Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

tiểu luận cao học sự PHÁT TRIỂN HÌNH THÁI KINH tế xã hội của LÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.22 KB, 34 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do và tính cấp thiết của đề tài.
Lý luận hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa là lý luận cơ bản
của chủ nghĩa duy vật lịch sử do C. Mác xây dựng lên. Nó có vị trí quan trọng
trong triết học Mác. Lý luận đó đã được thừa nhận lý luận khoa học và
phương pháp luận khoa học cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực xã hội, lần
đầu tiên trong lịch sử loài người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong
nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội.
Lý luận đó giúp ta nghiên cứu đúng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội
trong giai đoạn phát triển nhất định cũng như tiến trình vận động lịch sử nói
chung của xã hội loài người.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen Qua đời, Lenin đã kế tục xuất sắc sự
nghiệp của hai ông trong việc bảo vệ, làm phong phú, sâu sắc cụ thể hơn nội
dung học thuyết Mác về hình thái kinh tế- xã hội nói chung và học thuyết
hình thái kinh tế -xã hội cộng sản chủ nghĩa nói riêng.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa là một trong
những nội dung cơ bản và quan trọng của chủ nghĩa xã hội khoa học, là
phương tiện để giải phóng giai cấp vô sản tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản. C.Mac và Ph.Ăngghen đã luận giải, chứng minh xã
hội loại người trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội (lúc đó cấc ông gọi là
“trạng thái xã hội” khác nhau). Và hình thái kinh tế- xã hội Tư bản chủ nghĩa
tất yếu sẽ bị thay thế bằng một hình thái kinh tế xã hội khác tiến bộ hơn, đó
chính là hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu học thuyết học thuyết hình thái kinh tế- xã hội cộng
sản chủ nghĩa, thời khì quá độ rừ chủ nhĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một
việc hết sức cấp bách và cần thiết trong công cuộc xây dựng đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Là sinh viên chuyên ngành CNXHKH đã được trang bị những kiến
thức cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí minh, đường lối của



1


Đảng Cộng sản Việt Nam, được sự quan tâm,hướng dẫn của thầy cô trong
khoa, sự giúp đỡ của các bạn đồng môn tôi nhận thấy việc nghiên cứu lý luận
học thuyết hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với ngành học và cần thiết cho
sự bổ sung, củng cố thêm kiến thức của mình. Chính vì thế, tác giả đã chọn đề
tài: “ Lenin bảo vệ và phát triển lý luận hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ
nghĩa, thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH trong các tác phẩm : Nhà nước và
cách mạng, Hai sách lược của Đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng dân
2.

chủ,kinh tế chính và trị trong thời đại chuyên chính vô sản” .
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
khách thể nghiên cứu của đề tài: Chủ nghĩa Mác- Lenin về hình thái
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đối tượng nghiên cứu: sự bảo vệ và phát triển lý luận hình thái kinh
tế_ xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ
nghĩa xã hội của Lenin.
Đối tượng khảo sát: để có thể nghiên cứu và làm sáng tỏ những luận
điểm cơ bản của CNDVLS về hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa,
thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội và nội dung về xây
dựng lý luận hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ từ tư
bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tìm hiểu một số tài liệu sau:
Giáo trình “ tác phẩm Lenin về chủ nghĩa xã hội khoa học” của khoa chủ
nghĩa xã hội khoa học, học viện báo chí và tuyên truyền.
các tác phẩm: ” Nhà nước và cách mạng, hai sách lược của Đảng dân
chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ,kinh tế và chính trị trong thời đại

chuyên chính vô sản” của Lenin do nhà xuất bản tiến bộ phát hành.

2


3.

Tình hình nghiên cứu có liên quan.
Vấn đề hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, thời kỳ quá độ từ
tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm.Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố
rộng rãi và được mọi người quan tâm, chú ý. Trong quá trình nghiên cứu đề
tài này tác giả đã tìm hiểu thêm một số cong trình nghiên cứu có liên quan,
tiêu biểu là một số công trình nghiên cứu dưới đây:
“ Tác phẩm Lenin về chủ nghĩa xã hội khoa học” do PGS,TS Đỗ Công
Tuấn chủ biên, của khoa CNXHKH, học viện báo chí và tuyên truyền. trong
giáo trình là hệ thống các quan điểm của Lenin về hình thái kinh tế- xã hội
CSCN, thời kì quá độ từ TBCN lên CNXH trong từng tác phẩm cụ thể.
Giáo trình “ Chủ nghia xã hội khoa học” của khoa CNXHKH, học viện
báo chí và tuyên truyền. công trình là hệ thống các quan điểm về CNXHKH,
hình thái kinh tế - xã hội CSCN, thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH.
Tác phẩm: “ Hai sách lược của đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng
dân chủ ( lenin toàn tập, tập 11, nhà xuất bản tiến bộ- 1979)”.
Tác phẩm: “ Nhà nước và cách mạng( Lenin toàn tập, tập 33, nhà xuất
bản tiến bộ-1979)”.
Tác phẩm: “,kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản
(Lenin toàn tập, tập 39, nhà xuất bản tiến bộ- 1979)”.
Đề cương bài giảng:”lý luận hình thái kinh tế- xã hội CSCN” do T.S
Nguyễn Thọ Khang và T.S Bùi Thị Kim Hậu chủ biên, của khoa CNXHKH,
học viện báo chí truyên truyền.

Sự khác biệt của tiểu luận với các công trình nghiên cứu khoa học trên
là ở chỗ tiểu luận không dập khuôn máy móc những công trình khoa học trên
mà chỉ tìm hiểu, tham khảo, nhận xét, đồng thời trích dẫn những quan điểm
quan trọng có liên quan đến đề tài tiểu luận

3


4.

Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ thêm lý luận về hình
thái kinh tế- xã hội CSCN, thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH cũng như là ý
nghĩa của nó đối với lịch sử xã hội trong ba tác phẩm cụ thể.
Để có thể đạt được mục tiêu ấy tác giả xác định cần phải hoàn thành
những nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây:
+ Tìm hiểu bối cảnh lịch sử, lý do viết tác phẩm.
+ tiến hành đọc và lược thuật trong tác phẩm, sau đó Phân tích và hệ
thống hóa những nội dung cơ bản về học thuyết hình thái kinh tế- xã hội
CSCN, thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH rồi liên kết các nội dung đó với
nhau.
+ Làm rõ tầm quan trọng của vấn đề hình thái kinh tế- xã hội CSCN,

5.

thời kỳ quá độ từ TBCN lên CNXH trong hệ thống lý luận CNXHKH.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận là chủ nghĩa duy vật lịch suwrvaf chủ nghia xduy vật
biện chứng.
Phương pháp nghiên cứu:

Phân tích- tổng hợp
Logic- lịch sử
Khái quát hóa
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ cố gắng kết hợp với
những phương pháp riêng, cụ thể như xử lý thông tin, các tài liệu thu thập,

6.

tiếp cận tài liệu và nghiên cứu tài liệu.
Kết cấu tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Tiểu luận
có kết cấu gồm 3 chương tiết.

CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ
KINH ĐIỂN VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, THỜI
KỲ QUÁ ĐỘ TỪ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
1.1.

Bối cảnh lịch sử cuối Thế kỉ XIX đầu Thế kỉ XX.
1.1.1. Tình hình thế giới.

4


Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, CNTB chuyển thành CNĐQ, các
nước đế quốc phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược nhằm tranh giành
thị trường và làm suy yếu lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trở lện
sâu sắc, trong đó có mâu thuẫn giữa Nga và nhật. Bên cạnh đó, cấc chính chủ
của các dân tộc đi xâm lược áp dụng những chính sách bóc lột, cai trị tàn bạo
đối với các dân tộc thuộc địa. mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhân dân

lao động thuộc địa trở lên hết sức gay gắt. cuộc khủng hoảng kinh tế ( 19001903) đã diễn ra ở nhiều nước tư bản Châu Âu, số người thất nghiệp tăng
nhanh. Mâu thuẫn bên trong các quốc gia đế quốc, mâu thuẫn giữa GCTS với
GCCN và nhân dân lao động cũng thêm sâu sắc.
Cũng từ cuối thế kỷ XIX, CNTB bước vào giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa. Đến đầu thế kỷ XX, những đặc điểm mới về kinh tế của chủ nghĩa đế
quốc đã được Lenin nghiên cứu và chỉ rõ trong tác phẩm” Chủ nghĩa đế quốc
– giai đoạn tột cùng của CNTB”.quá trình quá trình tích tụ và tập trung tư bản
đã dần đến hình thành các tổ chức độc quyền. đó là đặc điểm cơ bản nhất của
chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội ngày càng cao của lực
lượng sản xuất và hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng gay gắt. Vì
vậy, chu kỳ khủng hoảng kinh tế trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa rút ngắn
lại và có tính chất phá hoại nhiều hơn. Thế giới tư bản đã bước vào ngưỡng
cửa của tổng khủng hoảng. Gắn liền với khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng
xã hội: nạn thất nghiệp, sự bất công, bất bình đẳng xã hội diễn ra ngày càng
nghiêm trọng. Điều đó cũng đồng nghĩa với sự áp bức khủng khiếp của nhà
nước đối với quần chúng lao động ngày càng trở nên tàn khốc hơn, vì nhà
nước ngày càng liên kết chặt chẽ với các tập đoàn nhà nước tư bản có quyền
lực vô hạn. Nó làm cho đời sống của quần chúng khốn khổ nên không thể
chịu được và làm cho họ càng thêm căm phẫn.
Không thỏa mãn với sự thống trị trong nước tư bản tài chính còn tham
vọng xâm chiếm và thống trị các dân tộc, các quốc gia khác mà trước hết với
hình thức xuất khẩu tư bản. thực chất đây là cuộc chiến tranh để giành giật thị

5


trường của thế giới chủ nghĩa tư bản. Cuộc đấu tranh này dẫn đến kết quả cao
hơn thành sự phân chia thế giới thành những khu vực ảnh hưởng của các tổ
chức độc quyền tình hình ấy làm cho mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư
bản : mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản, giữa bọn tư sản không độc quyền và

bọn độc quyền, giữa bọn tư bản độc quyền với nhau trong một nhà nước và
giữa các nước, giữa bọn tư bản độc quyền và nhân dân các nước bị nô dịch….
Ngày càng gay gắt.
Mâu thuẫn của CNTB gay gắt đến tột độ và làm bùng nổ cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918). Sự phân chia không đồng đều thị trường
thế giới, lợi ích từ các thị trường thuộc địa đã khiến các nước đế quốc cạnh
tranh, giằng xé lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với các nước tư
bản chính quốc ngày càng gay gắt và sâu sắc. Vấn đề giải phóng dân tộc
thuộc địa cũng đã trở thành vấn đề bức thiết và nổi bật. Quá trình đó đã thúc
đẩy nhanh quá trình chín muồi của khủng hoảng cách mạng trong nhiều nước
đế quốc chủ nghĩa. Lenin gọi giai đoạn này là đêm trước của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
. lịch sử tư tưởng nhân loại đã chứng tỏ rằng, trước khi chủ nghĩa duy
vật lịch sử xuất hiện, chủ nghĩa duy tâm đã ngự trị trong nhận thức về xã hội,
song chúng đã đạt được những thành tựu và những giá trị như là tiền đề
không thể thiếu đối với sự hình thành và phát triển học thuyết hình thái kinh
tế xã hội nói chung và học thuyết HTKT_XHCSCN nói riêng những tư tưởng
về con người, xem con người là chủ thể của lịch sử, tư tưởng về xã hội như là
tổ chức lịch sử của con người, tư tuownrgr của nhân loại nói chung là một quá
trình phát triển…, là thành quả gắn liền với những tư tưởng triết học về lịch
sử xã hội, tư tưởng kinh tế chính trị về lịch sử các phương thức sản xuất và
những tư tưởng XHCN về lịch sử các cuộc đấu tranh xã hội của những trí tuệ
lớn từ thời Cổ đại phương đông và phương tây.
1.1.2. Tình hình nước Nga.
Ở nước Nga, mâu thuẫn của xã hội nga trở nên gay gắt:

6


Là nước quân chủ chuyên chế “ chế độ chuyên chế của Nga là quyền

vô hạn độ của Nga hoàng, nhân dân không được tham dự chút nào vào việc tổ
chức nhà nước và quản lý nhà nước”( Lenin toàn tập, t7. Tr 166). Khi đó các
tàn tích của chế độ nông nô còn nặng nề và lực cản đối với sự phát triển xã
hội của Nga, mặc dù rằng chế độ nông nô bị tuyên boos bãi bỏ trong sắc lệnh
của Nga hoàng vào năm 1861.
Về kinh tế: là một nước lạc hậu nhất châu âu lúc bấy giờ. Mâu thuẫn
giữa người nông dân và địa chủ sâu sắc. Là một nước lạc hậu nên các quốc
gia, các nhà tư bản trang nhau đầu tư vào, gây nên sự thay đổi thành phần giai
cấp trong dân cư, với sự hình thành một xã hội cơ cấu giai cấp mới, với sự ra
đời giai cấp tư sản và vô sản , cùng các quan hệ giữa hai giai cấp này đang
vậng động, ngày càng trở thành quan hệ cơ bản chi phối đời song xã hội Nga.
Trước tình hình đó, định hướng chính trị cho quần chúng nhân dân lao
đọng trong cuộc cách mạng dân chru tư sản đang trở nên cấp bách, trở thành
vấn đề chủ yếu nhất của cách mạng Nga,. Trong tình hình đó , Lenin đã viết
tác phẩm “ hai sách lược của đảng xã hội dân chủ” nhằm nghiên cứu thât chu
đáo đầy đủ nội dung nghị quyết đaih hội III, nhằm tuyên truyền giải thích cụ
thế của Đảng và giai cấp vô sản trong C.Mác. đồng thời vạch mặt đường lối
chủ nghĩa của phái Men-se-vich. Với sự ra đời của tác phẩm, lần đầu tiên
trong lịch sử hình thành và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như sự
xuất hiện của hình thái kinh tế xã hội được hoàn thiện về cơ bản bởi Lenin.
Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh tư tưởng ở Nga cùng với sự ra đời của tác
phẩm” Nhà nước và cách mạng” được Lenin nghiên cứu và trình bày một
cách có hệ thống. Đặc biệt là, trước tình hình cách mạng thế giới, tình hình tư
tưởng nội bộ trong phong trào công nhân, Người cần phải khôi phục và trình
bày có hệ thống các quan điểm của các nhà sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản
khoa học về vấn đề nhà nước, nhân đó phát triển hơn nữa phát triển hơn nữa
lý luận về nhà nước cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới, giúp giai cấp vô
sản hoàn thành nhiệm vụ của mình trước tình thế cách mạng đã xuất hiện ở

