Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

một số quan điểm cơ bản của v i lênin về công tác tư tưởng và sự vận dụng ở việt nam TIEU LUAN KINH DIEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.57 KB, 30 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của một giai cấp, một
chính đảng nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng trong quần
chúng, thúc đẩy quần chúng hành động vì lợi ích của chủ thể tư tưởng.
Công tác tư tưởng dưới chủ nghĩa xã hội là hoạt động có mục đích của
Đảng cộng sản và Nhà nước nhằm phát triển, truyền bá hệ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, biến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa thành hệ tư tưởng chi phối, thống trị
trong đời sống tinh thần xã hội, động viên cổ vũ tính tích cực, tự giác, sáng
tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Công tác tư tưởng gồm 3 quá trình cơ bản: quá trình sáng tạo hệ tư
tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối, chính sách; quá trình
truyền bá hệ tư tưởng và đường lối, chính sách (tái sản xuất hệ tư tưởng); quá
trình biến hệ tư tưởng, đường lối, chính sách thành hiện thực (“vật chất hóa”
hệ tư tưởng). Ba quá trình này được V.I.Lênin gọi một cách tương ứng là công
tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Cũng có thể gọi đó là 3
bộ phận hợp thành công tác tư tưởng. Công tác lý luận là quá trình hình thành,
phát triển sáng tạo hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối
chiến lược, sách lược. Công tác tuyên truyền và cổ động tương ứng với quá
trình truyền bá hệ tư tưởng và đường lối, chính sách trong quần chúng, thúc
đẩy quần chúng tích cực hành động nhằm hiện thực hóa hệ tư tưởng và đường
lối, chính sách ấy. Tất cả các yếu tố, các bộ phận trên đây tác động, quy định
lẫn nhau và hình thành nên hệ thống công tác tư tưởng. Hệ thống này vận
hành theo những quy luật của lĩnh vực tư tưởng.
Thực tế cho thấy, V.I.Lênin rất quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm về
công tác tư tưởng và những quan điểm của ông về vấn đề này có ý nghĩa sâu sắc
đối với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính vì lẽ đó, nên em đã chọn đề tài
Tiểu luận của mình là: “Một số quan điểm cơ bản của V.I.Lênin về công tác tư


1


tưởng và sự vận dụng ở Việt Nam” với mong muốn mình nắm được rõ hơn các
quan điểm của V.I.Lênin về vị trí, vai trò của công tác tư tưởng.
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp cho những người nghiên cứu và học tập hiểu rõ hơn một số quan
điểm cơ bản của V.I.Lênin về lý luận và công tác lý luận
3. Phương pháp nghiên cứu
Bên cạnh việc sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp so sánh, tổng hợp, tác giả còn sử dụng các phương pháp chủ yếu
là đọc, phân tích nội dung trong tài liệu, đưa ra một số ý kiến.
4. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận có
kết cấu gồm 3 chương và 6 tiết.

2


NỘI DUNG
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
1.1. Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò công tác tư tưởng
V.I.Lênin cho rằng bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trong hoạt
động của Đảng Cộng sản là công tác tư tưởng, mà mục đích cao nhất của nó
là luận giải về mặt lý luận đường lối của đảng, xây dựng con người phát triển
toàn diện và có đời sống tinh thần phong phú, không ngừng nâng cao ý thức
giác ngộ giai cấp của họ. Công tác tư tưởng là vũ khí mạnh mẽ của đảng trong
cuộc đấu tranh nhằm xây dựng xã hội mới.

V.I.Lênin rất coi trong hoạt động lý luận, tuyên truyền và cổ động của
đảng vô sản. Trong tác phẩm “Làm gì?”, V.I.Lênin đã nêu luận điểm nổi
tiếng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng” [4, tr.30-32]. Người còn chỉ rõ rằng vấn đề chủ yếu trong công tác tư
tưởng của đảng là nâng cao ý thức giác ngộ chính trị của công nhân và toàn
thể nhân dân lao động, làm cho họ hiểu rõ những nhiệm vụ cụ thể trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản: “nhiệm vụ chủ yếu của đảng là giáo dục
chính trị cho giai cấp công nhân, xây dựng ý thức cho giai cấp vô sản, cải tiến
việc tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động”. Trong bài báo “”những bài
học của cuộc khởi nghĩa Mátxcơva” V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Nâng cao sự
giác ngộ của quần chúng hiện nay cũng như bất cứ lúc nào, vẫn là nền tảng và
nội dung chủ yếu của toàn bộ công tác của chúng ta” [7, tr.472].
V.I.Lênin khẳng định rằng công tác tư tưởng trước hết phải có lý luận
mác – xít chân chính và làm cho lý luận đó thâm nhập vào phong trào công
nhân trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho chính đảng của giai cấp công nhân
thì mới làm tròn vai trò của chiến sĩ tiên phong góp phần bảo vệ lợi ích của

3


giai cấp mình: “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong dẫn đường, đảng đó
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [4, tr.189].
V.I.Lênin cho rằng, công tác tư tưởng là một công tác hết sức quan
trọng, bởi vì một học thuyết, một đường lối chủ trương của đảng chỉ có thể đi
vào quần chúng, vào cuộc sống thông qua các công tác chính trị - tư tưởng.
Công tác này là trách nhiệm của đảng cộng sản cầm quyền “bất cứ một chính
đảng nào có trọng trách với tương lai là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy
được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình” [11, tr.294].
1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về tính đảng và tính khoa học trong
công tác tư tưởng

