Tải bản đầy đủ (.doc) (208 trang)

Giáo trình lịch sử đảng cộng sản việt nam và lý luận cơ bản về đảng cộng sản hệ trung cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (863.38 KB, 208 trang )

Lời giới thiệu
Thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 30-7-2005, của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về đổi mới, nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh); Theo Quyết định số 100 - QĐ/TW, ngày 22-10-2007 của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X); Nghị định số 129/2008/NĐ-CP,
ngày 17-12-2008 của Chính phủ; Quyết định số 184-QĐ/TW, Thông báo kết
luận số 181-TB/TW, ngày 03-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá
X), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh có nhiệm vụ nghiên
cứu xây dựng, ban hành, hướng dẫn và thống nhất quản lý chương trình đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân
cấp cơ sở ở các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, ngày 29-7-2009, Giám đốc Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 1845/QĐHVCT- HCQG về việc ban hành “Chương trình đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản
lý của Đảng, chính quyền đoàn thể nhân dân cấp cơ sở” (hệ Trung cấp lý luận
chính trị - hành chính) và tổ chức viết giáo trình. Chương trình, giáo trình này
thay cho chương trình, giáo trình Trung cấp lý luận chính trị và được thực hiện
thống nhất ở tất cả các trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ
ngày 01-9-2009.
Giáo trình này do các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, giảng viên của Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ
nghiên cứu của một số bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương biên soạn.
Dưới sự lãnh đạo của Ban Giám đốc, sự chỉ đạo của Hội đồng chỉ đạo biên
soạn chương trình, giáo trình Học viện, Ban chủ nhiệm nghiên cứu xây dựng
chương trình, biên soạn giáo trình gồm: TS Trần Ngọc Uẩn, chủ nhiệm; các
phó chủ nhiệm và uỷ viên là PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm, PGS.TS Trần Văn
Phòng, TS Nguyễn Thị Tuyết Mai, PGS .TS Lê Quý Đức.
Trong quá trình biên soạn và biên tập, khó tránh khỏi thiếu sót, chúng
tôi rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của các đồng chí.
Ban chủ nhiệm Chương trình, giáo trình



1


Giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Lý luận cơ bản về Đảng
Cộng sản” in lần này do Viện Lịch sử Đảng, Học viện Xây dựng Đảng thuộc
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn. Cụ thể :
- Các bài 1, 2, 3, 4, 5, 6 do Viện Lịch sử Đảng biên soạn, dưới sự chủ trì
của PGS.TS Trần Thị Thu Hương, Phó Viện trưởng.
Tập thể tác giả: PGS.TS Trần Thị Thu Hương, PGS.TS Triệu Quang Tiến,
PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, TS Nguyễn Thị Thanh, TS Nguyễn Đình Cả.
- Các bài 7, 8, 9, 10 do Học viện Xây dựng Đảng biên soạn, dưới sự chủ
trì của TS Đặng Đình Phú, Phó giám đốc Học viện Xây dựng Đảng.
Tập thể tác giả: TS Đặng Đình Phú, PGS.TS Đỗ Ngọc Ninh, TS Ngô
Bích Ngọc.
Biên tập giáo trình này: PGS.TS Trần Thị Thu Hương, TS Đặng Đình
Phú, PGS.TS Lê Quý Đức, ThS Thái Thị Thanh Thuỷ.

2


Bµi 1
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng
I. Tính tất yếu lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

1. Sự chuyển biến của cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam trong những
năm đầu thế kỉ XX
Đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ
nghĩa đế quốc. Các nước đế quốc tiến hành xâm chiếm hầu hết các nước nhỏ

yếu trên thế giới và biến các nước này thành thuộc địa. Với sự cạnh tranh
giành giật các thuộc địa và khu vực ảnh hưởng làm gay gắt thêm mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nảy sinh mâu thuẫn mới: mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc. Chính sách thực dân tàn bạo
của chủ nghĩa đế quốc đối với các thuộc địa cùng với sự áp bức, bóc lột nặng
nề đối với nhân dân lao động ở trong nước thuộc địa đã bộc lộ bản chất phản
động của chủ nghĩa đế quốc. Phong trào chống đế quốc giành độc lập trở thành
một nội dung lớn của phong trào cách mạng thế giới, một vấn đề có tính thời đại.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu
sắc tình hình thế giới. Cuộc cách mạng đó đã chặt đứt khâu yếu nhất trong hệ
thống đế quốc chủ nghĩa, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Cách mạng tháng Mười Nga không chỉ ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến
cách mạng vô sản diễn ra ở các nước tư bản, mà còn lan toả sâu rộng đến các
nước thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự
giải phóng. Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu á đầu thế kỷ XX
phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến phong trào yêu nước Việt Nam.
Ngày 01-9-1858, thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược và từng
bước thôn tính Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn từng bước thoả hiệp và đi
đến đầu hàng hoàn toàn (bằng các điều ước năm 1862, 1874, 1883, 1884). Với

