dụng cho học sinh tiểu học.


- Sách giáo khoa tiểu học và một số tài liệu có liên quan.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp so sánh đối chiếu, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, điều tra bằng
phiếu hỏi, trò chuyện, phỏng vấn.
VII. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2 : Thực trạng khảo sát khả năng tự học môn Toán của học sinh
trường tiểu học Vỹ Dạ - TP Huế.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất nhằm bồi dưỡng khả năng tự học môn
Toán của học sinh trường tiểu học Vỹ Dạ - TP Huế.

A. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Thế nào là tự học?
- Theo từ điển giáo dục học – NXB Từ điển Bách Khoa 2001: “ Tự học là
quá trình lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành
không có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên và sự quản lí trực tiếp
của cơ sở giáo dục, đào tạo”.
- Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng: “ Tự học là một bộ phận của học, nó
cũng được hình thành bởi những thao tác, cử chỉ, ngôn ngữ, hành động
của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự phản
ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được kết
quả trong hoàn cảnh nhất định với cường độ học tập nhất định”.
- Theo GS.TSKH Nguyễn Cảnh Toàn: “ Tự học là tự mình động não, suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, có khi cả cơ bắp, cùng các phầm chất
của chính mình, rồi cả động cơ, tình cảm cá nhân sinh quan, thế giới
quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức của nhân loại, biến lĩnh vực
đó trở thành sở hữu của mình”.
- Theo các nhà nghiên cứu: “ Tự học là tự đặt mình trước các tình huống,
vấn đề thực tiễn, cụ thể sinh động của cuộc sống. Từ đó thấy có nhu cầu
và hứng thú phát hiện và giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức để tìm
ra cái chưa biết, cái mới cần khám phá”.



- Tự học được hiểu là quá trình kết hợp sự nỗ lực chủ quan của người học,
chủ yếu là nỗ lực của tư duy và sự tranh thủ, tận dụng, khai thác với các
nguồn lực bên ngoài.
- Tự học không có nghĩa cô lập người học khỏi xã hội, mà tự tìm tòi để
kiến tạo kiến thức một cách chủ động theo cách riêng của mình. Biết tự
học cũng có nghĩa là biết kế thừa những giá trị văn hóa của nhân loại.
Tri thức toán học của nhân loại ngày càng tăng, trong điều kiện công
nghệ thông tin phát triển, do đó biết tự học là biết cách thu thập và xử lí
thông tin cần thiết cho việc hiểu biết của mình, phục vụ cho quá trình
kiến tạo kiến thức mới. Từ các ý kiến trên, có thể rút ra một số điểm
chung:
- Tự học là tự tìm tòi cách thức chiếm lĩnh tri thức, chân lí một cách tự
giác, tích cực, chủ động, sáng tạo.
- Biết tự học là biết kế thừa và khai thác những công cụ, phương tiện mà
loài người cung cấp :Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo….để thu thập tri
thức cho riêng mình.
- Tự học không có nghĩa là học một mình mà học một mình mà học trong
môi trường xã hội, dưới sự hướng dẫn của thầy và sự hợp tác với các
bạn.
1.1.2 Quan niệm về tự học của học sinh Tiểu học.
- Tự học là một hoạt động đòi hỏi phải tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên
trì thì mới đạt kết quả. Do đó, tự học gắn bó với quá trình tự giáo dục để
hình thành những nét tính cách như: Trung thực, khách quan, có chí tiến
thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học…
- Ở học sinh Tiểu học hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo. Để học tập
có hiệu quả, học sinh cần phải có phương pháp học tập. Qua nghiên cứu của
các nhà tâm lí học cho rằng từ lớp 1 - 2 đến lớp 3 - 4 và đến lớp 5, phương
pháp học tập có ý nghĩa khác nhau đối với học sinh Tiểu học. Nếu ở lớp
1- 2, phương pháp học tập là quan trọng nhất, còn những kiến thức mà nhà
trường đưa đến cho các em chủ yếu nhằm cung cấp chất liệu trẻ học cách

học thì đến lớp 3 - 4, học sinh đã có phương pháp học tập nhưng nó cần
được củng cố đã được xác định hình thành năng lực của mỗi cá thể, để trẻ
vận dụng nó vào cuộc sống và quá trình học tập sau này. Vì thế bậc tiểu học
được coi là bậc học của phương pháp học tập. Ở bậc học này, học sinh
muốn học điều gì, muốn có tri thức, kĩ năng, các chuẩn mực thì giáo viên
phải làm mẫu rồi tổ chức cho học sinh tựu làm để được cái cần có. Như vậy,
ở một khía cạnh nào đó, có thể nói, trong phương pháp học tập của học sinh
tiểu học đã bao gồm phương pháp tự học.


- Tự học gắn liền với tự ý thức và tự giáo dục. Ở học sinh tiểu học, khả
năng tự ý thức, tự giáo dục của các em đang được hình thành và phát triển.
Do vậy, tự học của học sinh tiểu học khác với tự học của học sinh cấp
THCS , THPT về yêu cầu, mức độ, phạm vi...Tự học của học sinh tiểu học
chỉ giới hạn ở việc trẻ tự giác hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao
(làm bài tập về nhà, chuẩn bị bài học mới...). Dù trực tiếp hay gián tiếp hoạt
động tự học của học sinh đều có sự hướng dẫn của giáo viên. Tự học của
học sinh tiểu học không chỉ diễn ra ở nhà mà còn diễn ra ngay ở lớp học.
Hình thức dạy học rất thích hợp đối với các trường tiểu học dạy 2 buổi /
ngày. Ở hình thức dạy học này học sinh tiến hành tự học theo những nội
dung, cách thức và tiến bộ khác nhau, tùy thuộc vào năng lực cá nhân, dưới
sự hướng dẫn của giáo viên.
1.1.3. Các phương thức tự học
1.1.5.1. Tự học hoàn toàn
- Là việc người học tự đọc sách giáo khoa, tự mình tra cứu thông tin cần
thiết để chiếm lĩnh tri thức cho riêng mình. Theo phương pháp này học sinh
phải phát huy nội lực của chính bản thân mình đến nội lực phát triển mạnh
nhưng phương pháp này mất nhiều thời gian vì không có hệ thống và ít kế
thừa từ hiểu biết của người đi trước.
1.1.5.2. Tự học có sự hướng dẫn trực tiếp của thầy

- Là hình thức hoạt động tự lực của người học để chiếm lĩnh tri thức và
hoàn thành kĩ năng tương ứng dưới sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của giáo
viên.
- Học sinh là chủ thể của hoạt động học, được đặt vào tình huống học tập do
thầy tổ chức và chỉ đạo, học sinh học thông qua tương tác xã hội để giải
quyết vấn đề. Thông qua đó học sinh tự khám phá những điều mình chưa rõ
chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức thầy sắp đặt sẵn.
- Học sinh được đặt vào tình huống thực tế của đời sống, được trực tiếp
quan sát, dự đoán, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách hiểu của mình, từ đó
vừa nắm được kiến thức, kĩ năng đó, phát huy được tính tích cực, sáng tạo
để thích ứng với những tình huống không quen thuộc trong đời sống thực
tế.
1.1.4. Quá trình dạy – tự học
Việc học, tự học thực chất là một quá trình:
- Tìm ra ý nghĩa, làm chủ các kĩ xảo, tạo ra cầu nối nhận thức trong tình
huống học.
- Tự biến đổi mình, tự làm phong phú mình bằng cách thu lượm và xử lí
thông tin từ môi trường sống xung quanh.