7



Nga cũng như các nước khác. Người đã tổng kết lại và sau này trở thành tài
liệu vô cùng cần thiết khi ông viết tác phẩm quan trọng này.
Cũng trước tình hình ở nước Nga, khi Lenin muốn tổng kết những kinh
nghiệm của nhà nước đầu tiên trên thế giới trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội chủ yếu trên hai lĩnh vực kinh tế và chính trị, , tiến tới chủ nghĩa
cộng sản, ông đã viết tác phẩm: “kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên
chính vô sản”vào dịp kỉ niệm hai năm ngày thành lập chính quyền Xô viết
1.2.

(ngày 7/11/1917- ngày 7/11/1919).
Quan điểm của chủ nghĩa mác-lenin về hình thái kinh tế-xã hội cộng sản
chủ nghĩa, thời kỳ quá độ Từ TBCN lên CNXH.
C.Mác và PH.Ăngghen đã xây dựng và vận dụng phép biện chúng duy
vật để nghiên cứu lịch sử xã hội và xây dựng chủ nghĩa duy vật về lịch sử mà
hạt nhân của nó là học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội. Học thuyết hình
thái kinh tế xã hội là một trong ba phát kiến vĩ đại của C.Mác và
PH.Ăngghen. Nhờ học thuyết hình thái kinh tế- xã hội học thuyết giá trị thặng
dư và học thuyết sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách xuất sắc các giá trị khoa học và đã khắc
phục căn bản những hạn chế lịch sử của chủ nghĩa xã hội không tưởng và các
bậc tiền bối, thực hiện bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức khoa học
của loài người về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đưa CNXH phát
triển từ không tưởng thành khoa học.
Trong “ Lời Nói Đầu’ của góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen, Mác đã nêu ra những quan điểm duy vật về con người hiện thực, về
nguồn gộc của tôn giáo, và mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, về vai trò
của quần chúng nhân dân trong cách mạng xã hội. những tư tưởng triết học
của Mác chính là phôi thai của quan niệm khoa học về hình thái kinh tế- xã

hội, tức là quan niệm về mối liên hệ giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tần
của xã hội, mặc dù khi đó Mác chưa sử dụng thuật ngữ này.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, thông qua việc phê phán những hạn
chế lịch sử rất căn bản đã trói buộc triết học của Hêghen, của L.pjoi-bắc và

8


triết học cổ điển Đức nói chung đối với nhận thức các quy luật của xã hội.
Mác và Ăngghen đã đặt nền móng cho những quan niệm khoa học trong nhận
thức vấn đề cơ bản của triết học trong lịch sử xã hội loài người, đặt nền móng
cho các luận điểm căn bản, đầu tiên, có tính khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa duy vật lịch sử. các ông đã phản ánh một cách căn bản mối quan hệ
biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,giữa cơ sở hạ tầng, giải thích
một cách khoa học quá trình vận động của xã hội laoif người qua các hình
thái kinh tế xã hội từ thấp lên cao, thông qua các cuộc cách mạng xã hội…từ
những biến đổi trong trình độ của lục lưỡng sản xuất đã kéo theo những biến
đổi của các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sơt hạ tầng của mỡi hình thái kinh
tế- xã hội. Đến lượt nó, những biến đổi trong cơ sở hạ tầng tác động làm biến
đổi căn bản, tương ứng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Xuất phát từ đời sống xã hội hiện thực với mọi biểu hiện tồn tại sinh
động của nó và nắm vững quan điểm tổng hợp, Mác và Ănghen
Đã xác định khái niệm hình thái kinh tế- xã hội thông qua việc vạch ra
những yếu tố và mối liên hệ căn bản, tất yếu của nó trong một “chế độ xã hội”
nhất định.
Tách riêng lĩnh vực sản xuất vật chất để xem xét, Mác Và Ănghen đã
vạch ra những yếu tố cơ bản là sự sản xuất ra nững tư liệu sinh hoạt, lực
lượng sản xuất và trình độ của nó, sự giao tiếp vật chất và hình thức của sự
giao tiếp, phương thức sản xuất, xã hội công dân và những mối liên hệ tất yếu
giữa chúng,được các ông quy lại thành hai mối liên hệ cơ bản là quan hệ tự

nhiên và xã hội.
Với sự ra đời của tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản, học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội nói chung, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ
nghĩa nói riêng chuyển sang một giai đoạn mới. Từ khi có Tuyên ngôn của
Đảng Cộng Sản, giai cấp công nhân quốc tế đã có được những cơ sở lý luận
khoa học để tổ chức cuộc đấu tranh tự giải phóng mình. Việc thành lập Đảng
Cộng Sản và đấu tranh có tổ chức của Giai cấp công nhân đã chứng tỏ việc
hình thành học thuyết Mác nói chung, học thuyết hình thái kinh tế- xã hội nói

9


riêng không chỉ trong lý luận mà đang từng bước được chứng minh trong thực
tiễn. sự phát triển của CNTB tất yếu dẫ tới sự thay thế nó bằng CNCS thông
qua quá trình vận động của các mâu thuẫn kinh tế, xã hội trong lòng CNTB.
Là người thừa kế, bảo vệ và phát triển CNXHKH của Mác và
Ăngghen, trong nhiều tác phẩm của mình, trong đó có tác phẩm “ hai sách
lược của đảng dân chủ- xã hội Nga trong cách mạng dân chủ”, “ kinh tế chính
trị trong thời địa chuyên chính vô sản”, trong đó nổi bật là tác phẩm ‘ Nhà
nước và Cách mạng”, Lenin đã bảo vệ và bổ sung nhiều nội dung quan trọng
trong quan niệm về hình thái kinh tế- xã hội CSCN. Lenin đã khẳng định sự
cần thiết sử dụng bạo lực cách mạng để đập tan nhà nước tư sản và thiết lập
nhà nước vô sản trong giai đoạn ĐQCN; phân tích cụ thể hơn về lý luận thời
kì quá độ từ CNTB lên CNCS và hai giai đoạn tiếp theo của hình thái kinh tếxã hội CSCN; luận chứng cho các quy luật, tính quy luật của sự ra đời, phát
triển và tự tiêu vong của nhà nước chuyên chính vô sản, của chế độ dân chủ tư
sản, cùng với sự ra đời và hoàn thiện những quan hệ sản xuất XHCN phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới với tính chất xã hội ngày
càng cao, trình độ công nghệ - kĩ thuật ngày càng hiện đại.