3


điều ước Patơnốt năm 1884, nước ta trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là
vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”1.
Chính sách bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đã làm biến đổi sâu sắc xã
hội Việt Nam.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp đẫm máu các
phong trào yêu nước của người Việt Nam; xây dựng hệ thống chính quyền

thuộc địa đồng thời vẫn duy trì chính quyền phong kiến làm tay sai. Dùng
chính sách chia để trị: chia 3 kì với 3 chế độ chính trị khác nhau nhằm phá vỡ
khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc. Tước đoạt tất cả các quyền tự do
của nhân dân... Xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ chính
trị thế giới, lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp. "Chủ nghĩa thực dân Pháp
không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà nước
An Nam, một nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một
phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã
bị chia năm sẻ bảy. Lợi dụng một cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy
vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào trong lòng người An Nam
và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau. Sau khi đẩy họ
chống lại nhau, người ta lại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập
nên một "Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dương"2.
Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi: từ xã hội phong kiến độc lập chuyển
thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Về văn hoá - xã hội: Thực dân Pháp thực hiện chính sách ngu dân để dễ
cai trị, nhà tù nhiều hơn trường học (trên 90% dân số mù chữ); du nhập văn
hoá đồi truỵ, tuyên truyền tư tưởng khai hoá văn minh, nước "đại Pháp"…
nhằm tạo tâm lí phục Pháp và sợ Pháp; khuyến khích tệ nạn xã hội, dùng rượu
cồn và thuốc phiện để đầu độc thế hệ trẻ Việt Nam.
Về kinh tế: sau khi hoàn thành về cơ bản công cuộc “bình định” bằng
quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành kế hoạch khai thác thuộc địa lần thứ nhất
1
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.10, tr.3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.2, tr.116

4



(1897-1914) và tiếp đó kế hoạch khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919-1929).
Những cuộc khai thác thuộc địa lớn đó, Pháp đã biến Việt Nam nói riêng và
Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chính
quốc, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người
bản xứ cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề. Điều đó đã làm mâu thuẫn
giữa các tầng lớp nhân dân ta với thực dân Pháp càng thêm sâu sắc, đồng thời
cũng dẫn tới những biến đổi trong cơ cấu kinh tế, xã hội Việt Nam.
Về cơ cấu xã hội: giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công
nhân, giai cấp tư sản Việt Nam và các tầng lớp mới ra đời.
Giai cấp địa chủ phong kiến: một bộ phận cam tâm làm tay sai cho Pháp
để duy trì quyền lợi của họ; Một bộ phận khác nêu cao truyền thống và tinh
thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào yêu nước chống Pháp để
giành độc lập và bảo vệ chế độ phong kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương;
Một số trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và chống
triều đình phong kiến bán nước; Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh
theo lối tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp nông dân là thành phần đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam
(chiếm gần 90% dân số). Dưới chế độ thuộc địa, nửa phong kiến, nông dân bị
đế quốc, phong kiến và tư bản bóc lột nặng nề. Nông dân Việt Nam bị bần
cùng hoá bởi chính sách chiếm đoạt ruộng đất để lập đồn điền của thực dân
Pháp, bởi nạn sưu cao, thuế nặng của nhà nước phong kiến - thực dân, bởi địa
tô và cho vay nặng lãi của địa chủ phong kiến. Đời sống nông dân Việt Nam vì
thế ngày càng thêm điêu đứng. Bị áp bức bóc lột nặng nề, người nông dân Việt
Nam từ Nam chí Bắc, khắp vùng xuôi đến miền ngược đã không ngừng vùng
dậy chống lại ách thống trị của thực dân phong kiến. “Tinh thần cách mạng
của nông dân không chỉ gắn liền với ruộng đất, với đời sống hằng ngày của
họ, mà còn gắn bó một cách sâu sắc với tình cảm quê hương đất nước, với nền
văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc”1. Đây là giai cấp có tinh thần đấu tranh
kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự do của dân tộc và khao khát giành lại

1

Lê Duẩn: Giai cấp công nhân Việt Nam và liên minh công nông , Nxb.ST, H.1976, tr.119

5


ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân
sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến.
Tư sản Việt Nam xuất hiện trong thời gian chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918). Một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời
sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư
sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc mâu thuẫn với tư bản
Pháp, triều đình phong kiến nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, phụ thuộc, do vậy tư
sản dân tộc tuy có tinh thần yêu nước chống đế quốc và phong kiến nhưng họ
không có khả năng lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên…) bị đế quốc,
tư bản chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất
nhạy cảm về chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh,
thái độ hay dao động, thiếu kiên định, do đó họ không thể lãnh đạo cách
mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong quá trình thực dân Pháp thực
hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Ngoài những đặc điểm của giai cấp
công nhân quốc tế: Đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, lực lượng sản
xuất mang tính xã hội hoá cao, là sản phẩm của nền đại công nghiệp; không có
tư liệu sản xuất, bị bóc lột nên là giai cấp kiên quyết cách mạng nhất; có ý thức
tổ chức kỉ luật cao. Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm riêng: Ra
đời trước giai cấp tư sản dân tộc, kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; bị
ba tầng áp bức: đế quốc, phong kiến, tư sản; phần lớn xuất thân từ nông dân, là
cơ sở khách quan, thuận lợi cho công nhân và nông dân liên minh chặt chẽ

trong quá trình đấu tranh cách mạng. Ngay khi ra đời, giai cấp công nhân Việt
Nam đã tiếp thu ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga. Do vậy, tuy lực
lượng công nhân Việt Nam còn ít 1, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng
tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác, thể hiện là
giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng.
1