- Tự học , tự nghiên cứu, tự tìm ra kiến thức bằng hoạt động của chính
mình, cá nhân hóa việc học đồng thời hợp tác với các bạn trong lớp học,
dưới sự hướng dẫn của thầy.
Việc dạy thích hợp với quá trình trên thực chất cũng là một quá trình:
- Kết hợp quá trình dạy học với quá trình tự học. Quá trình giáo dục với
quá trình tự giáo dục.
- Kết hợp hữu cơ quá trình các nhân hóa với quá trình xã hội hóa việc học.
- Cộng hưởng dạy học với tự học. Nó là một tập hợp chu trình tự học, có
thể xem là một quá trình người dạy hướng dẫn, tổ chức cho người học
“tự nghiên cứu, tự thể hiện, tự điều chỉnh” tự chiếm lĩnh tri thức bằng

hoạt động của chính mình.
1.1.5. Chu trình và tự học của học sinh
a. Tự nghiên cứu
Người học tự tìm tòi, quan sát, mô tả, giả thiết, phát hiện ra vấn đề, định
hướng giải quyết vấn đề để tự tìm ra kiến thức mới (chỉ đối với người học)
và tạo ra sản phẩm ban đầu có tình cảm cá nhân.
b. Tự thể hiện
Người học thể hiện mình bằng cách tự trình bày, tự thể hiện qua sự hợp
tác, trao đổi, đối thoại, giao tiếp với các bạn và thầy cô để tạo ra sản phẩm
có tình cảm xã hội, của cộng đồng.
c. Tự kiểm tra, tự điều chỉnh
Sau khi tự thể hiện mình qua sự hợp tác trao đổi với các bạn và thầy cô
người học tự kiểm tra, đánh giá sản phẩm ban đầu của mình, tự sửa sai, tự
điều chỉnh sản phẩm khoa học (tri thức).
Chu trình trên thực chất là con đường phát hiện vấn đề, nghiên cứu khoa
học, con đường xoắn ốc Oristic ở tầm vóc và trình độ học trò, con đường
dẫn tới tri thức khoa học, đến chân lí mới đối với người học và chỉ có thể ra
dưới tác động hợp lí của chu trình dạy của thầy.
1.1.6. Những biểu hiện của năng lực tự học ở học sinh tiểu học.
- Học sinh có khả năng thay đổi phương thức hành động để giải quyết vấn đề
phù hợp với những thay đổi của các điều kiện.
- Có khả năng chuyển từ trừu tượng, khái quát sang cụ thể và ngược lại.
- Thích tìm tòi, khám phá bài toán theo nhiều cách khác nhau.
- Có óc quan sát tinh tế, nhanh chóng phát hiện ra vấn đề, phát hiện ra những
điểm “nút” làm cho việc giải quyết vấn đề phát triển theo chiều hướng hợp lí
hơ, độc đáo hơn.
- Có trí tưởng tượng phát triển, nhất là trong quá
1.1.7. Sự cần thiết phải bồi dưỡng năng lực tự học ở học sinh tiểu học



- Năng lực tự học được bồi dưỡng giúp học sinh phát huy được tính tích cực,
chủ động, tư duy sáng tạo của người học, tăng hứng thú, sự say mê học tập
và ý chí vươn lên của học sinh.
- Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối
lượng kiến thức lớn cần cung cấp và quỹ thời gian ít ỏi ở nhà trường.
- Tự học giúp tạo ra tri thức bền vững cho mỗi người bởi vì nó là kết quả của
sự hứng thú, tìm tòi, nghiên cứu và lựa chọn. Có phương pháp học tập tốt sẽ
đem lại kết quả học tập cao hơn. Khi học sinh biết cách tự học, học sinh sẽ
“có ý thức và xây dựng thời gian tự học, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu,
gắn lý thuyết với thực hành, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến
quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
1.1.8. Ý nghĩa của tự học đối với học sinh tiểu học
- Tự học là năng lực đóng vai trò quan trọng đối với học sinh tiểu học. Năng
lực này được bồi dưỡng và phát huy là điều kiện để phát huy tối đa vai trò
chủ thể của người học. Học sinh không chủ yếu tiếp nhận thông tin từ giáo
viên mà chủ động lĩnh hội thông tin, suy nghĩ, tìm tòi, khám phá các khía
cạnh khác nhau của thông tin.
- Tự học giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu kiến thức. Tự học là một
khâu quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quá trình học tập của
học sinh. Kiến thức mà hằng ngày trẻ tiếp thu trên lớp chỉ có thể bền vững
nếu như chúng được ôn tập, củng cố thường xuyên bằng hệ thống bài tập
hoặc việc làm ngoài giờ lên lớp.
- Tự học giúp học sinh rèn kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, nhất là lớp 1 – 2, tự học
càng có ý nghĩa hơn khi tất cả các kĩ năng học tập của trẻ hầu như chưa có
nhưng cần phải nhanh chóng được hình thành (kĩ năng tính toán), trong khi
thời gian dành cho tiết luyện tập trên lớp là rất ít, trẻ chỉ có thể luyện tập ở
nhà.
- Tự học góp phần tích cực hoạt động nhận thức của học sinh. Học sinh phải
học bài, làm bài tập đầy đủ và chuẩn bị cho bài học mới một cách chu đáo
mới có thể đáp ứng được yêu cầu của việc học trên lớp.

