Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở lớp 12 Trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.44 KB, 44 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm
Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở lớp 12 Trường THPT Lý Tự
Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà
Tĩnh

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Nguyễn Thị Lệ Thanh
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã dẫn bước cho lịch
sử nhân loại bước sang một kỹ nguyên mới: kỷ nguyên của thông tin tri thức . Và ngày
nay chìa khóa vàng của mỗi quốc gia tiến bước vào tương lai đến với kho tàng tri thức
đó chính là giáo dục.
Giáo dục không chỉ có chức năng chuyển tải những kinh nghiệm lịch sử của thế hệ
trước cho thế hệ sau, mà quan trọng hơn là trang bị cho mỗi người phương pháp học tập,
tìm cách phát triển năng lực nội sinh, phát triển tư duy nội tại, thích ứng được xã hội học
tập thường xuyên và học tập suốt đời. Để người học đáp ứng được nhu cầu đó, việc cải
cách đổi mới giáo dục là việc hết sức cần thiết và cấp bách, trong đó đổi mới là khâu
then chốt nhất trong quá trình đạt tới mục tiêu đổi mới giáo dục. Nhận thức được đổi mới


phương pháp giảng dạy và học tập là một trong những vấn đề bức thiết hiện nay ở nước
ta. Đảng và Nhà nước cũng như Bộ Giáo dục và Đào tạo đẫ đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ
thị nhằm thúc đẩy việc đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. “ Đổi
mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người
học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét,
học vẹt, học chay”
Ở cấp học phổ thông môn giáo dục công dân đang được coi là môn học phụ. Thực tế
là vì nó không thi ở bất kỳ một kỳ thi nào. Nhưng bản thân tôi giảng dạy bộ môn này thì
tôi luôn ý thức được rằng đây là một môn trong các bộ môn học giáo dục toàn diện .
Việc hình thành và giáo dục thế giới quan, phương pháp luận khoa học, đạo đức, pháp
luật… cho học sinh .Và chỉ có môn giáo dục công dân mới trực tiếp giáo dục cho học
sinh những tri thức theo một hệ thống xác định toàn diện về thế giới quan, nhân sinh
quan, mới cho học sinh hiểu được quy luật phát triển tất yếu khách quan của xã hội loài
người, giúp học sinh nhận thức đúng đắn: sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật,
có ý thức trách nhiệm cao đối với Tổ quốc, đối với nhân dân, đối với gia đình và đối với
bản thân mình, đồng thời đây là bộ môn học kích thích mạnh mẽ sự phát triển năng lực
trí tuệ chung như tư duy trìu tượng, lôgic, biện chứng…và rèn luyện thao tác tư duy như:
phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát…cũng như những phẩm chất của tư duy: linh
hoạt, độc lập, sáng tạo.
Nhưng thực tế dạy môn giáo dục hiện nay cho thấy: phương pháp dạy học vẫn là
truyền thụ theo hướng một chiều chưa phát huy được tính tích cực , chủ động sáng tạo
của người học. Với phương pháp dạy học như vậy sẽ không đáp ứng được nhu cầu ,
nhiệm vụ của môn học và làm giảm sút vị trí môn học, không đáp ứng đòi hỏi con người
lao động mới phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, xã hội và thời đại.
Từ những yêu cầu bức xúc trên, và để góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nâng
cao chất lượng học tập môn giáo dục công dân tôi đã chọn đề tài: “Vận dụng phương
pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong
dạy học môn Giáo dục công dân ở lớp 12 trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch
Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh ”
2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích để hiểu biết đầy đủ và sâu sắc hơn việc sử dụng và
kết hợp các phương pháp dạy học môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông
mà đặc biệt là phương pháp dạy học bằng tình huống . Ngoài ra cho thấy được thực trạng
2


của việc vận dụng các phương pháp ở trường trung học phổ thông. Từ đó đúc rút cho
mình kinh nghiệm áp dụng phương pháp nào mang lại kết quả cao nhất trong dạy học
đối với bản thân cũng như học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn
Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trình bày khái quát việc dạy học môn giáo dục công dân ở trường THPT Lý Tự
Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
Nguyên nhân và thực trạng của việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống ở
trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
Đề xuất phương hướng và cách giải quyết nhằm vận dụng từng bước các phương
pháp bằng tình huống trong giảng dạy môn giáo dục công dân lớp12 phần Công dân với
pháp luật ở trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh
Hà Tĩnh
5. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tôi chỉ giới hạn việc sử dụng phương pháp
dạy học bằng tình huống trong giảng dạy môn giáo dục công dân lớp12 phần “Công
dân với pháp luật “ ở trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch
Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận:
Nghiên cứu, phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đế phương pháp bằng tình

huống nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát( dự giờ, thăm lớp) nhằm tri giác trực tiếp đối tượng và thu được
những thông tin đầy đủ về thực nghiệm và đối chứng.
Phương pháp điều tra: điều tra thực trạng việc dạy và học môn giáo dục công dân
lớp12 phần “Công dân với pháp luật “ ở trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch
Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
7. Đóng góp mới của đề tài
Xây dựng quy trình vận dụng việc kết hợp phương pháp dạy học bằng tình huống
trong giảng dạy môn giáo dục công dân lớp12 phần “Công dân với pháp luật “ ở
trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh.
Đề tài khẳng định con đường đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường theo
hướng tích cực , chủ động, sáng tạo của học sinh
Giúp học sinh ngày càng hứng thú hơn và nhận thấy tầm quan trọng của việc học tập
môn giáo dục công dân ở trường trung học phổ thông.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương
Chương1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình
huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh lớp 12 trung học phổ thông.
Chương 2: Thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy học
phần giáo dục công dân với pháp luật môn giáo dục công dân 12 ở trường THPT Lý Tự
Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh.
PHẦN II: NỘI DUNG
3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy

học môn giáo dục công dân ở trường Trung học
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới
mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của giáo
viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo cho trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò lĩnh
hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học có
mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác động
qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất này
phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương đối,
chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối
với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng lôgic
của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh giá) sự
học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó hữu cơ với
nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo
việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên

đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa
truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì
vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả
các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải tự
điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội dung
do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực chỉ đạo
sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ).
Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của
thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp
học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau,
bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền đạt
4


và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối ưu phải
là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc ba phép
biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó thành

học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong cả
ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những tình
huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy
học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình huống
về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến thức, kỹ
năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư
duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực

đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến thức
và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là: tình
huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức được
vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì hy vọng
có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống
5


đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn
đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ
cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu và
giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức hành
động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không đòi
hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó giáo
viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách quan
của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có
khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành
được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các em

thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng thời
cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng thiếu sót
này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh. Từ
những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt được)
học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương pháp
dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về lý
luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra được
những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không sát thực
tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình huống, hoặc
giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung tâm,
dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình trạng
6



“học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp giảng
dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình
giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá trình
tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong đó giáo
viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì phương
pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa
học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong
một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết
khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không
bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể
mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình
huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được
những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri
thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải vận
dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của nhiều
môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả năng
phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao giờ.
Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập,
sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người
học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho cả người học
lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể rèn

luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình”.
Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong tương lai.
Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản
thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá
trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh
luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng
giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết,
mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận
dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan
điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến
khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn
kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc phân
tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác
7


nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có thể tự định
hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của phần
lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh là
người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên cứu và
học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học vì nó kích
thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải
pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo

luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu
hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng tình
huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời họ
cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên để
làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học sinh có
tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống,
giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và
có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống còn
có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm của
người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con đường
và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là trong những
lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác nhau, và giáo
viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái độ
làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên, hiện
nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ không
có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định, giáo
viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho học
sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh phải tự
mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so
với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng

viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới.
Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi
một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên
mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù
hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì trong
khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý kiến sai
lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp hơn trong
giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến
khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là
những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
8


1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng tình
huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết giảng
hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng bối cảnh
sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng các
ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ khoảng
4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của giáo viên
nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích
học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này cần
được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình

huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi
nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất và
được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp dụng
các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực tiễn và
qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không những phải
nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của
giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học sinh
là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình
huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt
trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo
viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ mở
của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng các tình
huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó lời giải để
ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong việc kích thích
khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống
thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi
đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố
định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho
học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm
cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề nào
đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây dựng bài
tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải quyết bài
tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.

Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt tới
học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn học
9


sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là một
nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào thực
tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông
thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu.
Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ
khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và
tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống
hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự
kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết
một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà
giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi
điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu không tìm
được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình huống giả định. Trong
trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân tích trên đây phải được
tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn giáo
dục công dân ở trường Trung học phổ thông Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà –
Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát các phương pháp dạy học nhằm giáo dục pháp
luật cho học sinh trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường Trung học phổ
thông Lý Tự Trọng- Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh :
Trường đóng trên địa bàn thị trấn song học sinh chủ yếu là con em nông thôn nên

phương tiện khoa học kỹ thuật còn hạn chế, đời sống còn khó khăn nên các em tiếp cận
với pháp luật cũng còn ít tài liệu, ít thông tin cập nhật chủ yếu là sách vỡ ở nhà trường
và qua bài học cho nên thời lượng ít lượng kiến thức nhiều mà là môn học không thi cử
nên các em ít sưu tầm, ít đầu tư thời gian tìm hiểu nên mức độ hiểu biết về pháp luật còn
hạn chế.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các phương pháp dạy học nhằm giáo dục pháp
luật cho học sinh trong dạy học môn giáo dục công dân ở trường Trung học phổ
thông Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh
Mức độ vận dụng
Các PPDH cụ thể
Thường
Thỉnh
Không bao giờ
xuyên
thoảng
(%)
(%)
(%)
1. PP thuyết trình
50%
2. PP vấn đáp
20%
3. PP trực quan
4. PP phân vai
5. PP hợp tác làm việc theo nhóm
30%
6. PP dạy học tình huống (Nghiên cứu
50%
tình huống)
7. PP project

8. Các phương pháp khác

TIỂU KẾT CHƯƠNG I
10


Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam, giải
thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả đã trình bày làm nổi
bật các nội dung liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình huống trong dạy học như
khái niệm, cấu trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả năng
vận dụng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ thông Lý Tự
Trọng - Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh hiện nay.
CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG
TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC PHẦN CÔNG DÂN VỚI PHÁP LUẬT MÔN
GIÁO DỤC CÔNG DÂN 12 TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ LÝ TỰ TRỌNG
HUYỆN THẠCH HÀ – TĨNH HÀ TĨNH
2.1. Kế hoạch thực nghiệm
2.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong dạy
học phần công dân với pháp luật trong chương trình Giáo dục công dân lớp 12 tại trường
Trung học phổ thông Trường Lý Tự Trọng - Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà –
Tĩnh Hà Tĩnh nhằm xác định sự đúng đắn và hiệu quả của phương pháp dạy học bằng
tình huống trong việc phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập phần công dân
với pháp luật trong chương trình Giáo dục công dân lớp 12.
2.1.2. Phương pháp thực nghiệm
Trong quá trình thực nghiệm để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của phương
pháp dạy học bằng tình huống tác giả sử dụng phương pháp điều tra số liệu thông qua
phát phiếu thăm dò để khảo sát trình độ lớp đối chứng và lớp thực nghiệm, tiến hành
giảng dạy các lớp đã lựa chọn, kiểm tra đánh giá kết quả lớp dạy, tác giả phân tích, tổng

hợp số liệu thu thập được sau khi giảng dạy. Trên cơ sở phân tích số liệu đó tác giả rút ra
kết luận về hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống.
2.1.3. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả lựa chọn học sinh của
các lớp 12A1 và lớp 12A10 trường Trung học phổ thông Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch
Hà – Huyện Thạch Hà – Tĩnh Hà Tĩnh. Trong các lớp được lựa chọn thì lớp 12A1 là lớp
thực nghiệm còn lớp 12A10 là lớp đối chứng.
Thời gian tiến hành thực nghiệm là từ tháng 1 đến cuối tháng 3 năm 2015.
2.1.4. Nội dung thực nghiệm
Nội dung được lựa chọn để tiến hành thực nghiệm là phần công dân với pháp luật
thuộc chương trình Giáo dục công dân lớp 12, phần này bắt đầu từ bài số 1 đến bài số 10.
Trong phần công dân với pháp luật tác giả lựa chọn 2 bài để tiến hành thiết kế giáo án
thực nghiệm bao gồm các bài:
- Bài 2: Thực hiện pháp luật (3 tiết)
- Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực(3 tiết)
2.2. Tiến trình thực nghiệm
2.2.1. Khảo sát khối lớp đối chứng với khối lớp thực nghiệm
Khối lớp dự kiến dạy đối chứng là lớp 12A10 và khối lớp dự kiến dạy thực nghiệm
là lớp 12A1 của trường THPT Lý Tự Trọng Thị Trấn Thạch Hà – Huyện Thạch Hà –
Tĩnh Hà Tĩnh Lớp 12A1: sĩ số lớp là 41 có 30 nữ và 11 nam. Học lực giỏi 5, khá 16,
trung bình là 20. Hạnh kiểm tốt là 38, khá 3. Điểm trung bình môn Giáo dục công dân: từ
8.0 trở lên là 27 em, 6.5 trở lên là 14 em.