Số lượng công nhân đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1913) có khoảng 10 vạn ng ười,
đến cuối năm 1929 số công nhân Việt Nam là hơn 22 vạn người, chiếm trên 1,2% dân số

6


2. Các phong trào yêu nước lần lượt thất bại, Việt Nam rơi vào khủng
khoảng bế tắc về đường lối cứu nước
Từ khi thực dân Pháp xâm lược (năm 1858) đến những năm 20 của thế
kỷ XX đã có hàng trăm cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc ta chống kẻ thù
xâm lược nhưng đều lần lượt thất bại.
Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến - phong trào Cần
Vương do Tôn Thất Thuyết cầm đầu (1885-1896). Điển hình là các cuộc khởi
nghĩa Ba Đình (Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh) …
với những sĩ phu yêu nước như Phan Đình Phùng, Tống Duy Tân, Nguyễn
Thiện Thuật... đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp và thể hiện tinh thần quật cường
chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân khi triều đình phong kiến đã đầu
hàng. Nhưng với ngọn cờ phong kiến lúc đó không còn là ngọn cờ tiêu biểu để
tập hợp một cách rộng rãi, toàn thể các tầng lớp nhân dân, không có khả năng
liên kết các trung tâm kháng Pháp trên toàn quốc, nên cuộc khởi nghĩa của
Phan Đình Phùng thất bại năm 1896, cũng là lúc chấm dứt vai trò lãnh đạo của
giai cấp phong kiến đối với phong trào yêu nước Việt Nam.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở vùng miền núi phía Bắc,

phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang) dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh
nông dân Hoàng Hoa Thám, nghĩa quân xây dựng lực lượng chiến đấu, lập căn
cứ và đấu tranh kiên cường chống thực dân Pháp. Đây là cuộc đấu tranh anh
dũng của nông dân Việt Nam kéo dài gần 30 năm, ghi một mốc son của lịch sử
đấu tranh chống thực dân Pháp trong lịch sử cận hiện đại Việt Nam. Sự bền bỉ,
ngoan cường của phong trào thể hiện sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng
phong trào của Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”,
không có khả năng mở rộng hợp tác và thống nhất tạo thành một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc, cuối cùng cũng bị thực dân Pháp đàn áp.
Những năm đầu thế kỷ XX, trước những biến đổi kinh tế, xã hội do tác
động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, phong trào yêu nước Việt Nam

7


chịu ảnh hưởng của trào lưu dân chủ tư sản. Tiêu biểu là xu hướng bạo động
của Phan Bội Châu và xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh.
Xu hướng bạo động của Phan Bội Châu: chủ trương xây dựng chế độ
quân chủ lập hiến như ở Nhật, sau khi thất bại, năm 1912 với tổ chức “Việt
Nam Quang phục hội”, chủ trương xây dựng chế độ cộng hoà tư sản như
Trung Quốc. Nhưng cuối cùng "một trăm lần thất bại không một lần thành
công". Hạn chế lớn nhất của Phan Bội Châu là dựa vào Nhật để đuổi Pháp
chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
Xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh: ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư
sản Pháp, lên án gay gắt tội ác của thực dân Pháp, quan lại phong kiến sâu mọt,
chủ trương cải cách đất nước. Hạn chế của Phan Chu Trinh là phản đối bạo
động, dựa vào Pháp để đánh đổ chế độ phong kiến, chẳng khác gì "xin giặc rủ
lòng thương", đây chính là ảo tưởng chính trị.
Cả hai xu hướng này đều thất bại, nguyên nhân sâu xa là không xác định
được kẻ thù, không xác định được lực lượng cơ bản của cách mạng và phương

pháp tiến hành cách mạng đúng đắn.
Tổ chức “Việt Nam Quốc dân Đảng” do Nguyễn Thái Học lãnh đạo,
thành lập tháng 12 - 1927 tại Bắc Kì. Mục đích: đánh Pháp giành độc lập, xây
dựng chế độ cộng hòa tư sản, với phương pháp: đấu tranh vũ trang, manh
động, ám sát cá nhân và lực lượng chủ yếu là binh lính, sinh viên… Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái (2-1930) với khẩu hiệu "không thành công thì thành nhân" đã
nhanh chóng thất bại. Sự thất bại của khởi nghĩa Yên Bái chứng tỏ rằng phong
trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản không đáp ứng được yêu cầu
khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong tác phẩm “Một vài đặc
điểm của cách mạng Việt Nam”, đồng chí Lê Duẩn đã nhận xét: Khởi nghĩa
Yên Bái là "... một cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi
chết luôn không bao giờ ngóc đầu lên nổi. Khẩu hiệu “không thành công thì
thành nhân” biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời

8


và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào
tư sản”1.
Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, đánh dấu sự tan rã của xu hướng cách mạng
dân chủ tư sản và cũng xác nhận sự bất lực của tư tưởng tư sản trong việc xác
lập con đường cách mạng phù hợp với quy luật vận động của cách mạng Việt
Nam.
Như vậy, rõ ràng là vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX, tiếp tục
truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống
thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của nhân dân ta diễn ra rất sôi nổi và
liên tục, nhưng tất cả đều không thành công, chính do thiếu đường lối và sự lãnh đạo
đúng đắn của một tổ chức tiên phong. Trên thực tế, “các phong trào cứu nước từ lập
trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều
lần lượt thất bại”1. Phong trào yêu nước Việt Nam rơi vào khủng hoảng, bế tắc về