Khi tiến hành công tác tư tưởng thì đòi hỏi đảng cộng sản phải thực
hiện đúng nguyên tắc tính đảng, đây là nguyên tắc cơ bản, là thước đo đánh
giá người tuyên truyền, cổ động, đánh giá các binh chủng trên mặt trận tư
tưởng – văn hóa.
V.I.Lênin cho rằng: “Trong bất kỳ trường hợp nào điều quan trọng là
phương hướng chính trị - tư tưởng” [14, tr.481], và Người cũng yêu cầu:
“phải giữ vững tính đảng không chỉ trên lời nói mà cả trên việc làm” [14,
tr.497]. Như vậy, mọi nội dung trong công tác tư tưởng phải đứng trên lập
trường tư tưởng của đảng.
Để chính đảng của giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, thì bên cạnh việc xác lập hệ tưởng mác – xít trong phong trào công
nhân còn phải chú ý đến việc đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, phi vô
sản và chống lại các tư tưởng lạc hậu, lỗi thời. Tuy nhiên, trong cuộc đấu
tranh này đòi hỏi đảng cộng sản phải thừa kế và phát triển những hạt nhân
hợp lý trong các tư tưởng đó. Bởi vì, theo V.I.Lênin: “Dù học thuyết phản
động nhất cũng phải lấp lãnh những hạt trí tuệ” [14, tr.119]. Do đó: “Chúng ta
phải biết phát triển nó nếu không muốn lạc hậu với cuộc sống” [14, tr.121]. Vì
thế, công tác tư tưởng của đảng phải có nhiệm vụ kế thừa và phát triển các hạt
nhân hợp lý.

4


Công tác tư tưởng còn phải được tiến hành dựa trên cơ sở khoa học,
trong đó triết học duy học biện chứng là cơ sở khoa học quan trọng nhất, đóng
vai trò phương pháp luận quyết định. Nó được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, những ý thức xã hội
có vai trò độc lập trong sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, tư tưởng của con người phải gắn liền với lợi ích của họ.
Thứ ba, nhận thức của con người vốn có tính biện chứng. Quá trình tư

tưởng diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn.
Thứ tư, con người là một thực thể sinh vật – tâm lý – xã hội.
1.3. Quan điểm của V.I.Lênin về các bộ phận của công tác tư tưởng
Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình bao gồm từ việc sáng
tạo ra hệ tư tưởng và vận dụng tư tưởng để đề ra đường lối chiến lược, sách
lược của một giai cấp, một chính đảng đến việc truyền bá hệ tư tưởng vào
trong quần chúng, thúcn đẩy quần chúng hành động một cách tích cực,
V.I.Lênin xác định ra bộ phận cấu thành công tác tư tưởng của đảng vô sản là:
công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Ba bộ phận (hình
thái) đó tương ứng với các quá trình tư tưởng sau: công tác lý luận tương ứng
với quá trình sáng tạo ra hệ tư tưởng, công tác tuyên truyền tương ứng với quá
trình truyền bá hệ tư tưởng và công tác cổ động tương ứng với quá trình vật
chất hóa hệ tư tưởng (biến tư tưởng thành hành động). Lần đầu tiên trong tác
phẩm “Những người bạn dân là như thế nào” V.I.Lênin đề cập đến công tác lý
luận và công tác thực tiễn tuyên truyền và cổ động: “Trong khi nhấn mạnh
như thế sự cần thiết, tầm quan trọng và quy mô rộng lớn của công tác lý luận
của những người dân chủ - xã hội, tôi không hề muốn nói rằng công tác đó
phải được đặt vào vị trí hàng đầu trước công tác thực tiễn”… “Trái lại, công
tác thực tiễn tuyên truyền và cổ động nhất thiết bao giờ cũng phải ở vị trí
hàng đầu, vì một là, công tác lý luận chỉ giải đáp được những vấn đề do công
tác thực tiễn nêu ra. Hai là, những người dân chủ - xã hội, vì những tình hình
không phụ thuộc vào họ, thường buộc phải chỉ làm công tác lý luận thôi, nên
5


không thể không hết sức coi trọng những lúc có thể làm công tác thực tiễn”
[1, tr.381]. Ở luận điểm này, V.I.Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của công
tác thực tiễn tuyên truyền và cổ động trong phong trào cách mạng, thậm chí
ông còn đặt cị trí tuyên truyền và cổ động lên hàng đầu so với công tác lý
luận. Bởi lẽ, xét từ nguồn gốc thì mọi nhu cầu sáng tạo lý luận đều xuất phát

từ những đòi hỏi thực tiễn cách mạng. Do đó, lý luận đã được sáng tạo tất yếu
phải trở về phục vụ thực tiễn thông qua công tác tuyên truyền và cổ động.
Cũng bàn về ba loại hình hoạt động của công tác tư tưởng, trong tác
phẩm “Làm gì?” V.I.Lênin cũng đưa ra luận điểm: “Những nhà lý luận thảo
những bản nghiên cứu về chính sách thuế, trong đó họ “kêu gọi”, chẳng hạn,
đấu tranh đòi ký các hiệp ước buôn bán và đòi tự do buôn bán; người tuyên
truyền cũng viết như thế trên các tạp chí, và người cổ động cũng nói như thế
trong các cuộc diễn thuyết trước công chúng” [4, tr.85]. Để tiến hành công tác
tư tưởng, đòi hỏi cần có sự tác động của cả ba hình thái lý luận, tuyên truyền
và cổ động, thiếu một trong ba hoạt động này chắc chắn công tác tư tưởng
không đạt hiệu quả, thậm chí thất bại. Đồng thời, ba hình thái này cần thống
nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện một quá trình tư tưởng và
giải quyết những vấn đề cấp bách do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Các bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng của đảng có mối quan hệ
thống nhất hữu cơ và tác động lẫn nhau như những quá trình bộ phận của
cùng một quá trình tư tưởng chung thống nhất, mặc dù chúng có chức năng,
đặc điểm riêng của mình. Giống như quá trình sản xuất vật chất, mắt khâu đầu
tiên của quá trình tư tưởng là sự sản xuất tư tưởng, tức công tác lý luận. Công
tác lý luận được coi là khâu trọng yếu hàng đầu của công tác tư tưởng. Nó
quyết định phương hướng, nội dung của công tác tuyên truyền và cổ động và
là cơ sở, nền tảng của công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng phát triển đúng
hướng, mang lại hiệu quả cao là tiền đề, điều kiện thuận lợi cho công tác
tuyên truyền và cổ động. Công tác tuyên truyền và cổ động hoạt động càng
mạnh mẽ càng đặt ra nhu cầu, động lực phát triển lý luận và tư duy lý luận.
6


Trái lại, nếu công tác lý luận giáo điều, trì trệ thì công tác tuyên truyền
cũng khó khăn, thiếu sức sống, thậm chí bế tắc mà biểu hiện của nó là nói
không đi đôi với làm. Nếu công tác lý luận sai lầm thì còn cực kỳ nguy hiểm.

