Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bàn về chế độ hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.11 KB, 25 trang )

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “BÀN VỀ CHẾ ĐỘ HỢP TÁC XÔ
( V.I.Lê-nin Toàn tập. Nxb. Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, t.45,1978. tr.421 429.)
PGS, TS. Nguyễn Đình Kháng
Ths. Nguyễn Thị Phong Lan
I. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1. Khái quát tình hình chung
Sau khi cách mạng tháng 10 Nga thành công năm 1917, Chính
quyền Xô Viết non trẻ ra đời, bước vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới
gặp vô vàn những khó khăn, phức tạp. Bọn thù địch của cách mạng đã
tiến hành một cuộc đấu tranh khốc liệt chống lại chuyên chính vô sản,
chống lại công cuộc xã hội chủ nghĩa đang được triển khai. Chúng cố
kết với các thế lực phản động gây ra nội chiến. Trước tình hình ấy,
Đảng Bônsêvích mà đứng đầu là V.I.Lênin đã tiến hành thực hiện
“chính sách cộng sản thời chiến” (chính sách cộng sản quân sự) nhằm
tập trung lực lượng chống lại kẻ thù.
Nội chiến kết thúc, nước Nga Xô viết bắt đầu thực hiện bước
chuyển sang công cuộc hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế nhưng
tình hình bên trong của nhà nước Xô Viết cực kỳ gay go. Do bốn năm
chiến tranh, ba năm nội chiến và can thiệp quân sự của nước ngoài, nền
kinh tế quốc dân bị suy sụp hết mức. Mùa xuân năm 1921, chồng chất
thêm những khó khăn về kinh tế, mùa màng thất bát càng làm cho quần
chúng lao động thêm điêu đứng. Đất nước lâm vào tình trạng thiếu
nhiên liệu trầm trọng, nhiều xí nghiệp nằm không, giai cấp công nhân
bị rã rời phân tán, một số người mất gốc giai cấp, bị lưu manh hoá…
Tất cả tình hình đó làm suy yếu cơ sở xã hội của chuyên chính vô sản,
của chính quyền Xô Viết.


Nông dân bất bình với chế độ trưng thu lương thực thừa, chính
sách này kéo dài đã làm kiệt quệ đời sống nông dân, không khuyến
khích nông dân phát triển kinh tế của họ. Chính sách “Cộng sản thời


chiến” bất đắc dĩ phải dùng trong lúc có chiến tranh đã mâu thuẫn với
những điều kiện mới hoà bình xây dựng kinh tế. Trong điều kiện cực kỳ
khó khăn và phức tạp đó, Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin
đã dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc các quy luật phát triển của xã hội,
định ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển từ chính sách
“cộng sản thời chiến” sang "chính sách kinh tế mới".
Lênin đã vạch rõ cơ sở của "chính sách kinh tế mới" là: cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước mà phần đông dân cư là những
người tiểu nông sản xuất nhỏ chỉ có thể giành được thắng lợi trong điều
kiện có sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản nắm chính quyền với đa số
nông dân. Vì vậy, Lênin cho rằng, nội dung chủ yếu trong chính sách
kinh tế mới là xây dựng khối liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công
nhân và nông dân, coi đó là nguyên tắc tối cao của chuyên chính vô
sản, là cơ sở của Chính quyền Xô Viết, là điều kiện quan trọng để xây
dựng chủ nghĩa xã hội thắng lợi.
Biểu hiện cụ thể của "chính sách kinh tế mới" là cho phép tự do buôn
bán, trao đổi hàng hoá có tổ chức thông qua các cơ quan nhà nước và hợp tác
xã. Theo đó, Lênin cho phép và khuyến khích phát triển kinh tế tư bản nhà
nước, coi đó là bước quá độ, biện pháp quá độ có thể thực hiện được để
chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Người cũng rất chú trọng tới việc
phát triển kinh tế hợp tác, coi chính sách hợp tác xã là một bộ phận quan trọng
của chính sách kinh tế mới.
2- Bước tiến mới của lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa
Trước đó, lý luận cho rằng CNXH không thể thắng lợi riêng trong
một nước được, đặc biệt là một nước tư bản kém phát triển đã thống trị
và làm cản trở con đường đi lên CNXH ở nhiều nước. Tuy nhiên, Lênin


đã vạch rõ lý luận về sự phát triển không đều giữa các nước tư bản
trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa, đồng thời vạch rõ con dường mới của

nông dân tiến lên CNXH. Lênin cho rằng, cách mạng XHCN không
nhất thiết phải tiến hành cùng một lúc trong các nước tư bản phát triển
nhất, mà nhằm vào cái khâu yếu nhất của các nước tư bản, nơi có nhiều
mâu thuẫn sâu sắc nhất, và Người cho rằng, mặc dầu trong hoàn cảnh
bao vây của CNTB, cách mạng XHCN trong một nước vẫn có thể giành
được thắng lợi. Người vạch ra con đường kiến thiết XHCN và được thể
hiện trong tác phẩm Bàn về chế độ hợp tác xã.
3- Đây là một trong những tác phẩm cuối đời của Lênin
Lúc viết tác phẩm này, Lênin ốm nặng và đang nằm trong bệnh
viện. Biết bệnh tình không thể qua khỏi, Người đọc cho Ban thư ký ghi
lại những suy nghĩ mà Người cho là quan trọng nhất. Bao gồm các Bức
thư và tác phẩm được ghi lại vào khoảng thời gian từ 23/12/1922 đến
2/3/1923. Đó là các tác phẩm: "Thư gửi Đại hội", "Về việc trao chức
năng lập pháp cho Uỷ ban kế hoạch nhà nước", "Về vấn đề dân tộc hoặc
vấn đề tự trị hoá", "Những trang nhật ký", "Bàn về chế độ hợp tác xã",
"Về cuộc cách mạng của chúng ta", "Chúng ta phải cải tổ Bộ dân uỷ
thanh tra công nông như thế nào", "Thà ít mà tốt". Các tác phẩm này
được Ban Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô cho đăng sau khi Lênin mất
để thống nhất tư tưởng trong toàn Liên bang về các vấn đề xây dựng
CNXH.
II. Nội dung cơ bản của tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác xã"
Tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác xã" là sự tổng kết những ý tưởng về
hợp tác xã và chế độ hợp tác xã của Lênin từ những bài viết, bài nói trước và
trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới. Tên một số bài như:
- Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề ruộng đất (để trình
bày tại đại hội II Quốc tế cộng sản).1
1

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.41,1977. tr.207-222.