đường lối cứu nước. Tình hình đó, đòi hỏi phải có đường lối cách mạng đúng đắn và
một tổ chức cách mạng có khả năng đưa phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.
3. Vai trò của Nguyễn ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng
Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc, từ người yêu nước
trở thành người cộng sản (1911-1920).
Nguyễn ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) sinh ngày 19-5-1890, tại làng
Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ tên là
Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên trong
cảnh nước mất, đồng bào bị đọa đày đau khổ, người thanh niên giàu lòng
yêu nước đó đã sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng không
tán thành con đường cứu nước của các cụ. Vượt qua tầm hạn chế của những
sĩ phu yêu nước đương thời, ngày 5-6-1911, Người quyết chí ra nước ngoài
tìm con đường cứu nước mới. Sau khi đến nhiều nước trên thế giới và trải
Lê Duẩn: Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam, Nxb.ST, H.1959, tr.41
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.ST,
H.1991, tr.109
1
1

9


qua nhiều nghề lao động khác nhau, Người đã rút ra một kết luận quan
trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao
động cũng bị bóc lột dã man. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công,
Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị.
Đầu năm 1919, Nguyễn ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính
đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, các nước thắng trận họp Hội
nghị hoà bình ở Vécxây (Pháp), Nguyễn ái Quốc đã thay mặt Hội những

người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách tám
điểm1. Những yêu sách của Người không được Hội nghị đáp ứng. Sự kiện
này đã giúp Nguyễn ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp
bợm lớn”2.
Tháng 7-1920, Nguyễn ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đăng trên
báo “L'Humanite” (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận
điểm cách mạng của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp
những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước,
giải phóng dân tộc mà sau gần mười năm tìm kiếm (1911-1920) Nguyễn ái
Quốc mới bắt gặp. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc
tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để
Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội
lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12-1920). Tại Đại hội này, Nguyễn
ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng
sản do V.I.Lênin thành lập). Nguyễn ái Quốc trở thành một trong những
sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của
Việt Nam. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn "gắn phong trào cách mạng
Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo
con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ
1
2

Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.1, tr.435-436
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.1, tr.416

10



nghĩa Mác-Lênin” 1. Sau này, chính Người đã thừa nhận: “Lúc đầu, chính là
chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo
Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa
nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu
được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng
được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách
nô lệ”2.
Nguyễn ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam
nhằm chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời chính
đảng tiên phong ở Việt Nam.
Giữa năm 1921, Nguyễn ái Quốc cùng một số nhà cách mạng của các
nước thuộc địa khác thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo
“Le Paria” (Người cùng khổ) vào ngày 01-4-1922. Người viết nhiều bài trên
các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, tập san Thư tín
quốc tế... Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp
được thành lập, Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về
Đông Dương.
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong
trào cách mạng ở các nước trên thế giới, Nguyễn ái Quốc đã tích cực tố cáo,
lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước
thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người
dự báo "Ngày mà hàng trăm triệu người dân châu á bị tàn sát và áp bức thức
tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy,
họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể
giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng
hoàn toàn"3. Trong bài “Đông Dương” viết tháng 4-1921, Người đã cho rằng:
1

Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã h ội ti ến lên giành

những thắng lợi mới, Nxb.ST, H.1970, tr.10
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.10, tr.128
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.1, tr.36

11


"Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi" 1.
Trong những năm hoạt động ở Pháp, Nguyễn ái Quốc đã viết tác phẩm nổi
tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” và được xuất bản năm 1925 ở Pari. Tác
phẩm không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp, mà còn vạch trần bản chất của
chủ nghĩa đế quốc. “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã phê phán thái độ cầu xin
chủ nghĩa đế quốc, tư tưởng cải lương tư sản, đề cao tinh thần tự lực, tự cường,
tự mình giải phóng cho mình.
Ngay từ năm 1923, trong truyền đơn cổ động mua báo “Le Paria”
Nguyễn ái Quốc viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại
cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người,
niềm vui, hoà bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân
chính, xoá bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách
tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu
thương nhau”2. Đó là quan điểm chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với
phong trào cách mạng ở các thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Những tư tưởng, quan điểm cơ bản về chiến lược, sách lược cách mạng
thuộc địa đã bước đầu được Nguyễn ái Quốc xác định. Đó là mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng ở các thuộc địa "chỉ có sự hợp tác
này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối

cùng"3. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn, phải
làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết
nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương
lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Giữa năm 1923, trước khi rời nước Pháp sang Liên Xô, trong một bức
thư gửi cho các bạn cùng hoạt động, Người đã nói rõ ý định của mình : “Đối
với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.1, tr.28
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000, t.1, tr.461
3
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1995, t.2, tr.124
2