Trong trường hợp này, nếu công tác tuyên truyền, cổ động càng hoạt động sôi
nổi thì những kết luận của công tác lý luận càng tác hại cho cách mạng. Mặt
khác, những tác hại ấy đôi khi rất khó lường trước và rất khó khắc phục trong
một thời gian ngắn. Về điểm này, V.I.Lênin đã chỉ rõ “Giải quyết đúng đắn về
mặt lý luận đảm bảo những thắng lợi vững chắc trong công tác cổ động” [5,
tr.341] và không có nội dung tư tưởng rõ ràng, sâu sắc thì công tác cổ động
chỉ là văn hóa sao chép.
Công tác tuyên truyền và cổ động có một cơ sở chung là chủ nghĩa
Mác, đều nhằm giải quyết một nhiệm vụ thống nhất là nâng cao ý thức giác
ngộ của quần chúng nhưng mỗi công tác có sự khác biệt tương đối. V.I.Lênin
đã phân biệt sự khác nhau giữa nội dung, phương pháp công tác tuyên truyền
và công tác cổ động trong tác phẩm “Làm gì?”. Ông cho rằng: “Người tuyên
truyền, nếu bàn về vấn đề thất nghiệp chẳng hạn thì phải giải thích bản chất
tư bản chủ nghĩa của các cuộc khủng hoảng, vạch rõ cái gì làm cho các cuộc
khủng hoảng là không thể tránh khỏi trong xã hội hiện đại, vạch rõ sự cần
thiết phải cải tiến xã hội ấy thành xã hội chủ nghĩa v.v… Nói tóm lại, người
tuyên truyền phải nói “nhiều ý”…”[4, tr.84-85]. Còn với người cổ động:
“Cũng nói một vấn đề ấy, người cổ động sẽ lấy một ví dụ nào nổi bật nhất và
được thính giả biết rõ nhất, - ví dụ như một gia đình thất nghiệp bị chết đói,
nạn ăn mày tăng lên, v.v…- rồi dựa vào sự việc mà tất cả mọi người đều biết
ấy, người cổ động sẽ đem hết sức ra làm cho “quần chúng” có một ý niệm
duy nhất: ý niệm về sự mâu thuẫn phi lý giữa sự tăng thêm của cải và sự
tăng thêm nghèo khổ; người cổ động sẽ ra sức khêu gợi sự bất bình, sự phẫn
nộ của quần chúng đối với sự bất công rõ rệt ấy…” [4, tr.84-85]. Theo quan
niệm này của V.I.Lênin, thì sự khác nhau cơ bản giữa tuyên truyền và cổ
động là người tuyên truyền thường dùng phương pháp truyền đạt nhiều ý
7


cho một người hay số ít người, còn cổ động thì truyền đạt chỉ một ý hay một

vài ý, nhưng cho số đông người. Bên cạnh đó, V.I.Lênin cũng đã làm sáng tỏ
không chỉ đặc điểm của phương pháp tuyên truyền, cổ động mà còn cho thấy
tính chất chính trị, tính chất điển hình và vai trò của kỹ năng lựa chọn sự
kiện trong hai công tác này.
Tóm lại, công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động
vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động biện chứng với nhau, vừa có tính
độc lập tương đối. Cho nên, trong thực tiễn công tác tư tưởng không nên lẫn
lộn hình thái này với hình thái kia, nhất là giữa tuyên truyền với cổ động.
1.4. Quan điểm của V.I.Lênin về hiệu quả công tác tư tưởng
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của con người, cần thiết
phải xem xét về tính hiệu quả. Trong bài “Việc gì đã xảy ra ở nước Nga” (báo
“Tiến lên” số 4 ngày 31/01/1905), V.I.Lênin đã đề cập tới vấn đề là công tác
lý luận phải tạo điều kiện để mở rộng phong trào cách mạng thực tiễn giúp
quần chúng nhân dân lựa chọn hình thức, phương pháp cách mạng có khả
năng “thu được kết quả nhiều nhất, vững chắc nhất mà lại ít tốn sức nhất” [6,
tr.258]. Kết quả cao chưa nhất thiết đưa lại hiệu quả cao. Hiệu quả cao chỉ khi
cùng một kết quả nhưng chi phí thấp nhất. Cho nên, trong công tác tư tưởng
phấn đấu đạt hiệu quả cao không phải bằng mọi giá, mà phải bằng cách sử
dụng những phương pháp công tác tốt nhất, chi phí hợp lý nhất.
Để đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng cần thông qua ba tiêu chuẩn:
trình độ hiểu biết, niềm tin, hoạt động thực tiễn về vấn đề tác động tư tưởng.
Ở đây V.I.Lênin quan tâm đến tiêu chuẩn hoạt động thực tiễn, hành động là
tổng hợp của sự hiểu biết và niềm tin, là đặc trưng nổi bật nhất của hiệun quả
công tác tư tưởng. Đánh giá con người không chỉ bằng lời nói mà bằng hành
động của họ, khi bàn về vấn đề này V.I.Lênin cho rằng: “Chúng ta căn cứ cái
gì để xét đoán những tư tưởng tình cảm thực của những cá nhân có thực? Tất
nhiên, căn cứ đó chỉ có thể những hoạt động của những cá nhân đó, và một

8



khi vấn đề chỉ là tư tưởng và tình cảm xã hội thì cần phải nói thêm, những
hoạt động xã hội của những cá nhân, tức là những sự kiện xã hội” [9, tr.28].
Ngoài ra, V.I.Lênin còn bàn đến những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả công tác tư tưởng. Trong những yếu tố thì ông đặc biệt quan
tâm đến vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng. Ông cho rằng: “tài
nghệ của người tuyên truyền và một người cổ động là chỗ ảnh hưởng một
cách tốt nhất đến một giá trị nhất định, làm cho một chân lý nào đó đối với họ
trở nên có sức thuyết phục mạnh nhất dễ hiểu nhất, để lại ấn tượng rõ ràng sâu
sắc nhất” [9, tr.38]. Người còn nói: “Nếu không có đội ngũ cán bộ ấy thì mọi
chỉ thị, nghị quyết của Đảng chỉ là mớ giấy lộn” [9, tr.38]