- Về các hợp tác xã tiêu dùng và sản xuất (viết xong 25/4/1921)2.
- Về những biện pháp nhằm chuyển từ chế độ cung cấp và phân phối do
các hợp tác xã tư sản đảm nhiệm sang chế độ cung cấp và phân phối do giai
cấp vô sản cộng sản đảm nhiệm (viết xong ngày 2/2/1919)3.
- Thư gửi N.P.Goocbunôp và những đề nghị về vấn đề hợp tác xã (viết
ngày 18/3/1922)4.
- Diễn văn tại hội nghị các đại biểu hợp tác xã công nhân trung ương
Matxcơva ngày 20/11/1918 5.
- Diễn văn tại đại hội III các hợp tác xã công nhân ngày 1 tháng Chạp
1918 6.
- Diễn văn về hợp tác xã ngày 3 tháng 47.
- Bàn về thuế lương thực 8.
- Bức tranh nhỏ dùng để soi sáng những vấn đề lớn 9.
Khi nghiên cứu tác phẩm này, cần có sự liên hệ và sử dụng các ý tưởng
của những bài viết, bài nói của Lênin mới thấy rõ hơn nội dung tư tưởng
chính trị, ý nghĩa chính trị của hợp tác xã và chế độ hợp tác xã.
1. Vai trò, ý nghĩa, nguyên tắc và những hình thức của hợp tác xã
trong điều kiện mới của cách mạng
Theo Lênin, trong "chính sách kinh tế mới", chế độ hợp tác xã có vai
trò quan trọng đặc biệt. Lênin gắn việc xác định vai trò đặc biệt của hợp tác
xã với việc phải hiểu ý nghĩa của vấn đề đó. Người viết rõ 4 điểm sau đây:
1) Nếu không thấy được ý nghĩa cơ bản, chủ yếu của cuộc đấu tranh
chính trị, lật đổ các giai cấp bóc lột thống trị, thì việc đề xuất vấn đề hợp tác
xã sẽ có nhiều ảo tưởng, kỳ quặc, lãng mạn tầm thường.

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.43,1978. tr.301-302.
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.37,1978. tr.577-578.
4
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.43,1978. tr.66.

5
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.37,1978. tr.242-248.
6
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.37,1978. tr.422-432.
7
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.40,1977. tr.321-325.
8
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.43,1978. tr.244-296.
9
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.37,1978. tr.500-505.
2
3


Lênin đã phân tích tình hình cụ thể của nước Nga lúc bấy giờ. Đó là
nhân dân lao động Nga đã giành được chính quyền, chính quyền đã thuộc về
tay giai cấp công nhân. Người viết: "Hiện nay, ở nước ta đã lật đổ được sự
thống trị của bọn bóc lột và nhiều ước mơ kỳ quặc, thậm chí lãng mạn, thậm
chí tầm thường của những người đề xướng ra chế độ hợp tác xã trước đây, đã
trở thành một sự thật không có gì là giả tạo nữa"10.
Theo Lênin, hợp tác xã ra đời từ trong lòng xã hội tư bản. Đây là một
tất yếu kinh tế - xã hội đáp ứng nhu cầu hợp tác kinh tế và nhu cầu liên minh
chính trị - xã hội của các nhà tư sản nhỏ hoặc của những người sản xuất nhỏ,
để chống lại các tập đoàn tư bản lớn hoặc đương dầu với cạnh tranh, đáp ứng
nhu cầu thương mại, phân phối (ngày nay gọi là dịch vụ) trong quá trình phát
triển của CNTB. Tuy nhiên, trong điều kiện TBCN, hợp tác xã muốn tồn tại là
rất khó khăn và không thu hút được quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông
dân tham gia. Vì mục đích hợp tác xã đối lập với quy luật kinh tế cơ bản của
xã hội tư bản. Mục đích của hợp tác xã là xoá bỏ sự bóc lột trung gian cho
nhân dân lao động, nhưng quy luật kinh tế cơ bản của xã hội tư bản lại là tăng

cường bóc lột nhan dân lao động để thu những món lãi cao nhất.
Theo số liệu của các liên minh hợp tác quốc tế thì ở Anh, số người
tham gia hợp tác xã chiếm 17,7% dân số toàn quốc, ở Pháp chiếm 5,5%, Thuỵ
Điển chiếm 1.%, Bỉ chiêm 3,6%, Nhật Bản chiếm 0,35%. Điều này có nghĩa
là hợp tác xã vẫn tồn tại trong lòng xã hội tư bản. Bởi vì trong chế độ hợp tác
xã của xã hội tư bản thì hợp tác xã liên hiệp với những hạng người thuộc tầng
lớp khá giả nhất, còn nhân dân lao động nghèo khổ nhất thì vì họ đóng cổ
phần không nổi mà không vào hợp tác xã được. Đồng thời, những người công
tác hợp tác xã đã quên mất nhiệm vụ diệt trừ nạn bóc lột cho nhân dân lao
động, mà lại cùng những xí nghiệp độc quyền tư bản đeo đuổi lời lãi.
Lênin cho rằng, trong điều kiện giai cấp tư sản nắm chính quyền, Rôbớc ô-oen cũng như những nhà đề xướng ra hợp tác xã muốn "dùng CNXH
hoà bình để cải tạo xã hội hiện đại", họ "mơ tưởng rằng chỉ cần tập hợp dân
10

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.421.


cư vào các hợp tác xã là có thể biến kẻ thù giai cấp thành người hợp tác giai
cấp, biến đấu tranh giai cấp thành hoà bình giai cấp (thành hoà bình xã
hội)"11. Điều đó là ảo tưởng, là lãng mạn, thậm chí là tầm thường.
Do vậy, chỉ khi giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo, đứng lên đấu tranh
giành lấy chính quyền, xoá bỏ quyền thống trị sự bóc lột của giai cấp tư sản
thì hợp tác xã mới thực sự có ý nghĩa và phù hợp lợi ích của đại đa số người
dân lao động.
2) Khi giai cấp công nhân đã lãnh đạo chính quyền nhà nước, khi các
tư liệu sản xuất chủ yếu đã do Nhà nước quản lý, thì trên thực tế, việc đưa
nông dân vào hợp tác xã một cách phổ biến (tức là một hình thức của CNTB
nhà nước ở nông thôn), cũng có nghĩa là CNXH tự nó từng bước được hình
thành.
Trong những năm cuối đời, Lênin luôn trăn trở với việc tìm con đường,

hình thức phù hợp cho bước quá độ của nước Nga vẫn đang trong tình trạng
sản xuất nhỏ là chính tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Lênin xác định con đường cụ thể để giải quyết nhiệm vụ khó khăn nhất
của cách mạng vô sản sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền là
thu hút hàng triệu nông dân, vừa là người sở hữu nhỏ, vừa là người lao động
vào công cuộc xây dựng CNXH, chuyển họ từ kinh tế cá thể lên sản xuất lớn,
sản xuất tập thể. Và xây dựng chế độ hợp tác xã là con đường phù hợp nhất để
quá độ đi lên CNXH đối với nông dân. Người viết: "Họ khinh miệt chế độ
hợp tác xã, họ không thấy được rằng chế độ ấy có một ý nghĩa đặc biệt trước
hết là về phương diện nguyên tắc (nhà nước nắm quyền sở hữu tư liện sản
xuất), sau nữa là về phương diện bước quá độ sang một chế độ mới bằng con
đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân"12.
Có thể nói nội dung kinh tế chủ yếu của NEP là phát triển lực lượng
sản xuất nước Nga trên cơ sở những quan hệ thị trường, tức là phát triển nên
kinh tế tiểu nông, kinh tế hợp tác xã (trao đổi và tiêu thụ), kinh tế tư bản tư
11
12