12


chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập’’1. Đến tháng 4 năm 1924 Nguyễn ái Quốc được quyết định vào biên chế
Ban Phương Đông quốc tế cộng sản. Trong thời gian ở Liên Xô, Người tham
dự Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế
cứu tế đỏ và Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Đây là thời gian Nguyễn ái
Quốc có nhiều bài tham luận tại các đại hội, hội nghị của các tổ chức quốc tế
và nhiều bài viết quan trọng về tư tưởng của V.I.Lênin soi sáng con đường
cách mạng thuộc địa, cách mạng các nước phương Đông và nêu rõ con đường
phát triển của cách mạng thuộc địa, về sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc
địa của chủ nghĩa đế quốc.
Sau một năm rưỡi hoạt động ở Liên Xô, tháng 11-1924, Người quyết
định đến Quảng Châu, Trung Quốc - nơi có rất đông người Việt Nam yêu nước

hoạt động - để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng mác xít.
Lúc này, Người lấy tên là Lý Thụy, công tác trong phái đoàn cố vấn của chính
phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật Tiên, do Bô-rô-đin làm trưởng đoàn.
Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong tổ chức
Tâm tâm xã (tổ chức yêu nước cấp tiến thành lập năm 1923 tại Quảng Châu),
lập ra nhóm Cộng sản đoàn (có Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu,
Lưu Quốc Long, Trương Vân Lĩnh, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ). Tháng 61925, thành lập "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên" tại Quảng Châu
(Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội công bố chương trình điều lệ,
mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho
xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực
hiện chủ nghĩa cộng sản). Về tổ chức gồm 5 cấp: Tổng bộ, Xứ (kì) bộ, tỉnh bộ,
huyện bộ và chi bộ. Thành phần lúc đầu gồm 90% là trí thức tiểu tư sản, chỉ có
10% là công nông, về sau trí thức chiếm 40%. Sau khi thành lập, Nguyễn ái
Quốc đã mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin cho những
người trong tổ chức "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên". Từ 1925-1927 tổ

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H. 2000, t.1, tr.192

13


chức được trên 10 lớp. Hơn 200 cán bộ đã được huấn luyện, đào tạo, trở về
nước xây dựng và phát triển phong trào.
Ngoài ra, trong số cán bộ được đào tạo ở Quảng Châu có nhiều đồng chí
được chọn đi học ở Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô
như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập... một số được cử đi học quân sự
ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc). Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in
bằng chữ quốc ngữ (từ ngày 21-6-1925 đến 2-1930), báo Thanh niên ra được

208 số.
Tháng 7-1925, Người đã cùng các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc,
Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia... thành lập "Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở á - Đông". Năm 1927, cuốn ‘‘Đường Kách mệnh’’ gồm
những bài giảng của Nguyễn ái Quốc trong các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ
ở Quảng Châu được Bộ Tuyên truyền của "Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á
- Đông" xuất bản.
Trong tác phẩm quan trọng này Nguyễn ái Quốc đã đề cập những tư
tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Trong tác
phẩm ‘‘Đường Kách mệnh’’, Nguyễn ái Quốc nhấn mạnh: "Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng
muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh
nhất là chủ nghĩa Lênin"1. Người chỉ rõ lực lượng cơ bản của cách mạng đó là
"công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ… là
bầu bạn cách mệnh của công nông" 2. “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng

1
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1995, t.2, tr.267-268
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1995, t.2, tr.266

14



chứ không phải việc một hai người"3. Đây là sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị
cho quá trình thành lập Đảng.
Như vậy, "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên" là tổ chức trực tiếp
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị quan
trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt
Nam. "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên" đã có ảnh hưởng và thúc đẩy
mạnh mẽ sự phát triển của phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Từ đầu
năm 1926, "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên" đã bắt đầu phát triển cơ sở
ở trong nước, đầu năm 1927 các kì bộ được thành lập, ngoài ra còn chú trọng
xây dựng cơ sở ở Thái Lan, để mở rộng hoạt động tuyên truyền trong Việt kiều.
Quá trình chuẩn bị về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức cho việc
thành lập chính đảng vô sản ở Việt Nam gắn liền với vai trò của lãnh tụ
Nguyễn ái Quốc. Vào những năm 1928, 1929, phong trào công nhân và các
phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.
II. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

1. Những chuyển biến trong phong trào yêu nước Việt Nam và sự ra đời
ba tổ chức cộng sản
Cuối năm 1928, phong trào “vô sản hoá” của "Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên" đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo
khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách
mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy, phong trào công nhân đã nổ ra mạnh mẽ,
sôi nổi, đều khắp ba kì. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm
1928-1929 tăng gấp 2,5 lần so với 2 năm 1926-1927 1. Đặc biệt, trong cuộc bãi
công của 200 công nhân xưởng sửa chữa ô tô Avia (Hà Nội) tháng 5-1929 đã có
sự lãnh đạo của Kì bộ "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên" và Chi bộ cộng
sản đầu tiên, mà người đóng vai trò chỉ đạo trực tiếp là đồng chí Ngô Gia Tự.
Để chỉ đạo công nhân đấu tranh, một Uỷ ban bãi công đã được thành lập. Uỷ
ban bãi công đã phát truyền đơn kêu gọi công nhân và lao động Hà Nội hưởng
3


Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1995, t.2, tr.261-262
Xem: Ngô Văn Hoa, Dương Kinh Quốc: Giai cấp công nhân Việt Nam những n ăm tr ước khi
thành lập Đảng, Nxb.KHXH, H.1978, tr.335
1

