1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
2
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Mạnh
Hùng, TS. Nguyễn Đức Mậu và PGS.TS. Biện Minh Điền đã tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Ngữ Văn
NGÔ THÁI LỄ
- Trường Đại học Vinh đã quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ, tạo
điều kiện tốt để tôi nghiên cứu, học tập và hoàn thành luận văn này.
SỰ VẬN ĐỘNG CỦA CÁI TÔI TRỮ
TÌNH
TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
Vinh, tháng 12 năm 2010
Tác giả
Ngô Thái Lễ
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
MỤC LỤC
VINH - 2010
LỜI CẢM ƠN
Trang
MỞ ĐẦU
3
4
1.
Lý do chọn đề tài ............................................................................................1
2.
Lịch sử nghiên cứu .........................................................................................3
3.
Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát của đề tài ....................................8
4.
Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................8
5.
Phương pháp nghiên cứu ................................................................................9
và ngợi ca cuộc sống mới trong giai đoạn 1945 - 1975 ...............................54
6.
Đóng góp của luận văn ...................................................................................10
2.2.1.
Sự hình thành cái tôi trữ tình kiểu mới trong thơ Việt Nam .............55
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................10
2.2.2.
Cái tôi hiện thực cách mạng mang khuynh hướng sử thi và
2.1.2.
tình trong Điêu tàn ...........................................................................42
2.1.3.
1.1. Những vấn đề lí luận cơ bản xung quanh khái niệm cái tôi trữ
tình .........................................................................................................................12
1.1.1.
Khái niệm cái tôi trữ tình ..................................................................12
1.1.2.
Bản chất cái tôi trữ tình .....................................................................14
1.1.3.
Những nhân tố tạo nên sự vận động của cái tôi trữ tình
trong thơ ........................................................................................................21
1.2 Vị trí văn học sử của nhà thơ Chế Lan Viên trong nền thơ ca
Việt Nam hiện đại ........................................................................................25
1.3. Sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên ............................31
1.3.1.
Thời kì trước Cách mạng tháng Tám - 1945 .....................................32
1.3.2.
Thời kì 1945 - 1975 ...........................................................................33
1.3.3.
Thời kì sau 1975 ................................................................................36
Chương 2. Từ cái tôi lãng mạn đến cái tôi hiện thực cách mạng
mang
khuynh hướng sử thi và ngợi ca cuộc sống mới ...............39
2.1. Từ cái tôi trữ tình lãng mạn trước cách mạng ...........................................39
2.1.1.
Vị trí văn học sử của tập thơ Điêu tàn trong sự nghiệp sáng
Những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong Điêu tàn .........................44
2.2. Đến cái tôi hiện thực cách mạng mang khuynh hướng sử thi
ngợi ca cuộc sống mới trong thơ Chế Lan Viên ..............................61
Chương 1. Tổng quan về sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ
Chế Lan Viên qua các thời kì sáng tác .............................................12
Ảnh hưởng của thời đại đối với việc hình thành cái tôi trữ
Chương 3. Từ cái tôi sử thi và ngợi ca cuộc sống mới sang cái tôi
suy ngẫm về đời tư thế sự ...............................................................85
3.1. Những đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 và sự phân hóa
các kiểu cái tôi trữ tình trong thơ ................................................................85
3.1.1.
Hoàn cảnh xã hội sau 1975 ..................................................................... 85
3.1.2.
Những đổi mới của văn học sau 1975 ...............................................88
3.1.3.
Sự phân hóa các kiểu cái tôi trữ tình trong thơ sau 1975 ..................90
3.2. Sự chuyển biến từ cái tôi chính trị sang cái tôi suy ngẫm
về đời tư thế sự .............................................................................................94
3.2.1.
Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan
Viên sau 1975 ....................................................................................94
3.2.2.
Những nét biểu hiện độc đáo của cái tôi trữ tình trong thơ
Chế Lan Viên sau 1975 qua ba tập Di cảo ........................................97
KẾT LUẬN .............................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................113
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ............................................................................ 119
tác của Chế Lan Viên .......................................................................39
MỞ ĐẦU
5
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vận động và phát triển là phương thức tồn tại của văn học nghệ
thuật. Quy luật ấy mang tính phổ quát cho mọi nền văn học trên thế giới và ở
mọi thời đại. Đối với những nhà văn, nhà thơ lớn đã từng sống và sáng tác
vào những thời điểm lịch sử và văn học chuyển mình mang ý nghĩa bước
ngoặt thì dấu ấn của chủ thể sáng tạo càng thể hiện rõ nét trong tác phẩm. Nền
văn học viết Việt Nam đã có lịch sử hình thành và phát triển trên một nghìn
năm nay. Qua bao nhiêu bước thăng trầm, các thế hệ nhà văn Việt Nam đã
xây dựng nên một nền văn học tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như bây giờ.
Trong cả chặng đường dài phát triển, có thể khẳng định văn học Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX đến nay được xem là giai đoạn có nhiều bước biển chuyển
mạnh mẽ nhất. Đây là thời kỳ văn học vận động và không ngừng đổi mới theo
xu hướng hiện đại hóa và dân chủ hóa cả về nội dung và hình thức biểu hiện.
Sự chuyển biến này có ý nghĩa cách mạng, làm thay đổi phạm trù văn học,
chuyển văn học Việt Nam từ trung đại sang hiện đại.
Nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, để chiếm lĩnh những
giá trị nhân văn và giá trị thẩm mĩ của nó chúng ta không thể không chú ý đến
sự vận động và phát triển chung của cả nền văn học và cụ thể hóa ở những tác
gia tiêu biểu.
1.2. Những người có công đóng góp vào quá trình đổi mới của văn học
dân tộc trong hơn một thế kỷ qua, có rất nhiều tác giả thuộc nhiều thể loại
khác nhau. Trên lĩnh vực thơ ca, chúng ta có cả một đội ngũ nhà thơ hùng hậu
bao gồm nhiều thế hệ. Có nhiều người rất nổi tiếng, có tầm ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống tinh thần của dân tộc và trên trường quốc tế như Xuân Diệu,
Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh… Trước Cách mạng tháng Tám, họ là
những nhà thơ tiêu biểu và nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Sau Cách
6
mạng, sáng tác của họ rất phong phú, có nhiều thành tựu, đã được độc giả và
giới nghiên cứu phê bình khẳng định.
Với nhà thơ Chế Lan Viên, có thể khẳng định rằng ông là một trong
những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế kỷ XX. Sự nghiệp sáng tác của Chế Lan
Viên kéo dài hơn nửa thế kỷ, qua ba thời kỳ: thời kỳ trước cách mạng, thời kỳ
“Ba mươi năm dân chủ cộng hòa” và thời kỳ sau 1975. Trong tiến trình phát
triển của thơ Việt Nam hiện đại, hiếm có một nhà thơ nào chiếm lĩnh được cả
ba đỉnh cao ở cả ba thời kỳ sáng tác như Chế Lan Viên. Chính tài năng và
những thành tựu to lớn trong sự nghiệp sáng tác mà Chế Lan Viên đã được
nhiều người quan tâm nghiên cứu.
1.3. “Trong thơ, vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt
quan trọng” [14, 61]. Thơ trữ tình luôn luôn gắn với cái “tôi”. Bởi vậy khi
nghiên cứu cái tôi trữ tình trên các phương diện thuộc về thể loại, các trào
lưu, khuynh hướng, các chặng đường sáng tác, các tác giả hay ngay cả một
tác phẩm thơ cụ thể, người ta thường quan tâm nhiều đến việc tìm hiểu cái tôi
trữ tình. Việc nghiên cứu cái tôi trữ tình trong thơ rất rộng, rất phức tạp và
chưa được nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu đề tài Sự vận động của cái tôi trữ
tình trong thơ Chế Lan Viên là một việc làm hữu hiệu để thấy được nét độc
đáo trong phong cách, những tiến bộ nghệ thuật, những đóng góp của Chế
Lan Viên trong nền thơ Việt Nam.
1.4. Có nhiều căn cứ để khảo sát sự vận động của cái tôi trữ tình trong
thơ. Đó là căn cứ triết học về sự vận động biện chứng của mọi hiện tượng tự
nhiên và xã hội, như một quá trình không ngừng của sự sinh thành và sự tiêu
vong, của sự tiến triển vô tận từ thấp đến cao. Ngoài căn cứ triết học còn phải
có căn cứ từ thực tế. Trong sáng tạo thơ, tác giả nào cũng có sự vận động và
sự trưởng thành. Tuy nhiên, có những nhà thơ chỉ sáng tác trong một thời gian
ngắn, số lượng tác phẩm không nhiều thì dấu ấn của sự vận động này ít có
7
điều kiện thể hiện. Thơ Chế Lan Viên đã trải qua một quá trình sáng tác rất
dài, qua ba thời kỳ và đã thể hiện rất rõ sự vận động của cái tôi trữ tình. Chế
Lan Viên luôn luôn đề cao ý thức trách nhiệm người cầm bút, luôn luôn mong
muốn cung cấp cho đời nhiều tác phẩm. Với quan niệm “thơ cần có ích cho
đời, cho nhân dân”, Chế Lan Viên đã không ngừng phấn đấu. Cuộc “đấu tranh
8
2. Lịch sử nghiên cứu
Đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính văn học sử, cả hai vấn đề
này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
2.1. Những vấn đề về lý luận xung quanh khái niệm cái tôi và cái tôi
trữ tình
bản thân” trong con người công dân và con người nghệ sĩ ở ông làm cho ông
Khái niệm cái tôi và cái tôi trữ tình đã được đề cập và được nghiên cứu
hay “sám hối”, không tự bằng lòng về những gì thơ mình chưa hoàn thiện.
trong mĩ học cổ điển cận đại phương Tây và phương Đông. Các nhà thơ cổ
Cuộc chiến đấu ấy dầu gian nan nhưng ông đã vượt qua và đạt được những
điển Trung Quốc và Việt Nam, trong các ý kiến bình giải về tình, tâm, trí, đạo
thành công. Trong một số tiểu luận, trong rất nhiều bài thơ, ông đã nói rõ quá
trong thơ, tuy chưa sử dụng thuật ngữ cái tôi trữ tình nhưng phần nào cũng
trình phấn đấu, trưởng thành, nói rõ sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ
thể hiện ý nghĩa của nó.
Cái tôi được Hoài Thanh trực diện đề cập đến trong bài Một thời đại
mình.
Lý do nghiên cứu đề tài có cơ sở thực tiễn đó là thơ Chế Lan Viên tồn tại
trong thi ca (Thi nhân Việt Nam) có ý nghĩa tổng kết phong trào Thơ mới.
một cái tôi trữ tình không ngừng vận động, không ngừng biến đổi trên cơ sở
Theo Hoài Thanh, chữ “tôi” xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đã đem lại một
kế thừa và cách tân. Đó là sự vận động từ một cái tôi lãng mạn trước cách
quan niệm hoàn toàn mới về con người cá nhân: “Ngày thứ nhất ai biết đích
mạng đến cái tôi trữ tình chính trị giai đoạn 1945 - 1975 và đến cái tôi đời tư
xác là ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực sự bỡ ngỡ.
thế sự mang nặng cảm xúc trầm tư suy ngẫm trong những bài thơ được sáng
Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng
tác sau 1975, đặc biệt là những bài thơ được sáng tác những năm cuối đời.
thấy ở xứ này: Quan niệm cá nhân” [54, 45]. Cái tôi là linh hồn của Thơ mới,
Quả là, trong lịch sử phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại thế kỷ XX, hiếm
“Thời đại Thơ mới là thời đại của chữ tôi” [54, 47]. Cái tôi là một phạm trù
có một nhà thơ nào tạo ra sự vận động liên tục trong suốt cả sự nghiệp sáng
đối lập với cái ta của “thơ cũ”. Khái niệm cái tôi cũng được Hoài Thanh vận
tác, tạo nên được sức hấp dẫn đối với công chúng yêu thơ như Chế Lan Viên.
dụng uyển chuyển để nhận dạng phong cách hồn thơ của mỗi nhà thơ.
1.5. Chế Lan Viên là một tác giả lớn, có nhiều tác phẩm được đưa vào
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề cái tôi được đặt ra như một
giảng dạy trong chương trình văn ở các cấp học từ phổ thông đến đại học.
đối tượng nghiên cứu ở một số chuyên khảo về thơ. Trong công trình Thơ và
Nhiều bài thơ của ông đã để lại những ấn tượng sâu sắc đối với bao thế hệ học
mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Hà Minh Đức đã dành một số
sinh như Người đi tìm hình của nước, Tiếng hát con tàu, Tình ca ban mai…
chương bàn về cái tôi trữ tình, tác giả đặt cái tôi trữ tình vào một hệ thống và
Nghiên cứu đề tài này cũng là để bổ sung thêm kiến thức về thân thế, sự
phân tích nó trong mối quan hệ với nhà thơ, các hình thức biểu hiện cái tôi trữ
nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên, để giảng dạy tốt hơn tác giả này ở nhà
tình trong thơ.
trường.