9


Chương 2
QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG
2.1. Quan điểm của V.I.Lênin về lý luận và công tác lý luận
Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển
sang chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư
sản bộc lộ hoàn toàn sự phản động của nó. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân
với giai cấp tư sản, giữa giai cấp tư sản với giai cấp tư sản, giữa giai cấp tư
sản với nhân dân các nước thuộc địa…trở nên gay gắt. Đây cũng là thời kỳ nổ
ra cách mạng vô sản, giành chính quyền đã đến gần và chín muồi, song các
đảng của Quốc tế II (sau khi Ăngghen mất) không đủ sức mạnh, tư cách và uy
tín lãnh đạo cách mạng vô sản.
Yêu cầu cấp bách và nặng nề đặt ra là kế thừa, phát triển, sáng tạo
những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về lý luận và công tác lý luận để xây
dựng các nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và áp dụng vào
thực tiễn để xây dựng đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng vô sản giành thắng lợi.

Công tác lý luận được V.I.Lênin đề cập là công tác lý luận – chính trị. Theo
V.I.Lênin, chính trị liên quan đến số phận hàng triệu người, Nó liên quan đến
vận mệnh quốc gia, dân tộc, đến lợi ích mọi giai cấp, đến mọi tầng lớp xã hội.
Do đó, đặc điểm của công tác lý luận của Đảng là sự thống nhất hữu cơ giữa
nó với chính trị. Lý luận ở đây là phục vụ trực tiếp chính trị; nó là cơ sở khoa
học của chính trị, thậm chí quan điểm lý luận nhiều khi trực tiếp đã là chính
trị. Do đó, công tác lý luận đòi hỏi đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực
này phải rất vững vàng, nhạy bén về chính trị, đồng thời phải có kiến thức sâu
rộng, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, có năng lực tư duy khái quát và có
tác phong làm việc tỉ mỉ, cẩn trọng.
2.1.1. Về bản chất, vị trí, vai trò của lý luận và công tác lý luận
Khi nói về vai trò mở đường của lý luận đối với phong trào cácha mạng,
cách đây hơn một thế kỷ, Ph.Ăngghen cho rằng, nếu trước kia cách mạng bắt
10


đầu trong đầu óc của những người thầy tu, thì bây giờ cách mạng bắt đầu trong
đầu óc của các nhà triết học. Để đưa các cuộc cách mạng đến thắng lợi hoàn
toàn thì phát triển lý luận trở nên cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Xuất
phát từ quan niệm đó của Ph.Ăngghen, trong tác phẩm “Làm gì?” V.I.Lênin đã
nêu luận điểm nổi tiếng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có
phòng trào cách mạng” [4, tr.30]. Luận điểm đó khẳng định vai trò, động lực to
lớn, vai trò kim chỉ nam của lý luận đối với phong trào cách mạng.
Lịch sử đấu tranh của giai cấp vô sản đã chứng minh rằng, họ chỉ trở
thành giai cấp “vì mình” khi có lý luận của chủ nghĩa Mác soi đường.
V.I.Lênin đã khái quát quy luật về sự ra đời của các đảng cộng sản là sự kết
hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. V.I.Lênin đã
nhấn mạnh vai trò to lớn của lý luận cách mạng đối với các đảng của giai cấp
công nhân và phong trào vô sản, Người khẳng định: “…chỉ đảng nào có được
một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến

sĩ tiên phong” [4, tr.32].
Nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận, V.I.Lênin khẳng định: “Việc
xây dựng lý luận đó càng tiến lên thì chủ nghĩa dân chủ - xã hội sẽ càng phát
triển nhanh chóng, vì những người bảo vệ giảo quyệt nhất chế độ hiện tại, đều
bất lực không thể ngăn nổi việc thức tỉnh tư tưởng của giai cấp vô sản” [1,
tr.380-381]. Rõ ràng trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp gay gắt, việc phát
triển lý luận và biến nó thành vũ khí đấu tranh sẽ góp phần thức tỉnh quần
chúng nhân dân tiến bộ và đấu tranh chống lại giai cấp tư sản đang trở nên lỗi
thời và phản động.
V.I.Lênin coi công tác lý luận là một trong những hình thức đấu tranh
giai cấp hết sức quan trọng của Đảng vô sản. Đảng phát triển một cách sáng
tạo lý luận khoa học, và trên cơ sở đó, đề ra đường lối chính trị để lãnh đạo
kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa, tổ chức việc giáo dục cộng sản chủ
nghĩa cho nhân dân lao động. V.I.Lênin khẳng định: “Không thể có một đảng
xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng” [3, tr.232].
11


Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức
chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Khi
có chính quyền, đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chuyên chính vô sản
và là một bộ phận của hệ thống đó. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình,
Đảng phải có lý luận tiên phong dẫn đường, chỉ lối, mới giải quyết được
những nhiệm vụ cách mạng thực tiễn đặt ra. Hơn nữa, phát triển lý luận sẽ
giúp đảng khắc phục hai khuynh hướng: giáo điều và kinh nghiệm. Chủ nghĩa
giáo điều có biểu hiện là thoát ly thực tế, vận dụng máy móc kinh nghiệm
hoặc những kết luận có tính lý luận của nước ngoài, không phát huy tinh thần
độc lập, sáng tạo của mình, chưa đi sâu nghiên cứu thực tế đất nước để làm
cho công tác lý luận được phong phú, sinh động. Còn chủ nghĩa kinh nghiệm
có biểu hiện là coi thường lý luận, tách rời thực tiễn với lý luận; phân tích,