- Tự học giúp học sinh luôn củng cố và phát triển cách học của mình, phát
triển những phẩm chất đạo đức cá nhân như tính kiên trì, lòng nhẫn nại, tính
tích cực, độc lập, tinh thần trách nhiệm, tự giác cao.
1.1.9. Hình thành thói quen tự học cho học sinh tiểu học
1.1.10.Đặc điểm của học sinh tiểu học liên quan đến hoạt động học tập
môn Toán.
1.1.10.1. Đặc điểm về nhận thức của học sinh tiểu học
- Chú ý của học sinh tiểu học: Cả 2 loại chú ý không chủ định và chú ý có
chủ định đều được hình thành và phát hiện ở học sinh Tiểu học, chú ý không


chủ định đã có trước 6 tuổi và tiếp tục phát triển, những gì mới lạ, hấp dẫn
dễ dàng gây chú ý không chủ định của học sinh.
- Chú ý không chủ định chiếm ưu thế. Sự tập trung chú ý còn yếu dễ bị phân
tán. Do đó phải tổ chức giờ học một cách khoa học, ngắn gọn mà vẫn đảm
bảo nội dung kiến thức.
- Chú ý có chủ định ở giai đoạn này được hình thành và phát triển mạnh. Sự
hình thành đáp ứng nhu cầu hoạt động học. ở giai đoạn đầu cấp chú ý có chủ
định được hình thành nhưng chưa ổn định, chưa bền vững. Vì vậy, để duy trì
nội dung mỗi tiết học phải trở thành đối tượng hoạt động của học sinh.
- Trí nhớ có chủ định và trí nhớ không chủ định đều được hình thành ở học
sinh tiểu học. do yêu cầu hoạt động học trí nhớ có chủ định hình thành và
phát triển. Học sinh phải nhớ công thức, quy tắc, định nghĩa, khái niệm…để
vận dụng giải bài tập hoặc tiếp thu tri thức mới, ghi nhớ này buộc học sinh
phải sử dụng cả 2 phương pháp của trí nhớ có chủ định là: ghi nhớ máy móc
và ghi nhớ ý nghĩa.
- Đặc điểm trí nhớ ở học sinh tiểu học thiên về trí nhớ trực quan hình tượng
hơn là trí nhớ tư duy logic, nên khi hướng dẫn các em tự học cần nhấn mạnh,
khắc sâu nhiệm vụ học tập cho các em, dạy cho các em cách ghi nhớ để học
tập đạt kết quả cao.

- Tri giác của học sinh tiểu học thường mang tính tổng thể, ít đi sâu vào chi
tiết, mang tính chủ động. Do đó sự phân biệt các đối tượng, biểu tượng hình
học của các em chưa chính xác. Tri giác về không gian và thời gian của các
em chưa tốt. Vì vậy, cần tạo điều kiện cho học sinh tri giác bằng nhiều cách
khác nhau, các em có thể tự học bằng quan sát mô hình, sự vật cụ thể.
- Tư duy của các em thường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa vào
đặc điểm bên ngoài.Vì thế khi khái quát học sinh thường dựa vào chức năng,
công dụng của sự vật.
- Do hoạt động học được hình thành ở học sinh tiểu học qua 2 giai đoạn nên
tư duy của học sinh tiểu học cũng được hình thành qua 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Đặc điểm tư duy học sinh lớp 1,2,3
Tư duy cụ thể vẫn tiếp tục hình thành và phát triển, tư duy trừu tượng bắt
đầu được hình thành. Tư duy cụ thể được thể hiện rõ ở học sinh lớp 1,2
nghĩa là học sinh tiếp thu tri thức mới phải tiến hành các thao tác với vật
thực hoặc các hình ảnh trực quan.
Giai đoạn 2: Đặc điểm tư duy học sinh tiểu học lớp 4,5.
- Tư duy trừu tượng bắt đầu chiếm ưu thế so với tư duy cụ thể nghĩa là học
sinh tiếp thu tri thức của các môn học bằng cách tiến hành các thao tác tư
duy với ngôn ngữ, với các loại ký hiệu quy tắc.


- Cần khơi gợi, dẫn dắt tạo sự chú ý cao để các em tự học tập hoàn thiện kiến
thức dang dở.
1.1.10.2. Sự phát triển các thao tác tư duy của học sinh tiểu học.
a. Phát triển thao tác tư duy phân tích và tổng hợp
- Phân tích là thao tác tư duy nhằm chỉ ra các đặc điểm, tính chất , thuộc tính
của sự vật, hiện tượng cho trước.
Ví dụ: Trong Toán học khi dạy về số thập phân ta phân tích thành phần
nguyên và phần thập phân, từ đó chỉ ra dấu hiệu , đặc điểm của số thập phân.
Khi dạy học giải toán, GV hướng dẫn học sinh phân tích nội dung bài toán

để chỉ ra cái đã cho, cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng.
- Tổng hợp là thao tác tư duy nhằm tập hợp các đặc điểm, tính chất, thuộc
tính riêng lẻ thành một đối tượng chung nhất.
- Ví dụ: Khi dạy học giải toán, từ kết quả phân tích, GV yêu cầu HS tổng
hợp lại để có tóm tắt bài toán.
- Ở tiểu học, học sinh bước đầu có khả năng phân tích, tổng hợp. Tuy
nhiên phân tích, tổng hợp của học sinh phát triển không đều, nhiều lúc
phân tích không đi đến tổng hợp. Do đó, tổng hợp nhiều khi không đúng
hoặc không đủ dẫn đến sai lầm khi khái quát hóa, khi hình thành khái
niệm và cả khi giải toán. Dần dần phân tích, tổng hợp có sự gắn bó
nhưng cả 2 thao tác trên của học sinh vẫn ở trình độ thấp.
b. Phát triển thao tác tư duy trừu tượng hóa, khái quát hóa.
- Khái quát hóa là thao tác tư duy đi từ cái riêng đến cái chung, từ việc
nghiên cứu các trường hợp cụ thể, riêng lẻ để rút ra kết luận chung, tổng
quát.
- Trừu tượng hóa là thao tác tư duy dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những
thuộc tính cụ thể, riêng lẻ để giữ lại cái chung nhất, cái bản chất của đối
tượng nhận thức. Có 2 dạng trừu tượng hóa.Trừu tượng hóa từ đồ vật, hiện
tượng cảm tính và trừu tượng hóa từ các hoạt động thao tác với đồ vật, hiện
tượng đó.
- Trừu tượng hóa nhằm: Rút dấu hiệu bản chất ra khỏi dấu hiệu khác, hoặc
loại bỏ tất cả dấu hiệu không bản chất để bộc lộ dấu hiệu cần quan tâm. Đây
là yếu tố rất cần khi các em tự học để rút ra những công thức, quy tắc Toán
học.
Cả 2 dạng trừu tượng đều rất khó đối với học sinh tiểu học. Vì vậy, giáo viên
cần sử dụng hợp lí các kĩ năng Sư phạm để từng bước giúp học sinh phát
triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa.
c. Phát triển thao tác tư duy phán đoán và tư duy lôgic
- Tư duy của học sinh tiểu học nhằm vào 3 mặt: Những câu hỏi thắc mắc
trước một vấn đề tình huống, tự tìm ra dự kiến của một lời giải và kiểm tra

lại sự đúng đắn của một đáp số.