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.427.
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.422.


nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế xã hội chủ nghĩa. Lênin chia nền
kinh tế thành năm thành phần, các thành phần kinh tế đan xen tác động lẫn
nhau, trong đó, thành phần kinh tế tiểu tư sản (nông dân) chiếm ưu thế. Trong
năm thành phần kinh tế đó sẽ diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng:
một bên là sản xuất nhỏ, gồm sản xuất tiểu tư sản và tư bản tư nhân với một
bên là sản xuất lớn, gồm chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Kết
quả là, hợp tác xã đã đứng về sản xuất lớn, về phía chủ nghĩa xã hội. Lênin
cho rằng, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội phụ thuộc vào khuynh hướng sản

xuất lớn và trong bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chính của nền
kinh tế là chiến thắng kinh tế tiểu tư sản. Và hợp tác xã là một phương thức để
đi đến chiến thắng đó.
Trong thời kỳ quá độ, hợp tác xã với tư cách là một hình thức của
CNTB nhà nước, sẽ được văn minh hoá, những xã viên hợp tác xã cũng sẽ
được văn minh hoá. Lúc đó, sẽ xuất hiện chế độ hợp tác xã. Chế độ hợp tác xã
này sẽ xuất hiện khi chính quyền nhà nước đã do giai cấp công nhân nắm, tư
liện sản xuất chủ yếu thuộc về Nhà nước. Khi đó, theo Lênin, hợp tác xã đồng
nhất với CNXH. Và khi đó, "khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới một mức
đông nhất thì CNXH…tự nó sẽ được thực hiện."13.
3) Phải hiểu và phân biệt được các hình thức của hợp tác xã để hiểu ý
nghĩa lịch sử của hợp tác xã trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Lênin thừa nhận, hợp tác xã có những hình thức lịch sử tuỳ thuộc điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội. Theo Người, dưới CNTB, "hợp tác xã là
những tổ chức tư bản tập thể"14. Thậm chí, trong điều kiện của nước Nga
trong những năm đầu khi cách mạng thắng lợi thì tự do quyền lợi của hợp tác
xã có nghĩa là tự do và quyền lợi cho CNTB.
Dưới CNTB nhà nước, sự kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân với
những xí nghiệp kiểu XHCN đã hình thành nên loại xí nghiệp hợp tác xã.
Dưới chính quyền Xô Viết, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản tư
13
14

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.421.
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.426.


nhân ở chỗ nó là xí nghiệp XHCN, nếu đất đai và những tư liện sản xuất đã
thuộc về nhà nước XHCN. Lênin chỉ rõ: "Dưới CNTB tư nhân, xí nghiệp hợp
tác xã khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới CNTB nhà nước, xí nghiệp hợp tác

xã khác với xí nghiệp tư bản nhà nước, trước hết ở chỗ nó là xí nghiệp tư
nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể. Dưới chế độ hiện nay của chúng
ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản tư nhân, ở chỗ nó là xí
nghiệp tập thể, nhưng có không khác xí nghiệp XHCN, nếu miếng đất trên đó
nó được xây dựng và những tư liện sản xuất đều thuộc về nhà nước, nghĩa là
về giai cấp công nhân"15.
Lênin cho rằng, trong thời kỳ CNTB nhà nước dưới chính quyền Xô
viết thì : các hợp tác xã cũng là một hình thức của CNTB nhà nước nhưng ít
đơn giản hơn, có hình thù ít rõ rệt hơn, phức tạp hơn và vì thế, trong thực tế
nó đặt chính quyền Xô viết trước những khó khăn lớn hơn…Dưới chính
quyền Xô viết CNTB hợp tác xã khác với CNTB tư nhân, nó là một hình thái
của CNTB nhà nước và như thế thì hiện nay, có lợi và có ích cho chúng ta, dĩ
nhiên là có lợi và có ích trong một chừng mực nào đó.
(4) Cần thấy ý nghĩa đặc biệt của hợp tác xã là: thứ nhất, về nguyên
tắc, các tư liện sản xuất chủ yếu đã do Nhà nước nắm, thứ hai, đây là "bước
quá độ" lên CNXH bằng con đường đơn giản nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu
nhất đối với nông dân, nhưng đó là sự tham gia tự giác của nông dân để xây
dựng hợp tác xã văn minh. Hợp tác xã và chính sách kinh tế mới là một bước
tiến mới mà ít dùng những biện pháp cao xa, hình thức mơ hồ, không đề ra
cho nông dân những yêu cầu quá cao, mà thích hợp trình độ người nông dân
bình thường.
Tóm lại, chế độ hợp tác xã có những ý nghĩa đặc biệt là do đặc điểm cơ
bản của chế độ chính trị quy định. Đó là khi cuộc đấu tranh chính trị của giai
cấp công nhân để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản đã thắng lợi, khi mọi
tư liệu sản xuất đều do chính quyền Nhà nước nắm, tức là mọi quyền lực đều
15

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.427.



thuộc về tay nhân dân, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế đều do nhân dân
nắm hết. Và trong điều kiện đó, chỉ khi có những điều kiện đó thì hợp tác xã
mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cần thiết.
2. Điều kiện để chế độ hợp tác xã thành công ở một nước tiểu nông quá
độ lên chủ nghĩa xã hội
Muốn tổ chức thành công chế độ hợp tác xã ở một nước tiểu nông thì
cần phải có những điều kiện nhất định. Theo Lênin có những điều kiện cơ bản
sau:
Một là, giai cấp công nhân nắm và lãnh đạo chính quyền
Hai là, Nhà nước nắm các tư liệu sản xuất chủ yếu
Ba là, giai cấp công nhân phải liên minh được với giai cấp nông dân,
nắm quyền lãnh đạo nông dân.
Lênin coi đó là những điều kiện cần thiết để xây dựng XHCN, mặc dầu
đó chưa phải là CNXH. Trên thực tế, nhiều người còn xem nhẹ những vấn đề
đó. Người viết: "…phải chăng đó không phải là tất cả những điều cần thiết để
xây dựng một xã hội XHCN toàn vẹn hay sao? Đó chưa phải là xây dựng
XHCN, nhưng đó là tất cả những cái cần thiết và đầy đủ để tiến hành công
việc xây dựng đó"16.
Bốn là, Nhà nước cần có những chính sách phù hợp với nông dân, cho
các hợp tác xã được hưởng những "ưu đãi thuần tuý vật chất" (như tỉ suất lãi
trả thấp cho ngân hàng, cho vay vốn cao hơn mức cho tư nhân vay, thậm chí
ngang với cho ngành công nặng vay…). Đồng thời, cần phải có chế độ khen
thưởng đối với những hợp tác xã, những người công tác hợp tác xã và xã viên
hợp tác xã.
Theo Lênin, một giai cấp ra đời đều có một giai cấp nhất định giúp đỡ
về tài chính và CNTB tự do ra đời tốn hàng trăm, hàng triệu rúp. Hơn nữa,
dưới chính sách kinh tế mới, chế độ xã hội mà chúng ta cần ủng hộ hơn hết là
chế độ hợp tác xã. Cho nên, Nhà nước phải ủng hộ hợp tác xã mà không đòi
hỏi bất cứ một sự trao đổi nào.
16


V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.422.