15


ứng và ủng hộ cuộc bãi công của công nhân Avia. Cuộc bãi công đã nhận được
sự hỗ trợ, giúp đỡ tích cực của công nhân nhiều nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn
Hà Nội và một số tỉnh xung quanh như Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định.
Tháng 7-1929, "Tổng Công hội đỏ Bắc Kỳ" được thành lập. Tổng Công
hội đỏ đã đề ra chương trình, điều lệ và quyết định xuất bản tờ "Lao động" làm
cơ quan ngôn luận. Sự kiện đó vừa thể hiện bước trưởng thành của phong trào
công nhân, vừa tạo điều kiện thúc đẩy giai cấp công nhân đi dần vào đấu tranh
có tổ chức, có lãnh đạo thống nhất. Cùng với các cuộc đấu tranh ngày càng trở
nên quyết liệt, giai cấp công nhân còn có nhiều hoạt động biểu lộ tinh thần
cách mạng, ý thức quốc tế của mình. Trong các dịp kỉ niệm ngày Quốc tế lao
động (1-5) và Cách mạng tháng Mười Nga (7-11), công nhân nhiều nơi đã tổ
chức mít tinh, treo cờ đỏ, rải truyền đơn tuyên truyền cách mạng...
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân
dân ngày càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả
năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp
giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ.
Sự ra đời các tổ chức cộng sản: đến năm 1929, trước sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào cách mạng nước ta, tổ chức "Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên" không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trước tình
hình đó, tháng 3-1929, những người lãnh đạo Kỳ bộ Bắc kỳ (Trần Văn Cung,

Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...) họp tại số nhà 5D, phố
Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.
Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của "Hội Việt Nam
cách mạng Thanh niên", kiến nghị của đoàn đại biểu kỳ bộ Bắc Kỳ về việc giải
tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không đựợc chấp nhận. Đoàn đại biểu kỳ
bộ Bắc Kỳ đã rút khỏi Đại hội. Sau khi về nước, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã giải
thích lý do bỏ Đại hội và khẳng định đã có đủ những điều kiện để thành lập
chính đảng cách mạng. Ngày 17-6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà
16


Nội), Đông Dương cộng sản Đảng được thành lập thông qua Tuyên ngôn, Điều
lệ và quyết định xuất bản báo "Búa Liềm". Trước ảnh hưởng của Đông Dương
cộng sản Đảng, Kỳ bộ Nam Kỳ quyết định thành lập "An Nam Cộng sản
Đảng" (tháng 11-1929), xuất bản tờ báo "Đỏ" làm cơ quan ngôn luận.
Tại Trung kỳ, "Tân Việt cách mạng Đảng" (là một tổ chức thanh niên yêu
nước) chịu tác động của "Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên" - đã thành lập
"Đông Dương Cộng sản Liên đoàn", vào ngày 1-1-1930, tại Hà Tĩnh.
Ba tổ chức cộng sản ra đời đã khẳng định bước phát triển quan trọng của
phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng sản ở ba
miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa
nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, không
tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Trước tình
hình đó, ngày 27-10-1929, trong tài liệu của Quốc tế Cộng sản gửi những
người cộng sản Đông Dương nêu rõ: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách
nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng
cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng
sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ
chức duy nhất ở Đông Dương"1. Vào thời điểm lịch sử khó khăn phức tạp đó,
một lần nữa trách nhiệm lịch sử lại đặt lên vai lãnh tụ Nguyễn ái Quốc.

2. Hội nghị thành lập Đảng và nội dung Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư
cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã đến Hương
Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản lại
thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam. Trong “Báo cáo gửi Quốc tế
Cộng sản” ngày 18-2-1930, Nguyễn ái Quốc đã viết: "Chúng tôi họp vào
ngày mồng 6-1. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ
quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông
Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.1, tr.614

17


thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và
chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu trở về An
Nam ngày 8-2" 1.
Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh,
đại biểu của "Đông Dương cộng sản Đảng", Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm,
đại biểu của "An Nam cộng sản Đảng" và dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn
ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản 2.
Với tinh thần chủ động, sáng tạo, lãnh tụ Nguyễn ái Quốc đã kịp thời giải
quyết yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, chấm dứt tình trạng phân tán,
chia rẽ giữa các tổ chức cộng sản. Phương pháp hợp nhất là phương pháp tối ưu
trong tình hình lúc bấy giờ vì các tổ chức này đều vì mục đích giải phóng dân
tộc và giải phóng nhân dân, đều mong muốn thống nhất vào một Đảng.
Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống
nhất, trước hết là "Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống

nhất các nhóm cộng sản Đông Dương"3. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các
nhóm cộng sản thành lập Đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam *. Hội nghị
thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc soạn thảo. Đó là "Chánh
cương vắn tắt của Đảng", "Sách lược vắn tắt của Đảng", "Chương trình tóm
tắt", "Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam".
Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất được coi là
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, với những nội dung cơ bản:
Cương lĩnh xác định mục đích chiến lược của cách mạng Việt Nam "chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản"4. Xuất phát từ phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt
Nam - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.19-20
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) quyết nghị "... từ nay sẽ lấy ngày
3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng"
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.1
*
Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Ch ấp hành
Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia
nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.2
2