11


Lớp 12A10: sĩ số lớp là 42 có 24 nữ và 18 nam. Học lực loại giỏi 3, khá 14, trung
bình 25. Hạnh kiểm tốt là 38, khá 3 và trung bình là 1. Điểm trung bình môn Giáo dục
công dân: từ 8.0 trở lên là 32 em, 6.5 trở lên là 10 em.
Qua khảo sát lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ta thấy sức học của hai lớp này tương

đối đồng đều, đây là điều kiện thuận lợi để thực nghiệm sư phạm.
2.2.2. Thiết kế giáo án vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
Thiết kế giáo án có vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong phần
công dân với pháp luật chúng tôi lựa chọn có hai bài với 6 tiết:
- Bài 2: Thực hiện pháp luật (3 tiết)
- Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực(3 tiết)
* Thiết kế giáo án lớp đối chứng.
Giáo án lớp đối chứng chúng tôi dạy theo phương pháp thuyết trình và đàm thoại trên cơ
sở giáo án đã thiết kế sẵn.
* Thiết kế giáo án lớp thực nghiệm.
Trên cơ sở các bài học lựa chọn, chúng tôi thiết kế giáo án theo hướng vận dụng
phương pháp dạy học bằng tình huống để thực hiện.
Cụ thể như sau:
Thiết kế giáo án thực nghiệm :
Bài 2
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
( 3 tiết )
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1.Về kiến thức:
- Nêu được khái niệm thực hiện pháp luật , các hình thức và các giai đoạn thực hiện
pháp luật
- Hiểu được thế nào là vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí ; các loai vi phạm
pháp luật
và trách nhiệm pháp lí.
2.Về ki năng:
- Biết cách thực hiện pháp luật phù hợp với lứa tuổi.
3.Về thái độ:
- Có thái độ tôn trọng pháp luật ,
- Ủng hộ những hành vi thực hiện đúng pháp luật và phê phán những hành vi làm
trái quy

định pháp luật .
II. NỘI DUNG :
1. Trọng tâm:
- Thực hiện pháp luật:
+ Khái niệm thực hiện pháp luật.
+ Các giai đoạn, các hình thức thực hiện pháp luật mà chủ thể pháp luật tiến hành để
đưa pháp luật vào đời sống.
- Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí:
+ Các dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật; khái niệm vi phạm pháp luật.
+ Khái niệm trách nhiệm pháp lí.
+ Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí tương ứng.
2. Một số kiến thức cần lưu ý:
a) Khái niệm thực hiện pháp luật, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp
luật
12


Thực hiện pháp luật là giai đoạn tiếp theo trong đời sống của một văn bản pháp luật
sau khi được ban hành. Nếu như việc xây dựng và ban hành một quy phạm pháp luật
hay cả một đạo luật là quá trình mô hình hóa các quy tắc xử sự có tính đại diện cho
những hành vi phổ biến trong xã hội theo hướng phù hợp với ý chí của Nhà nước thì
thực hiện pháp luật là quá trình có chiều hướng ngược lại, tức là các mô hình xử sự
đã được quy phạm hoá bằng quyền lực Nhà nước để áp trở lại như khuôn mẫu, như
thước đo các hành vi cụ thể của những cá nhân, tổ chức khi họ tham gia vào các quan
hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật. Vì vậy, có thể coi xây dựng pháp luật là
quá trình đưa đời sống vào pháp luật còn thực hiện pháp luật là đưa pháp luật trở lại
với đời sống.
- Các hình thức thực hiện pháp luật
Hành vi hợp pháp của cá nhân, tổ chức rất đa dạng, được thực hiện qua nhiều hình
thức. Trong các tài liệu khoa học pháp lí hiện nay thường nói tới bốn hình thức thực

hiện pháp luật, cụ thể là:
Sử dụng pháp luật: các cá nhân, tổ chức chủ động sử dụng các quyền, tự do của
mình, không phụ thuộc vào ý chí của người khác. Đây là hình thức thực hiện các quy
phạm pháp luật quy định các quyền tự do, dân chủ của công dân, các quyền của tổ
chức. Ví dụ: công dân chủ động sử dụng quyền tự do kinh doanh để tổ chức làm ăn
theo quy định của pháp luật.
Thi hành pháp luật: các cá nhân, tổ chức bằng hành động cụ thể chủ động thực hiện
các nghĩa vụ ( những việc phải làm) theo quy định của pháp luật. Đây là hình thức
thực hiện các quy phạm pháp luật quy định các nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức. Ví dụ:
cá nhân, tổ chức kinh doanh chủ động thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo quy định
của pháp luật.
Tuân thủ pháp luật: các cá nhân, tổ chức kiềm chế, không làm những việc vị pháp
luật cấm. Đây là hình thức thực hiện các quy phạm pháp luật có tính chất cấm đoán.
Ví dụ: cá nhân, tổ chức không kinh doanh những ngành nghề, mặt hàng bị cấm theo
quy định của pháp luật như không sản xuất, buôn bán ma tuý, chất gây nghiện thuộc
danh mục cấm…
Ap dụng pháp luật: các cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào
pháp luật để ra các quyết định liên quan tới việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ cụ thể
của cá nhân, tổ chức. Đây là hình thức thực hiện các quy phạm pháp luật quy định
phải có sự tham gia, can thiệp của Nhà nước trong quá trình cá nhân, tổ chức thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Ví dụ: cơ quan kế hoạch - đầu tư các cấp phải
thực hiện thủ tục đăng kí kinh doanh để họ có thể thực hiện quyền tự do kinh doanh
theo quy định của pháp luật.
Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật trên thì hình thức sử dụng pháp luật khác
với các hình thức con lại ở chỗ: chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thưc
hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình, chứ không bị ép buộc phải
thực hiện.
Bản thân chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện pháp luật có vai trò rất quan trọng.
Giữa các hình thức thực hiện pháp luật có mối liên hệ lôgic phụ thuộc vào sự nhận
thức và hành động của các chủ thể. Ví dụ, nếu cá nhân, tổ chức không tự giác thi