phê phán tư tưởng sai lầm một cách gò ép, hời hợt, sức thuyết phục yếu.
V.I.Lênin còn khẳng định vai trò và mối quan hệ chặt chẽ giữa công tác
lý luận với công tác tuyên truyền và cổ động. Người viết: Nếu không phát
triển được công tác lý luận “…thì sẽ không tiến được một bước nào trong
công tác tuyên truyền và cổ động” [8, tr.359]. Giống như quá trình sản xuất
vật chất, mắt khâu đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình tư tưởng là sự sản
xuất tư tưởng, tức là công tác lý luận. Công tác lý luận quyết định phương
hướng, nội dung của công tác tuyên truyền, cổ động và là cơ sở, nền tảng của
công tác tư tưởng. Công tác lý luận phát triển đúng hướng sẽ là tiền đề, điều
kiện thuận lợi cho công tác tuyên truyền và cổ động. Ngược lại nếu công tác
giáo dục lý luận giáo điều, trì trệ thì công tác tuyên truyền và cổ động sẽ gặp
khó khăn, thiếu sức sống, thậm chí bế tắc. Do đó, vai trò của lý luận là hết sức
quan trọng, và trong hoạt động thực tiễn công tác tư tưởng cần phối hợp sử
dụng cả ba hình thái sao cho phù hợp với các quá trình tư tưởng và hoạt động
thực tiễn đang diễn ra.
Đối với V.I.Lênin, phát triển lý luận và công tác lý luận là yêu cầu
khách quan, lý luận chính là khoa học đấu tranh cách mạng, giác ngộ cho giai
12


cấp công nhân và quần chúng lao động về lý tưởng, mục tiêu của sự nghiệp
cách mạng nhằm xóa bỏ ách áp bức, bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa tư bản,
tiến tới xác lập quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Lý
luận, đó là những tri thức khoa học vũ trang cho giai cấp công nhân và quần
chúng lao động trong sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người,
giúp họ hành động tự giác, có tổ chức, nắm vững quy luật trong cách mạng
giành chính quyền và tổ chức xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Về nhiệm vụ của công tác lý luận và cán bộ lý luận
Đối với V.I.Lênin, công tác lý luận là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác
tư tưởng. Người viết: “Công tác lý luận của họ sẽ phải hướng vào việc nghiên

cứu cụ thể hết thảy mọi hình thức của sự đối kháng kinh tế ở nước Nga, vào
việc nghiên cứi những mối liên hệ và sự phát triển lôgic của các hình thức đó”
[1, tr.380]. Điều kiện kinh tế suy cho cùng có tính chất quyết định, do đó
nghiên cứu những lý luận về bản chất của kinh tế sẽ là tiền đề, là điều kiện để
giải quyết tốt những yêu cầu cách mạng đặt ra.
Một nhiệm vụ hết sức quan trọng của lý luận được V.I.Lênin nhấn
mạnh đó là đấu tranh trên mặt trận tư tưởng – lý luận, chống lại những phái
cơ hội, chống chủ nghĩa tự do, xét lại. Trong tác phẩm “Làm gì?” V.I.Lênin
viết: “Cần tiến hành đấu tranh tích cực chống “phái phê bình” hợp pháp, nó
đã làm trụy lạc đầu óc con người đến cùng cực” [4, tr.25]. Cũng trong tác
phẩm này, Người đã nêu ra quan điểm của C.Mác để lên án, phê phán những
kẻ “tìm cách làm giảm ý nghĩa của lý luận”, Người viết: “…nếu thực sự cần
phải liên hiệp thì cứ ký kết những thỏa hiệp nhằm đạt những mục tiêu thực
tiễn của phong trào, nhưng chớ có buôn bán nguyên tắc, chớ có “nhân
nhượng” về lý luận”.
V.I.Lênin đã nhận thức sâu sắc cuộc đấu tranh lý luận là một cuộc đấu
tranh hết sức gay gắt, trong cuộc đấu tranh này giai cấp tư sản đang tìm mọi
cách để thủ tiêu hệ thống lý luận tiến bộ, tìm cách phê phán, phủ nhận, bôi
nhọ, xuyên tạc dưới nhiều hình thức khác nhau. Để nhấn mạnh hơn tầm quan
13


trọng của lý luận trong cuộc đấu tranh này, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định quan
điểm của Ăngghen: “…cuộc đấu tranh vĩ đại của đảng dân chủ - xã hội không
chỉ có hai hình thức (chính trị và kinh tế)…mà có ba hình thức”, và xếp “hình
thức đấu tranh lý luận ngang với hai hình thức đấu tranh trên” [4, tr.32]. Như
vậy, kế thừa quan điểm của C.Mác – Ph.Ănghen, V.I.Lênin đã chứng minh
rằng “sức mạnh và sự vô địch” của lý luận, chính trị và kinh tế, trong đó lý
luận được coi là vũ khí tấn công sắc bén nhất.
Không chỉ nêu rõ nhiệm vụ của công tác lý luận đối với sự phát triển

của phong trào cách mạng, đối với cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng – lý
luận; xuyên suốt trong các tác phẩm của mình, V.I.Lênin còn nhấn mạnh tới
nhiệm vụ của các nhà lý luận là phải phát triển công tác lý luận và vận dụng
nó vào thực tiễn cách mạng.
Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của các nhà lý luận là phải tổng
kết thực tiễn: “Chúng ta phải cố gắng theo kịp các sự kiện xảy ra, tổng kết lại,
rút ra các kết luận… Chúng ta phải làm công việc thường xuyên của các nhà
chính luận – Viết lịch sử hiện đại và cố gắng viết như thế nào để trang sử do
chúng ta viết ra có thể giúp đỡ đắc lực cho những người trực tiếp tham gia
phong trào” [6, tr.258]. Thực tiễn luôn biến đổi không ngừng, đòi hỏi các nhà
lý luận phải coi đây là công việc thường xuyên, cần phát triển lý luận cho phù
hợp với hoàn cảnh thực tế đất nước. Hơn nữa, phải phát triển lý luận ngang
tầm phong trào cách mạng: “Cao trào tự phát của quần chúng càng tăng lên và
phong trào càng mở rộng thì sự cần thiếtn có một ý thức cao trong công tác lý
luận, chính trị và tổ chức của đảng dân chủ - xã hội càng phải tăng lên vô
cùng nhanh chóng hơn” [4, tr.67]. Trong thực tiễn cách mạng, những người
cán bộ lý luận phải ý thức rõ về mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận, chính trị
và tổ chức, coi đó là điều kiện đảm bảo sức sống và hiệu lực của công tác tư
tưởng. Đặc biệt trong bối cảnh phong trào cách mạng của quần chúng đang
phát triển, nhiệm vụ của những nhà tư tưởng phải giác ngộ cho họ ý thức về
mối quan hệ và thức tỉnh họ đấu tranh một cách tự giác.
14