- Tư duy logic chỉ phát triển thông qua phát triển khả năng suy luận.
- Trong học Toán, học sinh tiểu học còn khó diễn tả những tình huống bằng
lời, khó nhận thức về quan hệ kéo theo. Khi suy luận các em còn gắn với
đời sống thực tế quan sát. Đến cuối bậc tiểu học thì học sinh đã ý thức được
cơ chế lập luận, tức là thao tác nhận thức đã đưa đến kết quả. Chính điều
này sẽ giúp ích cho việc học Toán có hiệu quả cao hơn.
1.1.3. Quá trình tự học
- Quá trình tự học là quá trình đòi hỏi một sự nhào nặn có ý thức, có chọn
lựa, thế hiện năng lực tự thân của người học và chính quá trình ấy học sinh
mới thật sự kế thừa những tinh hoa văn hóa của nhân loại, đồng thời tác
động tích cực vào tri thức để phát hiện ra cái mới và sáng tạo, làm phong
phú, mới mẻ cho những tri thức đã có.
Chỉ có tạo điều kiện cho học sinh tự làm chủ quá trình học tập, biết cách
khai thác kiến thức, biết dùng năng lực tư duy để khám phá, tìm tòi, phát
hiện thì kết quả học ấy mới thực sự là kết quả của chính người học. Từ đó,
học sinh hứng thú, yêu thích môn học và tự kiểm tra, tự khẳng định mình.
1.1.4. Năng lực tự học, tự nghiên cứu là gì?
Năng lực tự học, tự nghiên cứu là yếu tố mang tính quyết định của tính
tự lực, tự thân học tập.
Có thể khẳng định năng lực tự học, tự nghiên cứu tạo cho học sinh một
sự sẵn sàng về tâm lí tiếp nhận, người học định hướng được nhu cầu học tập
của mình. Từ ý thức được nhu cầu học tập, người học sẽ phấn đấu thỏa mãn
nhu cầu nhận thức bằng thái độ nghiêm túc học tập.
Người học tự học, tự nghiên cứu độc lập, tự chủ trong khó khăn, vất vả
thì sẽ thu được kết quả bền vững. Người tự học, tự nghiên cứu sẽ phát huy
được sự thống nhất biện chứng giữa phẩm chất và năng lực, giữa ý thức và
hành động, động cơ khát vọng khám phá.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHẢO SÁT NĂNG LỰC TỰ HỌC MÔN
TOÁN CHO HỌC SINH TRƯỜNG TIỂU HỌC VỸ DẠ - TP HUẾ
2.1. Sơ lược về trường tiểu học Vỹ Dạ
- Trường tiểu học Vỹ Dạ được thành lập vào năm 1925 .Năm 1975, trường
mang tên: Trường cấp 1, cấp 2 Vỹ Dạ. Đến năm 1994, trường được tách ra
từ trường trên và chính thức mang tên trường tiểu học Vỹ Dạ.
Lúc đầu, trường đóng ở tại 225 Nguyễn Sinh Cung. Năm 2008, nhà trường
được tỉnh và thành phố xây dựng cho một ngôi trường khang trang, sạch sẽ


tại 51A Lâm Hoằng. Ngày 1/4/2008, trường chính thức được đưa vào hoạt
động. Trường có 30 phòng học phục vụ cho công tác dạy và học.
Trường có 25 lớp với tổng số học sinh của cả 5 khối là 994 em, trong đó
444 học sinh nữ và 550 học sinh nam, tất cả học sinh đều được học 2 buổi/
ngày. Trường hiện có 42 giáo viên với trình độ trên chuẩn là 38 giáo viên
(chiếm 90% ).
Chức năng nhiệm vụ:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo chương
trình giáo dục Tiểu học do Bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Huy động trẻ đúng độ tuổi vào lớp một, vận động trẻ em bỏ học đến
trường, thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục tiểu học và tham gia xóa mù
chữ trong phạm vi cộng đồng.
- Quản lí giáo viên, nhân viên và học sinh.
- Quản lí, sử dụng đất đai, trường lớp, trang thiết bị và tài chính theo quy
định của pháp luật.
- Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng thực hiện
các hoạt động giáo dục.
- Tổ chức cho giáo viên, học sinh tham gia hoạt động xã hội trong phạm vi
cộng đồng.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Những thành tích đã đạt được:
- Năm 2011- 2012 trường đã chiêu sinh được 205 học sinh vào lớp 1, đạt tỉ
lệ 100% . Trường là đơn vị đạt chuẩn phổ cập đúng độ tuổi (2012).
- Thực hiện tốt kế hoạch và chương trình của Bộ GD – ĐT đề ra.
- Thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Thực hiện tốt chủ đề năm học, tiếp tục đổi mới công tác quản lí và nâng
cao chất lượng giáo dục.
- Đẩy mạnh xây dựng phong trào trường học thân thiện, học sinh tích cực.
Trường được công nhận là trường học thân thiện, học sinh tích cực: đạt loại
tốt.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt, học tốt. Đạt kết quả cao trong các hội
thi do tỉnh, thành phố tổ chức như: học sinh giỏi tỉnh, thành phố, vở sạch chữ
đẹp, Olympic Tiếng Anh qua mạng, tin học; văn nghệ; thể thao…
- Liên đội được công nhận là liên đội vững mạnh cấp thành phố.
- Trường tiểu học Vỹ Dạ cùng với trường Quang Trung, Trần Quốc Toản là
ba trường dạy thí điểm chương trình Tiếng Anh của Bộ từ lớp 3 trở lên (4
tiết/ tuần).
2.2. Khảo sát khả năng tự học môn Toán cho học sinh Trường tiểu học Vỹ
Dạ - TP Huế.


2.2.1 . Cách tiến hành
* Phương pháp quan sát:
- Mục đích : Khai thác những thông tin cần thiết như thái độ, hứng thú, năng
lực tự học của học sinh khi học môn Toán để phục vụ cho việc đánh giá thực
trạng và đề xuất giải pháp tương ứng.
- Cách thực hiện: Dự một số tiết luyện tập giải Toán của học sinh lớp 4
trường Tiểu học Vỹ Dạ.
+ Nếu học sinh tích cực làm bài tập ở nhà, giải đúng và có cố gắng tìm ra
các cách giải bài Toán khác nhau thì các em có năng lực tự học tốt.