Người viết: "Mỗi chế độ xã hội chỉ nảy sinh ra nếu được một giai cấp
nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính. Chẳng cần phải nói cũng thấy rằng sự
ra đời của CNTB "tự do" đã tốn hàng trăm, hàng trăm triệu rúp. Hiện nay,
chúng ta phải hiểu và thực hành cái sự thật này là: trong lúc này, chế độ xã
hội mà chúng ta phải ủng hộ hơn hết là chế độ hợp tác xã"17.
Năm là, thể hiện được nguyên tắc kết hợp lợi ích tư nhân với những lợi
ích chung, Nhà nước kiểm soát được những lợi ích ấy, làm cho lợi ích tư nhân
được đảm bảo khi nó phục tùng lợi ích chung của xã hội mới. Điều này trước
đây là vấn đề nan giải thì nay "chính sách kinh tế mới" đã tìm được giải pháp.
Sáu là, việc tham gia hợp tác xã phải là sự tham gia tự nguyện của
những người nông dân chân chính. Nông dân sẽ tự kiểm nghiệm về lợi ích
của họ, khi có lợi thì họ sẽ tự giác tham gia một cách tích cực. Chỉ khi đó mới
tạo ra những xã viên có văn hoá, những hợp tác xã văn minh của chế độ
chúng ta và mới có CNXH.
Đó là những điều kiện cơ bản, có ý nghĩa nguyên tắc của việc tổ chức
chế độ hợp tác xã ở nông thôn quá độ lên CNXH.
3. Những quan điểm mới cần quán triệt khi tiến hành xây dựng chế độ
hợp tác xã
Trong tác phẩm, Lênin viết "toàn bộ quan điểm của chúng ta về CNXH
đã thay đổi về căn bản". Trong giai đoạn trước, trọng tâm của nhiệm vụ cách
mạng là giành chính quyền, Trong giai đoạn mới, trọng tâm nhiệm vụ cách
mạng đã chuyển sang công tác hoà bình "tổ chức văn hoá", đặc biệt là nhiệm
vụ giáo dục.
Nhiệm vụ cách mạng trọng tâm của giai đoạn NEP đã khác so với thời
kỳ trước. Trước đây, trọng tâm của công tác XHCN là đấu tranh chính trị, đấu
tranh quân sự, là giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản. Thời kỳ này, trọng

tâm ấy chuyển sang công tác hoà bình tổ chức văn hoá, đặc biệt là công tác
giáo dục. Tuy nhiên, đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự có thể kết thúc và
17

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.423.


thắng lợi trong một khoảng thời gian là 5 hay 10 năm. Nhưng đấu tranh văn
hoá là một cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khó. Không dễ gì trong một, hai
năm có thể phổ cập giáo dục, xoá mù chữ trong nhân dân, đặc biệt là nông
dân. Nông dân chiếm tỷ lệ lớn trong dân số nước Nga, nông dân là tầng lớp
nghèo nhất, có trình độ học vấn thấp nhất. Công nhân muốn lãnh đạo nông
dân phải xây dựng được liên minh công nông vững chắc. Do vậy, nhiệm vụ
của cách mạng là phải tiến hành công tác văn hoá trong nông dân. Công tác
này phải tiếu hành ngay từ khi bắt đầu xây dựng CNXH, tiến hành cùng lúc
với công tác kinh tế, chứ không đợi dến khi có cơ sở kinh tế vững chắc mới
tiến hành. Do vậy, "công tác văn hoá trong nông dân lại nhằm mục tiêu kinh
tế - đó chính thực hiện chế độ hợp tác xã."18.
Lênin cho rằng, để nâng cao trình độ của nông dân, để làm cuộc cách
mạng văn hoá trong nông dân thì cũng phải mất một thời gian là 10 hay 20
năm và Lênin gọi đó là "thời kỳ lịch sử đặc biệt". Nhưng không thể không trải
qua "thời kỳ lịch sử dặc biệt" này vì nó làm cho mọi người đều có trình độ
học vấn phổ thông, đủ trình độ hiểu biết về công việc làm cho dân biết dùng
sách báo, và khi hoàn thành được công cuộc cách mạng văn hoá cho nông
dân, biến những người dân thành những xã viên văn minh thì công cuộc xây
dựng XHCN đã đạt được. Đồng thời, cuộc cách mạng này còn tạo ra những
"người công tác hợp tác xã giỏi".
4. Cùng với việc tiến hành cách mạng văn hoá trong nông dân, biến
những người nông dân thành những xã viên hợp tác xã văn minh thì phải "cải
tạo bộ máy quản lý hoàn toàn vô giá trị mà thời đại cũ đã để lại toàn bộ cho

chúng ta"19.
Đây là hai nhiệm vụ chủ yếu, có ý nghĩa đánh dấu thời đại trong thời kỳ
quá độ ở nước Nga.

18

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.428.

19

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.428.


Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời sau khi giai cấp
vô sản giành được chính quyền, đã nhanh chóng đi vào xây dựng chế độ
xã hội mới.
Để làm được điều đó thì công việc hết sức quan trọng là phải tiến
hành cải tạo xã hội cũ. Chế độ xã hội cũ ở đây là chế độ tư bản, một
nước tư bản ở trình độ phát triển trung bình với những cơ sở kinh tế,
thiết chế xã hội của nó, trong đó có hợp tác xã.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, các hợp tác xã đã phát triển rất
mạnh mẽ với nhiều hình thức phong phú, đa dạng khác nhau, chỉ có
điều, những hợp tác xã ấy là của giai cấp tư sản, nó chỉ giành cho giai
cấp tư sản và tầng lớp trung nông.
Tuy nhiên, trình độ tổ chức, quản lý các hợp tác xã, kinh nghiệm
quản lý các hợp tác xã của chính giai cấp tư sản đã giành được những
thành tựu lớn lao.
Chính vì vậy, khi bắt tay vào xây dựng chế độ xã hội mới, bắt tay
vào thực hiện chính sách kinh tế mới. Lênin đã phân tích rất sâu sắc vấn
đề này. Người đã chỉ ra rằng; các hợp tác xã đúng là bộ máy của xã hội