Bản thân V.I.Lênin là một nhà lý luận, do đó Người luôn quan niệm
rằng phải thường xuyên bổ sung và phát triển lý luận, không thể đứng im hay
lùi lại so với thực tiễn đang diễn ra từng ngày, từng giờ. Người viết: “Chúng
ta không hề coi lý luận của C.Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất
khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn
khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về

mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống” [4, tr.232].
Với quan niệm này, V.I.Lênin đã khẳng định lý luận, dù là của các nhà kinh
điển cũng không phải là bất biến, là tuyệt đối mà cần bổ sung, phát triển và
hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện của thực tiễn. Để làm được công việc
đó, yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo – những người trực tiếp hoạch định
cương lĩnh, đường lối phải không ngừng học tập và nghiên cứu. Bàn về nội
dung này, V.I.Lênin viết: “Riêng đối với những người lãnh đạo, nhiệm vụ của
họ là phải học tập, ngày càng nhiều hơn, tất cả các vấn đề lý luận; phải tự giải
thoát, ngày càng nhiều hơn, khỏi ảnh hưởng của những câu cổ truyền của thế
giới quan cũ, và không bao giờ được quên rằng chủ nghĩa xã hội, từ khi đã trở
thành một khoa học, đòi hỏi phải được coi là một khoa học, nghĩa là phải
được nghiên cứu” [4, tr.34].
Trong lịch sử loài người, các giai cấp có hệ tư tưởng, thông qua đội ngũ
các nhà tư tưởng và hệ thống các thiết chế tư tưởng tìm mọi cách tác động, chi
phối các quan hệ tư tưởng và quá trình tư tưởng nhằm biến hệ tư tưởng của
giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần xã hội,
động viên, cổ vũ mọi thành viên trong xã hội tích cực hành động để xây dựng
và bảo vệ chế độ. Xuất phát từ thực tế đó, V.I.Lênin cũng đã nêu ra quan
điểm: lý luận do các nhà tư tưởng đại diện lợi ích giai cấp tạo ra. “Học thuyết
xã hội chủ nghĩa thì phát sinh ra từ các lý luận triết học, lịch sử, kinh tế do
những người có học thức trong các giai cấp hữu sản, những trí thức xây dựng
lên” [4, tr.38] hay “Ở nước Nga cũng thế, học thuyết lý luận của đảng xã hội –
dân chủ xuất hiện một cách hoàn toàn độc lập đối với sự phát triển của phong
15


trào công nhân; nó là kết quả tự nhiên, không tránh được của sự phát triển tư
tưởng trong số những nhà trí thức cách mạng xã hội chủ nghĩa” [4, tr.38-39].
Hệ tư tưởng ra đời là sự đúc kết từ hệ thống lý luận của các nhà tư tưởng đại
diện cho lợi ích giai cấp. Trong hệ tư tưởng và thông qua quan hệ tư tưởng,

giai cấp (với các nhà tư tưởng của chính mình) tự ý thức về nó trong xã hội có
giai cấp, mỗi người đều thuộc về một giai cấp nhất định, nhưng chỉ những
phần tử tiên tiến nhất, giác ngộ nhất về địa vị và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
mới là những thành viên nắm vững hệ tư tưởng giai cấp.

16


Chương 3
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA LÊNIN VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG,
LÝ LUẬN VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Về công tác tư tưởng, lý luận vào quá trình xây dựng con
người Việt Nam
“Đầu tiên là công việc đối với con người1
Con người và công việc đối với con người được coi là quốc sách đầu
tiên trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận và được Người
căn dặn rõ ràng trong Di chúc. Thật ý nghĩa khi trong bản viết tay của mình,
từ con người được Hồ Chí Minh gạch chân bằng bút màu đỏ và đây cũng là
vấn đề được Người viết rất dài trong Di chúc.
Hồ Chí Minh đã dành trọn cả đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng triệt
để con người. Người có một ham muốn tột bậc “nước nhà được hoàn toàn độc lập,
nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được đến trường”. Nhân cách con người mà Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng là
nhân cách người kách mệnh: “quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể. Hoà
mà không tư… Vị công vọng tư. Giữ chủ nghĩa cho vững…”2.
Xây dựng Đảng và tư cách người cách mạng - Tư tưởng quan
trọng của Người còn nguyên ý nghĩa thời sự trong giai đoạn hiện nay
Trước hết nói về Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tinh thần đoàn kết.
Muốn đoàn kết trong Đảng tốt theo Người cần thực hiện 2 nguyên tắc cơ bản
và quan trong là thực hiện dân chủ ở trong Đảng và thường xuyên, nghiêm

chỉnh tự phê bình và phê bình. “ ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý
của của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng”3.
Hồ Chí Minh khẳng định, muốn thực hiện dân chủ, tự phê bình và phê
bình đạt hiệu quả cao thì “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau…Mỗi
1

Sđd, tập 12, tr. 503

2

SĐD: tập 2, tr. 260
Sđd, tập 12, tr. 510

3

17


đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư”4. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà trong
một đoạn văn thật ngắn trong Di chúc (56 chữ), Người đã dùng đến 4 chữ
“thật”. Theo đồng chí Vũ Kỳ, Người đã suy ngẫm 4 chữ “thật”đó, chí ít trong
3 tháng kể từ buổi đến “thăm” Nguyễn Trãi ở Côn Sơn (15.02.1965), trước
khi bắt tay viêt Di chúc vào ngày 10.05.1965. “Bác đã viết 4 chữ “thật” cho
lúc bấy giờ và cho cả mai sau, khi đất nước hết chiến tranh, bước vào xây
dựng. Mà có lẽ chủ yếu là Bác viết cho mai sau.