9
10
Trần Đình Sử với chuyên luận Thi pháp thơ Tố Hữu đã đưa ra một khái
Chế Lan Viên với vị trí văn học sử đứng hàng đầu trong đội ngũ các
niệm kiểu nhà thơ. Đó cũng là một hình thức trực diện bàn đến cái tôi trữ tình
nhà thơ Việt Nam đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu phê bình văn
trong thơ. Ngoài ra, trong cuốn Những thế giới nghệ thuật thơ, Trần Đình Sử
học trước và sau Cách mạng tháng Tám với rất nhiều ý kiến khen, chê, thậm
cũng đã trình bày các loại hình nghệ thuật thơ ca và nêu lên đặc trưng của cái
chí có lúc trái ngược nhau. Xin nêu lên đây một số ý kiến tiêu biểu của các
tôi trữ tình trong các loại hình thơ. Ông phân biệt cái tôi trữ tình trong thơ
nhà nghiên cứu bàn về thơ Chế Lan Viên, trong đó nhấn mạnh cái tôi trữ tình.
cách mạng khác với cái tôi trữ tình trong các loại hình thơ dân gian, cổ điển,
Trong Đôi điều suy nghĩ bộc bạch cùng bạn đọc, cuốn Chế Lan Viên - Người
lãng mạn…
làm vườn vĩnh cửu, Phong Lan viết: “Cũng giống như bất kỳ nhà văn, nhà thơ
Đã có hai luận án tiến sĩ đề cập đến cái tôi trữ tình trong thơ. Đó là luận
lớn hiện đại nào khác, việc đánh giá từng tác phẩm nói riêng hay toàn bộ sự
án Cái tôi trữ tình trong thơ (qua một số hiện tượng thơ trữ tình Việt Nam
nghiệp văn chương của Chế Lan Viên nói chung trải dài trong suốt sáu mươi
1975 - 1990) của tác giả Lê Lưu Oanh và luận án Nửa thế kỷ thơ Việt Nam
năm, hẳn không tránh khỏi ở thời kỳ này hay thời kỳ khác, ở tác giả này hay
1945 - 1995 (nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình) của tác giả
tác giả khác, do chi phối của lịch sử hay sự ràng buộc của điều kiện khách
Vũ Tuấn Anh. Điểm chung của hai công trình này là đều nghiên cứu về cái tôi
quan, chủ quan nào đó mà đã có nhiều cách đánh giá thơ ông khác biệt nhau,
trữ tình trong thơ và đều lấy cả một chặng đường phát triển của thơ Việt Nam
thậm chí trái ngược nhau tùy theo quan điểm thẩm định riêng của mỗi thời và
làm đối tượng khảo sát. Điểm riêng tạo nên nét khác biệt đó là tác giả Vũ
mỗi người. Đó cũng là điều bình thường và là quyền của người viết. Lẽ
Tuấn Anh thì khảo sát sự vận động của cái tôi trữ tình suốt cả một chặng
thường xưa nay, nhà văn tầm vóc càng lớn, các tác phẩm của họ càng đa diện,
đường thơ Việt Nam nửa thế kỷ (1945 - 1995), còn tác giả Lê Lưu Oanh thì
đa thanh, đa sắc, đa tầng bao nhiêu thì sự đánh giá họ càng phong phú, phức
chỉ khảo sát qua một số hiện tượng thơ trong vòng mười lăm năm (1975 -
tạp bấy nhiêu. Tuy nhiên, rồi sự định giá công tâm sáng suốt và đáng tin cậy
1990). Phần lý luận về cái tôi trữ tình, các tác giả đã trình bày quan niệm về
nhất bao giờ cũng là của thời gian và các thế hệ độc giả hôm nay và mai sau”
cái tôi và cái tôi trữ tình trong các lĩnh vực triết học, tâm lý học và lý luận văn
[26, 7].
học. Từ đó các tác giả nêu lên những vấn đề liên quan đến khái niệm cái tôi
Trao đổi với tác giả bài Chế Lan Viên và Di cảo thơ, Phạm Quang
trữ tình như bản chất, các kiểu cái tôi trữ tình và những nhân tố thúc đẩy sự
Trung viết: “Không ai phủ nhận có một thời ta sống cho riêng ta không
vận động của cái tôi trữ tình.
nhiều. Thơ cũng vậy. Chế Lan Viên cũng vậy… Cái chung có phần lấn át cái
Đề tài Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên cũng
riêng, ấy là do cuộc sống đòi hỏi như vậy. Ở đây không có sự đối lập giữa cái
là một hướng đi riêng. Đó là vận dụng lý luận về cái tôi trữ tình vào việc
riêng và cái chung, giữa cá nhân và xã hội. Hơn thế, như những tài năng thơ
nghiên cứu một tác giả cụ thể. Hướng này có thể áp dụng rộng rãi để nghiên
ca khác, con người công dân Chế Lan Viên đi vào trong thơ đã thực sự tạo lập
cứu bất kỳ một tác giả thơ nào.
nên bản sắc riêng của mình” [64].
2.2. Những vấn đề về văn học sử
11
12
Nguyễn Bá Thành là một chuyên gia nghiên cứu về Chế Lan Viên. Ông
Có một công trình về Chế Lan Viên được đánh giá cao, nghiên cứu một
có một chuyên luận gần 400 trang với nhan đề Thơ Chế Lan Viên với phong
cách toàn diện hơn, đó là công trình của Hồ Thế Hà với nhan đề Thế giới
cách suy tưởng cũng đã khảo sát các chặng đường thơ Chế Lan Viên, trong đó
nghệ thuật thơ Chế Lan Viên. Chuyên luận được phát triển trên cơ sở luận án
đặc biệt chú ý đến chất trí tuệ, phong cách suy tưởng trong thơ Chế Lan Viên.
tiến sĩ. Hồ Thế Hà đi sâu vào quan niệm nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, tính
Theo Nguyễn Bá Thành, Chế Lan Viên cuối đời “quay lại điểm xuất phát,
triết lý, không gian, thời gian nghệ thuật, phương thức thể hiện và thể loại thơ
quay lại với cái đài thơ, cái tháp nghỉ của thi nhân thuở xưa. Đó không phải là
Chế Lan Viên. Bấy nhiêu vấn đề đã làm hiện lên phong cách thơ độc đáo -
sự cách tân mà chủ yếu là sự phục hồi cách cảm và cách nghĩ của nhà thơ thời
phong cách triết lý thơ Chế Lan Viên.
trước cách mạng tháng Tám. Phương pháp tư duy ấy được Chế Lan Viên đúc
kết thành phương pháp “lộn trái”, hay là “thêu bề trái” [55, 165]. Nguyễn Bá
Ngoài các công trình nêu trên, phải kể đến các công trình của các nhà
nghiên cứu khác có tên tuổi được tập hợp trong các công trình như:
Thành đánh giá cao thơ Chế Lan Viên giai đoạn ông trở về với nhân dân, với
- Chế Lan Viên - Người làm vườn vĩnh cửu
Đảng và Bác Hồ từ ngày đầu kháng chiến chống Pháp, quả nhiên như có phép
- Chế Lan Viên giữa chúng ta
mầu, thơ ông từ khi có định hướng “vì ai” đã gặt hái được nhiều thành tựu.
- Chế Lan Viên, tác gia và tác phẩm
Một loạt bài thơ vào loại đặc sắc nhất thơ Việt Nam hiện đại đã nối tiếp nhau
xuất hiện hồi ấy.
Luận văn này đã tập hợp và khảo sát hầu hết các công trình nghiên cứu
Mỗi tác giả trong ba cuốn sách vừa nêu chủ yếu nghiên cứu một vấn đề,
thậm chí là vấn đề rất nhỏ. Nhưng tập hợp lại, chúng ta thấy một cái nhìn khá
toàn diện về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên.
về thơ Chế Lan Viên, trong đó đặc biệt chú ý đến các giáo trình, các chuyên
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát của đề tài
luận, các luận án tiến sĩ về Chế Lan Viên.
3.1. Đối tượng
Giáo trình Văn học Việt Nam 1945 - 1975 của nhiều tác giả do Nguyễn
Đăng Mạnh chủ biên có hẳn một chương về Chế Lan Viên do Nguyễn Văn
Long viết. Chương đó cũng đã tìm hiểu những chặng đường thơ và phong
cách nghệ thuật của thơ Chế Lan Viên.
Có nhiều luận án và luận văn về Chế Lan Viên, đáng kể nhất là luận án
Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên.
3.2. Phạm vi khảo sát
Toàn bộ các tập thơ của Chế Lan Viên, trong đó chủ yếu là các tập thơ:
Điêu tàn, Gửi các Anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường - Chim báo
bão, Những bài thơ đánh giặc, Hoa trên đá và ba tập Di cảo thơ.
Những nét đặc sắc cơ bản của hình thức nghệ thuật thơ Chế Lan Viên từ sau
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
1945 của Đoàn Trọng Huy. Luận án này chủ yếu nghiên cứu về nghệ thuật
Đề tài Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là một
thơ Chế Lan Viên và cũng chỉ dừng lại trong một chặng đường sáng tác ngắn
đề tài vừa mang tính lý luận (những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm về
1945 - 1975. Tuy vậy, tác giả đã nêu lên được những nét đặc sắc trong phong
cái tôi trữ tình), vừa mang tính văn học sử (gắn với tìm hiểu cuộc đời và sự
cách nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, đó là tính triết lý.
nghiệp sáng tác của tác giả Chế Lan Viên). Với mức độ là một luận văn thạc
13
14
sĩ và với tư cách là một đề tài khoa học chuyên ngành văn học Việt Nam
cùng thời. Có như vậy mới thấy được nét độc đáo trong sự vận động của Cái
thuộc loại hình nghiên cứu tác giả, chúng tôi xác định tính văn học sử vẫn là
tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên.
chính. Bởi vậy, trong cấu trúc luận văn, chúng tôi không dành riêng hẳn một
5. Phương pháp nghiên cứu
chương để tìm hiểu những vấn đề lý luận về khái niệm cái tôi trữ tình. Mặc
Luận văn này có sự phối hợp đồng bộ các phương pháp nghiên cứu sau:
dầu vậy, những vấn đề lý luận này cũng phải đặt ra như là một nhiệm vụ, một
5.1 Phương pháp thống kê, phân loại
mục tiêu của luận văn.
5.1.1 Thống kê các ý kiến về thơ trữ tình và cái tôi trữ tình trong thơ,
4.1. Về lý luận
từ những quan niệm của các nhà triết học duy tâm như Hêghen, Phoiơbắc đến
Vấn đề quan trọng là nêu lên được các quan niệm về cái tôi trữ tình,
các nhà duy vật biện chứng như Mác - Lênin, quan niệm của các nhà lý luận
tìm hiểu bản chất, những nhân tố thúc đẩy sự vận động cái tôi trữ tình và đưa
văn học về vấn đề này qua các thời kỳ.
ra được các kiểu biểu hiện cái tôi trữ tình có liên quan đến tác giả Chế Lan
Viên như kiểu cái tôi trữ tình lãng mạn, hiện thực cách mạng, cái tôi trữ tình
5.1.2. Thống kê các tập thơ của Chế Lan Viên để phân loại, chọn những
tập thơ nào, bài thơ nào là tiêu biểu nhất thể hiện rõ sự vận động.
chính trị mang khuynh hướng sử thi, cái tôi đời tư thế sự,… Từ đó, áp dụng
5.1.3. Thống kê thơ của các nhà thơ cùng thời với Chế Lan Viên.
những vấn đề lý luận này vào việc khảo sát sự vận động của cái tôi trữ tình
trong một tác giả cụ thể.
5.1.4. Thống kê các ý kiến thẩm bình thơ Chế Lan Viên. Cần phân loại
các ý kiến đúng và sai.
4.2. Về văn học sử
5.2. Phương pháp phân tích
Trên cơ sở cái nền của lý luận, vận dụng nó vào tìm hiểu cái tôi trữ
Thống kê chỉ là một phương tiện, còn nhiệm vụ chính là phân tích các ý
tình trong các chặng đường thơ Chế Lan Viên. Từ đó, chỉ ra quá trình vận
kiến, các chi tiết nghệ thuật, từ đó đưa ra sự nhìn nhận đánh giá về sự vận
động của thơ Chế Lan Viên, từ cái tôi lãng mạn trong Điêu tàn đến cái tôi sử
động của cái tôi trữ tình.
thi trong thơ giai đoạn 1945 - 1975 (Gửi các Anh, Ánh sáng và phù sa, Hoa
5.3. Phương pháp so sánh
ngày thường, Chim báo bão,…) và cái tôi suy ngẫm về đời tư thế sự trong các
tập Di cảo thơ.