18


trong đó có công nhân, nông dân với đế quốc ngày càng gay gắt cần phải giải

quyết. Như vậy, mục tiêu chiến lược được nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách
mạng vô sản chính là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội gắn liền mật
thiết với nhau thể hiện ở mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xác định nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của cách mạng là "Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "làm cho nước Nam được hoàn toàn
độc lập"1. Chống đế quốc và chống phong kiến là nhiệm vụ cơ bản để giành độc
lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày. "Dựng ra chính phủ công nông binh…
Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế
quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Thâu hết
ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo"2.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công nhân, nông dân - đây
là lực lượng cơ bản, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời chủ
trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập
trung chống đế quốc và tay sai. Do vậy, Đảng "phải thu phục cho được đại bộ
phận giai cấp mình", "phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày,… hết sức
liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi vào phe vô sản giai
cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung
lập"3. Đây là tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng trên cơ sở đánh giá thái độ
các giai cấp phù hợp với đặc điểm xã hội Việt Nam.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh
khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng chứ không thể là con
đường cải lương thoả hiệp "không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công
nông mà đi vào đường thoả hiệp"4. Có sách lược đấu tranh cách mạng thích
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.2-3

3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.4
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.4
2

19


hợp để lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phía giai cấp vô sản, còn "bộ
phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ"1.
Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự đoàn kết, ủng
hộ của các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản
Pháp. Cương lĩnh nêu rõ cách mạng Việt Nam liên lạc mật thiết và là một bộ
phận của cách mạng vô sản thế giới, "trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu
nước An Nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị
áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới". Như vậy, ngay từ khi thành lập,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản và mang bản
chất quốc tế của giai cấp công nhân.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội tiên phong của giai cấp
vô sản, "Sách lược vắn tắt của Đảng" ghi rõ: "Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng" 2. "Chương trình tóm tắt của Đảng"
khẳng định "Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của
giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng"3. Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để
tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản"4. Đảng
kết nạp những người "tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc
tế Cộng sản, hăng hái tranh đấu và dám hy sinh phục tùng mệnh lệnh Đảng và

đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận đảng"5.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là sự vận dụng
đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước
thuộc địa nửa phong kiến. Kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc;
kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với
những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với
1

ĐảngCộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.4
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2. tr.6
4,6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.7
2

5

20


chủ nghĩa quốc tế vô sản và kết hợp thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt
Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng của thời đại.
Lần đầu tiên, cách mạng Việt Nam có một bản Cương lĩnh chính trị phản
ánh đúng quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những
nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời
đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện
vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta... Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được
những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng

phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền
lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố
và tăng cường"1.
Sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã được khẳng định bởi
quá trình khảo nghiệm của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng
đất nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta từ khi Đảng ra đời và
đến nay vẫn là ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta trong công cuộc đổi mới theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
3. ý nghĩa lịch sử của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã
chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về đường lối cứu nước, mở ra thời kì mới
cho cách mạng Việt Nam: thời kì có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ chức
cách mạng tiên phong lãnh đạo. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương
lĩnh được thông qua ở Hội nghị thành lập Đảng, từ năm 1930 cách mạng Việt
Nam có được đường lối chính trị toàn diện đề ra mục tiêu và phương pháp đấu
tranh thích hợp, giải quyết triệt để những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, đồng
thời có được tổ chức đảng cách mạng để lãnh đạo và tổ chức phong trào cách
mạng. Đó là kết quả của sự vận động phát triển và thống nhất của phong trào
cách mạng trong cả nước, của sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo về chính trị, tư

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996, t.10, tr.9

21


tưởng và tổ chức của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, của sự đoàn kết nhất trí, của
những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích giai cấp và dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa

Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó
cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân
và phong trào yêu nước yêu nước Việt Nam, được soi sáng bởi chủ nghĩa MácLênin - hệ tư tưởng lý luận của giai cấp công nhân, vũ khí giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng toàn xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: "Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch
sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng
thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng"1.
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đã khẳng định dứt khoát nội dung, xu
hướng phát triển của xã hội Việt Nam là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa
xã hội. Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với nội dung và xu
thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga vĩ
đại: "Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân tộc
thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng đây là sự lựa
chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời
của Đảng ta"2.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết
định trong sự phát triển của dân tộc ta, tạo những tiền đề và nhân tố quyết định
đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1996, t.10, tr.8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.ST,
H.1991, tr.109
2

22


Bµi 2

Đảng lãnh đạo đấu tranh
giành chính quyền cách mạng (1930-1945)