hành hay tuân thủ pháp luật (tức là không tự giác thực hiện thực hiện các nghĩa vụ,
không kiềm chế để không làm những việc bị cấm) thì cơ quan nhà nước sẽ phải áp
dụng các biện pháp can thiệp như xử lí vi phạm, buộc các cá nhân, tổ chức phải thực
hiện đúng các qui định của pháp luật hoặc phải gánh chịu những hậu quả bất lợivì
những vi phạm đó. Như vậy, từ những hình thức thực hiện pháp luật không cần sự
tham gia của Nhà nước có thể sẽ dẫn đến những hình thức áp dụng pháp luật – Nhà
13


nước phải can thiệp để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh. Đó
chính là đặc trưng về tính quyền lực, tính bắt buộc chung của pháp luật thể hiện trong
quá trình thực hiện pháp luật.
-Các giai đoạn thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật, như trên đã phân tích, là quá trình đưa pháp lụât vào cuộc
sống. Qúa trình đó gồm nhiều giai đoạn với sự tham gia của các chủ thể khác nhau
(cá nhân, tổ chức bao gồm cả cơ quan nhà nước) và đựơc thực hiện bằng những hình
thức khác nhau thông qua các quan hệ pháp luật cụ thể.
-Giai đoạn xác lập quan hệ pháp luật
Quan hệ pháp luật là các quan hệ xã hội đựơc điều chỉnh bằng pháp luật. Một quan
hệ pháp luật được xác lập, thay đổi hay chấm dứt phụ thuộc vào các yếu tố như:
+ Phải có quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ xã hội đó ( điều kiện tiên
quyết);
+ Các cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ phải có năng lực chủ thể. Năng lực chủ
thể gồm năng lực pháp luật ( khả năng của cá nhân, tổ chức có quyền hoặc nghĩa vụ
theo quy định của Nhà nứơc) và năng lực hành vi (khả năng của cá nhân tổ chức
bằng hành vi của chính mình để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí).
+ Phải có sự kiện pháp lí, tức là phải có những sự kiện thực tế mà theo quy định
của pháp luật gắn với sự xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật nhất định.
Sự kiện pháp lí có thể là sự kiện tự nhiên (ví dụ: sự kiện một con người đựơc sinh ra
là sự kiện pháp lí vì nó gắn với việc xuất hiện các quan hệ pháp luật mới như quan

cha mẹ – con, ông, bà - cháu, quan hệ khai sinh giữa cha mẹ đứa trẻ với cơ quan nhà
nước…); cũng có thể là sự kiện xảy ra theo ý chí của cá nhân, tổ chức (ví dụ: sự kiện
đăng ký kết hôn xảy ra theo ý chí của các bên có nguyên vọng, mong muốn kết hôn;
sự kiện này làm phát sinh quan hệ pháp luật hôn nhân giữa vợ và chồng).
Giai đoạn xác lập quan hệ pháp luật có thể thực hiện bằng nhiều hình thức. Ví dụ:
+ Các cá nhân tổ chức tự thực hiện bằng hình thức sử dụng, thi hành, tuân thủ pháp
luật (ví dụ: trong sách giáo khoa, người lao động và người sử dụng lao động sử dụng
quyền của mình theo qui định của pháp luật để cùng nhau thoả thuận về việc làm, ký
kết hợp đồng lao động, xác lập quan hệ lao động giữa các bên);
+ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện việc áp dụng pháp luật để xác lập
quan hệ giữa cá nhân, tổ chức với Nhà nước hoặc giữa cá nhân, tổ chức với nhau. Ví
dụ: Uỷ ban nhân dân xã, phường xác lập quan hệ pháp luật hôn nhân giữa hai người
nam, nữ có nguyện vọng kết hôn bằng việc cấp giấy công nhận đăng kí kết hôn. Đây
là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật của Uỷ ban nhân dân xã, phường sau khi
đã tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật như kiểm tra giấy tờ
liên quan đến nhân thân của người nộp giấy đăng kí kết hôn, kiểm tra không có khiếu
nại, tố cáo về việc vi phạm điều kiện kết hôn…
- Giai đoạn các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình:
Đây chính là giai đoạn quan trọng và chủ yếu nhất để đưa các quy phạm pháp luật
vào đời sống thông qua các hành vi hợp pháp của các chủ thể. Trong rất nhiều trường
hợp thực tế, nếu các chủ thể thực hiện đầy đủ, đúng đắn các quyền, nghĩa vụ của
mình thì đây cũng là giai đoạn kết thúc của quá trình thực hiện pháp luật.
- Giai đoạn xử lí vi phạm pháp luật, giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể của
quan hệ pháp luật, đây không phải là giai đoạn bắt buộc phải có trong mọi quá trình
thực hiện pháp luật mà chỉ trong những trường hợp của các chủ thể không thực hiện
đúng các quyền, nghĩa vụ của mình hoặc khi phát sinh những sự kiện pháp lí nhất
định. Để đảm bảo cho pháp luật đựơc thực hiện đúng, để khôi phục các quyền, tự do
bị xâm phạm, các chủ thể của quan hệ pháp luật có thể sử dụng nhiều biện pháp, hình
14



thức do pháp luật quy định để giải quyết như thương lượng, dàn xếp với nhau; thông
qua người thứ ba để hoà giải các tranh chấp theo phương thức thoả thuận; yêu cầu cơ
quan nhà nứơc có thẩm quyền giải quyết. Trong trường hợp cuối cùng, khi nhà nứơc
can thiệp cũng tức là bắt đầu một quá trình thực hiện pháp luật mới – quá trình áp
dụng pháp luật của cơ quan nhà nứơc có thẩm quyền.
b) Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
Như trên đã phân tích, mặc dù pháp luật là những khuôn mẫu có tính bắt buộc
chung nhưng do những ích lợi, động cơ, điều kiện, hoàn cảnh khác nhau nên các chủ
thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật vẫn có thể có những cách ứng xử khác nhau –
hoặc là phù hợp với quy định của pháp luật ( hành vi hợp pháp) hoặc là trái pháp luật
( hành vi bất hợp pháp). Kết quả của các hành vi đó là pháp luật đựơc thực hiện hoặc
pháp luật bị vi phạm.
Vi phạm pháp luật có các dấu hiệu cơ bản:
- Là hành vi trái pháp luật, hành vi xác định của con người cụ thể (nếu là tổ chức vi
phạm pháp luật thì cũng phải thông qua hành vi của người đại diện cho tổ chức đó)
- Năng lực trách nhiệm pháp lí của chủ thể hành vi trái pháp luật.
- Lỗi của chủ thể hành vi trái pháp luật. Lỗi thể hiện thái độ của chủ quan của chủ
thể đối với hành vi trái pháp luật của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra. Lỗi có
thể là lỗi cố ý ( chủ thể nhận thức rõ tính nguy hiểm của hành vi và hậu quả do hành
vi đó gây ra nhưng mong muốn hoặc cố ý để cho hậu quả xảy ra); hoặc là lỗi vô ý do
quá tự tin ( nên không ngăn chặn được hậu quả xảy ra) lỗi vô ý do cẩu thả ( chủ thể,
do cẩu thả nên không nhận thức được hậu quả nguy hiểm của hành vi mặc dù có thể
và cần phải nhận thức được).
Nếu thiếu một trong ba dấu hiệu cơ bản này thì sẽ không có vi phạm pháp luật. Ví
dụ: Nếu một người mới chỉ có suy nghĩ chống đối hay lẫn tránh pháp luật nhưng
chưa thể hiện thành hành vi thì chưa thể bị coi là vi phạm pháp luật. Một người có
hành vi trái pháp luật nhưng không có năng lực trách nhiệm pháp lí ( Ví dụ: Một
người bị mất trí ) thì hành vi đó cũng không phải là vi phạm pháp luật. Thậm chí, nếu
một người có đầy đủ năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện hành vi trái pháp luật