tư sản, sinh ra trong một bầu không khí “con buôn”, một bộ máy mà đã
đào tạo ra những người lãnh đạo của nó theo tinh thần của chính sách tư
sản và của thế giới quan tư sản.
Nhưng sẽ là rất nguy hại nếu như đơn giản hoá vấn đề, và nhìn
nhận một chiều như vậy để từ đó đi đến những kết luận sai lầm rằng, nó
là của tư sản, nó là xấu xa và cần phải “tẩy chay”, “đoạn tuyệt” với
những thứ “rác rưởi” “bẩn thỉu” đó mới có thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội được.
Từ đó, Lênin đã khẳng định rằng: “Chúng ta không thể xây dựng
chủ nghĩa cộng sản bằng những vật liệu nào khác ngoài những vật liệu mà
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra … Đó là một khó khăn cho công cuộc xây dựng xã


hội cộng sản. Song điều ấy cũng đảm bảo rằng công cuộc đó có thể tiến hành
được và thành công được”20.
Trên tinh thần ấy, Lênin chủ trương sẽ cải tạo các hợp tác xã tư
sản, kế thừa những hạt nhân hợp lý của nó, cải biến nó từ phục vụ cho
giai cấp tư sản sang phục vụ đắc lực cho giai cấp vô sản, cho nhân dân
lao động. Người viết: “Chính quyền nhà nước vô sản phải cải tạo tức
khắc những hợp tác xã nông nghiệp và nông hội. Là những tổ chức
trước kia dưới chế độ tư bản chủ nghĩa chỉ nhằm phục vụ cho phú nông
và trung nông - thành những tổ chức nhằm giúp đỡ, trước tiên cho nông
dân nghèo, tức là những người vô sản, nửa vô sản, những tiểu nông
v.v… 21 .
Đây là một vấn đề mấu chốt trong quan điểm của Lênin về chế độ
hợp tác xã.
Những sự phân tích của Lênin về đặc điểm, vai trò của hợp tác xã
tư sản cũng như hợp tác xã công nhân là để đi tới khẳng định sự cần
thiết phải kế thừa những hạt nhân hợp lý của hợp tác xã tư sản.
Để xây dựng thành công các hợp tác xã công nhân, cần thiết phải

loại bỏ những yếu tố tiêu cực, phát huy hết khả năng của những hợp tác
xã tư sản, hướng hợp tác xã tư sản phục vụ đắc lực cho giai cấp vô sản
đi đến thắng lợi cuối cùng trong sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới.
III. Ý nghĩa lý luận chung của tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác
xã"
1. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
Khi nói dến hợp tác xã thì khái niệm này mang ý nghĩa kinh tế nhiều
hơn chính trị nhưng theo Lênin thì mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là rất
rõ ràng và bền chặt. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, kinh tế luôn
phải đi trước một bước so với chính trị. Trong giai đoạn này, chính trị là
nhằm mục tiêu kinh tế vì nhiệm vụ chính trị chủ yếu của giai đoạn quá độ này
20
21

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.37,1978. tr.503.
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.41,1977. tr.210.


là tập trung vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế. Người nói: "trong
nước ta, công tác kinh tế phải là sự nghiệp chung của tất cả mọi người. Đối
với chúng ta, đó là hoạt động chính trị có ý nghĩa nhất"22.
Mặt khác, trong tác phẩm, Lênin không chỉ nói đến hợp tác xã mà cao
hơn hợp tác xã, đó là chế độ hợp tác xã.
Khi này, ý nghĩa của chế độ hợp tác xã đã mang ý nghĩa hầu hết là
chính trị. Do vậy, trong tác phẩm này, khi Lênin nói về hợp tác xã hay chế độ
hợp tác xã thì tác phẩm đều mang ý nghĩa chính trị.
Từ đó, chúng ta thấy, tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác xã" là một tác
phẩm có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Tác phẩm làm nổi bật được những quan
điểm của Lênin về chính trị, về quyền lực chính trị, về mối quan hệ giữa
chính trị và kinh tế, về con người chính trị, về nghệ thuật chính trị. Những

quan điểm này là một sợi chỉ xuyên suốt trong các tác phẩm của Lênin.
- Cùng với 8 tác phẩm khác, tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác xã" có ý
nghĩa như một di chúc chính trị của Lênin để lại cho Đảng, Nhà nước và nhân
dân Nga, đặc biệt là về con đường xây dựng CNXH đối với những người sản
xuất nhỏ ở Nga.
- Tác phẩm là một kế hoạch hợp tác hoá nhằm tổ chức lại nền sản xuất
nông nghiệp và đời sống nông dân theo các nguyên tắc của CNXH. Đó là
chương trình cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, nhằm đưa nền kinh tế tiểu
nông lên nền kinh tế nông nghiệp sản xuất lớn XHCN.
- Khi Đảng lãnh đạo nhân dân lật đổ các giai cấp thống trị bóc lột và
xây dựng chính quyền mới của mình, khi Nhà nước đã là chủ sở hữu tư liệu
sản xuất thì việc xây dựng chế độ hợp tác xã mới gắn với CNXH.
- Tổ chức cho nhân dân (nhất là nông dân) thực hiện chế độ hợp tác xã
là hình thức dễ tiếp thu và thiết thực nhất, có lợi nhất cho nhân dân lao động
để đi lên CNXH. Đó là một trong những hình thức của CNTB nhà nước, cần
phải áp dụng và phát triển.
22

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.43,1978. tr.396-397.


2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế và Nhà nước
Lênin cho rằng, thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một thành phần
kinh tế quá độ, đặc trưng cho các thành phần kinh tế của thời kỳ kinh tế quá
độ. Hợp tác xã và tô nhượng là hai trong số các nhân tố thuộc thành phần kinh
tế tư bản nhà nước.
Hai nhân tố này có những đặc điểm tương đối là đối lập nhau. Hợp tác
xã là mọi tư liệu sản xuất đều do Nhà nước giữ, thuộc sở hữu toàn dân, nhưng
tô nhượng lại là tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của giai cấp tư sản (tuy nhiên,
những tư liệu sản xuất này là do Nhà nước, công nhân tự nguyện giao cho giai