I. CAO TRàO CáCH MạNG 1930 - 1931 Và XÔ VIếT NGHệ TĩNH

1. Chủ trương của Đảng và phong trào đấu tranh của quần chúng
Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng chủ trương phát
động quần chúng đấu tranh đòi tự do dân chủ, cải thiện đời sống; chống địch
khủng bố trắng, đòi trả tự do cho những người yêu nước bị bắt; đòi bồi thường
cho những gia đình nạn nhân và làng mạc bị tàn phá. Do chính quyền thực dân
Pháp tăng cường bóc lột và thực hiện chính sách khủng bố tràn lan nên mâu
thuẫn với nhân dân càng thêm sâu sắc. Vì thế, khi Đảng phát động đấu tranh,
nhân dân đã tích cực tham gia, đưa phong trào đấu tranh phát triển thành cao
trào.
Mở đầu cao trào cách mạng 1930-1931 là những cuộc đấu tranh của
5.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng (Nam Bộ) tháng 2 -1930; cuộc bãi
công của 4.000 công nhân Nhà máy sợi Nam Định cuối tháng 3, đầu tháng 41930; cuộc bãi công của 400 công nhân Nhà máy Diêm Bến Thủy (thành phố
Vinh) ngày 19-4-1930. Ngoài ra còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác như cuộc biểu tình của nông dân Hà Nam,
nông dân Thái Bình đòi giảm sưu thuế nổ ra tháng 4-1930.
Cuộc đấu tranh ngày 1-5-1930 là một bước phát triển mới của cao trào
cách mạng 1930-1931. Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
công nông Việt Nam biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động (1-5), đấu tranh
đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước và thể hiện tình đoàn kết cách
mạng với nhân dân lao động thế giới.
ở Nghệ An và Hà Tĩnh, từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9-1930 diễn ra
nhiều cuộc đấu tranh quy mô huyện và liên huyện với hàng nghìn, hàng vạn
dân chúng tham gia. Tiêu biểu là những cuộc biểu tình của 3.000 nông dân
23



huyện Nam Đàn vào ngày 30-8; của 20.000 nông dân huyện Thanh Chương
vào ngày 1-9; của 3.000 nông dân huyện Can Lộc vào ngày 7-9; của 8.000
nông dân huyện Hưng Nguyên vào ngày 12-9… phối hợp chặt chẽ với phong
trào công nhân Vinh - Bến Thuỷ. Phần lớn những cuộc biểu tình này là những
cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ. Quần chúng phá huyện đường, đốt
giấy tờ, phá nhà giam, bẻ gông, phá xiềng, giải phóng những người bị bắt.
Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, nhiều tên tri huyện, lý
trưởng nộp lại ấn tín hoặc chạy trốn, nhiều nơi chính quyền địch tan rã… Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, các xã bộ nông, thôn bộ nông ra đời, làm nhiệm vụ của
chính quyền cách mạng đầu tiên ở nước ta, được gọi là các Xôviết.
Xôviết đã thực hiện các nhiệm vụ về chính trị, quân sự, kinh tế và văn
hoá. Ngay từ đầu nó đã thể hiện bản chất chính quyền cách mạng nhân dân.
Hoảng sợ trước khí thế và sức mạnh của Xôviết Nghệ - Tĩnh, đế quốc
Pháp và bọn phong kiến tay sai điên cuồng khủng bố trắng, dìm cách mạng
trong máu lửa.
Trước tình hình ấy, Trung ương Đảng đã có chủ trương kịp thời phát huy
ảnh hưởng và bảo vệ “Nghệ - Tĩnh đỏ”, đồng thời uốn nắn những lệch lạc, hạn
chế tổn thất. Đảng chỉ thị cho các địa phương chuyển hướng hoạt động, chuyển
hướng tổ chức, “lập Ban Chấp hành nông hội bí mật”, “tổ chức lại huyện bộ và
cán sự chi bộ bí mật”, phải duy trì ảnh hưởng của Đảng và của Xôviết trong
quần chúng ở những nơi đã lập Xôviết, phải hết sức bênh vực “Nghệ - Tĩnh
đỏ”, phải chống khủng bố trắng…
2. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (tháng 101930) và Luận cương chính trị của Đảng
Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị thông qua
“Luận cương chính trị”, quyết định đổi tên “Đảng Cộng sản Việt Nam” thành
“Đảng Cộng sản Đông Dương”. Luận cương đã nêu lên những vấn đề cơ bản
của cách mạng Đông Dương.
24



Luận cương chỉ rõ: Cách mạng Đông Dương có hai giai đoạn, lúc đầu
“là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền.. có tánh chất thổ địa và phản đế” 1,
đánh đổ chế độ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất và đánh đổ đế
quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập; sau đó chuyển sang giai
đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa; vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực
chính; vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là
vô sản Pháp, với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa,
nhất là Trung Quốc và ấn Độ; phải sử dụng bạo lực cách mạng; “Điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một
Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỉ luật, tập trung, mật
thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là
đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”2.
“Luận cương chính trị” tháng 10-1930 có một số hạn chế: chưa đề cao
nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, chưa đánh giá đúng vai trò của
giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc và một bộ phận của giai cấp địa chủ
trong cách mạng.
Ban Chấp hành Trung ương chính thức của Đảng do Hội nghị Trung
ương tháng 10-1930 cử ra gồm sáu ủy viên, đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư.
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề
thành lập “Hội Phản đế đồng minh”, coi việc đoàn kết toàn dân thành một tổ
chức lực lượng thật rộng rãi, lấy công nông là động lực chính, là một điều kiện
quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
3. ý nghĩa của cao trào cách mạng 1930-1931 và Xôviết Nghệ-Tĩnh
Đánh giá về Xôviết Nghệ-Tĩnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tuy đế
quốc Pháp đã dập tắt phong trào đó trong một biển máu, nhưng Xôviết NghệTĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao

1
2


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.93
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.CTQG, H.1998, t.2, tr.100

25


×