nhưng không có lỗi thì trong đại đa số trường hợp hành vi đó cũng vẫn không phải là
vi phạm pháp luật. Ví dụ: Người gây thiệt hại về tài sản, sức khoẻ cho người khác do
phải phòng vệ chính đáng hoặc trong tình thế cấp thiết ( thiên tai, hoả hoạn).
Trách nhiệm pháp lí được xem xét dưới hai góc độ:
- Là trách nhiệm, nghĩa vụ được giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện. Đây là nghĩa
tích cực, ví dụ: “ Các cơ quan văn hoá, thông tin đại chúng có trách nhiệm tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài các giá trị di sản văn hoá của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp phần nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hoá trong nhân dân” ( Điều 11, Luật Di sản văn hoá).
- Là trách nhiệm của chủ thể vi phạm pháp luật phải thực hiện các nghĩa vụ và gánh
chịu hậu quả bất lợi do bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Trong bài này, trách nhiệm pháp lí được đề cập tới theo góc độ thứ hai, trách nhiệm
pháp lí gắn liền với vi phạm pháp luật và các biện pháp cưỡng chế nhà nước.
Mục đích của việc xác lập ( thừơng gọi là truy cứu) trách nhiệm pháp lí đối với chủ
thể vi phạm pháp luật là để nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, Nhà nước và xã hội, tạo điều kiện cho các quan hệ xã hội phát triển đúng
hướng điều chỉnh của pháp luật, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, giáo dục,
cải tạo bản thân người vi phạm.
Tuỳ theo tính chất của vi phạm pháp luật thường xác định các loại trách nhiệm
pháp lí khác nhau:
15


Trách nhiệm hình sư ( đối với người có hành vi phạm tội). Phạm tội là hành vi vi
phạm pháp luật nghiêm trọng nhất nên trách nhiệm hình sự cũng là trách nhiệm
nghiêm khắc nhất và chỉ do một cơ quan duy nhất xem xét, quyết định áp dụng, đó là
Toà án.
Trách nhiệm hành chính do các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền áp
dụng với các chủ thể vi phạm hành chính.
Trách nhiệm dân sự áp dụng đối với người vi phạm pháp luật trong lĩnh vực dân sự.

Trách nhiệm kỉ luật là trách nhiệm do cơ quan, tổ chức áp dụng đối với với cán bộ,
công chức, viên chức của mình do vi phạm các quy định về kỉ luật lao động và công
vụ nhà nước với các hình thức: cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển công tác khác, buộc
thôi việc…
III. PHƯƠNG PHÁP :
Thuyết trình, vấn đáp, thảo luận nhóm, tạo tình huống, trực quan,…
IV. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC:
- Tranh, ảnh, sơ đồ, giấy khổ to.
- Có thể sử dụng vi tính, máy chiếu.
V. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP :
1. Ổn định tổ chức lớp :
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Giảng bài mới:
Pháp luật là phương tiện để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên do điều kiện khách quan và chủ quan mà việc thực hiện pháp luật của công dân có
thể đúng hoặc có thể sai (vi phạm pháp luật). Vậy, Nhà nước với tư cách là chủ thể làm
ra pháp luật và dùng pháp luật làm phương tiện quản lí xã hội sẽ làm gì để bảo đảm quá
trình đưa pháp luật vào đời sống xã hội đạt hiệu quả và xử lí các vi phạm pháp luật nảy
sinh như thế nào?Đó là nộidung bài 2
Phần làm việc của Thầy và Trò
Tiết 1:
Mức độ kiến thức:
HS nêu được các nội dung cơ bản:
- Khái niệm thực hiện pháp luật.
- Thực hiện pháp luật là quá trình thường xuyen
trong cuộc sống của các cá nhân, tổ chức, cơ
quan, bao gồm 4 hình thức cụ thể: sử dụng
pháp luật, thi hành pháp luật, tuân thủ pháp
luật, áp dụng pháp luật.
- Hai giai đoạn của quá trình thực hiện pháp

luật.
 Cách thưc hiện:
 Khái niệm thực hiện pháp luật
GV yêu cầu HS đọc 2 tình huống ở đoạn Cùng
quan sát trong SGK, sau đó hướng dẫn HS khai
thác vấn đề bằng cách đưa ra các câu hỏi sau:
Trong tình huống 1: Chi tiết nào trong tình
huống thể hiện hành động thực hiện Luật Giao
thông đường bộ một cáh có ý thức (tự giác), có
mục đích? Sự tự giác đã đem lại tác dụng như
thế nào?

Nội dung chính của bài học

1. Khái niệm , các hình thức và các giai
đoạn thực hiện pháp luật

a) Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động
có mục đích làm cho những quy định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.

16


Trong tình huống 2: Để xử lí 3 thanh niên vi
phạm, cảnh sát giao thông đã làm gì? (áp dụng
pháp luật: xử phạt hành chính)
Mục đích của việc xử phạt đó là gì? (Răn đe

hành vi vi phạm pháp luật và giáo dục hành vi
thực hiện đúng pháp luật cho 3 thanh niên).
Từ những câu trả lời của HS, GV tổng kết và đi
đến khái niệm trong SGK.
GV giảng mở rộng:
Thực hiện pháp luật là hành vi hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Vậy, Thế nào là hành vi
hợp pháp ?
Hành vi hợp pháp là hành vi không trái, không
vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật
mà phù hợp với các quy định của pháp luật, có
lợi cho Nhà nước, xã hội và công dân :
-Làm những việc mà pháp luật cho phép làm.
-Làm những việc mà pháp luật quy định phải
làm.
-Không làm những việc mà pháp luật cấm.
Trong hệ thống pháp luật của quốc gia, có rất
nhiều loại quy phạm pháp luật khác nhau, với
những cách thực thực hiện khác nhau. Có thể
đó là cách xử sự chủ động (hành động) : Làm
những việc mà pháp luật quy định được làm
hoặc nghĩa vụ phải làm ; có thể đó là cách xử
sự thụ động (không hành động) : Kiềm chế
không làm những điều mà pháp luật cấm.
 Các hình thức thực hiện pháp luật.
b) Các hình thức thực hiện pháp luật
GV kẻ bảng: Các hình thức thực hiện pháp luật.
Chia lớp thành 4 nhóm, đánh số thứ tự và phân
công nhiệm vụ từng nhóm tương ứng với thứ tự
các hình thức thực hiện pháp luật trong SGK .