Vấn đề của luận văn là chỉ ra quá trình vận động của cái tôi trữ tình
trong thơ Chế Lan Viên. Muốn thấy được quá trình vận động, chuyển biến tất
Trong sáng tác thơ, nhất là ở các nhà thơ lớn có quá trình sáng tác dài
yếu phải dùng biện pháp so sánh để thấy được cái tôi trữ tình trong thơ Chế
qua các thời kỳ lịch sử và văn học khác nhau, không chỉ nhà thơ Chế Lan
Lan Viên giữa giai đoạn này và giai đoạn kia có nét tương đồng và khác biệt,
Viên mới có sự vận động. Lấy ngay hiện tượng các nhà thơ cùng thế hệ với
có nét kế thừa và cách tân. Phương pháp so sánh không chỉ được dùng trong
ông như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh..., ta cũng thấy có quá trình vận động
quá trình tìm hiểu sáng tác của Chế Lan Viên mà còn mở rộng so sánh với các
và biến chuyển này. Từ đây đặt ra thêm một mục tiêu là tìm hiểu quá trình
nhà thơ cùng thời để chỉ ra nét độc đáo của Chế Lan Viên với các nền thơ
chuyển biến của thơ Chế Lan Viên có những gì giống và khác với các nhà thơ
khác.
15
5.4. Phương pháp tổng hợp
Các ý kiến phân tích, so sánh sau khi được đưa ra cần phải đi tới sự
tổng hợp khái quát nâng lên thành vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
Chỉ ra những biểu hiện cái tôi trữ tình của thơ Chế Lan Viên qua các
thời kỳ, từ đó nêu lên quá trình vận động của nó. Từ đây có thể thấy được:
- Thơ Chế Lan Viên qua các tập thơ có sự vận động của cái tôi trữ tình.
- Sự vận động này rất tiêu biểu cho quá trình chuyển biến từ một nhà
thơ lãng mạn thành nhà thơ hiện thực.
7. Cấu trúc luận văn
Tương ứng với những nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, ngoài phần Mở đầu,
Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được triển khai
trong ba chương
Chương 1. Tổng quan về sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Chế
Lan Viên.
Chương 2. Từ cái tôi lãng mạn đến cái tôi hiện thực cách mạng mang
khuynh hướng sử thi và ngợi ca cuộc sống mới.
Chương 3. Từ cái tôi sử thi và ngợi ca cuộc sống mới chuyển thành
cái tôi suy ngẫm về đời tư thế sự.
16
17
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ SỰ HÌNH THÀNH
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHẾ LAN VIÊN
18
+
Khái niệm “chủ quan” như Lê Lưu Oanh quan niệm: “Là một khái
niệm triết học rất rộng có thể vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực không chỉ ở thể
loại trữ tình. Do đó cần phải tìm đến một khái niệm mang nội dung xác định
bản chất thể loại hơn. Khái niệm đó là cái tôi trữ tình” [45, 25].
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản xung quanh khái niệm cái tôi trữ tình
Khái niệm cái tôi trữ tình gắn với bài thơ trữ tình. Bài thơ trữ tình “là
Đề tài Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là một
một bài thơ, trong đó nhà thơ viết về những suy nghĩ và cảm xúc của mình,
đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính văn học sử. Với mức độ là một
trong đó nhà thơ cố gắng điều khiển và tổ chức các cảm xúc và ấn tượng của
luận văn thạc sĩ và với tư cách là đề tài khoa học chuyên ngành văn học Việt
mình” [1, 31].
Nam thuộc loại hình nghiên cứu tác giả, chúng tôi xác định tính văn học sử
Đã có nhiều người nói đến mối quan hệ giữa nhà thơ và cái tôi trữ tình
vẫn là chính. Những vấn đề lý luận xung quanh khái niệm về cái tôi trữ tình
trong thơ. Từ những năm 70 của thế kỷ XX, khi mà vấn đề cái tôi trữ tình
được xem là những phương tiện cần thiết.
được đặt ra như một đối tượng nghiên cứu ở một số chuyên luận về thơ, Hà
Những vấn đề lý luận này đã được nhiều người nghiên cứu và được
Minh Đức trong công trình Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại đã
công bố thành những công trình có giá trị. Trong phần lịch sử nghiên cứu
dành một số chương nói về cái tôi trữ tình, đặt nó trong một cái nhìn hệ thống.
chúng tôi đã có dịp khảo sát. Vấn đề của luận văn này là vận dụng những kết
Trong công trình đó ông viết: “Trong thơ vấn đề chủ thể cái tôi trữ tình có
quả nghiên cứu đó để tìm hiểu con đường vận động của cái tôi trữ tình ở một
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng” [14, 61].
tác giả thơ cụ thể.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể rút ra một cách quan niệm về
Lý luận về cái tôi trữ tình trong thơ bao gồm những vấn đề cơ bản sau:
cái tôi trữ tình. Nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ Tuấn Anh nêu lên quan
1.1.1. Khái niệm cái tôi trữ tình
niệm: “Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với
Sáng tác thơ là một nhu cầu tự biểu hiện, một sự thôi thúc bên trong
thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua
nhiều khi mãnh liệt, dồn dập do sự tác động của đời sống gây nên. Trong lời
việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần
đề tựa tập thơ của mình, nhà thơ Sóng Hồng viết: “Người làm thơ phải có tình
riêng biệt độc đáo mang tính thẩm mĩ nhằm truyền đạt tinh thần ấy đến người
cảm mãnh liệt, thể hiện sự nồng cháy trong lòng” [21]. Trong thơ, dấu ấn chủ
đọc” [1, 32].
quan của tác giả thể hiện rất rõ nét, nói như Hàn Mặc Tử: “Người thơ phong
Ý kiến trên đây như là sự tổng hợp các quan niệm về cái tôi trữ tình của
vận như thơ ấy”. Từ rất lâu, khoa nghiên cứu văn học đã khẳng định thể loại
nhiều học giả quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Như vậy, nói đến cái tôi trữ
thơ trữ tình: “vương quốc chủ quan” (Biêlinxki), là “sự biểu hiện và cảm thụ
tình là nói đến hai yếu tố. Yếu tố thứ nhất: cách nhìn, cách cảm thụ của tác
của chủ thể” [45, 17], trong đó tính chủ quan vừa là nguyên tắc tiếp cận đời
giả. Yếu tố thứ hai: tổ chức các yếu tố để tạo nên một văn bản trữ tình.
sống vừa là nguyên tắc xây dựng thế giới nghệ thuật.
19
20
Do cái tôi trữ tình có những yếu tố đó cho nên người ta thường vận
Từ bản chất chủ quan cá nhân của cái tôi trữ tình, ta thấy cái tôi tác giả
dụng nó để nghiên cứu thể loại thơ trữ tình, để phát hiện ra những vấn đề cá
và cái tôi trữ tình có mối quan hệ với nhau. Tiểu sử và những trải nghiệm
tính sáng tạo, phong cách nhà thơ, kiểu nhà thơ, tiến trình phát triển của văn
cuộc đời riêng là một bộ phận cấu thành nhân cách trữ tình. Cái tôi trữ tình,
học.
trước hết là tính cách của bản thân người mang lời nói. Một Chế Lan Viên sắc
1.1.2. Bản chất của cái tôi trữ tình
sảo nặng về suy tư triết lý nên những vần thơ ông viết ngay từ buổi đầu ở tuổi
Để hiểu rõ hơn khái niệm cái tôi trữ tình, chúng ta cần phải đi sâu tìm
thiếu niên đã thể hiện rõ khát khao tìm hiểu đời, tìm hiểu bản thân mình:
hiểu bản chất của nó. Cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hợp nhiều yếu tố,
có thể nêu lên đây các bản chất cơ bản của cái tôi trữ tình.
Ai bảo giùm ta có, có ta không?
Tuy cái tôi nhà thơ và cái tôi trữ tình có mối quan hệ gần gũi nhưng
1.1.2.1. Bản chất chủ quan cá nhân
chúng ta không nên đồng nhất nó. Từ thực tế những bài thơ được viết trong
Điều mà Biêlinxki khẳng định thể loại thơ tình “là vương quốc chủ
những năm cuối đời, ta có thể suy luận giữa đời và thơ còn có một khoảng
quan” được thể hiện rõ ở bản chất này. Người làm thơ bao giờ cũng có nhu
cách. Chẳng hạn như Chế Lan Viên có bài Tháp Bayon bốn mặt:
cầu tự biểu hiện, giải bày tâm tư, tình cảm của riêng mình. Hiện thực cuộc
Anh là tháp Bayon bốn mặt
sống rất rộng lớn, nhưng quan tâm đến vấn đề gì, nhìn nhận nó như thế nào và
Dấu đi ba còn lại đấy là anh
chọn lọc đưa nó vào trong tác phẩm theo một phương thức biểu hiện nào là do
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
nhà thơ thể hiện dựa trên sự trải nghiệm cuộc sống cùng với sự thôi thúc niềm
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn hình
cảm hứng sáng tạo và tài năng thi nhân. Có chất liệu rồi đến lượt xây dựng
văn bản trữ tình, cũng có nhiều sự lựa chọn. Sự lựa chọn, cách thể hiện nào
Không phải mọi suy nghĩ về cuộc đời được bộc bạch một cách đầy đủ
trong thơ. Sau 1975 đã có nhà thơ nói rõ điều này:
cũng mang rõ nét cá tính sáng tạo của chủ thể. Do thơ trữ tình in đậm dấu vết
Đã có một thời nỗi đau ta phải giấu
cá nhân nên những gì liên quan đến cuộc đời tác giả, từ tiểu sử đến tính cách
Ta đánh mất ta trong mỗi con người
đều đóng một trò nhất định trong sáng tác. Chế Lan Viên, cuộc đời và sự
Trong thực tế, tiểu sử nhà thơ luôn ẩn hiện trong những vần thơ trữ
nghiệp sáng tác đã tạo nên được nét cá tính độc đáo. Cao Bá Quát đã từng nói:
tình, nhưng tự thân nó không đủ làm nên cái tôi trữ tình. “Cái tôi trữ tình khác
“Xem người có thể biết được thơ”. Hàn Mặc Tử cũng khẳng định: “Người thơ
về chất lượng với cái tôi nhà thơ. Đó là sự khác nhau giữa cuộc đời và nghệ
phong vận như thơ ấy”. Nghiệm vào đời và thơ Chế Lan Viên, ta cũng thấy rõ
thuật, giữa chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực, giữ nguyên mẫu và
toàn bộ sáng tác của ông vừa là tấm gương phản chiếu thời đại vừa là những
điển hình, giữa gốc rễ và cành lá nảy nở sinh động” [1, 38].
bức chân dung tự họa sinh động về con người ông từ thưở niên thiếu cho đến
những năm cuối đời.