cấp bóc lột, trong một thời gian và theo những điều kiện nhất dịnh).
Do đó, kinh tế tư bản nhà nước là bước quá độ của kinh tế xã hội chủ
nghĩa, khi chúng ta thực hiện được việc là đưa mọi người dân vào hợp tác xã.
- Đảng, Nhà nước phải ủng hộ, tổ chức, lãnh đạo và ưu tiên cho các
hợp tác xã thì chế độ hợp tác xã mới ra đời và phát triển vững vàng được,
đồng thời yêu cầu từ thấp đến cao đối với các hợp tác xã, tránh hình thức chủ
nghĩa, tránh gò ép, tránh buông lỏng việc quản lý hợp tác xã. Phải đưa nông
dân vào các hình thức hợp tác xã thích hợp và phải triệt để tuân theo nguyên
tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi. Phải hướng dẫn, giúp đỡ nông dân một
cách cụ thể vì hợp tác xã nông nghiệp tuy là một xí nghiệp tập thể, song về
thực chất là một xí nghiệp xã hội chủ nghĩa.
- Giai cấp công nhân, Nhà nước Xô viết muốn xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội thì nhất thiết phải dựa trên cơ sở của liên minh
kinh tế với nông dân, phải đảm bảo và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
cho nhân dân lao độn, chứ không thể tiến hành bằng cách "làm phá sản những
người sản xuất hàng hoá nhỏ" hay bằng cách "chiếm các thuộc địa" như một
số người đề nghị.
- Thực hiện chế độ hợp tác xã là một công tác văn hoá để xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Phải văn minh hoá quần chúng, giáo dục quần chúng thấy được
lợi ích của hợp tác xã để họ tham gia tích cực vào hợp tác xã. Trong giáo dục


quần chúng không được dùng những biện pháp cao xa, mơ hồ, phải nâng cao
trình dộ văn hoá nhân dân. Lênin cho rằng, "nếu không có cả một cuộc cách
mạng văn hóa thì không thể nào thực hiện được việc hợp tác hoá hoàn toàn"23
- Đây cũng là sự phát triển của Lênin về lý luận "cải biến cách mạng"
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nga lúc bấy giờ.
3. Gợi mở lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Lênin viết:"Chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản. Sự thay đổi căn bản đó là

ở chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác
của chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền,.v.v. Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang công tác hoà bình tổ chức
"văn hoá"24.
Như vậy, ở đây, Lênin đã đề cập đến việc chuyển hướng ưu tiên giải
quyết nhiệm vụ chủ yếu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới: từ
giành và giữ chính quyền công nông sang sử dụng và phát huy nó, từ mở rộng
và thúc đẩy cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới sang củng cố và phát
triển chế dộ ở một nướctừ đấu tranh chính trị, quân sự sang xây dựng kinh tế kỹ thuật và văn hoá - giáo dục.
Đồng thời phát triển kinh tế nói chung, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, phải nâng cao đời sống nhân dân (đặc biệt là tầng
lớp nông dân). Đây là mục tiêu cuối cùng của chế độ hợp tác xã và cũng là
mục tiêu cuối cùng duy nhất của chủ nghĩa cộng sản. Đó là giải phóng cho
nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, mang lại cuộc sống ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân lao động. Cũng chính vì điều này mà hợp tác xã gần
với chủ nghĩa xã hội.
Tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác xã" có ý nghĩa đặc biệt đối với nước
Nga lúc bấy giờ và ngay cả về sau này. Từ những năm 1929, chính sách của
Đảng là dùng mọi biện pháp giúp đỡ hợp tác xã . Điều đó đã đảm bảo cho
23
24

V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.43,1978. tr.302.
V.I.Lê-nin Toàn t?p. Nxb. Ti?n B?, Mát-xco-va, t.45,1978. tr.428.


nông dân tiến lên con đường tập thể hoá nông nghiệp một cách thuận lợi. Sự
chuyển biến đó có ý nghĩa quan trọng như cuộc cách mạng tháng 10 Nga năm
1917. Hợp tác xã là con đường duy nhất để tổ chức nông dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội mà nông dân dễ hiểu và bằng lòng tiếp thu nhất.

4. Ý nghĩa quốc tế đối với những nước lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (như Việt Nam)
Cũng như nhiều tác phẩm khác của Lênin, đặc biệt là các tác phẩm
trong thời kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, tác phẩm "Bàn về chế độ hợp
tác xã" có ý nghĩa quốc tế rất trọng đại đối với các nước quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội có đông đảo nông dân và những người sản xuất nhỏ. Trong một
thời gian dài, nông dân nhiều nước trên thế giới vào hợp tác xã theo phong
trào của nông dân Nga rất đông. Họ nhận thấy đây là con đường không làm
cho nông dân nghèo khổ, phá sản, trái lại làm cho nông dân có một đời sống
sung túc và hạnh phúc.
Đối với Việt Nam, chế độ hợp tác xã thực sự đóng một vai trò quan
trọng trong kế hoạch phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Công cuộc
hợp tác hoá ở miền Bắc được thực hiện ngay sau ngày giải phóng, bắt đầu từ
năm 1954 (trong nông nghiệp) đến năm 1960 được xác định: “Cơ bản hoàn
thành” theo tinh thần Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương VIII (khoá
II) năm 1958 và sau đó là Nghị quyết Trung ương 16 (khoá II) vào năm 1959
về mở rộng hợp tác hoá ở miền Bắc để đến năm 1960 căn bản hoàn thành hợp
tác hoá. Khi đó Đảng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn cá thể,
kinh tế cá thể tự phát sẽ đẻ ra chủ nghĩa tư bản và sẽ xuất hiện giai cấp bóc lột
ở nông thôn; làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn
đề kinh tế - xã hội của cộng đồng nông thôn. Do vậy, hợp tác hoá được thực
hiện đồng nhất với tập thể hoá xoá bỏ hình thức sản xuất cá thể của hộ gia
đình nông dân, kinh tế hộ chỉ còn tồn tại dưới hình thức kinh tế phụ gia đình.
Điều đó có nghĩa là toàn bộ hoạt động sản xuất của người nông dân gắn chặt
vào tổ chức kinh tế tập thể; mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể; tổ chức


lao động tập trung dưới sự chỉ huy điều hành của ban quản trị và ban chỉ huy
đội; phân phối cho xã viên theo ngày công sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất,
trừ các khoản nộp cho nhà nước, các khoản đóng góp khác và phúc lợi xã hội

ở nông thôn; Ban quản lý hợp tác xã được giao đảm nhiệm hầu hết các chức
năng xã hội kể cả một số chức năng của chính quyền cơ sở…
Trong những năm tiến hành hợp tác hoá theo mô hình nói trên,
nhờ lao động tập thể, sử dụng tập trung các nguồn lực và được Nhà
nước hỗ trợ đầu tư đáng kể nên đã xây dựng được những công trình
thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao thông, trường học, nhà trẻ,
bệnh xá … bộ mặt nông thôn miền Bắc đã có những đổi thay đáng kể và
đóng góp quan trọng về sức người, sức của cho công cuộc giải phóng
miền Nam và thống nhất đất nước.
Song mô hình tổ chức hợp tác xã kiểu tập thể hoá triệt để các loại
tư liệu sản xuất trong thời gian này tự nó chứa đựng những khuyết tật
rất cơ bản, như:
- Chế độ tập thể hoá triệt để các tư liệu sản xuất dẫn đến tình
trạng không có người làm chủ cụ thể, sự gắn bó giữa tư liệu sản xuất
với người lao động bị suy giảm, làm cho tư liệu sản xuất không được sử
dụng có hiệu quả, sử dụng lãng phí, mai một dần thậm chí bị huỷ hoại.
- Cơ chế tập trung quan liêu đã tạo điều kiện để các cấp chính
quyền can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã,
làm cho hợp tác xã và người lao động luôn phụ thuộc, bị động, thiếu
sáng tạo, phổ biến tình trạng dựa dẫm, chờ đợi sự hỗ trợ của Nhà nước
mới có thể phát triển.
- Chế độ phân phối bình quân theo công điểm kéo dài, trong khi
hợp tác xã phải đảm nhận nhiều khoản đóng góp phúc lợi xã hội ở nông
thôn, chi tiêu lãng phí, thiếu tính toán hiệu quả; làm cho giá trị ngày
công giảm dần … do đó triệt tiêu tính tích cực của người lao động.