Yêu cầu mỗi nhóm trong thời gian thảo luận 3
phút phải nêu ra nội dung và ví dụ minh hoạ
cho hình thức thực hiện mà mình được giao.
Sau đó, lần lượt các nhóm lên điền vào bảng do
GV kẻ sẵn.
GV kẻ sẵn một bảng tổng hợp ở nhà để củng cố
cho HS hiểu 4 hình thức thực hiện pháp luật.
Các ví dụ minh hoạ:
+ Sử dụng pháp luật
Sử dụng pháp luật : Các cá nhân, tổ chức sử
Ví dụ : Công dân A gửi đơn khiếu nại Giám dụng đúng đắn các quyền của mình , làm
đốc Công ty khi bị kỷ luật cảnh cáo nhằm bảo những gì mà pháp luật cho phép làm.
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị vi
phạm.
Trong trường hợp này, công dân A đã sử dụng
quyền khiếu nại của mình theo quy định của
pháp luật, tức là công dân A sử dụng pháp luật.
17


Đặc điểm của hình thức sử dụng pháp luật :
Chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không
thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo
ý chí của mình mà không bị ép buộc phải thực
hiện.
+ Thi hành pháp luật (xử sự tích cực)
Ví dụ : Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thu gom và xử lý
chất thải theo tiêu chuẩn môi trường. Đây là
việc làm của cơ sở sản xuất, kinh doanh chủ

động thực hiện công việc mà mình phải làm
theo quy định tại khoản 1 Điều 37 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005. Thông qua việc làm này,
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đã thi hành
pháp luật về bảo vệ môi trường.
+ Tuân thủ pháp luật (xử sự thụ động)
Ví dụ : Không tự tiện chặt cây phá rừng ; không
săn bắt động vật quý hiếm ; không khai thác,
đánh bắt cá ở sông, ở biển bằng phương tiện,
công cụ có tính huỷ diệt (ví dụ : mìn, chất
nổ,...).
+ Áp dụng pháp luật
Thứ nhất, cơ quan, công chức nhà nước có
thẩm quyền ban hành các quyết định cụ thể.
Ví dụ : Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết
định về điều chuyển cán bộ từ Sở Giáo dục và
Đào tạo sang Sở Văn hoá - Thông tin. Trong
trường hợp này, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh
đã áp dụng pháp luật về cán bộ, công chức.
Thứ hai, cơ quan nhà nước ra quyết định xử lý
người vi phạm pháp luật hoặc giải quyết tranh
chấp giữa các cá nhân, tổ chức.
Ví dụ : Toà án ra quyết định tuyên phạt cải tạo
không giam giữ và yêu cầu bồi thường thiệt hại
người đốt rừng, pha rừng trái phép ; Cảnh sát
giao thông xử phạt người không đội mũ bảo
hiểm là 100.000 đồng.
Để khắc sâu kiến thức, phát triển tư duy HS,
GV yêu cầu các em phân tích điểm giống nhau
và khác nhau giữa 4 hình thức thực hiện pháp

luật.
GV lưu ý:
+ Giống nhau: Đều là những hoạt động có mục
đích nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống, trở
thành những hành vi hợp pháp của người thực
hiện.
+ Khác nhau: Trong hình thức sử dụng pháp
luật thì chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc
không thực hiện quyền được pháp luật cho

Thi hành pháp luật : Các cá nhân , tổ chức
thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ, chủ động
làm những gì mà pháp luật quy định phải làm.

Tuân thủ pháp luật : Các cá nhân , tổ chức
kiềm chế để không làm những điều mà pháp
luật cấm.
Áp dụng pháp luật : Các cơ quan, công chức
nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào pháp luật
để ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt
hoặc thay đổi việc thực hiện các quyền , nghĩa
vụ cụ thể của cá nhân, tổ chức.

18


phép theo ý chí của mình chứ không bị ép buộc
phải thực hiện.
Ví dụ: Luật giao thông đường bộ quy định,
công dân từ 18 tuổi trở lên có quyền điều khiển

xe mô tô có dung tích xi lanh từ 50 cm3 trở lên.
Khi ấy, những người đạt độ tuổi này có thể đi
xe gắn máy và có thể đi xe đạp (không bắt buộc
phải đi xe gắn máy).
Yêu cầu quan trọng của phần này là HS phải
thấy rõ được rằng pháp luật có được thực hiện
hay không, pháp luật có đi vào cuộc sống hay
không trước tiên và chủ yếu là do mỗi cá nhân,
tổ chức có chủ động, tự giác thực hiện đúng các
quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật hay không.
Tiết 2:
 Các giai đoạn thực hiện pháp luật.
GV đặt câu hỏi:
Theo em, quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng
xuất hiện khi nào?
HS trả lời.
GV nhận xét, kết luận: Quyền và nghĩa vụ của
vợ và chồng chỉ xuất hiện sau khi quan hệ hôn
nhân được xác lập. Khi ấy, xuất hiện quan hệ
pháp luật giữa vợ và chồng (giai đoạn 1 của quá
trình thực hiện pháp luật)
GV hỏi tiếp:
Vợ, chồng thực hiện quyền và nghĩa của mình
như thế nào?
HS trao đổi, trả lời.
GV nhận xét, kết luận: Sau khi quan hệ hôn
nhân được xác lập, vợ chồng thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình (giai đoạn 2 của quá trình
thực hiện pháp luật) theo quy định tại chương

III – Quan hệ giữa vợ và chồng của Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2000.
GV lưu ý:
Hai giai đoạn của quá trình thực hiện pháp luật
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: giai đoạn 1
là tiền đề của giai đoạn 2, giai đoạn 2 là hệ quả
phát sinh tất yếu từ giai đoạn 1. Quá trình thực
hiện pháp luật bắt buộc phải trải qua hai giai
đoạn. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp còn
xuất hiện giai đoạn 3 - giai đoạn không bắt
buộc. Nó chỉ xuất hiện khi cá nhân, tổ chức vi
phạm pháp luật và cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ can thiệp bằng cách ra quyết định
buộc chủ thể vi phạm phải thực hiện đúng pháp
luật.

c) Các giai đoạn thực hiện pháp luật
Giai đoạn 1 : Giữa các cá nhân, to chức hình
thành một quan hệ xã hội do pháp luật điều
chỉnh (gọi là quan hệ pháp luật).
Giai đoạn 2 : Cá nhân, tổ chức tham gia
quan hệ pháp luật thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình.

2. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp


19



Đơn vị kiến thức 2:
Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí.
 Mức độ kiến thức:
HS hiểu được:
- Các dấu hiệu cơ bản để nhận biết một hành vi
vi phạm pháp luật.
- Các loại vi phạm pháp luật và trách nhiệm
pháp lí tương ứng.
 Cách thực hiện:
 Vi phạm pháp luật.
GV sử dụng ví dụ trong SGK và yêu cầu HS
chỉ ra biểu hiện cụ thể của từng dấu hiệu của
hành vi vi phạm trong ví dụ đó.
GV giảng:
Các dấu hiệu vi phạm pháp luật:
°Thứ nhất: Là hành vi trái pháp luật.
+ Hành động cụ thể: Bạn A chưa đến tuổi được
phép tự đieu khiển xe mô tô mà đã lái xe đi trên
đường và hai bố con bạn A đều đi xe ngược
chiều quy định; Cơ sở sản xuất, kinh doanh thải
chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường vào đất, nguồn nước ; nhập cảnh, quá
canh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch;…
+ Không hành động: Người kinh doanh không
nộp thuế cho Nhà nước (trái với pháp luật về
thuế); Người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật không giải quyết đơn thư khiếu nại, to
cáo của công dân ;...
°Thứ hai: Do người có năng lực trách nhiệm
pháp lí thực hiện.

GV có thể yêu cầu HS giải thích rõ: Thế nào là
năng lực trách nhiệm pháp lí? Những người nào
đủ và không đủ năng lực trách nhiệm pháp lí ?
GV giảng:
Năng lực trách nhiệm pháp lý : Khả năng của
người đã đạt độ tuổi nhất định theo quy định
của pháp luật, có thể nhận thức và điều khiển
được hành vi của mình, tự quyết định cách xử
sự cho đúng pháp luat và chịu trách nhiệm độc
lập về hành vi của mình.
Năng lực trách nhiệm pháp lý của con người
phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ - tâm
lý (có bị bệnh về tâm lý làm mất hoặc hạn chế
khả năng nhận thức về hanh vi của mình hay
không). Có những hành vi mặc dù là trái pháp
luật nhưng do một người mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình thực hiện thì không bị coi là vi phạm
pháp luật, vì những hành vi nay do người

a) Vi phạm pháp luật
Thứ nhất, là hành vi trái pháp luật
+ Hành vi đó có thể là hành động – làm
những việc không được làm theo quy định
của pháp luật hoặc không hành động – không
làm những việc phải làm theo quy định của
pháp luật .
+ Hành vi đó xâm phạm, gây thiệt hại cho
những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, do người có năng lực trách nhiệm

pháp lí thực hiện.
Năng lực trách nhiệm pháp lí được hiểu là
khả năng của người đã đạt một độ tuổi nhất
định theo quy định pháp luật, có thể nhận
thức, điều khiển và chịu trách nhiệm về việc
thực hiện hành vi của mình.
Thứ ba, người vi phạm pháp luật phải có lỗi.
Lỗi thể hiện thái độ của người biết hành vi
của mình là sai, trái pháp luật , có thể gây hậu
quả không tốt nhưng vẫn cố ý làm hoặc vô
tình để mặc cho sự việc xảy ra.
=> Kết luận:
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật
, có lỗi do người có năng lực trách nhiệm
pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ.

20


không có năng lực trách nhiệm pháp lý thực
hiện. Hành vi trái pháp luật của trẻ em chưa đến
độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy
định của pháp luật thì không bị coi là vi phạm
pháp luật, vì trẻ em con ít tuổi có thể nhận thức
và điều khiển được hành vi của mình, nhưng
chưa có khả năng nhận thức được hậu quả của
hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Ví dụ : Theo quy định của pháp luật thì trẻ em
dưới 14 tuổi là người không có năng lực trách

nhiệm pháp lý nên dù có thực hiện hành vi trái
pháp luật thì cũng không bị coi là vi phạm pháp
luật. Vì thế, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính quy định không xử phạt vi phạm hành
chính người dưới 14 tuổi.
°Thứ ba: Người vi phạm pháp luật phải có lỗi.
GV nêu câu hỏi: Theo em, bố con bạn A có biết
đi xe vào đường ngược chiều là vi phạm pháp
luật không? Hành động của bố con bạn A có
thể dẫn đến hậu quả như thế nào? Hành động
đó cố ý hay vô ý?
GV giảng;
Một người bình thường, khoẻ mạnh về mặt tâm
lý, có lý chí và tự do ý chí, hoàn toàn có thể lựa
chọn cho mình hành vi xử sự phù hợp với lợi
ích của xã hội, của cộng đồng và cần phải thấy
trước hậu quả hành vi của mình. Nếu coi
thường lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân
khác, có thể nhận thấy được hậu quả thiệt hại
cho xã hội hoặc cho người khác do hành vi của
mình gây ra nhưng lại mong muốn, hoặc để
mặc, hoặc do sơ xuất để nó xảy ra thì đó là
hành vi có lỗi.
Trong khoa học pháp lý, lỗi được hiểu là trạng
thái tâm lý phản ánh trạng thái tiêu cực của chủ
thể đối với hành vi trái pháp luật của mình và
đối với hậu quả của hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức : lỗi cố ý
và lỗi vô ý.
+ Lỗi cố ý

Lỗi cố ý trực tiếp : Chủ thể vi phạm nhận
thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội và cho
người khác do hành vi của mình gây ra, nhưng
vẫn mong muốn điều đó xảy ra.
Ví dụ : Hành vi đánh người gây thương tích.
Lỗi cố ý gián tiếp : Chủ thể vi phạm nhận
thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội và cho
người khác do hành vi của mình gây ra, tuy
21


không mong muốn nhưng vẫn để mặc cho nó
xảy ra.
Ví dụ : Không cứu giúp người đang trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng.
+ Lỗi vô ý
Lỗi vô ý do quá tự tin : Chủ thể vi phạm nhận
thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội và cho
người khác do hành vi của mình gây ra, nhưng
hy vọng, tin tưởng điều đó không xảy ra.
Ví dụ : Phanh xe (thắng) không an toàn ; bán
thực phẩm bị quá hạn sử dụng làm nhiều người
bị ngộ độc.
Lỗi vô ý do cẩu thả : Chủ thể vi phạm do
khinh suất, cẩu thả mà không nhận thấy trước
hậu quả của thiệt hại cho xã hội và cho người
khác do mình gây ra, mặc dù có thể nhận thấy
và cần phải nhận thấy trước.
Ví dụ : Hut thuốc lá làm cháy rừng ; tạt ngang
xe máy làm ngã người khác