Do yếu tố chủ quan cá nhân nên trong thơ trữ tình thường có hình thức
tự biểu hiện được xưng danh ở đại từ ngôi thứ nhất: Tôi, ta hoặc chúng tôi,
chúng ta:
21
22
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
(Tố Hữu)
Đường về thu trước xa lắm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi
(Chế Lan Viên)
Ta là Một là Riêng là Thứ Nhất
(Xuân Diệu)
Chúng ta đoàn áo vải
Sống cuộc đời rừng núi bấy nay
Đồng xanh ta thiếu đất cày
Nghe rừng lắm đất lên đây với rừng
(Hoàng Trung Thông)
Bản chất thứ nhất của cái tôi trữ tình lưu ý chúng ta, khi nghiên cứu cái
tôi trữ tình trong thơ phải chú ý đến những nhân tố thúc đẩy sự vận động của
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Còn Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên - những nhà thơ tiêu biểu của
phong trào Thơ mới trước Cách mạng bước sang thời kỳ sáng tác mới, nhất là
những năm chống Mỹ, đều đã có những bước chuyển biến. Xuân Diệu từ chỗ
nhấn mạnh cái tôi cá nhân của mình một cách mạnh mẽ, đầy sự kiêu ngạo:
Ta là Một, là Riêng là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
Thì nay, trải qua cuộc đấu tranh bản thân, Xuân Diệu đã chuyển biến,
lột xác để trở thành một thi sĩ kiểu mới:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu
Tôi sống với cuộc đời yêu dấu
Của triệu người chiến đấu gian lao
nó. Một trong những nhân tố hàng đầu dẫn đến sự trưởng thành của nhà thơ,
Trong đời sống xã hội xuất hiện những cá thể người như một đơn vị tồn
dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận và cảm thụ thế giới trong cách tổ
tại độc lập với các cá thể khác. Điều đó đã giúp khẳng định vị thế của con
chức xây dựng văn bản trữ tình.
người trong cộng đồng. Nhưng như Các Mác đã khẳng định: “Con người là sự
1.1.2.2. Bản chất xã hội nhân loại của cái tôi trữ tình
tổng hòa mọi mối quan hệ xã hội”, con người có thể độc lập tự chủ, suy nghĩ
Nhà thơ Sóng Hồng đã đưa ra một định nghĩa về thơ: “Thơ không chỉ
và hành động theo cách riêng của mình, nhưng con người không bao giờ biệt
nói lên tình cảm nhà thơ mà nhiều khi thông qua đó nói lên niềm hy vọng của
lập với cộng đồng, với nhân loại. Làm thơ là để bày tỏ tình cảm, là sự giao
cả một dân tộc, những ước mơ của nhân dân, vẽ nên nhịp đập của trái tim
lưu với mọi người xung quanh những vấn đề về số phận, về cuộc sống con
quần chúng và xu thế chung của lịch sử loài người” [21, 5].
người. Những đề tài như: hạnh phúc, đau khổ, niềm vui, nỗi buồn, tình yêu,
Ngay từ độ tuổi mười tám, khi mới giác ngộ lý tưởng cộng sản (Từ ấy
sự sống và cái chết…, nghĩa là mọi vấn đề liên quan đến cuộc sống con
trong tôi bừng nắng hạ), nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện quan niệm về một cái tôi
người, đã trở thành đề tài truyền thống. Đó là đề tài mà bất cứ nhà thơ thời đại
mang bản chất xã hội hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng:
nào cũng quan tâm. Do vậy, thơ trữ tình trong lăng kính hẹp nhất của cái nhìn
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
cá thể, lại luôn luôn phản chiếu những vấn đề chung nhất của con người. Tập
Để tình trang trải với trăm nơi
thơ Việt Bắc của Tố Hữu có đến 6 bài thơ do tác giả dịch từ thơ nước ngoài.
23
24
Điều đó không phải ngẫu nhiên. Tố Hữu đã thấy những bài thơ đó phản ánh
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
được tấm lòng của người dân Việt Nam trong kháng chiến. Về một phương
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
diện khác, những bài thơ đó đã góp thêm tiếng nói tâm tình, thông cảm của bè
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông
bạn đối với những hy sinh mất mát của nhân dân ta trong chiến tranh. Những
Vận dụng lý luận về bản chất xã hội, nhân loại của cái tôi trữ tình về
bài dân ca Nam Tư hay những câu thơ của Ximônốp (Đợi anh về) dường như
việc tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy có nhiều điều
đã vì Việt Nam mà hát, đã vì Việt Nam mà viết, bởi một lẽ rất đơn giản, chiến
hấp dẫn. Sáng tác thơ của Chế Lan Viên thể hiện rõ xu hướng vận động từ cái
tranh đã gây nên bao nhiêu cảnh đau thương cho mọi người dân và bất kỳ ở
tôi cá nhân, cô đơn khép kín (trước cách mạng), đến cái tôi hòa nhập vào cái
đâu quân đế quốc xâm lược cũng gieo tang tóc như vậy.
ta cộng đồng (sau cách mạng). Quá trình đó đã được tác giả viết thành những
Nếu như ở phương diện cái tôi trữ tình mang tính chủ quan cá nhân,
chúng ta quan tâm đến mối quan hệ giữa cái tôi nhà thơ với cái tôi trữ tình, thì
tiểu luận, những bài thơ đặc sắc. Đó là quá trình như Chế Lan Viên đã từng
khái quát:
phương diện cái tôi trữ tình mang bản chất xã hội nhân loại này, chúng ta chú
- Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui
ý đến mối quan hệ giữa cái tôi trữ tình với cái ta cộng đồng
- Từ chân trời một người đến chân trời tất cả
Chúng ta thừa nhận thơ trữ tình là vương quốc chủ quan, nhưng cái chủ
- Từ mất nỗi đau riêng để được niềm vui chung
quan này vẫn hướng về cái ta chung mang tính xã hội, nhân loại. Đặc biệt,
1.1.2.3. Bản chất thể loại của cái tôi trữ tình
trong những hoàn cảnh lịch sử khi con người phải đối mặt với những thiên tai
Cái tôi trữ tình gắn với thể loại thơ trữ tình thông qua sự cảm nhận chủ
khủng khiếp, với những thế lực giặc xâm lăng cường bạo, lúc đó mọi người
quan về hiện thực nhà thơ đã tích lũy cho mình một nguồn tư liệu cần thiết.
đều phải tập hợp trong một lực lượng để tạo nên sức mạnh đối phó. Ở nước
Nguồn tư liệu ấy được xem như là nội dung, chất liệu làm nên tác phẩm. Đến
ta, hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho ta thấy rõ được khối
lượt nó, cái tôi trữ tình sẽ sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật đặc thù và tổ
sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Chiến tranh khốc liệt, sự tồn vong của dân
chức toàn bộ thế giới ấy dưới hình thức một văn bản trữ tình. Rõ ràng, việc
tộc được đặt lên hàng đầu. Hoàn cảnh ấy sẽ ít có chỗ cho cái tôi cá nhân tồn
đưa hiện thực vào trong tác phẩm ở thơ trữ tình phải khác với tác phẩm tự sự
tại. Nếu như thơ trữ tình lúc đó không phải là những lời hiệu triệu mọi người
hay tác phẩm kịch. Bởi thế cần phải nắm được bản chất nghệ thuật thẩm mĩ
xông lên phía trước mà chỉ quay xung quanh những cảm xúc cá nhân khép
của cái tôi trữ tình và sáng tạo theo những quy tắc riêng của thể loại. Trước
kín, cô đơn thì thơ sẽ rất lạc lõng. Thơ lúc bấy giờ phải là lời hiệu triệu, cổ vũ
hết là hình thành tứ thơ và xác lập vị thế cái tôi trữ tình. Tứ thơ là cái cốt lõi
quần chúng nhân dân, vóc nhà thơ phải là ở những vị trí chiến đấu. Thơ phải
tư tưởng, là sự kết tinh cảm xúc, suy tư của chủ thể trữ tình. Gọi là tứ trước
thể hiện sự lo toan trước vận mệnh nước nhà, phải đề cao ý thức công dân sẵn
hết là để phân biệt với ý trong một bài thơ có nhiều ý. Nhưng phải có một ý
sàng hy sinh cái riêng cho quyền lợi chung của đất nước:
lớn bao trùm toàn bài. Có người hiểu ý bao trùm toàn bài thơ ấy là tứ của bài
Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
thơ. Nhưng phân tích kỹ, tứ và ý là hai bình diện khác nhau. Các ý mà văn
25
26
bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp đầy đủ qua bài
Trường hợp thứ ba là những bài thơ trữ tình viết về một loại nhân vật
thơ mà do tứ thơ gửi lên. Cùng với tứ thơ là sự xác lập tư thế trữ tình. Đó là
nào đó như bài thơ Bà mẹ Việt Bắc của Tố Hữu hay bài thơ Bữa cơm thường
những hình thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ.
trong bản nhỏ của Chế Lan Viên viết trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Cái tôi trữ tình bộc lộ trong thơ dưới ba hình thức cơ bản. Có khi dưới
Trong thơ khi đã xác lập được tứ thơ và vị thế trữ tình, nhà thơ sẽ tổ
dạng trực tiếp gắn với cuộc đời riêng của người viết. Thường trong những
chức hình thức văn bản trữ tình. Mọi sự lựa chọn từ thể thơ cho đến hệ thống
trường hợp ấy, cái tôi trữ tình rất gần hoặc cũng chính là cái tôi của tác giả và
từ ngữ, vận nhịp, kết cấu,… đều in đậm dấu ấn của chủ thể và phù hợp thị
nhà thơ thường sử dụng một cách trực tiếp qua các đại từ nhân xưng “tôi”
hiếu thẩm mĩ của con người thời đại. Cái tôi trữ tình chính luận Chế Lan Viên
hoặc “ta”:
ưa lối thơ văn xuôi tạo cái thế trùng điệp liên hoàn của ngôn ngữ thơ:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi, cầm hỏa hổ, có thấy hồn Tổ quốc mênh
mang như ta cưỡi nghìn xe thiết giáp.
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Và những biên đội oai hùng giết giặc giữa trời mây?
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
1.1.3. Những nhân tố tạo nên sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ
(Từ ấy - Tố Hữu)
Hay như trường hợp của Chế Lan Viên:
Cái tôi trữ tình với tư cách là một hiện tượng nghệ thuật, nó có sự hình
thành, phát triển, kết thúc hoặc chuyển hóa sang một dạng khác. Quá trình
Giã mẹ ra đi kháng chiến bốn phương trời
vận động ấy khó hình dung một cách đầy đủ trong thơ của một số tác giả mà
Kết nạp Đảng, bỗng quay về quê mẹ!
sự nghiệp thơ của họ quá ngắn ngủi, chỉ xuất hiện với một vài ấn phẩm. Phần
Có phải quê hương gọi ta về đấy nhỉ?
đông các tác giả khác có số lượng tác phẩm nhiều lại sáng tác qua các giai
Dặn dò ta, khuyên nhủ ta thêm
đoạn lịch sử và văn học có nhiều bước biến chuyển thì dấu ấn của sự vận
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ)
động càng rõ nét.
Trường hợp thứ hai là cảnh ngộ sự việc trong thơ không phải là cảnh
Chế Lan Viên là một tác giả lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông kéo dài
ngộ riêng của tác giả. Nhà thơ nói lên cảm nghĩ về những sự kiện mà mình có
hơn nửa thế kỷ qua ba chặng đường lớn của văn học Việt Nam thế kỷ XX.
dịp trải qua hoặc chứng kiến như một kỷ niệm, một quan sát:
Nghiên cứu thơ Chế Lan Viên, ai cũng dễ dàng nhận thấy, thơ ông giữa giai
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
đoạn này với giai đoạn khác đều có bước tiến triển. Trong những bài tiểu
Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ
luận, hay một số bài thơ của mình ông cũng khẳng định điều đó. Ông viết:
Con ngọc trai đêm hè đáy bể
- Mất nỗi đau riêng để được niềm vui chung
Uống thủy triều bỗng sáng hạt châu
- Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm.
27
28
Hơn thế nữa, ông còn chỉ ra nguyên nhân tạo ra bước biến chuyển. Một
mạn thoát ly chối bỏ cuộc sống thực tại (Với tôi tất cả như vô nghĩa - Tất cả
trong những nguyên nhân đó là vai trò của lãnh tụ (Người thay đổi đời tôi -
không ngoài nghĩa khổ đau) và cái tôi siêu hình hoang tưởng (Làm bóng ma
người thay đổi thơ tôi) và vai trò của nhân dân. Nhân dân như một ngọn
Hời sờ soạng đêm mơ). Nghiên cứu thơ Chế Lan Viên các giai đoạn sau này,
nguồn trong lành đã nâng đỡ hồn thơ Chế Lan Viên:
ta cũng thấy rõ sự ảnh hưởng to lớn của hoàn cảnh xã hội đối với sự hình
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
thành và phát triển của cái tôi trữ tình trong thơ.
Nói đến hoàn cảnh xã hội còn là nói đến sự tiếp nhận của người đọc.
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Trong sáng tạo nghệ thuật, không thể không chú ý đến đối tượng tiếp nhận.
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Có một thực tế là nhà thơ đã tạo ra công chúng của mình nhưng công chúng
Có thể nêu lên đây những nhân tố đã thúc đẩy sự vận động của cái tôi
trữ tình trong thơ nói chung và thơ Chế Lan Viên nói riêng.