Từ những năm 1965 cả nước đi vào cuộc chiến đấu giải phóng và
bảo vệ đất nước, miền Bắc vừa là hậu phương lớn chi viện cho tiền
tuyến miền Nam, vừa trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại của giặc

Mỹ ở miền Bắc. Do tác động của chiến tranh và có nguồn viện trợ
không hoàn lại từ bên ngoài, các hợp tác xã lại có thêm sức mạnh tư
tưởng, tâm lý và vật chất để củng cố; những tiêu cực vốn có bên trong
không có điều kiện bộc lộ ra. Hơn nữa, trong điều kiện chiến tranh, mô
hình hợp tác xã cũ mang tính chất tập trung đã thể hiện rõ tính ưu việt,
bởi vì nó có thể huy động tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến đấu,
“thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, tất cả cho
tiền tuyến, cho chiến thắng. Chính các hợp tác xã đã đóng vai trò quan
trọng trong việc hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có người đi chiến đấu
và phục vụ chiến đấu, đảm bảo thực hiện tốt chính sách hậu phương,
động viên các chiến sĩ ngoài mặt trận yên tâm đánh giặc.
Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc, đất nước hoàn toàn được giải
phóng, chúng ta đã áp dụng máy móc mô hình hợp tác xã của miền Bắc
vào miền Nam và hình dung chủ nghĩa xã hội sẽ được hình thành trên
cơ sở phát triển nhanh mô hình hợp tác xã ấy. Nhưng thực tiễn đã
chứng minh sự không thành công, rõ nhất là ở đồng bằng Nam Bộ, nơi
kinh tế hàng hoá đã có bước phát triển. Các hợp tác xã ở miền Bắc, sau
khi chiến tranh kết thúc, nguồn viện trợ từ nước ngoài giảm dần, tình
hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn, bao cấp của nhà nước giảm
dần, thì những bất cập của hợp tác xã mô hình cũ dần bộc lộ ra ngày
càng rõ rệt làm cho các hợp tác xã càng lúng túng, khó khăn và suy
giảm.
Nhận thức rõ yêu cầu của thực tiễn. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư
đưa ra các giải pháp tình thế (1981) nhằm khắc phục sự trì trệ của hợp
tác xã, cơ chế khoán thực sự đem lại lợi ích thiết thực cho người lao
động đã tác động kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất.


Song, khoán 100 thực chất mới chỉ tác động chủ yếu vào khâu phân
phối do đó chưa làm thay đổi căn bản mô hình hợp tác xã nông nghiệp

cũ. Vì vậy động lực do khoán 100 tạo ra đã sớm bộc lộ hạn chế và
không duy trì được dẫn đến tình hình trì trệ trở lại vào những năm
1985, 1986.
Đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã khẳng
định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong các ngành
và lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hợp tác xã, được khẳng
định cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế,
đồng thời thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hợp tác xã phải đi đôi với sự
phát triển đa dạng các hình thức từ thấp đến cao, hợp tác xã là nòng cốt
của kinh tế hợp tác.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế hợp tác với bộ phận nòng cốt
là các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được nhận thức lại và đổi mới
trên cơ sở Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5/4/1988, trên tinh thần
đó Đảng chủ trương phải tổ chức lại sản xuất trong các hợp tác xã nông
nghiệp thành đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản; điều chỉnh một bước quan
hệ sở hữu, quan hệ quản lý giữa hợp tác xã với các hộ xã viên; đổi mới
quan hệ phân phối - xoá bỏ chế độ phân phối theo công điểm, xác định
hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, được khuyến khích làm giàu. Xác
định kinh tế hợp tác có nhiều hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức
sản xuất - kinh doanh do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức,
được quản lý theo nguyên tắc dân chủ đều là hợp tác xã.
Tổng kết hơn 10 năm thực hiện đổi mới, Nhà nước ta đã chủ
trương luật pháp hoá những kết quả đạt được đối với hợp tác xã nhằm
tạo khung pháp lý cho loại hình tổ chức kinh tế hợp tác xã kiểu mới
hoạt động, do vậy Luật hợp tác xã đã được Quốc hội thông qua
20/3/1996 và có hiệu lực kể từ ngày 1/1/1997. Luật đã xác định rõ mô
hình hợp tác xã kiểu mới với các nội dung hoạt động của nó. “Hợp tác


xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi

ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của
pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm
giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước” 25 .
Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi
mới. Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đã tiếp tục khẳng định: “Phát
triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác xã đa dạng. Chuyển đổi
hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển
hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản
xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất,
kinh doanh phù hợp quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” 26 .
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ V Khoá IX (3/2002)
phần về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập
thể, đã tiếp tục phát triển quan điểm của Đảng ta về kinh tế tập thể mà
nòng cốt là hợp tác xã.
Nghị quyết nêu rõ: “Cần củng cố những tổ hợp tác và hợp tác xã
hiện có, tiếp tục phát triển rộng rãi kinh tế hợp tác với nhiều hình thức,
quy mô, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn có điều
kiện … Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh tế giữa tổ hợp
tác, hợp tác xã với các doanh nghiệp nhà nước. Khi hợp tác xã phát
triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của hợp
tác xã, các liên hiệp hợp tác xã” 27 .
Như vậy, có thể nói rằng quá trình đổi mới về tư duy và nhận thức đối
với kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã và kinh tế hợp tác với nòng cốt là các
Lu?t h?p tác xã. Nxb.Chính tr? qu?c gia.,Hà N?i, 1996, tr.6.
Đ?ng C?ng s?n Vi?t Nam. Văn ki?n Đ?i h?i Đ?ng toan qu?c l?n th? IX. Nxb. Chính tr? qu?c gia, Hà N?i,
2001, tr.190
27
Đ?ng C?ng s?n Vi?t Nam. Văn ki?n H?i ngh? l?n th? V Ban Ch?p hanh Trung uong (khóa IX), Nxb. Chính