10



CHƯƠNG 2. SỰ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LENIN VỀ LÝ
LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ- XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA,
THỜI KÌ QUÁ ĐỘ TỪ CNTB LÊN CNXH
2.1. Tính tất yếu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa,
thời kì quá độ từ TBCN lên CNXH.
2.1.1. Tính tất yếu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Từ học thuyết hình thái kinh tế- xã hội có thể thấy hinhg thái kinh tếxã hội là một hệ thống những yếu tố và những mối liên hệ xã hội phức tạp.
Định nghĩa hình thái kinh tế- xã hội được đưa ra như sau :
“Hình thái kinh tế- xã hội là chế độ xã hội với những yếu tố và những
mối liên hệ chung, tât syếu, đặc trưng cho các xã hội cụ thể trong một giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử nhân loại nói chung. Hay hình thái kinh
tế- xã hội là chế độ xã hội mang tính chất chung, tất yếu, đặc trưng cho
những xã hội cụ thể trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử nói
chung”.
Dựa trên cơ sở những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lenin, có
thể định nghĩa về HTKT_XHCSCN như sau:
“HTKT_XHCSCN là khái niệm để chỉ một loại hình, một trạng thái tồn
tại xã hội của cộng đồng người với một cơ sở hạ tầng mà đặc trưng của nó là
QHSX CSCN ngày càng trở thành QHSX thống trị, phù hợp vơi stinhd chất
của LLSX ngày càng hiện đại, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
mà đặc trung của nó là, hệ thống thiết chế, tổ chức, ý thức, quan điểm, đạo
đức… của GCCN ngày càng giữu vai trò thống trị và do đó là một kiểu xã hội
không còn tình trạng người áp bức, người bóc lột người, con người được phát
triển ngày càng toàn diện, có cuộc sống ngày càng hạnh phúc.”
Hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa ra đời là do trong lòng
CNTB tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản về kinh tế và xã hội. Hai mâu thuẫn này



không thể giải quyết triệt để trong khuôn khổ của CNTB:
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng phát triển không ngừng với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất.
11




Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân ( những người làm ra của cải vật chất chủ
yếu cho xã hội) với giai cấp tư sản ( những người hưởng lợi trong chính xã
hội ).
Tất cả những lý do trên, dẫn tới một cuộc cách mạng do giai cấp công
nhân- người đại diện cho phương thức sản xuất mới- lãnh đạo. Sauk hi giành
thắng lợi, giai cấp công nhân thết lập một phương thức sản xuất mới tiến bộ
hơn phương thưc sản xuất TBCN, đó là phương thức sản xuất CSCN và hình
thái kinh tế- xã hội CSCN ra đời.
Ở các nước chưa trải qua giai đoạn phát triển TBCN, sự ra đời của
hình thái kinh tế- xã hội CSCN còn có lý do sau:



Mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức, phụ thuộc với chủ nghĩa thực dân và đế



quốc tay sai ngày càng sâu sắc.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng phát triển mạnh do được




trang bị lý luận khoa học, cách mạng, đó là chủ nghĩa Mác-Lenin.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới- nhà nước Xô viết- là hình
ảnh hấp dẫn cổ vũ nhân dân các dân tộc thuộc địa làm cách mạng giải phóng
dân tộc.
2.1.2. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
Trước tiên, khi nói đến tính tất yếu chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về
khái niệm về thời kỳ quá độl ên CNXH như thế nào nhé:
“ TKQĐ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội, bắt đầu từ khi GCCN và nhân dân lao động
tiến hành cuộc CMXHCN giành được chính quyền nhà nước cho đến khi
CNXH được phát triển trên cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa- tư tưởng và xã
hội của chính nó ”.
Phân loại: dựa vào điểm xuất phát của các nước khi đi lên CNXH, có
thể phân loại thành hai đoạn của thời kỳ quá độ:
+ Quá độ trực tiếp ( quá độ từ CNTB lên CNXH)
+ Quá độ gián tiếp ( quá độ từ tiền TBCN lên CNXh
Tính tất yếu của TKQĐ lên CNXH như sau:

12




TKQĐ lên CNXH là một tất yếu để cải biến cách mạng xã hội cũ thành xã hội
mới- xã hội XHCN( mà đặc biệt là cần có thời gian cải biến cách mạng đối
với quan hệ sản xuất TBCN vì quan hệ sản xuất không thể tự nảy sinh trong




CNTB).
TKQĐ lên CNXH là một tất yếu để bảo vệ vững chắc CNXH trước mọi âm



mưu, hành động chống phá của các loại kẻ thù trong và ngoài nước.
TKQĐ lên CNXH là một tất yếu để bản than GCCN và các giai cấp nhân dân
lao động quen dần với kỉ luật lao động mới và trật tự xã hội mới- xã hội
XHCN.
2.2. Điều kiện, đặc điểm của hình thái kinh tế- xã hội CSCN, thời kì
quá độ từ TBCN lên CNXH.



những điều kiện cơ bản.
Khi nghiên cứu, phân tích HTKH_XHCSCN nói riêng, C.Mác đã sử
dụng phương pháp duy vật lịch sử. Chính vì vậy ông đã phát hiện ra rằng: sự
phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịc sử tự nhiên.
Về sau Lenin đã phân tích tầm quan trọng của phương pháp luận đó và chỉ ra
rõ trong các tài liệu của Mác, người không tìm thấy một ý định nào nhằm bại
ra những ảo tưởng, nhằm đạt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà
người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề CNCS giống như một nhà
tự nhiên học đặt, chính sự giải phẫu của Mác đối với xã hội TBCN theo
phương pháp đó đã cho phép ông dự báo một cách khoa học rằng, sự sụp đổ
của GCTS và thắng lợi của GCVS đều là tất yếu như nhau, và do đó, sự sụp
đổ hình thái kinh tế- xã hội TBCN và sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội
CSCN là một tất yếu lịch sử.