1.1.3.1. Hoàn cảnh xã hội, các trào lưu văn học và sự tiếp nhận của
người đọc
cũng có thể tạo ra nhà thơ của họ. Thơ Đường luật rất uyên bác trong thời kỳ
văn học trung đại, chủ yếu là để phục vụ cho tầng lớp trí thức, quan lại quý
tộc. Văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 với Thơ mới và tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn được viết ra hướng tới độc giả chủ yếu là tầng lớp trẻ, là tầng
Đây được xem là nguyên nhân khách quan. Giữa hoàn cảnh xã hội và
lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản ở thành thị. Cả hai bộ phận văn học nói trên
tiến trình văn học có mối quan hệ khăng khít. Đó là mối quan hệ giữa hạ tầng
không gần gũi lắm với bộ phận bình dân. Đến thời kỳ kháng chiến, văn học
cơ sở và kiến trúc thượng tầng. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà trong một
mang khuynh hướng sử thi đem tiếng nói cộng đồng, hướng tới quảng đại
bài văn học sử về một giai đoạn đều phải thông qua bước tìm hiểu hoàn cảnh
quần chúng, đặc biệt là quần chúng công nông binh. Viết cho quần chúng thì
xã hội. Hoàn cảnh này đã tác động đến cái tôi trữ tình. Bởi vì, cái tôi trữ tình
phải viết những vấn đề gì sát thực với cuộc sống và nhất là sát với trình độ
bao giờ cũng là sản phẩm của một thời đại. Có thể thấy rõ điều này qua tập
tiếp nhận của họ. Tương tự như vậy, đến thời kỳ sau 1975 khi mà cuộc chiến
thơ đầu tay của tác giả. Có tới năm yếu tố chi phối tư duy nghệ thuật, hình
tranh đã kết thúc, đất nước bước vào thời kỳ hòa bình, cuộc sống và nghệ
thành nên cái tôi trữ tình trong Điêu tàn:
thuật trở lại với muôn mặt đời thường, thị hiếu thẩm mĩ của người đọc thay
1. Cuộc sống lầm than của dân tộc bị áp bức trước cách mạng
đổi, người ta quan tâm nhiều đến những tác phẩm phản ánh đời tư thế sự, đến
2. Phong trào thơ mới (1932 - 1945)
đời sống cá nhân. Điều đó buộc nhà thơ phải thay đổi giọng điệu, từ giọng
3. Những quan niệm của Trường thơ loạn của nhóm thơ Bình Định
điệu “vang ngân” chuyển sang “giọng trầm” của cuộc sống thường nhật:
4. Ảnh hưởng của gia đình, quê hương, những tháp Chàm ở Bình Định
5. Ảnh hưởng của các thứ tôn giáo.
Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm
Hay:
Cả 5 yếu tố trên thuộc về hoàn cảnh xã hội là những nguyên nhân
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
khách quan tạo nên cái tôi trữ tình độc đáo trong Điêu tàn. Đó là cái tôi lãng
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời.
29
30
Như vậy, nghiên cứu sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ không
biểu đạt hấp dẫn cho thơ. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Chế Lan Viên
thể bỏ qua đối tượng tiếp nhận của người đọc. Một nhà thơ lớn được đánh giá
đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm ấy của thể loại thơ và tạo
cao phải nói lên được tiếng nói phù hợp với tâm tư tình cảm thị hiếu của bạn
nên những bài thơ đặc sắc. Đặc biệt là trong hai hình thức mà Chế Lan Viên
đọc.
thành công nhất đó là thơ tứ tuyệt và thơ tự do.
Một trong những nhân tố khách quan khác cũng có ảnh hưởng tới sự
1.1.3.2. Sự trưởng thành của nhà thơ
hình thành và phát triển cái tôi trữ tình của tác giả đó là trào lưu văn học của
Quá trình sống và sáng tạo nghệ thuật là một quá trình không ngừng
thời đại và những kinh nghiệm của thể loại. Chế Lan Viên viết Điêu tàn vào
tích lũy kinh nghiệm qua sự trải nghiệm cuộc đời. Sự trưởng thành của nhà
những năm phong trào Thơ mới đạt đến đỉnh cao của mình. Nhìn rộng ra thì
thơ là nguyên nhân chủ quan có vai trò cốt lõi trong việc thúc đẩy sự vận
đây là thời kỳ văn học dân tộc đang trên đà chuyển biến mang tính chất cách
động cái tôi trữ tình trong thơ. Cái tôi trữ tình bao giờ cũng gắn với ngoại
tân so với lịch sử hàng nghìn năm phát triển. Văn học trong quá trình hiện đại
cảnh, với thời đại. Xét đến cùng chủ thể vẫn đóng vai trò quyết định. Cũng
hóa. Phong trào Thơ mới có tác động lôi kéo thúc đẩy mầm mống tài năng thơ
trong một hoàn cảnh xã hội và văn học tác động như nhau, nhưng sự nhận
của Chế Lan Viên phát triển. Hơn thế nữa, khi đã là thành viên của phong
thức về thực tại ở mỗi người lại khác nhau. Không phải mọi nhà thơ đều có sự
trào, Chế Lan Viên đã đóng một vai trò tích cực. Với tư cách là người trong
phát triển trong sự nghiệp sáng tạo. Nhưng nhìn chung đối với đa số các nhà
cuộc, Chế Lan Viên không thể không hấp thụ những nguyên tắc sáng tác của
thơ sự trưởng thành của họ về thế giới quan và nhân sinh quan là một thực tế,
Thơ mới. Mặc dầu Chế Lan Viên đã đưa đến cho Thơ mới một giọng điệu
một yếu tố thúc đẩy sự vận động cái tôi trữ tình. Nhà thơ Pháp Aragông (1897
riêng, một nét cá tính sáng tạo độc đáo đến mức “kỳ dị”, nhưng phải thấy rằng
- 1982) nhờ sự giác ngộ “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” đã chuyển từ
cái tôi trữ tình trong Điêu tàn có những nét tương đồng với cái tôi lãng mạn
một nhà thơ siêu thực sang một nhà thơ trữ tình cộng sản. Bước biến chuyển
của Thơ mới. Ông tìm thấy ở đó tiếng nói đồng cảm của một bộ phận tầng lớp
của Chế Lan Viên cũng có nét tương tự. Bài thơ Người thay đổi đời tôi, người
thanh niên tiểu tư sản bế tắc:
thay đổi thơ tôi trong tập Hoa ngày thường - Chim báo bão là bài thơ tiêu
Ôi tâm tư ngăn giữa bốn bờ tường
biểu cho điều đó. Bài thơ nói tới vai trò của lãnh tụ đã làm thay đổi cuộc đời
Chờ gió mới nhưng cửa đều đóng kín
của tác giả và đã tạo nên bước biến chuyển trong cuộc đời thơ ông. Như một
(Lửa thiêng - Huy Cận)
hệ quả tất yếu: cuộc đời được đổi thay đã kéo theo sự thay đổi về thơ. Trong
Nói về ảnh hưởng mà kinh nghiệm của thể loại đưa lại, ta cũng thấy
các tiểu luận cũng như trong các bài thơ được sáng tác sau năm 1954, Chế
Chế Lan Viên là người chịu ảnh hưởng khá sâu sắc. Thế kỷ XX, thể loại thơ
Lan Viên hơn bất cứ nhà thơ nào khác đã nói nhiều về sự thay đổi này. Từ
đã tích lũy cho mình những kinh nghiệm quý báu. Các thể thơ truyền thống
tâm hồn một thi sĩ cảm thương đến tâm hồn thi sĩ tham gia cải tạo thế giới đối
như thơ Đường luật, thơ lục bát không ngừng được hoàn thiện, cộng thêm đó
với Chế Lan Viên là cả một bước đường rèn luyện phấn đấu không ngừng.
thể thơ tự do tuy mới được hình thành nhưng cũng đưa đến những hình thức
Khi cuộc đời đã có một hướng đi đúng đắn “từ chân trời một người đến chân
31
32
trời tất cả”, nhà thơ cũng có sự thay đổi. Tất cả đã làm nên một sức sống mới
Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, một nhà văn hóa có vị trí quan
trọng trong văn học Việt Nam hiện đại. Trong hơn năm mươi năm cầm bút,
cho thơ:
“Ta là ai?” - như ngọn gió siêu hình
ông đã để lại một khối lượng tác phẩm lớn và đa dạng: trên mười tập thơ,
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
hàng chục tập bút ký, tiểu luận, phê bình đã xuất bản và hàng ngàn trang di
“Ta vì ai ?” - khẽ xoay chiều ngọn bấc
cảo mới được tập hợp, bước đầu được in thành ba tập Di cảo thơ.
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh
(Hai câu hỏi)
1.2. Vị trí văn học sử của nhà thơ Chế Lan Viên trong nền thơ ca
Việt Nam hiện đại
Chế Lan Viên là một nhà thơ gắn bó đời và thơ mình với vận mệnh dân
tộc và sự nghiệp cách mạng, đồng thời luôn luôn thể hiện những khát khao
sáng tạo của một bản lĩnh, một tâm hồn thi sĩ. Nhiều tác phẩm của ông đã có
tiếng vang lớn, in đậm dấu ấn trong lòng độc giả trở thành đỉnh cao trong
Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên nằm trọn trong thế
thành tựu thơ Việt Nam hiện đại. Sáng tác của Chế Lan Viên, cùng với những
kỷ XX. Đây là thế kỷ có nhiều sự kiện lịch sử và văn học dân tộc đạt đến đỉnh
hoạt động văn hóa phong phú của ông đã có tác động tích cực và ảnh hưởng
cao nhất của thiên niên kỷ.
rộng rãi trong đời sống Việt Nam hiện đại và trên trường quốc tế.
Những tháng ngày ấy, vượt qua muôn vàn gian khổ hi sinh, nhân dân ta
Sinh thời và sau khi Chế Lan Viên mất, mỗi tác phẩm cũng như sự
đã lập nên những chiến công hiển hách trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
nghiệp sáng tác của ông đã được giới nghiên cứu phê bình chú ý. Dù có
Tổ quốc. Đồng thời, đây cũng là thế kỷ nền văn học nước nhà có nhiều bước
những ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung Chế Lan Viên được đánh giá như
biến chuyển mạnh mẽ. Văn học không ngừng vận động, đổi mới theo xu
một thi sĩ tài năng, một phong cách đặc sắc.
hướng hiện đại hóa, dân chủ hóa cả về mặt nội dung và hình thức biểu hiện.
Văn học Việt Nam đã chuyển từ văn học trung đại sang văn học hiện đại.
Nói về vị trí văn học sử của nhà thơ Chế Lan Viên, Nguyễn Bá Thành
đã từng khẳng định: “Trong tiến trình lịch sử thơ hiện đại Việt Nam ở thế kỷ
Thế kỷ XX, chúng ta có nhiều nhà thơ nổi tiếng. Đầu thế kỷ có các nhà
XX, hiếm có nhà thơ nào chiếm lĩnh được đỉnh cao ở cả ba thời kỳ tiêu biểu
thơ lớn như Tản Đà, Phan Bội Châu… Giai đoạn 1930 - 1945 đã xuất hiện
nhất như nhà thơ Chế Lan Viên” [57, 3]. Điều này đã được khẳng định qua
những nhà thơ trẻ nổi tiếng như Tố Hữu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Xuân
các chặng đường sáng tác của ông.
Diệu, Huy Cận,… Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến nay đã có
Thời kỳ sáng tác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, giữa lúc
biết bao nhà thơ đầy tài năng như: Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi,
phong trào Thơ mới (1932 - 1945) đang thịnh hành, đảm đương sứ mệnh
Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Giang Nam, Thanh Thảo… Trong số các nhà
“một thời đại mới trong thi ca” thì tập thơ Điêu tàn của Chế Lan Viên ra đời.
thơ đó, Chế Lan Viên được xem là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất
Đây là một tập thơ mỏng gồm 36 bài, được viết khi tuổi đời, tuổi nghề văn
của thế kỷ.
chương của nhà thơ còn rất trẻ. Nhưng khi xuất hiện giữa làng thơ, nó đã tạo
nên sự kinh dị và thán phục đối với mọi người. Nguyễn Vĩ, một nhà thơ lúc
33
34
bấy giờ thuộc bậc đàn anh trong số các nhà Thơ mới khi nhận xét tập thơ đã
Đi theo phương hướng này, trong thơ Chế Lan Viên, vai trò của trí tuệ
không ngần ngại mà cho rằng: “Đây là những lời thanh cao tuyệt vời đáng ghi
rất nổi bật. Vì giàu chất trí tuệ nên thơ Chế Lan Viên cũng giàu suy tưởng.
nhận vào lịch sử thi ca” [26, 25]. Tiếp đến, các học giả Hoài Thanh - Hoài
Thơ ông không chỉ đi vào miêu tả biểu hiện cảm xúc mà còn đi sâu, cắt nghĩa
Chân trong Thi nhân Việt Nam cũng đã dành nhiều lời bình mang tính khẳng
mọi hiện tượng của đời sống. Đặc biệt, trong những trang thơ viết về Tổ quốc,
định về giá trị tập thơ đầu tay này.