+ Ngược lại, nếu các em có vẻ mệt mỏi, uể oải, không làm bài tập, chuẩn bị
bài ở nhà thì đó là những trường hợp mà chúng ta cần có những biện pháp để
bồi dưỡng năng lực tự học.
* Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi:
- Mục đích: Thu thập những thông tin đầy đủ, chính xác để đánh giá được
khả năng tự học của học sinh trường tiểu học Vỹ Dạ - TP Huế.
- Số lượng khách thể nghiên cứu: 80 học sinh lớp 4 trường tiểu học Vỹ Dạ.
Trong đó:
Tham
Toàn
Nam
Nữ
Giỏi
Khá
Trung
Yếu
số
mẫu
bình
Số
80
36
44
11
46
21
2
lượng
%
100%

45%
55%
13,75% 57,5% 26,25% 2,5%
Ngoài ra, Tôi còn tiến hành khảo sát 5 giáo viên đang giảng dạy lớp 4 ở
trường tiểu học Vỹ Dạ để thu thập thêm thông tin bổ sung cho kết quả
nghiên cứu.
2.2.2. Kết quả khảo sát
2.2.2.1. Phiếu điều tra cho học sinh
Gồm 6 câu hỏi xoay quanh 3 vấn đề:
a, Tìm hiểu thái độ, tình cảm, nhận thức của học sinh về năng lực tự học:
Câu 1: Thái độ của HS đối với các tiết bài tập thực hành như thế nào?
Thái độ
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích

Số ý kiến
9
31
36
4

Tỉ lệ %
11,1
38,7
45,2
5,0



Câu 2: Ứng xử của học sinh khi gặp một bài tập khó như thế nào?
Phương án
Mày mò tự tìm lời giải
Xem kỹ bài mẫu GV đã
hướng dẫn
Tham khảo lời giải
trong sách bài tập
Chán nản, không làm

Số ý kiến
16
32

Tỉ lệ %
19,7
40,6

21

26,1

11

13,6

Câu 3: Việc chuẩn bị cho tiết bài tập và giải của học sinh như thế nào ?
Thời gian
Không cố định
Khoảng 30 phút
Từ 30 đến 60 phút

Trên 60 phút

Số ý kiến
56
7
10
7

Tỉ lệ %
69,4
8,5
12,6
9,5

Câu 4: Thời gian học sinh dành để làm bài tập trước khi đến lớp như thế
nào?
Thời gian
Không cố định
Khoảng 30 phút
Từ 30 đến 60 phút
Trên 60 phút

Số ý kiến
56
7
10
7

Tỉ lệ %
69,4

8,5
12,6
9,5

Câu 5: Học sinh chuẩn bị cho tiết bài tập như thế nào?
Phương án
Làm trước bài tập ở nhà
Đọc, tóm tắt, ghi nhận
những chỗ chưa hiểu
Đọc lướt qua các bài tập
Không chuẩn bị gì cả

Số ý kiến
32
20

Tỉ lệ %
39,7
24,6

20
8

24,6
11,1


c. Tìm hiểu những khó khăn mà các em gặp phải khi học sinh tự học và các
yếu tố để hình thành năng lực tự học cho học sinh.
Câu 6: Thời gian giáo viên dành để hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề và

giải quyết vấn đề như thế nào?
Dư để theo dõi và ghi
chép
Vừa đủ để theo dõi và
ghi chép
Đủ để theo dõi và ghi
chép
Không đủ để theo dõi
và ghi chép

Số ý kiến
5

Tỉ lệ %
6,0

47

58,3

19

24,1

9

11,6

Thực tế có một số thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi:

- Công tác bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh hiện nay đã được nhà
trường quan tâm chỉ đạo sát sao, đã có những phần thưởng có tính khích lệ
để động viên giáo viên và học sinh.
- Bên cạnh đó nhà trường tạo mọi điều kiện cần thiết đảm bảo cho công tác
bồi dưỡng đạt hiệu quả như: Phòng học, chế độ bồi dưỡng của giáo viên, đồ
dùng dạy học.
- Đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao, dân trí được phát triển vì
vậy nhận thức của phụ huynh học sinh về công tác bồi dưỡng năng lực tự
học cho học sinh được chú trọng.
* Khó khăn:
2.3. Nguyên nhân và biện pháp nhằm bồi dưỡng khả năng tự học môn Toán
cho học sinh tiểu học
2.3.1. Nguyên nhân
- Điều kiện kinh tế
- Do đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo cho học sinh còn hạn chế nên ảnh
hưởng đến năng lực tự học của học sinh.
- Giáo viên chưa tạo điều kiện nhiều để học sinh tìm tòi tiếp nhận tri thức,
chưa để học sinh chủ động trong học tập.
- Giáo viên chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của học sinh.
- Giáo viên chưa sử dụng có hiệu quả việc phối hợp các phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm của học sinh tiểu học.


2.3.2. Một số biện pháp nhằm bồi dưỡng khả năng tự học môn Toán cho
học sinh tiểu học
2.3.2.1. Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự học
Muốn rèn luyện khả năng tự học cho học sinh, giáo viên phải quan tâm đúng
mức đến việc hướng dẫn phương pháp tự học cho học sinh.
Cách tiến hành:
- Bước 1: Giao nhiệm vụ tự học cho học sinh

Khi giao nhiệm vụ phải đảm bảo để tất cả học sinh đều hiểu và nhớ rõ nhiệm
vụ được giao, cùng với nhiệm vụ còn phải xác định rõ mục đích, yêu cầu tự
học cho học sinh.
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh cách học bài, làm bài và sử dụng thời gian tự
học hợp lí.
Hướng dẫn học sinh nhớ lại bài giảng trên lớp, hướng dẫn khi học bài thì
phải tập trung suy nghĩ để hiểu kĩ, tập vận dụng bài vừa học dưới các hình
thức: Tự tìm ra ví dụ liên hệ, đối chiếu với kiến thức đã có trước đó.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài: “Phép cộng phân số” (TT) Hình thành phép nhân của
hai phân số

3
2
và …
5
4

- Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ, yêu cầu học sinh lấy vở ghi nhiệm vụ,
giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau:
- Hãy tính

3
2
của .
4
5

Ở đây, giáo viên muốn học sinh thực hiện câu hỏi trên để dẫn đến cách tính
3 2
× .