Điều kiện cơ bản cho sự ra đời của hình thái kinh tế- xã hội CSCN ở các nước
TBCN phát triển:
Một là, sự chín muồi của các tiền đề cơ sowrhaj tầng và KTTT trong
lòng CNTB( các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng).

13


Hai là, sự bùng nổ và thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN do GCCN
và các tầng lớp nhân dân lao động khác tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản).


Điều kiện cơ bản cho sự ra đời hình thái kinh tế- xã hội CSCN ở các nước
chưa có TBCN phát triển và các nước chưa qua tư bản:
Một là, nhân loại đã chuyển sang “ giai đoạn cuối củng của CNTB tức
chủ nghĩa đế quốc.
Hai là, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, sự ra đời ngày càng hoàn thiện của Chủ nghĩa Mác- Lenin(hệ tư
tưởng của gia cấp mình).



đặc điểmTKQĐ lên CNXH.
TKQĐ lên CNXh là thời kỳ hình thành HTKT_XHCSCN( thời kỳ cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới XHCN- giai đoạn đầu của hình thái kinh
tế- xã hội CSCN). Xã hội trong thời kỳ này bao gồm những đặc điểm sau:
Một là, trong xã hội mà trên mọi lĩnh vực đang có sự đan xen bên cạnh
nhau, những bộ phận của CNXH và của CNTB và của các xã hội trước đó.
Hai là, thời kỳ quá độ, là thời kỳ cách mạng phải traiw qua những khó

khăn vô cùng to lớn, cả khó khăn khách quan( kinh tế, lạc hậu, chiến tranh,
nội chiến…), lẫn khó khăn chủ quan( là những sai lầm, thất bại tạm thời do
thiếu kinh nghiệm, do yêu cầu lớn lao của nhiệm vụ xây dựng XHCN cải
thiện dời sống…), do đó thời kỳ qua sđộ lên CNXH là thời phức tạp và lâu
dài.
Ba là, cuộc đấu tranh giai cấp trong TKQĐ là gay go quyết lieetjvaf
tạo ra những đột biến cách mạng” long trời, nở đất”.đây là thời kỳ đấu tranh
với nội dung mới, trong điều kiện mới và với những hình thức mới nhằm xóa
bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới từ gốc đến ngọn,thời kỳ hình thành những
đặc trưng của CNXH, để CNXH có thể phát triển trên cơ sở của chính nó.
Bốn là, trong TKQĐ tính đặc thù dân tộc được biểu hiện rõ nét nhất.
Nguyên nhân có những đặc thù là do các nước, các dân tộc bước vào TKQĐ
14


có xuất phát điểm về trình độ phát triển không giống nhau: điều kiện lịch sử,
truyền thống lịch sử…khác nhau.
2.3. Nội dung lý luận hình thái kinh tế-xã hội CSCN, thời kỳ quá độ
lên CNXH.
Theo C.Mác và Ăngghen, hình thái kinh tế - xã hội CSCN chia thành
hai giai đoạn : giai đoạn thấp và giai đoạn cao của xã hội cộng sản:
Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản chủ nghĩa, sau này Lenin và các
đảng cộng sản gọi giai đoạn này là giai đoạn “ chủ nghia xã hội” hay “ xã hội
chủ nghĩa” mà nguyên tắc cơ bản trong xã hội là “ làm theo năng lực hưởng
theo lao động”.
Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sau này Lenin và các
đảng cộng sản gọi giai đoạn này là “ chủ nghĩa cộng sản” hay “ xã hội cộng
sản chủ nghĩa” , khi đó con người ta vượt hẳn ra khỏi giới hạn chật hẹp của
pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình: làm theo năng
lực hưởng theo nhu cầu.

Sau này Lenin đã bảo vệ, kế thừa và diễn đạt hình tượng mà Mác và
Ăngghen đã nêu về sự phân kỳ HTKT-XHCSCN thông qua một số tác phẩm.
Lenin chia thành 3 giai đoạn :
+ những cơn đau đẻ kéo dài ( thời kỳ quá độ);
+ giai đoạn đầu ( chủ nghĩa xã hội);
+ giai đoạn cao( chủ nghĩa cộng sản);
Trong tác phẩm” Hai sách lược của đảng dân chủ- xã hội trong cách
mạng dân chủ” Lenin chỉ ra rằng: “ Từ cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ bắt
đầu chuyển ngay và chính là tùy theo lực lượng của chúng ta, lực lượng của
giai cấp vô sản, giác ngộ và có tổ chức mà chuyển ngay lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta quyết không dừng lại nửa chừng” (trích tập 11,tr 28).
Việc chuyển giai đoạn thứ nhất của cuộc cách mạng sang giai đoạn thứ
hai – Lenin chỉ rõ: “ sẽ tùy thuộc vào mức độ chuẩn bị và trình độ giác ngộ
của GCVS đoàn kết với nông dân nghèo” Lenin nghiên cứu lực lượng cách
15


mạng dân chủ tư sản chuyển biến thành cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát
từ sự phân tích khoa học các mối quan hệ kinh tế- xã hội ở Nga. Sự phát triển
CNTB ở Nga đòi hỏi phải thủ tiêu vô số tàn dư của quan hệ phong kiến- nông
nô.
Trong bài “ Chủ nghĩa xã hội và nông dân” lenin cũng viết rằng: “ ở
Nga toàn bộ nội dung của cách mạng không phải là lực lượng đấu tranh với
nhau, mà hai cuộc đấu tranh khác nhau: một cuộc đâu stranh trong lòng chế
độ chuyên chế nông nô hiện đại, và một cuộc đấu tranh trong lòng chế độ
tương lai đang nảy sinh, chế độ dân chủ tư sản. lenin giải thích rằng bên cạnh
cuộc đấu tranh của toàn dân thắng lợi của cách mạng dân chủ, còn có cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản để xây dựng xã hội XHCN. Cùng vói toang thể
giai cấp nông dân, GCVS đấu tranh cho thắng lợi của cách mạng dân chủ tư
sản, chống chế đọ chuyên chế, chống bọn địa chủ, CNTB, làm cho cách mạng

dân chủ chyển biến thành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lenin viết: “ Lãnh
đaoh toàn dân, và đặc biệt là lãnh đạo nông dân để giành lấy tự do hoàn toàn,
để thực hiện một cuộc cách mạng dân chủ triệt để… lãnh đạo những người bị
bóc lột để thực hiện chủ nghĩa xã hội”.( trích tập 11, tr 133).
Theo Lê-nin, “sách lược của một đảng là thái độ chính trị của đảng đó,
hay là tính chất, phương hướng, phương pháp hoạt động chính trị của đảng
đó” (V.I.Lê-nin Toàn tập, tập11., tr.11).. Chiến lược và sách lược chính trị của
một đảng, có thể hiểu đó là thái độ, hành vi chính trị của một chính đảng.
Hành vi này được quy định trước hết bởi tính chất giai cấp của đảng đó (gắn
hoạt động của đảng với giai cấp nào?, thể hiện đầy đủ đến mức nào những lợi
ích của giai cấp đó…) Hành vi chính trị của một đảng bao gồm những yếu tố
thường xuyên, cố định, giữ nguyên ý nghĩa trong suốt một thời kỳ dài, đồng
thời với những yếu tố biến đổi, mềm dẻo, cơ động, những biện pháp có hiệu
quả trong việc thực hiện đường lối chính trị.
Lê-nin cũng chỉ ra rằng, chuyên chính này mới chỉ là nền chuyên chính
dân chủ, chưa phải là chuyên chính xã hội chủ nghĩa, chưa đụng chạm gì đến
16