ông đã đưa đến cho người đọc những suy tưởng lớn về đất nước và con người
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến 1975 là thời kỳ đỉnh cao nhất trong
Việt Nam thời đại. Người đọc nhận ra được cội nguồn dân tộc từ cái chiều
sự nghiệp thơ của Chế Lan Viên. Với những tập thơ tiêu biểu như Ánh sáng
sâu, cái bề xa của những trang sử đã trải qua đầy đau thương và hào hùng. Tất
và phù sa (1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967), Những bài thơ
cả đưa đến cho chúng ta niềm tự hào về Tổ quốc ta trong thời đại Hồ Chí
đánh giặc (1972)…, Chế Lan Viên đã thật sự làm sôi động văn đàn và làm vẻ
Minh.
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
vang cho cả nền văn học chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Sau 1975, Chế Lan Viên đã để lại hàng trăm bài thơ đặc sắc được in
Chế Lan Viên không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà lý luận, phê
trong ba tập Di cảo. Trong đó, với hơn một nửa số lượng bài thơ được sáng
bình thơ sắc sảo, độc đáo. Điều này không phải chỉ được thể hiện trên những
tác trong những năm cuối đời, Chế Lan Viên một lần nữa tạo nên sự sửng sốt
tiểu luận viết bằng văn xuôi mà ngay cả trong thơ. Như là một hiện tượng độc
đối với độc giả yêu thơ. Trong ba tập Di cảo này, có tập Di cảo II (1993) đã
đáo, gần như là có một không hai, Chế Lan Viên trở thành người sử dụng thơ
được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng tác phẩm thơ xuất sắc nhất của
để bàn luận về thơ một cách say sưa và đầy đủ nhất. Các tác giả khác cũng
năm 1994.
dùng thơ để bàn luận về thơ. Cuối thế kỷ XIX, nhà thơ yêu nước Nguyễn
Thơ Chế Lan Viên ở giai đoạn sáng tác nào cũng được đánh giá cao và
Đình Chiểu đã dùng thơ để bàn luận về chức năng của thơ:
khiến nhiều người yêu thích. Tạo nên điều đó là bởi thơ Chế Lan Viên độc
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
đáo và chân thành; ngay cả ở điều hay, hay điều dở, ông đều sống hết mình.
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Thơ ông đã đi đúng vào nguồn mạch chính của dân tộc và thời đại. Thơ Chế
Lan Viên khi thì như tiếng kèn xông trận, khi thì thủ thỉ tâm tình lắng sâu vào
Bước sang thế kỷ XX, ta cũng bắt gặp nhiều tác giả thơ đã dùng thơ để
bàn luận về thơ:
lòng người đọc, với tư cách là một người bạn đường, hơn thế nữa đó là người
Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
hướng dẫn. Một trong những đặc sắc của thơ Chế Lan Viên làm nên sức hấp
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền
dẫn đối với độc giả còn bởi thơ Chế Lan Viên là thứ thơ giàu chất triết lý,
giàu màu sắc nhận thức luận. Đó là thứ thơ mà như ông đã từng quan niệm:
Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh
Không chỉ “ơ hời” mà còn đập bàn quát tháo lo toan
(Sóng Hồng)
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Hồ Chí Minh)
35
36
Tuy có nhiều tác giả dùng thơ bàn luận về thơ nhưng họ cũng chỉ dừng
Nhân dân ở quanh ta mà ta nào có biết
lại ở một số bài thơ trong những thời điểm sáng tác nhất định. Còn đối với
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng
Chế Lan Viên, đọc các tập thơ của ông từ những năm còn rất trẻ mới bước
Đến thời kỳ sáng tác mới, sống chan hòa trong cuộc sống chung của
vào nghề cho đến những năm cuối đời, chúng ta đều thấy tập thơ nào cũng có
Cách mạng, ông đã nói được vai trò của Đảng, Bác Hồ đối với sự nghiệp sáng
nhiều bài thơ bàn luận về thơ trên các phương diện: Quan niệm về thơ và
tác của mình. Ông viết:
Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi
người làm thơ, ý thức trách nhiệm của người cầm bút. Tác giả còn bàn luận về
cả nội dung và nghệ thuật cũng như các thao tác, các kỹ thuật làm thơ. Nhiều
câu thơ của Chế Lan Viên bàn luận về thơ vừa phản ánh quan niệm của chính
Và đối với nhân dân, ông đã thấy được nguồn sức mạnh, nguồn cổ vũ
lớn lao:
tác giả vừa phản ánh quan niệm về thơ của cả một phong trào thơ và của cả
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
một thời kỳ lịch sử. Chẳng hạn, ông nói đến tính chất của thơ xưa và thơ nay.
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Trước hết ông đi từ thực tế của thơ mình:
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
Sau đó, ông khái quát, nói lên xu thế vân động của cả một nền thơ trong
thời đại mới:
Thơ sau 1975 có sự chuyển đổi giọng điệu. Bắt nhịp xu thế này, thơ
Chế Lan Viên cũng đã thể hiện xu thế vận động từ giọng thơ “vang ngân” đã
chuyển sang “giọng trầm”:
Thơ xưa chỉ hay than mà ít hỏi
Giọng cao bao nhiêu năm giờ anh hát giọng trầm
Đảng dạy ta thơ phải trả lời
Tiếng hát lẫn với im lìm của đất
Đề cập đến vị trí nhà thơ trong từng thời kỳ, ông cũng có những quan
Từ những phạm vi đề cập trên đây, một lần nữa, chúng ta có thể khẳng
niệm khác nhau. Nếu trong Điêu tàn ông quan niệm “thi sĩ là người mơ,
định: Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng, một nhà văn hóa lớn có vị trí
người say, người điên”,… thì đến thời kỳ chống Mỹ, ông viết:
quan trọng trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tác phẩm thơ của ông đã để
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
lại ấn tượng sâu sắc cho nhiều thế hệ độc giả. Sự nghiệp sáng tác của ông mãi
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi
là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo.
Thể hiện quá trình vận động của cái tôi trữ tình trong thơ của mình,
Chế Lan Viên đã diễn đạt nó bằng nhiều câu thơ xúc động, gây ấn tượng
mạnh mẽ. Đó là sự đánh giá nghiêm khắc thơ mình thời kỳ trước Cách mạng:
Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không
Trong một bài thơ vĩnh biệt Chế Lan Viên (tháng 6 năm 1989), nhà thơ
lớn Tố Hữu viết:
Mai sau những cánh đồng thơ lớn
Chắc có thơ anh bón sắc hồng
1.3. Sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên
37
38
Nghiên cứu sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên là
tình trong thơ cũng khác nhau. Nhưng xâu chuỗi lại, nó đã tạo nên một phong
nhằm chỉ ra cái tôi trữ tình của tác giả ở giai đoạn này với giai đoạn khác có
cách thống nhất. Đó là sự kết hợp giữa trí tuệ và cảm xúc, trong đó chất trí tuệ
những nét tương đồng và khác biệt như thế nào. Từ đây, có thể thấy được sự
là một thế mạnh tạo nên diện mạo riêng của cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan
kế thừa và cách tân trong sáng tạo nghệ thuật của Chế Lan Viên. Để đi đến
Viên:
mục tiêu đó trước hết cần phải có cái nhìn toàn cảnh về sự hình thành cái tôi
Thơ không chỉ đưa ru mà còn thức tỉnh
trữ tình trong thơ Chế Lan Viên qua một chặng đường dài hơn nửa thế kỷ
Không chỉ “ơ hời” mà còn đập bàn, quát tháo, lo toan.
sáng tác của ông.
(Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…)
Chế Lan Viên bước vào sự nghiệp sáng tác từ lúc còn rất trẻ và miệt
Chúng ta có thể thấy sự hình thành cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan
mài sự nghiệp ấy cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng. Năm 1983, chưa phải là
Viên qua ba thời kỳ lớn gắn liền với ba thời kỳ phát triển của văn học Việt
năm cuối cùng của cuộc đời ông nhưng ông đã giải bày tâm sự:
Nam thế kỷ XX.
Tôi tiếp cận trang giấy ngày mười sáu tuổi
1.3.1. Thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám
Bây giờ sáu ba
Đây là thời kỳ mở đầu sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên. Ông xuất
Cái trang mơ ước một đời chưa với tới
hiện giữa làng thơ với tác phẩm đầu tay Điêu tàn. Tập thơ này gồm 36 bài
Dần xa
được nhà xuất bản Thái Dương, Hà Nội xuất bản năm 1937. Sau Điêu tàn, từ
Tôi như người xâu sợi chỉ vào cây kim ngay trước mặt
năm 1937 đến 1945, Chế Lan Viên vẫn tiếp tục làm thơ. Những bài thơ này,
Chỉ sắp lọt rồi. Kim bỗng lùi xa
một số đã được đăng rải rác trên các báo thời kỳ đó. Đến năm 1992 và 1994,
Tôi bước lên một bước. Kim lùi thêm một bước
nhà văn Vũ Thị Thường đã tuyển chọn 26 bài đưa vào hai tập Di cảo. Các bài
Ấy thế mà hết một cuộc đời văn học
thơ đều có nét chung giống nhau về nguồn cảm hứng sáng tạo, về bút pháp
Tính tháng ngày nửa thế kỷ trôi qua
thể hiện… Vì vậy khi nghiên cứu, ta chỉ cần chọn Điêu tàn là đủ.
(Hồi ký bên trang viết)
Điêu tàn được viết khi Chế Lan Viên mới ở độ tuổi mười lăm - mười
Năm mươi ba năm gắn bó với thơ, qua bao bước đường thăng trầm của
bảy, đang là học sinh trung học ở Quy Nhơn (Bình Định). Thời kỳ đó, bản
xã hội và của cuộc đời riêng, Chế Lan Viên đã miệt mài với sự nghiệp sáng
lĩnh và cá tính sáng tạo của nhà thơ mới được hình thành, bản thân chịu nhiều
tác và đã cung cấp cho nền văn học Việt Nam hiện đại mười bốn tập thơ. Số
ảnh hưởng của phong trào Thơ mới và thơ tượng trưng phương Tây, đặc biệt
lượng tác phẩm ấy chứng tỏ sức sáng tạo dồi dào và bền bỉ của nhà thơ. Với
là Bôđơle. Cùng với sự ra đời của Điêu tàn, lần đầu tiên cái tôi trữ tình trong
số lượng tác phẩm thơ nhiều như vậy nhưng thơ Chế Lan Viên không đơn
thơ Chế Lan Viên xuất hiện với đầy đủ diện mạo của nó. Cái tôi này mang
điệu và cũng không hề tản mạn. Do ảnh hưởng của thời đại và sự nhận thức
những đặc điểm chung của cái tôi trong thơ lãng mạn.
của cuộc đời và nghệ thuật ở mỗi chặng đường thơ khác nhau nên cái tôi trữ
39
Nó nằm ở vị trí trung tâm cảm nhận làm thế giới quan. Đây là cái tôi cá
nhân tự biểu hiện, khép kín và cô đơn về mặt xã hội. Cái tôi thể hiện ước mơ
40
biến mạnh mẽ trong tâm hồn thơ của Chế Lan Viên cũng như đội ngũ các nhà
Thơ mới đến với nền thơ cách mạng.
và hành động để giải thoát cuộc sống thường ngày với những “ưu phiền, đau
- Đảng đã cho tôi sáng mắt, sáng lòng (Xuân Diệu)
khổ với buồn lo” bằng nhiều con đường - trong đó con đường thoát li thực tế
- Người thay đổi đời tôi, Người thay đổi thơ tôi (Chế Lan Viên)
vẫn là con đường chủ đạo. Bên cạnh những nét tương đồng, cái tôi trữ tình
Nhìn một cách khái quát, trong ba giai đoạn sáng tác thì ở giai đoạn
trong Điêu tàn vẫn có nhiều nét khác biệt so với cái tôi trữ tình của Thơ mới.
sáng tác thứ hai này, thơ Chế Lan Viên đạt được nhiều thành tựu nhất cả về số
Như Nguyễn Văn Long đã nhận xét: “Điêu tàn có những cảm xúc mạnh mẽ,
lượng và chất lượng nghệ thuật. Tất nhiên, để có được thành quả đó, người
những suy tưởng và cấu tứ táo bạo, một số hình ảnh khoáng đạt chứa đựng
nghệ sĩ đã phải trải qua một quá trình phấn đấu, đấu tranh với chính bản thân
sức mạnh nội tâm và trí tưởng tượng phong phú, nó báo hiệu cho sự hình
mình.
thành của một hồn thơ rộng lớn” [33, 72].