4 5

Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ:
- Hãy phân tích

2
thành tổng của 4 phân số bằng nhau?
5

Ta có:

2 2× 4 8
2
2
2
2
=
=
=
+
+
+
.
5 5 × 4 20 20 20 20 20
3
2
- Từ kết quả trên, hãy cho biết, của là bao nhiêu>
4
5


Ta có:
3
2
2
2
6
2
+
+
=
của là
5
4
20 20 20 20
2×3
3
2
2×3 6
=
- Hãy so sánh
với kết quả của ? (
).
4×5
4
5
4 × 5 20

Kết luận:



3
6
2
với =
.
5
4
20
3 2 3× 2
6
=
Viết × =
.
4 5 4 × 5 20

Ta nói tích của

Giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình để nêu công thức tổng quát:
a c a×c
× =
b d b×d

Sau đó yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai số và tổ chức luyện tập, củng
cố.
Ví dụ 2: (Bài 2, trang 171, Toán 5)
Một ô tô và một xe máy xuất phát cùng một lúc từ A đến B. Quãng đường
AB dài 90 km. Hỏi ô tô đến B trước xe máy bao lâu, biết thời gian ô tô đi là
1,5 giờ và vận tốc ô tô gấp 2 lần vận tốc xe máy?
Bước 1: Giáo viên giao nhiệm vụ , cho học sinh đọc và tìm hiểu bài toán:
- Bài toán cho biết gì? (Quãng đường AB dài 90 km, thời gian ô tô đi là

1,5 giờ, vận tốc ô tô gấp 2 lần vận tốc xe máy)
- Bài toán hỏi gì? (Ô tô đến B trước xe máy bao lâu?)
Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán:
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách tóm tắt bài toán này sẽ dùng chữ
và các dấu mũi tên để thể hiện cái đã cho và cái cần tìm của bài toán.
- Bài toán cho biết điều gì đầu tiên (Quãng đường AB dài 90 km)
- Ghi tóm tắt bằng chữ và dấu hai chấm (Quãng đường AB: 90 km)
- Vận tốc của ô tô và xe máy quan hệ như thế nào với nhau? (Vận tốc ô tô
gấp 2 lần vận tốc xe máy)
- Sử dụng dấu mũi tên và ghi giá trị gấp 2 lần trên mũi tên để thể hiện vận
tốc ô tô gấp 2 lần vận tốc xe máy.
- Ô tô đến B sau bao lâu? (1,5 giờ).
- Ghi tóm tắt bằng chữ và dấu hai chấm (Thời gian ô tô: 1,5 giờ)
- Bài toán yêu cầu gì? (Ô tô đến B trước xe máy bao lâu?)
- Vậy thời gian ô tô đi sẽ như thế nào với thời gian xe máy đi? (nhỏ hơn)
- Biểu diễn dấu mũi tên giữa thời gian ô tô đi và thời gian xe máy đi, ghi
thêm từ “ nhỏ hơn” và dấu “chấm hỏi” để thể hiện điều cần tìm của bài
toán.
Lưu ý:
- Trong khi học sinh làm bài, giáo viên cần hướng dẫn cho các em phải có
thói quen cẩn thận, chắc chắn thực hiện đến nơi đến chốn các nhiệm vụ học
tập, không vừa làm, vừa chơi qua loa vội vã.
- Học sinh tuyệt đối không được nhờ người lớn làm thay câu trả lời mà
không chịu suy nghĩ.


- Học sinh tự do bộc lộ suy nghĩ của mình, không nên áp đặt kiến thức cho
các em.
- Học sinh là người tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.

- Trong một buổi học, giáo viên cần dành thời gian để ôn lại bài vừa học và
dặn dò chuẩn bị cho tiết học sau.
Nhận xét: Việc giáo viên giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh cách học
bài, làm bài và sử dụng thời gian hợp lí để làm cho học sinh có định hướng
tự học, nhận thức được vai trò của việc tự học là một điều rất cần thiết, giúp
tăng cường tính chủ động và tự tin của học sinh, học sinh hiểu rõ và khắc
sâu kiến thức đã học hơn là chỉ thụ động nghe giáo viên giảng bài.
2.3.2.2. Tăng cường sử dụng các phương pháp tự học tích cực
a. Tăng cường tổ chức thực hành, luyện tập:
- Bước 1: Giới thiệu, tìm hiểu yêu cầu, nội dung bài tập
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh tìm cách giải quyết vấn đề( nếu cần)
- Bước 3: Học sinh tự thực hành (Giáo viên quan sát, giúp đỡ) . Đây là bước
thể hiện rõ nhất khả năng tự học của học sinh.
- Bước 4: Báo cáo kết quả
- Bước 5: Nhận xét, tổng kết
Ví dụ 1: Trong bài : “Phép cộng phân số” (TT) Toán 4 trang 127:
Bài toán : “ Có một băng giấy màu, bạn Hà lấy

1
1
băng giấy, bạn An lấy
2
3

băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu băng giấy màu? ”
- Bước 1: Tìm hiểu yêu cầu, nội dung bài tập
- Bước 2: Hướng dẫn cho học sinh giải bài tập như sau:
+ Muốn tìm số phần băng giấy của hai bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện
1
2


1
3

phép tính gì?. ( + ).
Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một
tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải
quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh
chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên, nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc giáo viên hướng dẫn tìm
cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số
(Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH
vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác
mẫu số.
Ví dụ 2: Bài 1 (trang 45 , Toán 2)


- Bước 1: Giáo viên cho học sinh nêu yêu cầu của bài tập (tìm x)
Tìm x: b) x + 5 = 10
c) x + 2 = 8
d) x + 8 = 19
e) 4 + x = 14
d) 3 + x = 10
Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề thực hiện bài tập.
- Bước 2: Hướng dẫn học sinh dựa vào kiến thức đã học: Tìm số hạng
trong một tổng.
- Bước 3: Học sinh nhắc lại quy tắc “Muốn tìm số hạng trong một tổng, ta
lấy tổng trừ đi số hạng kia” sau đó độc lập suy nghĩ, vận dụng quy tắc đó
vào giải bài toán.
b) x + 8 = 19

c) x + 2 = 8
x = 19 – 8
x=8–2
x=6
d) x + 8 = 19
x = 19 – 8

d) 4 + x = 14
x = 14 – 4

- Bước 4: Kiểm tra, đối chiếu kết quả.
- Bước 5: Tổng kết, nhắc lại kiến thức cần nhớ (muốn tìm số hạng trong
một tổng, ta lấy tổng trừ đi số hạng kia).
Lưu ý: Khi vận dụng biện pháp này, giáo viên cần:
- Chuẩn bị cho việc thực hành, luyện tập một cách chu đáo, phải chuẩn bị
nội dung thực hành, rồi dựa vào đó lựa chọn hình thức dạy học thích
hợp.
- Tùy vào từng yêu cầu của bài dạy để giáo viên lựa chọn phương pháp
phù hợp cho bài dạy.
- Cần chú ý thường xuyên thay đổi các hình thức luyện tập để kích thích
hứng thú của học sinh và nhiệm vụ học tập và làm cho ý thức học tập
môn Toán của các em cũng cao hơn.
- Giáo viên phải củng cố các kiến thức cũ cho học sinh nắm chắc. Dạy học
thực hành luyện tập trên cơ sở kiến thức học sinh đã có, giúp học sinh
hiểu được mối liên hệ giữa các kiến thức đã có với kiến thức mới.
Nhận xét:
- Với học sinh tiểu học, thực hành luyện tập thường xuyên sẽ giúp các em
khắc sâu kiến thức, hình thành và rèn luyện kĩ năng tính toán, khắc phục
được nhược điểm chóng nhớ mau quên của các em, từ đó, bồi dưỡng khả
năng tự học cho học sinh.