Chắc là Bác muốn như thế”5
Không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân6 - nhiệm vụ cơ bản
của quá trình xây dựng con người
Trong Di chúc, Người căn dặn:“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân…7. Điều quan trọng và sâu lắng nhất cần vận dụng tư tưởng của Người
trong xây dựng con người hiện nay chính là vấn đề con người và bản chất sâu
lắng nhất của vấn đề con người là không ngừng nâng cao dân trí, dân sinh và
dân quyền. Con người không phải được Hồ Chí Minh đề cập chung chung,
trừu tượng mà là những con người cụ thể, với những chính sách cụ thể cho
từng đối tượng, hoàn cảnh cụ thể. Vào năm 1968, Người đã viết những chỉ
đạo cụ thể về chính sách đối với con người trong Di chúc:
Đối với liệt sỹ thì “xây dựng vườn hoa” và “bia kỷ niệm” nhằm để
tưởng nhớ đến công lao của các liệt sỹ đã quên thân vì nền độc lập tự do cho
dân tộc và quan trọng là để giáo dục truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của
dân tộc cho con cháu sau này.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…)” thì điều
quan tâm trước hết, cần thiết theo Bác là giúp họ có “nơi ăn, chốn ở”, giúp họ
có “việc làm” để họ tự lực vươn lên trong cuộc sống của mình.

4

Sđd, tập 12, tr. 510
Bác Hồ viết Di chúc, Hồi ký của Vũ Kỳ trong sách “35 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,
nhà xuất bản CTQG 2004, tr.126
6
Sđd, tập 12, tr. 511
7
Sđd, tập 12, tr. 511

5

18


Đối với cha, mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sỹ) thiếu sức lao động,
và túng thiếu thì các cơ quan, đoàn thể, mỗi người dân phải giúp đỡ họ có
công việc làm thích hợp, không để họ đói, rét.
Đối với những chiến sỹ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang và thanh niên
xung phong”, Đảng và Nhà nước cần phải “chọn một số ưu tú” để đào tạo họ
thành những “cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường
cách mạng vững chắc”8. Xây dựng họ thành đội quan chủ lực trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đối với phụ nữ đã “góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất”, Đảng và Chính phủ “phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân
nhắc và giúp đỡ”.
Đối với đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân”, Người đề nghị “miến
thuế nông nghiệp một năm” làm cho tinh thần người dân phấn chấn, “đồng
bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng”.
Đối với những nạn nhân của chế độ cũ” Đảng và Chính phủ cần phải
“dùng vừa giáo dục, vừa pháp luật để cải tạo họ”9.
Hồ Chí Minh không chỉ định hướng nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ
mà còn nêu rõ nhiệm vụ của từng giai cấp, giai tầng cụ thể trong sự nghiệp
xây dựng con người chung. Bản thân mỗi người phải “dần dần “tự lực cánh
sinh”, “phải cố gắng vươn lên” để gánh vác trọng trách được giao.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm quan
trọng và cần thiết
Trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đó căn dặn “bồi dưỡng thế hệ
cỏch mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Nhiệm vụ
của Đảng và Chính phủ trong chiến lược xây dựng con người, trước hết là

phải quan tâm và bồi dưỡng thế hệ thanh niên. Xây dựng họ thành những con
người hội tụ đủ cả hai yếu tố đức và tài, hồng và chuyên. Người nhấn mạnh:
“Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên” 10.
Thế hệ trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm và đòi hỏi
Đoàn phải làm tròn nhiệm vụ là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên để giúp
8

Sđd, tập 12, tr. 504
Sđd, tập 12, tr. 503 - 504
10
Sđd, tập 5, tr. 185
9

19


Đảng giáo dục họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Người khẳng
định muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ
với các tầng lớp thanh niên, phải biết tổ chức các phong trào thi đua, tạo môi
trường tốt nhất cho thanh niên cống hiến và hưởng thụ. Người đòi hỏi Đoàn
khi đề xuất một phong trào thi đua phải có định hướng đúng, có kế hoạch thực
hiện cụ thể, có nội dung thi đua thiết thực, rõ ràng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo
theo dõi thường xuyên. Có làm như vậy phong trào Đoàn mới thực sự phát
triển, thực sự là cánh tay phải, đội hậu bị tin cậy của Đảng trong giáo dục và
rèn luyện để hình thành nhân cách trong sáng cho thanh niên.
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 40 năm qua, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam
Đảng và Nhà nước coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”. Ngành giáo
dục đã đề ra những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình giáo dục là

xây dựng một các thế hệ con người Việt Nam có nhân cách, làm chủ về
chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng với yêu cầu phát triển
nền kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều đó sẽ tạo ra hệ điều chỉnh bên trong tự nguyện, tự giác; làm cho sự quan
tâm của con người đối với những người khác cũng như đối với lợi ích xã hội
trở thành nhu cầu và sự thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích thích tính tích
cực trong mỗi con người, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong quá trình phát
triển con người - xã hội dưới những tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường
và quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ
và sâu sắc về tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan tâm, tạo điều kiện phát
huy tối đa sức mạnh con người tạo động lực để giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, đạt mục tiêu giải phóng con người là sự nghiệp cao cả của Đảng.
Những định hướng về phẩm chất, những chuẩn giá trị mới cho việc xây dựng
con người Việt Nam được đề cập trong tất cả các Văn kiện của Đảng, được
phản ánh rõ nét trong việc Đảng ta luôn đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo
dục - đào tạo. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con
người Việt Nam khoẻ mạnh về thể chất, có nhân cách tốt đẹp, có trình độ