Trong Điêu tàn, Chế Lan Viên đã tạo ra một thế giới nghệ thuật khác
Đi xa về hóa chậm
Biết bao là nhiêu khê.
lạ. Đó là thế giới u linh của những quỷ dữ, ma Hời gắn với sự tàn vong của
Từ năm 1945 đến năm 1975, Chế Lan Viên đã sáng tác và giới thiệu
đất nước Chiêm Thành xưa. Có thể cảm nhận một cách chung nhất về cái tôi
với bạn đọc sáu tập thơ. Mở đầu là tập thơ Gửi các Anh, được viết trong thời
trữ tình trong thơ Chế Lan Viên ở chặng đường đầu sáng tác: đó là cái tôi lãng
kỳ kháng chiến chống Pháp. Tập thơ này, như tác giả đánh giá là không hay,
mạn siêu hình mang màu sắc triết lý hoang tưởng, nó nói nhiều đến cái vô
nhưng nó ra đời đánh dấu bước biến chuyển trong tâm hồn thơ Chế Lan Viên.
nghĩa, tuy rằng cái vô nghĩa hợp lý.
Từ một trí thức tiểu tư sản, một công chức của chế độ cũ, bây giờ ông đã trở
1.3.2. Thời kỳ 1945 - 1975
thành một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, sát cánh cùng đồng bào chiến đấu
Đây là giai đoạn thứ hai trong sự nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên.
bảo vệ Tổ quốc. Con người công dân, con người xã hội ở Chế Lan Viên đã có
Giai đoạn này gắn với những sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc. Mở đầu là
một sự thay đổi căn bản và có thể nói là mau lẹ. Điều này đã có ảnh hưởng tạo
cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Mốc son chói lọi này đã đưa đất nước
nên sự thay đổi trong con người nghệ sĩ ở ông. Ông đã rời bỏ những băn
ta từ nô lệ đến độc lập, đưa những người dân bị áp bức lầm than trở thành
khoăn và bế tắc về cái “tôi” và cuộc sống để cảm nhận được những vẻ đẹp, sự
những chủ nhân của lịch sử. Đối với văn học, cách mạng cũng đã giải phóng
hi sinh to lớn và những tình cảm cao quý của nhân dân. Từ đây, thơ Chế Lan
cho văn nghệ sĩ, mở ra cho họ một chặng đường sáng tác mới. Tiếp đến, hai
Viên đã hình thành một cái tôi trữ tình kiểu mới rất tiêu biểu cho thơ ca thời
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
kỳ kháng chiến chống Pháp. Đó là cái tôi trữ tình chính trị, mang khuynh
hội ở miền Bắc trở thành nơi thử thách, tôi luyện nên chất thép, tạo nên nguồn
hướng sử thi. Có thể nói đây là sự chuyển biến mang ý nghĩa bước ngoặt,
cảm hứng sáng tạo dào dạt cho những ai được vinh dự sống và sáng tác trong
chuyển từ cái tôi lãng mạn siêu hình sang cái tôi hiện thực cách mạng. Mặc dù
giai đoạn này. Thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh đã tạo nên bước chuyển
có bước biến chuyển, nhưng nhìn chung thơ Chế Lan Viên giai đoạn này chưa
41
42
đạt đến sự ổn định và nhuần nhuyễn trong nghệ thuật, chưa có một phong
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng !
cách rõ nét.
Ôi, Tổ quốc ! Nếu cần ta chết
Những năm tháng có ý nghĩa nhất trong sự nghiệp sáng tác của Chế
Lan Viên sau cách mạng tháng Tám là thời kỳ miền Bắc bước vào cao trào
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Và tình yêu đó đã nâng vị trí nhà thơ lên một tầm cao mới:
xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ
Cho tôi sinh ra giữa những ngày diệt Mỹ
cứu nước. Hồn thơ Chế Lan Viên thật sự dạt dào tuôn chảy phải kể từ sau
Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy
năm 1954, khi cuộc sống mới hình thành trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi.
Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi vào
Thấy nghìn núi, trăm sông diễm lệ
Trong vòng hai mươi năm, có bốn tập thơ của Chế Lan Viên đã lần lượt
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên giai đoạn 1945 - 1975 không
chỉ vang ứng với những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước mà nó còn
rung động, tinh tế trước những nét bình dị của cuộc sống đời thường:
đến với độc giả. Đầu tiên phải kể đến Ánh sáng và phù sa. Tập thơ gồm 69
Khi tôi muốn thơ tôi thành hầm chông giết giặc
bài được sáng tác trong khoảng 1955 - 1960. Ánh sáng và phù sa trình bày
Thành một nhành mai mát mắt cho đời.
cuộc phấn đấu trong tâm hồn và tư tưởng nhà thơ để vượt qua những nỗi đau
Chùm thơ Hoa ngày thường ở thơ Chế Lan Viên là một dạng biểu hiện
riêng hòa hợp với niềm vui chung, thể hiện niềm tin yêu, lòng biết ơn và sự
của cái tôi đời tư, thế sự, với những cảm xúc vui buồn, suy tư trước cuộc sống
gắn bó sâu sắc của nhà thơ với nhân dân, đất nước và Đảng, Bác Hồ.
gia đình, đời thường hàng ngày.
Nguyễn Văn Long đã có nhận xét: “Ánh sáng và phù sa đã giải quyết
Điểm qua các tập thơ trong giai đoạn sáng tác thứ hai của Chế Lan
được căn bản vấn đề “riêng chung”, nhà thơ đã đi trọn hành trình “từ chân trời
Viên, ta có thể nêu một cách khái quát giai đoạn này thơ ông đã hình thành
một người đến chân trời tất cả”” [33, 73].
một cái tôi trữ tình đa dạng, phong phú, bao gồm cái tôi sử thi, cái tôi ngợi ca
Tiếp theo Ánh sáng và phù sa là các tập thơ được sáng tác trong những
cuộc sống mới và cái tôi đời tư thế sự. Trong đó, cái tôi sử thi vẫn là cái tôi
năm chống Mỹ sục sôi trên cả hai miền đất nước. Đó là: Hoa ngày thường -
nổi bật nhất. Đó là cái tôi giàu chất triết lý, đưa đến những suy tưởng lớn về
Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973)
đất nước và con người Việt Nam anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh.
và Ngày vĩ đại (1975). Với các tập thơ này, Chế Lan Viên đã làm một cuộc
1.3.3. Thời kỳ sau 1975
chuyển quân đưa thơ lên sát chiến hào của cuộc chiến đấu. Cái tôi trữ tình
Chiến thắng mùa xuân năm 1975 đã đưa lịch sử dân tộc ta chuyển sang
trong thơ Chế Lan Viên đạt đến độ viên mãn của cái tôi sử thi. Trong đó, tình
trang mới. Chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất cùng đi lên xây dựng
yêu Tổ quốc trở thành tình cảm thiêng liêng:
chủ nghĩa xã hội. Hoàn cảnh hòa bình, cuộc sống dần dần trở lại với những
qui luật bình thường. Đất nước đứng trước những vận hội mới, hứa hẹn một
Ôi, Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
tương lai tươi sáng, nhưng cũng đứng trước khó khăn, thử thách go của thời
43
44
kỳ hậu chiến. Tình hình đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của văn
mươi của thế kỷ trước. Ba tập Di cảo có 567 bài, bao gồm những bài được
học, làm thay đổi quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Sáng tác của nhà thơ
Chế Lan Viên sáng tác từ những năm trước Cách mạng tháng Tám cho đến
Chế Lan Viên giai đoạn này cũng không nằm ngoài qui luật chung đó. Sau
những năm cuối đời. Trong đó, người đọc đặc biệt chú ý đến 287 bài được
ngày đất nước được giải phóng, Chế Lan Viên chuyển vào sinh sống ở thành
Chế Lan Viên sáng tác trong hai năm 1987 và 1988.
phố Hồ Chí Minh và qua đời tại đây vào năm 1989.
Trong khoảng chưa đầy 15 năm ấy, nhà thơ đã sống với những niềm
Đến Di cảo thơ, giọng điệu thơ đã thay đổi, chất sử thi nhạt dần,
nhường chỗ cho chất đời tư thế sự:
tâm trạng có phần đối lập nhau. Ông có niềm hân hoan với những chiến công
Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm,
thắng giặc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai bán nước đã qua, vừa có những lo
Tiếng hát lẫn với im lìm của đất,
toan, bức xúc với những khó khăn của đời sống xã hội và của bản thân trong
Vườn lặng im mà thơm mùi mít mật
cơn khủng hoảng của đất nước thời kỳ đó. Năm 1986, đất nước bước vào thời
Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân.
kỳ đổi mới, nhưng không phải ngày một ngày hai đã thay đổi ngay cuộc sống.
Vóc nhà thơ bây giờ cũng đã được giản lược đi. Từ chỗ “Vóc nhà thơ
Tiếc rằng, khi cuộc sống bước đầu có những đổi thay thì Chế Lan Viên lại bị
đứng ngang tầm chiến lũy”, bây giờ ông viết: “Tôi chỉ là một nhà thơ cưỡi
bệnh nặng và từ giã cuộc đời.
trâu”.
Sau năm 1975, có sáu tập thơ của Chế Lan Viên đã được xuất bản (đấy
Di cảo thơ đã tạo nên một bước chuyển của nhà thơ từ những chủ đề có
là chưa kể tập thơ Hoa trước lăng Người, một tập thơ mang tính tổng hợp
tính chất lịch sử, có tính chất thời sự về Tổ quốc, nhân dân, về dân tộc và thời
những bài thơ, những đoạn thơ Chế Lan Viên viết về Bác Hồ từ năm 1953 -
đại sang chủ đề thế thái nhân tình. Chế Lan Viên nhìn thẳng vào sự thật đời
1976). Đó là các tập thơ: Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1984), Ta gửi
mình mà suy ngẫm, trăn trở.
cho mình (1986) và ba tập Di cảo thơ xuất bản vào các năm 1992, 1993 và
Điểm lại ba chặng đường lớn trong sự nghiệp sáng tác của Chế Lan
1996. Cái tôi trữ tình trong thơ ông ở giai đoạn sáng tác thứ ba này đã có sự
Viên, ta thấy mỗi chặng đường thơ ông đã hình thành một cái tôi trữ tình
phân hóa trên cơ sở kế thừa và cách tân cái tôi trữ tình ở các giai đoạn trước.
riêng biệt. Cái tôi trữ tình trong thơ ông trước Cách mạng là cái tôi trữ tình
Ở ba tập thơ đầu từ 1975 - 1984, Chế Lan Viên một mặt tiếp tục phương
lãng mạn mang màu sắc triết lý siêu hình hoang tưởng. Cái tôi trữ tình trong
hướng đã mở ra trong giai đoạn thơ chống Mỹ (thơ mang khuynh hướng sử
chặng đường từ 1945 - 1975 là cái tôi trữ tình chính trị mang khuynh hướng
thi và cảm hứng lãng mạn), mặt khác hồn thơ ấy có phần lắng lại, hướng về
sử thi giàu chất hiện thực, giàu sự suy tưởng về dân tộc, thời đại và con người
vấn đề của cuộc sống bình thường hàng ngày. Đến Di cảo thơ, sau khi Chế
Việt Nam trong chiến đấu và xây dựng. Còn cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan
Lan Viên qua đời, người vợ của ông là nhà văn Vũ Thị Thường đã sưu tầm,
Viên giai đoạn 1975, đặc biệt là trong các tác phẩm sáng tác những năm cuối
biên tập những bài thơ chưa được công bố thành các tập Di cảo. Nhà xuất bản
đời là cái tôi trữ tình suy ngẫm về thế thái nhân tình và cuộc đời riêng của tác
Thuận Hóa (Thừa Thiên Huế) đã cho in thành ba tập vào những năm chín
giả. Những nét riêng trong cách biểu hiện cái tôi trữ tình trong từng chặng
45
46
đường sáng tác nói lên sự đa dạng, phong phú, nói lên sự vận động, chuyển
đồng bằng của văn học Việt Nam thế kỷ XX, nó đứng sừng sững như một cái
biến của thơ Chế Lan Viên.
tháp Chàm chắc chắn và lẻ loi, bí mật” [54, 198].
Tuy nhiên, từ giai đoạn trước 1945 cũng đã xuất hiện nhiều ý kiến phê
CHƯƠNG 2
TỪ CÁI TÔI LÃNG MẠN ĐẾN CÁI TÔI HIỆN THỰC
bình tập thơ Điêu tàn với những quan điểm trái ngược nhau. Tố Hữu trong bài
CÁCH MẠNG MANG KHUYNH HƯỚNG SỬ THI
thơ Tháp đổ (tháng 3 năm 1938) đã đứng trên lập trường Mác xít phê phán
VÀ NGỢI CA CUỘC SỐNG MỚI
những hạn chế của Điêu tàn:
Ai lẩn thẩn đưa màu tươi hoa lá
2.1. Từ cái tôi trữ tình lãng mạn
Rắc trên cành khô chết nhựa trong cây?