- Tiết học trở nên hấp dẫn, sinh động hơn.
- Nhờ thực hành, luyện tập học sinh có thể tự tìm kiếm, chiếm lĩnh kiến
thức mới trên cơ sở các nhiệm vụ (hay bài tập) mà giáo viên nêu ra, học


sinh tích cực, độc lập suy nghĩ để giải quyết các nhiệm vụ, từ đó, rèn cho
học sinh thói quen tự học, tự mình tìm ra kiến thức, có như thế các em
mới nhớ lâu và khắc sâu được kiến thức.
b. Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết
vấn đề
- Dạy học giải quyết vấn đề là hình thức giáo viên tạo ra tình huống có vấn
đề, hướng dẫn học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ
động và sáng tạo để giải quyết vấn đề, thông qua đó mà kiến tạo tri thức, rèn
luyện kỹ năng và đạt được những mục đích học tập khác.
- Bước 1: Phát hiện vấn đề
- Bước 2: Tìm hiểu vấn đề
- Bước 3: Xác định lược đồ giải quyết vấn đề
- Bước 4: Tiến hành giải quyết vấn đề
- Bước 5: Phân tích, khai thác lời giải.
Ví dụ 1: (Bài 4, trang162, Toán 5)
Một thuyền máy đi xuôi dòng từ bến A đến bến B. Vận tốc của thuyền máy
khi nước lặng là 22,6 km/ giờ và vận tốc dòng nước là 2,2 km/giờ. Sau 1
giờ 15 phút thì thuyền máy đến bến B. Tính độ dài quãng sông AB.
Bước 1: Phát hiện, tìm hiểu vấn đề:
- Bài toán cho biết điều gì? (Thuyền máy đi từ A đến B trong 1 giờ 15
phút, vận tốc của thuyền khi nước lặng là 22,6 km/giờ, vận tốc dòng
nước là 2,2 km/giờ).
- Bài toán hỏi gì? (Tính độ dài quãng sông AB?)

Bước 2: Tiến hành giải quyết vấn đề:

- Gọi vt là vận tốc thuyền máy khi nước lặng thì vt bằng bao nhiêu? ( vt =
22,6 km/giờ).
- Gọi vdn là vận tốc dòng nước thì v dn bằng bao nhiêu? ( v dn = 2,2 km/giờ).
- Thời gian để thuyền máy đến B là bao nhiêu? (t = 1 giờ 15 phút).


Đại lượng
vt
v dn

t
S AB

Đơn vị đo
22,6 km/ giờ
2,2 km/giờ
1 giờ 15 phút
?

- Muốn tính độ dài quãng sông AB ta phải tính được gì? (Tính được vận
tốc của thuyền máy khi xuôi dòng).
- Làm thế nào để tính được vận tốc của thuyền máy khi xuôi dòng?
(Vận tốc của thuyền máy khi xuôi dòng bằng tổng vận tốc của thuyền máy
khi nước lặng và vận tốc dòng nước).
Ví dụ 2: Khi dạy bài “Phép chia có dư”, giáo viên cho học sinh giải bài toán
sau:
“ Cần chở 58 học sinh qua sông bằng thuyền, mỗi thuyền 8 học sinh. Hỏi
cần bao nhiêu thuyền chở tất cả học sinh qua sông cùng một lúc?”.
Căn cứ vào bài toán chia hết học sinh sẽ nghĩ ngay đến thực hiện phép chia
cho 58 cho 8. Kết quả sẽ được thương là 7 (dư 2 học sinh).

Học sinh sẽ gặp vấn đề? Sauk hi thực hiện phép chia, học sinh bắt đầu suy
nghĩ, tìm tòi, học sinh có nhận xét ban đầu là có 7 chiếc thuyền để chở học
sinh, số học sinh phải chở là 56 em (8 × 7 = 56 em)
Lúc này buộc học sinh phải suy nghĩ tiếp, tự tìm tòi, sáng tạo, mức độ tư
duy cần cao hơn, học sinh sẽ đi đến nhận xét : 7 chiếc thuyền chưa chở học
sinh, vìa vậy 7 chưa phải là đáp số. Vậy đáp số ở đây là bao nhiêu ? (xuất
hiện vấn đề). Vấn đề này sẽ kích thích học sinh suy nghĩ, học sinh sẽ đi đến
kết luận, như vậy cần 1 thuyền nữa để chở 2 học sinh.
Vậy tất cả có: 7 + 1 = 8 (thuyền).
Lưu ý:
Trước khi dạy:
- Giáo viên cần chuẩn bị kiến thức gần gũi với học sinh, các bài tập đưa ra
phải đa dạng, phù hợp cho học sinh ở các mức độ khác nhau, các vấn đề
hướng tới là vấn đề quen thuộc với học sinh.
Trong khi dạy:
- Giáo viên cần tổ chức triển khai kế hoạch dạy học, xử lý các tình huống
nảy sinh.
- Tổ chức triển khai các tình huống có vấn đề.
- Thể chế hóa tri thức mới.
Sau khi dạy:


Củng cố một số kiến thức, kĩ năng đã hình thành trong quá trình giải quyết
vấn đề, chuẩn bị cho việc phát hiện và giải quyết vấn đề tiếp theo.
Nhận xét:
- Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề không những giúp cho học sinh
nắm được kiến thức một cách bền vững và sâu sắc, mà còn giúp các em biết
phương pháp, có kĩ năng và thói quen nghiên cứu, tìm tòi,sáng tạo, những
phẩm chất quan trọng nhất của con người hiện đại.
- Với tư cách dạy này, vấn đề được chứa đựng trong tình huống mà chủ thể