tr? qu?c gia, Hà N?i, 2002, tr.29.
25
26


hợp tác xã đều bắt nguồn từ tổng kết thực tiễn, tôn trọng quy luật phát triển
khách quan của sự vật, vì lợi ích thiết thực của nhân dân lao động.
Từ đó, Nhà nước đã đề ra định hướng đúng để đổi mới kinh tế, phát
triển kinh tế tập thể và cùng với kinh tế nhà nước trở thành chủ đạo trong nền
kinh tế nước ta.
IV. Ý nghĩa của các quan điểm Lênin trong tác phẩm "Bàn về
chế độ hợp tác xã" đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
1. Tiếp tục xác định vai trò quan trọng của kinh tế tập thể mà
nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới
Trước tiên, cần khẳng định rằng, những quan điểm của Lênin về
chế độ hợp tác xã là nền tảng, cơ sở lí luận quan trọng đối với Đảng ta
khi vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Lý luận hợp tác xã
của Lênin có ý nghĩa thiết thực, trực tiếp trong việc hoạch định đường
lối phát triển hợp tác xã trong giai đoạn hiện nay của Đảng và Nhà
nước ta. Biểu hiện cụ thể như sau:
Như đã trình bày ở phần trước, Lênin đã luận giải rất sâu sắc về vai
trò, ý nghĩa của chế độ hợp tác xã trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những luận giải đó dựa trên những cơ sở khoa học thiết thực, do đó có sức
thuyết phục lớn lao và sẽ là những chỉ dẫn rất có ý nghĩa cho tất cả những
nước theo lý tưởng chủ nghĩa xã hội nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đổi mới trong lĩnh vực nông nghiệp
luôn được Đảng và Nhà nước đánh giá là giữ một vị trí quan trọng đặc biệt.
Vai trò của kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác và hợp tác xã là một trong
những yếu tố tạo thành nền tảng của hệ thống kinh tế theo định hướng đi lên
chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, kinh tế thể và hợp tác xã vốn chứa đựng tiềm năng

của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế tập thể và hợp tác xã có điều kiện phát triển mở
rộng dưới chính quyền của nhân dân lao động, do chính Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo. Chúng ta xây dựng và hoàn thiện chính quyền Nhà nước
thực sự của dân, do dân và vì dân là nhân tố chính trị cho việc phát triển, mở


rộng kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Ngược lại, kinh tế tập thể và hợp tác xã
kiểu mới, khi được phát triển mở rộng sẽ trở thành nền tảng kinh tế cho chính
quyền của nhân dân.
Mặt khác, ở nước ta, kinh tế tập thể và hợp tác xã lại có quan hệ
mật thiết với thành phần kinh tế chủ đạo (kinh tế nhà nước), cùng với
kinh tế nhà nước tạo thành nền tảng của hệ thống kinh tế theo định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. Những năm đổi mới vừa qua, hệ thống
hành chính bao cấp bị phân rã, kinh tế quốc doanh và hợp tác xã kiểu cũ
cũng bị phân rã. Nhưng cũng chính trong quá trình đổi mới đã nảy sinh
những hợp tác xã kiểu mới, những doanh nghiệp nhà nước kiểu mới
đang bắt đầu liên kết với nhau đã có tác dụng làm cho cả hai bên thêm
sức mạnh, từng bước khẳng định vai trò nền tảng, chủ đạo của mình.
Ở Việt Nam, kinh tế tập thể và hợp tác xã có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng đối với khu vực nông nghiệp nông thôn. Phát huy mọi
tiềm năng của kinh tế hộ cùng với phát triển kinh tế tập thể và hợp tác
xã dần dần trở thành dòng chính ở nông thôn sẽ khơi dậy mọi tiềm năng
của sản xuất nông nghiệp. Hợp tác hoá được thực hiện cùng với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường đưa nông thôn lên chủ
nghĩa xã hội, đồng thời cũng là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa công
nhân, nông dân và trí thức.
2. Cơ sở xây dựng nguyên tắc phát triển kinh tế tập thể
Về vấn đề nguyên tắc, điều kiện của kinh tế tập thể thì trong hệ
thống quan điểm về hợp tác xã, Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính “tự

nguyện” và “phân phối theo giá trị đóng góp” đối với hoạt động của
hợp tác xã, coi đó là nguyên tắc, là “điều kiện” tiên quyết đối với quá
trình xác lập và phát triển kinh tế tập thể. Quan điểm này có ý nghĩa rất
quan trọng đối với chúng ta. Bài học đối với việc không quán triệt quan
điểm này của Đảng ta là thời kỳ chúng ta nóng vội muốn đẩy nhanh hợp


tác hoá. “Cưỡng bách” nông dân vào hợp tác xã, thực hiện phân phối
bình quân theo “công điểm” kéo dài, và chúng ta đã phải trả giá. Giờ
đây, chúng ta đã nhận thức lại:
Văn kiện Đại hội Đảng VIII (6/1996) đã ghi rõ: “Phát triển kinh
tế hợp tác dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm
hợp tác đến hợp tác xã; tuân thủ nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng
có lợi, quản lý dân chủ.
Hợp tác xã được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham
gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết qủa lao động và
theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc
chung” 28 .
Luật hợp tác xã năm 1997 đã cụ thể hoá nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của hợp tác xã như sau:
"Một là, tự nguyện gia nhập và ra hợp tác xã.
Hai là, chia lãi bảo đảm kết hợp lợi ích của xã viên và sự phát
triển của hợp tác xã: Sau khi làm song nghĩa vụ nộp thuế, lãi được trích
một phần vào các quỹ của hợp tác xã, một phần chia theo vốn góp và
công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức
độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã do Đại hội xã viên quyết định” 29 .
Đó là những biểu hiện cụ thể cho việc nhìn nhận lại của Đảng và
Nhà nước ta đối với kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã kiểu mới.
Cái nguyên tắc “tự nguyện”, “phân phối theo giá trị đóng góp” giờ đã
được tuân thủ nghiêm ngặt, và như thế có thể khẳng định được rằng; tất

cả những sự “đổi mới”, những “nhận thức mới” ấy thực chất là trở lại
với quan điểm của Lênin về hợp tác xã. Từ đó cho thấy: quan điểm của
Lênin về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là hết sức cơ

Đ?ng C?ng s?n Vi?t Nam. Văn ki?n Đ?i h?i Đ?ng toan qu?c l?n th? VIII. Nxb. Chính tr? qu?c gia, Hà N?i,
1996, tr.95.
29
Lu?t h?p tác xã. Nxb.Chính tr? qu?c gia.,Hà N?i, 1996, tr.8-9.
28


bản và đúng đắn, là những chỉ dẫn mẫu mực cho sự đổi mới và phát
triển kinh tế tập thể và hợp tác xã kiểu mới của Đảng và Nhà nước ta.
Tóm lại, với đặc điểm của Việt Nam, là một nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, từ một nước nông nghiệp lạc hậu
bỏ qua chế độ tư bản thì những quan điểm của Lênin về vai trò, ý nghĩa
của hợp tác xã càng có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng, là những chỉ
dẫn có tính chất chuẩn mực cho Đảng và Nhà nước ta vận dụng vào quá
trình hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của mình nhằm phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.


×