những cơ sở của chủ nghĩa tư bản.(tr 54).. Chuyên chính dân chủ-cách mạng
của giai cấp vô sản và nông dân chỉ là một nhiệm vụ tạm thời chốc lát của
những người xã hội chủ nghĩa, nhưng nếu làm ngơ hoặc coi thường nhiệm vụ
đó trong thời kỳ cách mạng dân chủ thì chẳng khác gì phản lại chủ nghĩa xã
hội và làm lợi cho phe phản động( tr 95).
Bởi vì, có thực hiện được chuyên chính dan chủ này thì giai cấp vô sản
mới có thể bước tiếp trên con đường đấu tranh cách mạng tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Lê-nin chỉ rõ, chuyên chính dân chủ-cách mạng là một hiện tượng có
tính lịch sử, nghĩa là nó có quá khứ của nó và tương lai của nó. Lê-nin đã
nhấn mạnh rằng, tương lai của chuyên chính dân chủ là chuyên chính xã hội

chủ nghĩa.
Phân tích mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng – cách mạng dân chủtư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa – dẫn đến kết quả là hai nền
chuyên chính nói trên, Lê-nin đã chỉ ra sự đan xen, quyện chặt của những
thành phần riêng biệt, cục bộ của hai cuộc cách mạng đó. Dưới sự lãnh đạo
của giai cấp vô sản, cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã trở thành một cuộc
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, cách mạng dân chủ triệt để. Cách mạng
dân chủ tư sản kiểu mới ở nước Nga không coi việc lật đổ chế độ quân chủ
chuyên chế Nga hoàng là mục đích duy nhất cuối cùng mà chỉ coi đó là bước
đường tất yếu phải qua để tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
Về phương pháp tiến hành cách mạng, cuộc cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới, dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản được tiến hành bằng bãi công,
tổng bãi công chính trị và chuyển sang khởi nghĩa vũ trang để lật đổ mọi trật
tự phong kiến bằng bạo lực cách mạng.
Như vậy chúng ta thấy, cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là một cuộc
cách mạng dân chủ triệt để, nhằm tới những mục tiêu “dân chủ tiên tiến” thoát

17


ra khỏi phạm vi chật hẹp của những yêu cầu dân chủ tư sản thuần túy, chuẩn
bị những tiền đề cần thiết cho sự chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng của giai cấp vô sản phải nhận thức được
tính tất yếu của cách mạng dân chủ tư sản, của sự chuyển biến từ cách mạng
dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa và lãnh đạo giai cấp vô sản
cùng toàn thể nhân dân lao động tham gia một cách chủ động, tích cực và triệt
để vào cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới.
Lê-nin nhấn mạnh rằng: “Là những đại biểu của giai cấp tiên phong,
của giai cấp duy nhất cách mạng, của giai cấp cách mạng triệt để, không hoài
nghi, không do dự, chúng ta phải đề ra trước toàn thể nhân dân những nhiệm

vụ của cuộc cách mạng dân chủ một cách hết sức rộng lớn, hết sức mạnh bạo
và hết sức chủ động”( tr94).
Lê-nin đã chỉ ra rằng, sau khi những nhiệm vụ dân chủ đã hoàn thành,
giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động phải tiếp tục cuộc đấu tranh
cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lê-nin viết: “Giai cấp vô sản phải tiến hành
cách mạng dân chủ tới cùng, bằng cách kéo đông đảo quần chúng nông dân
theo mình để bằng sức mạnh mà đè bẹp sự phản kháng của chế độ chuyên chế
và làm tê liệt tính không kiên định của giai cấp tư sản. Giai cấp vô sản phải
làm cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng cách kéo đông đảo những phần tử nửa
vô sản trong nhân dân theo mình, để bằng sức mạnh mà đập tan sự phản
kháng của giai cấp tư sản và làm tê liệt tính không kiên định của nông dân và
của giai cấp tiểu tư sản”(tr130).
Lê-nin khẳng định chính sách của giai cấp vô sản cách mạng phải là:
“Lãnh đạo toàn dân, và đặc biệt là lãnh đạo nông dân để giành lấy tự do hòa
toàn, để thực hiện một cuộc cách mạng triệt để, để thiết lập chế độ cộng hòa!
Lãnh đạo tất cả những người lao động và tất cả những người bị bóc lột để
thực hiện chủ nghĩa xã hội!”(tr 133). Nói cách khác, giai cấp vô sản cần phải
thực hiện cách mạng không ngừng từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới
chuyển ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.
18


Việc chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới – cuộc cách mạng
dân chủ triệt để do giai cấp vô sản lãnh đạo dựa trên cơ sở liên minh công
nông – lên cách mạng xã hội chủ nghĩa là một xu thế tất yếu của sự phát triển
phong trào cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo.
tư sản. Đó là con đường duy nhất đúng đắn đưa phong trào cách mạng
của giai cấp vô sản tiến lên. Không thể có con đường nào khác.
Đồng thời, Lê-nin cũng chỉ ra, giai cấp vô sản chưa tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa ngay không có nghĩa là trì hoãn, không bao giờ làm

cuộc cách mạng đó, mà ngược lại, tham gia, lãnh đạo, tiến hành cuộc cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới một cách triệt để chính là sự chuẩn bị tích cực
nhất cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lê-nin viết: “Chúng ta không làm
trì hoãn cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang đi bước đầu để đạt
tới nó bằng phương pháp duy nhất có thể làm được và bằng con đường duy
nhất đúng đắn, tức là con đường cộng hòa dân chủ. Kẻ nào muốn đi tới chủ
nghĩa xã hội bằng con đường khác không qua con đường chế độ dân chủ
chính trị, thì nhất định sẽ đi đến những kết luận phi lý và phản động cả về
phương diện kinh tế lẫn chính trị” Và Lê-nin khẳng định: “Cách mạng dân
chủ càng được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh mới (cách mạng
xã hội chủ nghĩa) càng diễn ra sớm, rộng lớn hơn, rõ rệt và kiên quyết
hơn”( tr 155).
Trong tác phẩm nhà nước và cách mạng Lenin chỉ rõ: một định nghĩa
căn bản về nhà nước: “nhà nước, tức là giai cấp vô sản được tổ chức thành
giai cấp thống trị” (4 V.I.Lê-nin Toàn tập, t.33, tr.30) và nếu như vậy thì
“chuyên chính vô sản là sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản” ( Lenin
toàn tập, tập 33, tr 33)
Về vấn đề này Lênin đã phân tích rất sâu sắc quan điểm của Mác trong
bức thư gửi Vaiđờmaiơ – 1852. Theo đó thì Mác khẳng định rằng: Mác không
có công phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp, điều cống hiến mới của
Mác là chứng minh rằng:
19


+ Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn lịch sử nhất
định trong sự phát triển của sản xuất
+ Đấu tranh giai cấp tất nhiên đưa đến chuyên chính vô sản.
+ Chuyên chính này cũng chỉ là một bước quá độ tiến lên CNXH
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin đề cập tới dân chủ
với một sự khu biệt rõ ràng, Lênin không xem xét toàn bộ mọi phương diện

của dân chủ mà chỉ tập trung vào dân chủ chính trị; biểu hiện trực tiếp ở chế
độ dân chủ và chế độ nhà nước. Theo đó, những luận điểm quan trọng của
Lênin về dân chủ chủ yếu là xem xét chế độ dân chủ trong tương quan với
kinh tế và chính trị, trong tiến trình cách mạng và trong sự tiến tới chủ nghĩa
xã hội.
Trên cơ sở góc độ tiếp cận thống nhất dân chủ với nhà nước, chế độ dân
chủ với chế độ nhà nước – tức là trong khuôn khổ của chính trị và hoạt động
chính trị, Lênin chỉ rõ “Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong
những hình thái của nhà nước. Cho nên, cũng như mọi nhà nước, chế độ dân
chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta…
Nhưng mặt khác chế độ dân chủ có nghĩa là chính thức thừa nhận quyền bình
đẳng giữa những công dân, thừa nhận cho mọi người được quyền ngang nhau
trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý nhà nước’’. ( tr 123)
Thống nhất về bản chất của dân chủ là như vậy. Theo logic của tiến
trình cách mạng, Lênin đã chỉ rõ “phát triển dân chủ tới cùng, tìm ra những
hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực
tiễn, vv…- đó là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh vì
cách mạng xã hội”.
(tr 97).
Và cũng theo logic đó thì cách mạng phát triển, sự thắng lợi của cách
mạng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc xây dựng thành công nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ phát triển đến độ hoàn bị, nhà nước tiêu

20


vong, chế độ dân chủ cũng tiêu vong. Cả Ăngghen và Lênin đều cho rằng
“thủ tiêu nhà nước cũng là thủ tiêu chế độ dân chủ, và nhà nước tiêu vong
cũng là chế độ dân chủ tiêu vong”.( tr 101).
Một vấn đề quan trọng trong lý luận về dân chủ của Lênin ở tác phẩm

này là Lênin đã vách ra thực chất của dân chủ tư sản là “dân chủ cho một
thiểu số rất nhỏ, dân chủ cho người giàu”. Đó là một nền dân chủ với rất
nhiều hạn chế mà “tổng cộng lại thì các thứ hạn chế đó sẽ loại bỏ, gạt bỏ
người nghèo ra ngoài chính trị, không cho họ tham gia tích cực vào chế độ
dân chủ”, “đó là thứ dân chủ bó hẹp, chà đạp lên người nghèo một cách kín
đáo, và vì vậy, hoàn toàn giả dối và dối trá’’. (tr107-108)
Còn chuyên chính vô sản, dân chủ vô sản “không chỉ mở rộng rất nhiều
chế độ dân chủ – mà còn lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người
nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu.”. Chế
độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản là
“dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn
áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng” . Và đến xã hội
cộng sản – là lúc xã hội đạt tới “một nền dân chủ thực sự hoàn bị, thực sự
không hạn chế” – đó cũng là lúc chế độ dân chủ tiêu vong.( tr109).
Có thể nói, đến tác phẩm “nhà nước và cách mạng” Lênin đã phát triển
hoàn thiện lý luận chủ nghĩa Mác về hai giai đoạn của hình thái kinh tế-xã hội
cộng sản chủ nghĩa. ở đây Lênin phân tích một cách rành mạch, khúc triết
từng nội dung cụ thể:
Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” Mác đã đưa ra luận điểm
nổi tiếng là: “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa có một thời
kỳ chuyển hóa cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Thích ứng với thời kỳ này là thời kỳ chính trị quá độ, và nhà nước
trong thời kỳ này không phải là cái gì khác, ngoài nền chuyên chính cách
mạng của giai cấp vô sản”. Khi phân tích luận điểm này Lênin chỉ rõ: trước
đây thì vấn đề này được đặt ra với cách hiểu; giai cấp vô sản muốn tự giải
21


phóng, phải lật đổ giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, lập nên chuyên
chính cách mạng của mình. Giờ đây vấn đề đặt ra là “một xã hội tư bản chủ

nghĩa đang phát triển lên chủ nghĩa cộng sản, không thể nào chuyển lên xã
hội cộng sản chủ nghĩa được nếu không có một “thời kỳ quá độ chính trị”, và
trong thời kỳ đó, nhà nước chỉ có thể là chuyên chính cách mạng của giai cấp
vô sản”.( tr106).
Từ đó, Lênin phân tích cụ thể những luận điểm của Mác về giai đoạn
đầu (giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản chủ nghĩa và chỉ rõ: đó là xã hội vừa
mới thoát thai từ chủ nghĩa tư bản và về mọi phương diện vẫn còn mang dấu
vết của xã hội cũ, nó chưa có thể thực hiện được công bằng và bình đẳng, mặc
dù nó không còn tình trạng người bóc lột người. Và như thế ở giai đoạn này
“pháp quyền tư sản” chưa bị xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần –
tức xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà pháp quyền tư
sản bảo vệ, còn nó vẫn tồn tại với tư cách là yếu tố điều tiết việc phân phối
sản phẩm và phân phối lao động. (xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân nhưng vẫn
còn duy trì phân phối sản phẩm theo lao động chứ chưa theo nhu cầu).
Tiếp tục, Lênin phân tích giai đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa và
chỉ ra những đặc trưng cơ bản là:
+ lực lượng sản xuất phát triển phi thường, của cải xã hội tuôn ra tràn
đầy, xã hội đã thực hiện được nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu”.
+ hết thảy mọi người đã học được cách quản lý và thực sự đã tự mình
quản lý nền sản xuất xã hội, dân chủ đạt đến độ hoàn bị, nhà nước tiêu vong.
Khi phân tích những đặc trưng trên Lênin cũng đã đề cập việc các nhà
tư tưởng tư sản thường hay cho rằng: chế độ xã hội như vậy là thuần túy ảo
tưởng và chế giễu việc muốn lấy của cải của xã hội bao nhiêu cũng được mà
không cần kiểm tra lao động gì cả. Lênin phê phán rằng, đó là những người
ngu dốt. Ngu dốt vì không một người xã hội chủ nghĩa nào lại đi hứa rằng,