Cái tôi trữ tình lãng mạn được hình thành trong tập thơ Điêu tàn
Ai khờ dại nhặt từng viên gạch rã
(1937). Khi viết tập thơ này, tuổi đời, tuổi nghề Chế Lan Viên còn rất trẻ.
Băng bó vườn cổ tháp đã lung lay?
Nhưng với sức sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú, ông đã tạo nên được
một cái tôi trữ tình độc đáo gây ấn tượng mạnh mẽ đối với độc giả.
2.1.1. Vị trí văn học sử của tập thơ Điêu tàn trong sự nghiệp sáng tác
của Chế Lan Viên
Sau Cách mạng cho đến những năm trước thời kỳ đổi mới, Điêu tàn
còn bị phê phán nhiều lần. Nhưng với bài thơ Tháp đổ thì Tố Hữu có lẽ là
người đầu tiên đã mạnh dạn phê phán những hạn chế của Điêu tàn. Trong sự
phê phán đó có phần cực đoan nặng nề nhưng cũng biểu hiện một thái độ
Cho đến nay, thơ của Chế Lan Viên đã được các nhà xuất bản in thành
chân thành của Tố Hữu đối với Chế Lan Viên. Như vậy là trước cách mạng đã
15 tập với hàng ngàn bài. Quả là một cái tháp thơ đồ sộ, nổi bật trên đồng
có nhiều ý kiến bàn luận, khen chế khác nhau. Nhưng khách quan mà nói ý
bằng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX. Nếu so với cái tháp thơ ấy thì Điêu tàn, tác
kiến khẳng định vẫn chiếm ưu thế. Điêu tàn vẫn được công luận đánh giá
phẩm đầu tay của ông còn quá mỏng. Toàn bộ tập thơ chỉ có 36 bài. Mặc dầu
cao.
vậy Điêu tàn vẫn có một vị trí xứng đáng làm nên một giai đoạn sáng tác
không thể nào quên của tác giả.
Sau Cách mạng tháng Tám, việc đánh giá tập thơ trở nên sôi động và
có nhiều ý kiến khác biệt nhau hơn. Đây cũng là tình trạng chung thuộc nhiều
Ngay từ khi mới ra đời, Điêu tàn đã được mọi người chú ý. Trên công
tác phẩm văn chương giai đoạn 1930 - 1945. Những năm trước thời kỳ đổi
luận, những nhà nghiên cứu mang ý thức hệ tư sản đều đề cao giá trị của tập
mới (1986), nhìn chung người ta không đề cao Thơ mới và Tiểu thuyết Tự lực
thơ này. Nguyễn Vỹ, một nhà thơ thuộc bậc đàn anh trong số các tác giả Thơ
văn đoàn. Thậm chí họ còn cho đó là thứ văn chương “bạc nhược suy đồi”.
mới đã nhận xét tập thơ có nhiều bài độc dáo, cảm động và không ngần ngại
Do đó các tác phẩm văn học lãng mạn trong đó có Điêu tàn trong một thời
cho rằng: “Đây là những lời thanh cao, tuyệt vời, đáng ghi nhận vào lịch sử
gian dài bị đánh giá rất thấp.
thi ca”. Còn Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam cũng đã khẳng định
Không riêng gì những người nghiên cứu phê bình văn học mới có ý
một cách mạnh mẽ vị trí của Điêu tàn trong nền thơ ca đương thời: “Giữa
kiến phê phán văn học lãng mạn, mà ngay các nhà văn, nhà thơ “tiền chiến”
47
48
đã được “cách mạng hóa” cũng có lúc chối bỏ những tác phẩm của mình
và trí tưởng tượng phong phú, nó báo hiệu cho sự hình thành của một hồn thơ
trước đây. Đọc các bài viết của Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh…
rộng lớn” [33, 72].
chúng ta thấy các tác giả đã tự phủ nhận mình riết róng đến mức nào.
Trong chuyên luận Một thời đại trong thơ ca, Hà Minh Đức cũng
Chế Lan Viên cũng không nằm ngoài quỹ đạo này. Hơn thế nữa, ông là
khẳng định: “Điêu tàn có một vị trí văn học sử quan trọng trong toàn bộ sự
người thường hay “sám hối” nhất khi nhìn nhận chặng đường sáng tác trước
nghiệp sáng tác của Chế Lan Viên, đưa Chế Lan Viên trở thành “một trong
cách mạng:
những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới”” [15, 156].
Chớ bao giờ quên nỗi chua cay của một thời thơ ấy
Tổ quốc trong lòng ta mà có cũng như không
2.1.2. Ảnh hưởng của thời đại đối với việc hình thành cái tôi trữ tình
trong Điêu tàn
Nhân dân ở quanh ta mà ta nào có biết
Cái tôi trữ tình bao giờ cũng là sản phẩm của một thời đại. Chế Lan
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng.
Viên viết Điêu tàn trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam đang trải qua nhiều biến
Thực ra thời kỳ đó cũng đã có ý kiến bảo vệ Thơ mới. Năm 1966, trong
đổi và phân hóa sâu sắc. Một mặt là hiện thực đen tối do chế độ thuộc địa nửa
một bài phát biểu ở nước ngoài, Chế Lan Viên cũng đã khẳng định Thơ mới
phong kiến đưa lại. Chế độ này đã phơi trần bộ mặt tàn bạo, phi lý, bịp bợm
“thuộc văn mạch dân tộc” [5]. Còn Xuân Diệu cũng đã từng nói: “Người ta
mà điển hình là các vụ đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Yên Bái và phong
định chôn thơ mới nhưng chôn không nổi đâu, có chôn đến mấy lớp đất nó
trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Hoàn cảnh ấy đã gây nên không khí u uất bao trùm
cũng lóp ngóp bò dậy” [5]. Những ý kiến như vậy tỏ rõ sự phản ứng bức xúc,
xã hội làm cho không ít người điêu đứng, bế tắc, hoang mang, dao động
nghiêm túc và đúng đắn trong việc bảo vệ những di sản của văn học quá khứ,
(trong đó có một bộ phận thuộc tầng lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản). Bên
nhưng chưa phải là ý kiến của số đông dư luận.
cạnh hiện thực đó, năm 1930 Đảng cộng sản Đông Dương ra đời đã tạo ra
Phải đến sau Đại hội VI của Đảng, mọi mặt của đời sống xã hội bước
một nguồn ánh sáng soi rọi con đường đi cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của
vào thời kỳ đổi mới thì văn học quá khứ, nhất là văn học lãng mạn Việt Nam
Đảng, phong trào công nhân và phong trào yêu nước của quần chúng như một
trước Cách mạng tháng Tám mới được đánh giá một cách khách quan, khoa
đợt sóng thần, ngày một dâng cao liên tiếp đập vào thành lũy của bọn cướp
học, thỏa đáng. Những nghi án về văn học lãng mạn được giải tỏa. Theo dòng
nước và lũ bán nước, tạo nên một khí thế tức nước vỡ bờ mùa thu 1945. Khí
thời cuộc, Điêu tàn cũng được hồi sinh và tỏa sáng. Tác phẩm được đưa vào
thế ấy dần dà tạo nên một sự lay động, thức tỉnh tâm hồn và nhận thức của
giáo trình của một số trường đại học không phải để nhằm phê phán như trước
mọi người.
mà là để khẳng định. Trong cuốn Văn học Việt Nam 1945 - 1975, các tác giả
Có thể thấy sự tác động khách quan của hoàn cảnh đối với sáng tác của
viết: “Điêu tàn là tập thơ đầu tay được viết khi nhà thơ mới bước vào tuổi
Chế Lan Viên. Chế Lan Viên không tiếp nhận ánh sáng cách mạng từ sớm
thanh niên nhưng Điêu tàn có những cảm xúc mạnh mẽ, những suy tưởng và
như Tố Hữu. Nhưng ông đã tiếp nhận nỗi khổ đau của con người làm thơ với
cấu tứ táo bạo, một số hình ảnh khoáng đạt chứa đựng một sức mạnh nội tâm
tâm trạng bị dày vò và niềm bi phẫn của sự bế tắc:
49
50
Với tôi tất cả như vô nghĩa
lịch sử trên mảnh đất Bình Định, quê hương thứ hai của ông. Đó là những
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
tháp Chàm, chứng tích của một nền văn minh cổ kính, của đất nước Chiêm
Về mặt văn học, Chế Lan Viên viết Điêu tàn vào những năm phong
Thành xưa sụp đổ. Chúng ta đồng ý rằng không phải Chế Lan Viên viết Điêu
trào Thơ mới đạt đến đỉnh cao của mình. Nhìn rộng ra thì đây là thời kỳ văn
tàn cho dân tộc Chàm, nhưng khi ông thể hiện thực trạng nô lệ của đất nước
học dân tộc đang trên đà chuyển biến mang tính chất cách tân so với lịch sử
ta lúc bấy giờ ông đã mượn hình ảnh điêu tàn của nước non Chàm.
hàng nghìn năm phát triển. Văn học trong quá trình hiện đại hóa. Quá trình
Chế Lan Viên viết Điêu tàn lúc còn trẻ. Lúc đó, ông còn là một nhà thơ
này diễn ra từ đầu thế kỷ XX, nhưng phải kể đến thời kỳ 1932 - 1945, nó mới
lãng mạn, một thanh niên trí thức tiểu tư sản. Lòng yêu nước thương nòi ở
được đẩy lên một bước phát triển mới với nhiều cuộc cách tân trên tất cả các
ông đã có nhưng chưa thật thường trực như một số nhà thơ cách mạng đương
thể loại. Trong đó phải kể đến thể loại thơ. Thơ ca giai đoạn này phát triển
thời. Hoàn cảnh xã hội và tiểu sử bản thân đã hình thành quan điểm nghệ
chưa từng có. Năm 1941, khi tổng kết mười năm phát triển của phong trào
thuật của tác giả và để hình thành nên một cái tôi trữ tình độc đáo trong Điêu
Thơ mới, Hoài Thanh đã khẳng định một cách dứt khoát đầy hào hứng: “Tôi
tàn.
quyết rằng trong lịch sử thơ ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong
2.1.3. Những biểu hiện của cái tôi trữ tình trong Điêu tàn
phú như giai đoạn này” [54, 29]. Phong trào Thơ mới có một tác động lôi kéo,
Cùng với sự ra đời của tập thơ Điêu tàn, lần đầu tiên cái tôi trữ tình
thúc đẩy mầm mống tài năng văn học của Chế Lan Viên. Với tư cách là một
trong thơ Chế Lan Viên xuất hiện một cách có hệ thống với đầy đủ diện mạo
thành viên của phong trào, Chế Lan Viên không thể không hấp thụ những
của nó. Đó là “sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và
nguyên tắc sáng tác của Thơ mới. Theo nhiều tài liệu, những năm này Chế
con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức
Lan Viên còn chịu ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp, đặc biệt là thơ
các phương tiện của thơ trữ tình tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc
Bôđơle (1821 - 1867). Chế Lan Viên tìm thấy trong tập thơ Bông hoa tội ác
đáo mang tính thẩm mĩ nhằm truyền đạt năng lượng tinh thần ấy đến người
(1857) của nhà thơ Pháp nét đồng cảm của những nỗi buồn ảo não, chán
đọc” [1, 31].
chường, tuyệt vọng và sự vùng vẫy khắc khoải mang mầu sắc thần bí. Ngoài
Điêu tàn nằm trong văn mạch của Thơ mới, được sáng tác theo khuynh
ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp, Chế Lan Viên cũng chịu ảnh hưởng của
hướng lãng mạn. Cái tôi này mang những nét đặc trưng của cái tôi trong thơ
các thứ triết học duy tâm, siêu hình và các thứ tôn giáo: “Mở đầu tôi yêu
lãng mạn. Đồng thời với trí tưởng tượng phong phú, Chế Lan Viên đã tạo ra
Chúa rồi tôi yêu Phật. Tôi tìm Chúa qua các giáo lý đạo Cơ đốc, của Tin lành.
một cái tôi trữ tình độc đáo mang đậm dấu ấn của chủ thể.
Và tôi tìm Phật nơi bản Phật của cha tôi ở kinh các chùa và ở ngoài chùa
nữa”.
2.1.3.1. Cái tôi trữ tình của Điêu tàn tiêu biểu cho cái tôi của Thơ
mới
Nói đến ảnh hưởng của thời đại, đất nước, quê hương, gia đình đối với
Cái tôi trong Điêu tàn, trước hết, đó là cái tôi tự biểu hiện. Tác phẩm
Chế Lan Viên khi viết Điêu tàn không thể không nói đến những chứng tích
văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả đối với đời sống xã