20


chuyên môn nghiệp vụ cao để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã khẳng định “con người là vốn quí nhất”. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã khẳng
định “muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã
hội chủ nghĩa”.
Trước đổi mới, trong hoàn cảnh đất nước vừa giải phóng, chúng ta

bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh nền kinh tế đất nước bị
chiến tranh tàn phá, trong xã hội tồn tại nhiều hủ tục, tệ nạn xã hội cần phải
khắc phục, cải tạo nhân phẩm cho một bộ phận người sống dưới chế độ cũ…
Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có
lý tưởng cách mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm,
liêm, chính, trí công vô tư; có ý thức rõ ràng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội… Những chuẩn giá trị mới này là động lực thúc đẩy con người Việt
Nam chiến đấu, lao động, học tập tự giác, sáng tạo đem lại những thành tựu
đáng tự hào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn tồn tại những sai lầm như
chủ quan duy ý chí, quản lý Nhà nước theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
- đây là môi trường tạo ra tính đặc quyền, đặc lợi cao với những người quản
lý, làm giảm tính chủ động sáng tạo của những người lao động…, hình thức
sở hữu toàn dân và tập thể đã tạo ra tình trạng “cha chung không ai khóc”, lợi
ích tập thể được đề cao, trong nhiều trường hợp trừu tượng, mơ hồ, biến lợi
ích này gần giống lợi ích cộng đồng hư ảo như trong xã hội cũ - theo nhận xét
của Mác. Lợi ích cá nhân hầu như không được quan tâm, mờ nhạt lên động
lực hoạt động của mỗi người chưa cao.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề con người luôn được Đảng
ta đặc biệt quan tâm. Bởi chúng ta hiểu rằng: Đổi mới, trước hết phải bắt đầu
từ việc đổi mới con người với tư cách là chủ thể hành động và đồng thời là
khách thể tác động của sự nghiệp đổi mới. Trên thực tế của sự phát triển xã
hội sẽ không có sự đổi mới xã hội nào nếu không có sự đổi mới bắt đầu từ con
người, chỉ có điều cần có sự phù hợp giữa những thay đổi của hoàn cảnh và
của con người và diễn ra trong quá trình thống nhất là thực tiễn cách mạng.
Đổi mới bắt đầu từ con người không phải được xây dựng một cách chung
chung, trừu tượng mà hướng vào từng con người, phát triển nhân cách phong

21



phú. Đây là nền tảng để xã hội phát triển, bởi mục đích phát triển của toàn xã
hội nếu không chuyển thành những động cơ tư tưởng bên trong của các cá
nhân thì không thể thực hiện được. Muốn xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa phải thông qua việc phát triển từng cá nhân với tư cách là chủ thể có ý
thức. Thực tiễn chứng minh “không phải bộ máy, cũng không phải khâu nào
khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà chính là con
người với những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của
đổi mới”11.
Đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đã
khẳng định: “Chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những
nhân tố mới đề phát huy, những sai lầm để sửa chữa, nhằm vận dụng tốt chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phát huy truyền thống lịch sử và
cách mạng của dân tộc, động viên tính năng động, sáng tạo và khả năng vô
tận của nhân dân lao động”12 và đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của
“nhân tố con người” trong sự nghiệp đổi mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng đã đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội VII khẳng định quan
điểm lớn: “quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì
con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm
về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội tất cả vì con người”13. “Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức,
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”14.
Đại hội Đảng lần thứ VIII, đại hội đưa nước ta tiến vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta khẳng định: “lấy việc
phát huy con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
11


.Vũ Thiện Vương: Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001, tr. 144.
12
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà nội, 1987, tr.8.
13
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật 1991, tr. 143.

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật,
Hà nội 1991, tr. 143.
14

22


Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ
cho đầu tư và phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường”15. Khẳng định này, lại được Đảng ta nhấn mạnh lại lần nữa tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX : “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. “Mọi hoạt động
văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng ,
lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ
hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội” 16. Những phẩm chất trên tiếp tục
được Đại hội X và Đai hội XI nhấn mạnh. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011)
cũng nêu rõ nhiệm vụ: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khoẻ lao
động, giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính” 17. Đó

vừa là sự tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền vững, vừa là những
đòi hỏi mới đối với con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đây là những chủ trương đúng đắn và thiết
thực của Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong việc vận dụng Tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng vào vấn đề xây dựng con người Việt
Nam hiện nay.
3.2. Về công tác tư tưởng, lý luận vào quá trình xây dựng thành
công sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay
Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đất nước ta đã đạt được những thành tựu vụ
cùng to lớn.
Một là, sự nghiệp đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu quan
trọng đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, chuyển sang thời kỳ phát triển kinh
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính
trị quốc gia, Hà nội 1996, tr. 85.
16
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia
2001, tr. 114.
17
Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm
2011), NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội 2011, tr. 76 -77
15

23


tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đời sống của nhân dân được tăng lên đáng kể. Điều này tạo ra cho nhân
dân niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới của Đảng, vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, khơi dậy trong họ niềm tin vào lý tưởng và có hoài bão

phấn đấu để lập thân, lập nghiệp và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cái cốt lõi nhất của đổi mới kinh tế là phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thì bản thân nền kinh tế thị trường cũng có
những khuyết tật của mình. Nó có ảnh hưởng không tốt đến xã hội.
Hai là, trong công cuộc đổi mới, đảng ta đã đạt được những thành tựu
nổi bật về nhận thức lý luận như: Đảng đã luận giải những nhận thức mới về
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, khẳng định vai trò to lớn của
tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; nhận thức
mới về mô hình mục tiêu, bản chất và động lực của chủ nghĩa xã hội; nhận
thức về thời kỳ quá độ và chỉ ra những đặc điểm của con đường bỏ qua chế độ
tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội và đề ra phương hướng xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Ba là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tác
động mạnh đến quá trình hình thành và phát triển con người Việt Nam. Lịch
sử phát triển của xã hội loài người là sự chuyển tiếp của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên.Tuy nhiên, ở mỗi dân
tộc riêng biệt, Mác và Ăng ghen đã chỉ ra rằng, trong quá trình phát triển của
mình không nhất thiết phải tuân theo tuần tự phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội đã có trong lịch sử nhân loại mà có thể rút ngắn hoặc bỏ qua một
hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Con đường phát triển của các dân tộc dù khó
khăn, quanh co, khúc khuỷu song đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một xu thế tất
yếu của lịch sử xã hội.
Việt Nam là một trường hợp cá biệt trong sự phát triển chung đó.
Nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn tiếp thu và kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện
nay muốn phát triển kinh tế, chúng ta không thể không phát triển kinh tế thị
trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Việt Nam, đây là

24



×