học sinh cần giải quyết nhưng không giải quyết ngay được, để giải quyết
vấn đề học sinh phải vượt khó khăn, hàm chứa trong vấn đề bằng sự cố
gắng của trí lực, sự nỗ lực của bản thân, tự khám phá, tìm tòi dưới sự hướng
dẫn của giáo viên. Cách dạy này do có “vấn đề” nên sẽ là động cơ để học
sinh mày mò để giải quyết vấn đề. Từ đó, góp phần bồi dưỡng năng lực tự
học cho học sinh.
2.3.2.3 Đổi mới hình thức giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh
a. Bồi dưỡng năng lực tự học của học sinh thông qua tổ chức dạy theo nhóm
Cách tiến hành
- Bước 1: Tổ chức lập nhóm
(Có thể chia nhóm ngẫu nhiên hay chia nhóm chủ định, phụ thuộc vào mục
đích của việc hoạt động nhóm.
- Khi chia nhóm cần lưu ý: Số lượng thành viên trong mỗi nhóm phụ thuộc
+ Nhiệm vụ bài học cũng như các thiết bị phục vụ cho hoạt động nhóm).
- Bước 2: Đề ra nhiệm vụ : giáo viên xác định nhiệm vụ cho nhóm và cách
tiến hành thực hiện nhiệm vụ của nhóm.
- Bước 3: Các nhóm thảo luận thực hiện nhiệm vụ.
- Bước 4: Đại diện nhóm lên trình bày kết quả, các nhóm khác nhận xét, bổ
sung
- Bước 5: Hoạt động chung cả lớp, sau đó giáo viên tổ chức chốt lại kiến
thức.
Ví dụ 1: Khi dạy nội dung: “ Hình thành phép cộng các số có 3 chữ số có
nhớ 1 lần
- Bước 1: Yêu cầu thảo luận nhóm 4
- Bước 2: Giáo viên nêu nhiệm vụ thực hiện phép tinh 435 + 127
- Bước 3: Học sinh trong nhóm thảo luận, trình bày ý kiến, trao đổi, bàn bạc
để đưa cách tính phù hợp.
- Bước 4: Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm trình bày kết quả.
435 = 400 + 35 + 5

127 = 100 + 20 + 7


Sau đó cộng theo hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm.
5 + 7 = 12
30 + 20 = 50
400 + 100 = 500
Rồi tiếp tục cộng:
12 + 50 = 62
500 + 62 = 562
Hoặc học sinh sẽ vận dụng phép cộng có nhớ.
- Thực hiện phép tính từ trái sang phải:
Lấy 5+7= 12, viết 2 nhớ 1
Lấy 3+2= 5, nhớ 1 là 6, viết 6.
Lấy 4+1 = 5, viết 5
Như vậy được tổng là 562
- Bước 5: Giáo viên nhận xét: Trong 2 cách tính trên thì cách tính vận dụng
phép cộng có nhớ sẽ nhanh, gọn hơn.
- Giáo viên cho học sinh nhắc lại quy tắc: Phép cộng các số có 3 chữ số nhớ
1 lần.
Ví dụ 2: Khi dạy bài: “Tính giá trị của biểu thức (Toán lớp 3, trang 81)
- Bước 1: Cho học sinh thảo luận nhóm đôi
- Bước 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tính biểu thức: 30 + 5 : 5, học sinh vẽ
vận dụng quy tắc ở các bài học trước (nhân chia trước , cộng trừ sau) để tính.
30 + 5 : 5 = 30 +1 = 31
Giáo viên nêu vấn đề: muốn thực hiện phép tính 30 + 5 trước rồi mới chia
cho 5 ta sẽ thực hiện thế nào?
- Bước 3: Học sinh thảo luận nhóm đôi, trong khi trao đổi học sinh tranh
luận, nêu ra ý kiến của mình.
- Bước 4: Đại diện các nhóm lên trình bày kết quả,đưa ra cách khoanh tròn,

gạch dưới hoặc trong ngoặc.
30 + 5 : 5
30 + 5 : 5
{30 + 5} : 5
30 + 5 : 5
30 + 5 : 5
[30 + 5] : 5
Giáo viên quy ước thống nhất: Muốn thực hiện phép tính 30 + 5 trước rồi
mới chia cho 5 sau, người ta viết thêm dấu ngoặc vào biểu thức sau:
(30 + 5 : 5)
Cho học sinh thực hiện phép tính : (30 + 5) :5 = 35 : 5 = 7
Bước 5: Giáo viên cho học sinh nêu quy tắc có dấu ngoặc
Giáo viên tổ chức luyện tập tính, yêu cầu 2 học sinh lên bảng làm, cả lớp
làm vào vở
9 × (30 – 20)
(13 + 7) : 5


Lưu ý: Để sử dụng hình thức thảo luận nhóm nhằm bồi dưỡng khả năng tự
học cho học sinh, giáo viên phải có kĩ năng tổ chức, quán xuyến lớp học,
đảm bảo cho tất cả học sinh đều phải suy nghĩ, nghiên cứu bài học.
- Giáo viên kiểm tra, đánh giá , động viên học sinh kịp thời để kiểm tra
xem học sinh tự học tiếp thu kiến thức ở mức độ nào, từ đó điều chỉnh,
định hướng học tập cho các em để đạt hiệu quả tốt nhất.
- Vấn đề đưa ra thảo luận phải phù hợp với trình độ của học sinh có như
thế mới tạo được động cơ để học sinh tự học giải quyết các nhiệm vụ
học tập.
- Giáo viên cần quan sát, xem xét xem các nhóm có những khó khăn gì để
gợi mở cho các em hướng để suy nghĩ tiếp.
Nhận xét:

- Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ tăng cường được sự trao đổi
hợp tác của học sinh, giúp học sinh chủ động, tích cực, kích thích lòng
ham học hỏi ở các em.
- Tăng cường tính tích cực, tạo điều kiện cho mọi học sinh tham gia phát
biểu, phân tích, đánh giá để có thể hiểu bài học một cách sâu sắc hơn.
- Tăng cường đoàn kết, tương trợ giữa các thành viên trong nhóm vào
công việc chung phải hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.3.2.4. Tăng cường kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tự học của
học sinh.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM BỒI DƯỠNG KHẢ
NĂNG TỰ HỌC MÔN TOÁN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
- Để nâng cao năng lực tự học môn Toán của học sinh tiểu học thì cần có sự
phối hợp đồng bộ giữa nhà trường, gia đình và xã hội:
3.1. ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN
- GV cần chuẩn bị những yêu cầu và trang bị những kĩ năng tự học cho học
sinh như là:
+ Thông báo trước nội dung bài học đến học sinh.
+ Hướng dẫn học sinh thực hiên việc chuẩn bị nội dung mới.
+ Yêu cầu học sinh chuẩn bị bài mới ở nhà.
+ Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch học tập ở nhà.
+ Hướng dẫn học sinh kĩ năng nghe giảng bài học.
+ Hướng dẫn học sinh kĩ năng học tập theo nhóm.
+ Hướng dẫn học sinh tự kiểm tra kết quả tự học.
- Khuyến khích sự phát triển nỗ lực của học sinh sẽ kích thích quá trình lĩnh
hội tri thức và phát triển trí tuệ ở các em.


×