22



giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản sẽ đến, còn dự kiến nó sẽ đến thì việc
đó phải giả định rằng năng suất lao động lúc đó sẽ khác với năng suất lao
động ngày nay, và sẽ không còn con người tầm thường ngày nay nữa. Còn
thời điểm ngày nay mà lại cứ lấy vấn đề đó ra làm trung tâm, chỉ chú trọng
đến vấn đề đó thì thật là buồn cười. Sự phân biệt ấy là phân biệt một cách
khoa học, về mặt khoa học thì cần có sự phân biệt rạch ròi như vậy. Cái vĩ đại
của Mác ở đây là Mác đã áp dụng triệt để phép biện chứng duy vật, học
thuyết về sự phát triển, từ đó xem chủ nghĩa cộng sản là một cái gì phát triển
từ chủ nghĩa tư bản mà ra.
Trong lý luận về hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản của Lênin được
trình bày ở tác phẩm này có một điểm nhấn quan trọng là: ở phần tài liệu
chuẩn bị cho tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Lênin khi đọc luận điểm
của Mác trong “Phê phán cương lĩnh Gô-ta” đã đánh dấu bên lề như sau:
I, Những cơn đau đẻ kéo dài
II, Giai đoạn đầu của xã hội CSCN
III, Giai đoạn cao của xã hội CSCN
Đây là tư tưởng đặc sắc của Lênin về các giai đoạn của hình thái kinh
tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, là sự bổ sung và hoàn thiện chủ nghĩa MácLênin về vấn đề này, mà theo đó giai đoạn “những cơn đau đẻ kéo dài” chính
là một cách nói hình ảnh về giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai đoạn
mà ngày nay chúng ta đang tiến hành.
Đối với tác phẩm kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô
sản Lenin đã chỉ rõ: tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.”
không thể nghi ngờ gì được rằng giữa CNTB và CNCS, có một thời kỳ quá độ
nhất định”. ( Lenin toàn tập, tập 39,tr309).
Lenin viết: “ không riêng gì đối với một người Mác xít mà cả đối với
bất cứ những người trí thức nào đã hiểu theo cách này hay cách khác thuyết

23



tiến hóa, thì tính tất yếu của cả một thời đại lịch sử mang những đặc điểm ấy
của một thời kỳ quá độ, tự nó cũng là điều hiển nhiên rồi”. ( tr 310).
Tư tưởng của Lenin về thời kỳ quá độ đã phê phán những người dân
chủ phát tiểu tư sản, trong đó có các đại biểu quốc tế II như Mác- Đô nan và
Giăng Lông-ghê. Cau.xky…. Họ từ chối dứt khoát không thừa nhận TKQĐ.
Họ cho rằng CNTB tự nhiên tiến đến chủ nghĩa cộng sản.: “ Cho nên những
người dân chủ này, hoặc là họ cho rằng nhiệm vụ của họ là nghĩ ra những kế
hoạch điều hòa hai lực lượng chiến đấu, chứ không phải là lãnh đạo cuộc đấu
tranh của một trong hai lực lượng ấy”.
Đặc điểm nổi bật củ TKQĐ từ TBCN lên CNXh đó là thời kỳ đan xen
hai kết cấu kinh tế xã hội của CNTB và CNCS. “ không thể nghi ngờ gì được
rằng giữa CNTB và CNCS, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó
không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu
kinh tế xã hội ấy” (tr309).
Lenin đã chỉ ra tính phổ biến và đặc thù của TKQĐ ở Nga. Vì Nga là
một nước tiểu tư sản và rất lac hậu, cho nên nền chuyên chính vô sản ở Nga
tất nhiên có một số đặc điểm khác với các nước tiê tiến. Tuy nhiên, những
hình thức cơ bản của nền kinh tế xã hội ở Nga cũng giống như ở bất cứ nước
nào khác : “ vì nước ta là một nước tiểu tư sản và rất lạc hậu, cho nên nền
chuyên chính vô sản ở Nga tất nhiên phải có một số đặc điểm khác với các
nước tiên tiến. Nhưng những lực lượng cơ bản và những hình thức cơ bản của
nền kinh tế xã hội ở Nga cũng giống như ở bất cứ nước nào khác”. ( tr310).
Lenin cũng chỉ rõ những hình thức cơ bản của nền kinh tế xã hội trong
TKQĐ không thể bao gồm các hình thức kinh tế TBCN, các hình thức kinh tế
tiểu sản xuất hàng hóa, các hình thức cộng sản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế
thời đại chuyên chính vô sản là : “ cuộc đấu tranh của những bước đầu của lao
động liên hiệp theo nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa- trong phạm vi một quốc
gia rộng lớn- chống lại nền tiểu sản xuất hàng hóa và chống lại CNTB đang

24



còn được duy trì cũng như đang được khôi phục trên cơ sở nền tiểu sản xuất”.
(tr311).
Lenin khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội là xóa bỏ giai cấp, chuyên
chính vô sản đã làm tất cả những điều có thể làm được để thực hiện công cuộc
xóa bỏ ấy. Tuy nhiên, không thể nào ngay một lúc mà xóa bỏ được giaai cấp
mà các giai cấp vẫn tồn tại và sẽ tồn tại trong suốt TKQĐ. Các giai cấp sẽ
không mất đi nếu không có chuyên chính vô sản. Và khi các giai cấp mất đi
thì chuyên chính vô sản cũng không còn. Điều đó cũng có nghĩa là trong từ
CNTB lên CNXH, đấu tranh giai cấp là một yếu tố khách quan.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua CNTB đấu tranh giai cấp diễn
ra dưới những hình thức mới bởi lúc này công nhân đã có chính quyền, GCTB
trở thànhđược bị trị. GCCN lúc này trở thành giai cấp thống trị, nắm được
chính quyền của nhà nước, sử dụng những tư liệu sản xuất đã được xã hội
hóa, nó lãnh đạo các phần tử và giai cấp dao động, trung gian, nó trấn áp sức
phản kháng ngày càng tăng của bọn bóc lột. “ nhiệm vụ đặc biệt của cuộc đấu
tranh giai cấp, những nhiệm vụ trước kia giai câp vô sản không đề ra và
không thể nào đề ra được.(tr319)
Cũng trong tác phẩm này, Leni bàn đến nhiều vấn đề nông dân, bởi vì
Nước Nga là một nước đông nông dân, hơn nữa đây là vấn đề quan trọng để
đưa nước Nga tiến lên CNXh. Lenin chỉ ra rằng: “ cải tạo lại toàn bộ nền kinh
tế xã hội, bằng cách chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá nhân, riêng lẻ
sang nền kinh tế tập thể lớn hơn”.( tr 316).

25


×