Như vậy, những hành vi trái pháp luật mang
tính khách quan, không có lỗi của chủ thể thực
hiện hành vi đó (chủ thể không cố ý và cũng
không vô ý thực hien hành vi đó) không bị coi
là hành vi vi phạm pháp luật.
GV rút ra khái niệm vi phạm pháp luật.
Để khắc sâu kiến thức cho HS, GV hỏi:
Nguyên nhân nào dẫn đến hành vi vi phạm
pháp luật?
GV giảng:
Trong 2 nguyên nhân khách quan (thiếu pháp
luật, pháp luật không còn phù hợp với thực tế,
điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn) và chủ
quan (coi thưòng pháp luật, cố ý vi phạm vì
mục đích cá nhân, không hiểu biết pháp luật)
thì nguyên nhân chu quan là nguyên nhân
chính, nguyên nhân phổ biến dẫn đến hành vi vi
phạm pháp luật. Vì vậy, ý thức con người là
yếu tố quan trong nhất, quyết định việc tuân thủ
pháp luật hay vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ
chức.
GV đong viên, khuyến khích HS nâng cao hiểu
biết về pháp luật.
 Trách nhiệm pháp lí
Để dẫn dắt HS hiểu khái niệm và ý nghĩa của
trách nhiệm pháp lí, GV lần lượt hỏi:
Các vi phạm pháp luật gây hậu quả gì, cho ai?
Cần phải làm gì để khắc phục hậu quả đó và
phòng ngừa các vi phạm tương tự?
Khi phân tích về lí thuyết, GV sử dụng các ví


b) Trách nhiệm pháp lí
Trách nhiệm pháp lí là nghĩa vụ của các chủ
thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những
biện pháp cưỡng chế do Nhà nước áp dụng.
Trách nhiệm pháp lí được áp dụng nhằm :
+ Buộc ca chủ thể vi phạm pháp luật chấm
dứt hành vi trái pháp luật .
+ Giáo dục, răn đe những người khác để họ
tránh, hoặc kiếm chế những việc làm trái
pháp
luật
.

22


dụ trong SGK, Bài đọc thêm Vết trượt từ chiếc
mũ hoặc cùng HS nêu vài vụ án đã xét xử.
GV giảng:
Trong lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ “Trách
nhiệm” được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa thứ nhất, trách nhiệm có
nghĩa là chức trách, công việc được giao, là
nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho các chủ thể
pháp luật. Ví dụ : Khoản 2 Điều 61 Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 quy định : “Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh trên thượng nguồn dòng sông có
trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh trên hạ nguồn dòng sông trong việc điều

tra phát hiện, xác định nguồn gây ô nhiễm nước
sông và áp dụng các biện pháp xử lý”.
Theo nghĩa thứ hai, trách nhiệm được hiểu là
nghĩa vụ mà các chủ thể phải gánh chịu hậu quả
bất lợi khi không thực hiện hay thực hiện
không đúng nghĩa vu của mình mà pháp luật
quy định. Đây là sự phản ứng của Nhà nước đối
với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật
gây hậu quả xấu cho xã hội.
Trách nhiệm pháp lý trong bài học được hiểu
theo nghĩa thứ hai.
Tiết 3:
 Các loại vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lí:
GV yêu cầu HS trình bày 4 loại vi phạm pháp
luật và trách nhiệm pháp lí tương ứng.
GV giảng:
+ Vi phạm hình sự :
Vi phạm hình sự (tội phạm) là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ ; xâm phạm chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, nền văn hoá, nền quốc phòng, an ninh,
trật tự và an toàn xã hội ; xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức ; xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khac của
công dân và xâm phạm những lĩnh vực khác

của Nhà nước và xã hội.
Ví dụ : Người tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma tuý là vi phạm hình sự, bị coi
là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình
sự.
Đây là những hành vi nguy hiểm cho xã hội vì

c) Các loại vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lí:

Vi phạm hình sự là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị coi là tội phạm quy định tại Bộ
luật Hình sự.
Người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự , phải chấp hành hình phạt theo quy định
của Tòa án. Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng. Người từ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm .

23


nó góp phần làm băng hoại sức khoẻ con người,
ảnh hưởng đến lao động sản xuất, học tập và
công tác của công dân, phá hoại hạnh phúc gia
đình và là nguyên nhân dẫn đến các loai tội
phạm khác.
Chủ thể vi phạm hình sự chỉ có thể là những cá

nhân.
=> Trách nhiệm hình sự
Là loại trách nhiệm pháp lý với các chế tài
nghiêm khắc nhất do Toà án áp dụng đối với
những người có hành vi phạm tội (vi phạm hình
sự). Trách nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối
với các tội phạm được quy định trong Bộ luật
Hình sự.
Ví dụ : Khoản 1 Điều 197 về tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma tuý quy định : “Người
nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý dưới
bất kỳ hình thức nào thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm”.
Trong ví dụ trên, người tổ chức sử dụng trái
phép chất ma tuý là người vi phạm pháp luật
hình sự, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, phải
chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều
197 Bộ luật Hình sự. Trách nhiệm hình sự chỉ
có thể do Toà án áp dụng, không một cơ quan,
tổ chức nào khác có quyền áp dụng.
+ Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức, cơ quan thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Ví dụ : đi xe mô tô, xe gắn máy vào đường
ngược chiều hoặc vào đường cấm ; cửa hàng
dịch vụ Internet mở cửa cho sử dụng dịch vụ
sau 11 giờ đêm, quá giờ quy định ; người kinh

doanh lấn chiếm vỉa hè ; gây rối trạt tự công
cộng nhưng chưa gây hậu quả xấu.
Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân hoặc
tổ chức.
=> Trách nhiệm hành chính
Là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan
quản lý nhà nước áp dụng đối với cá nhân, tổ
chức có hành vi vi phạm hành chính. Chế tài
trách nhiệm hành chính thường là phạt tiền,
phạt cảnh cáo, khôi phục lại tình trạng ban đầu,
thu giữ tang vật, phương tiện dược sử dụng để
vi phạm,...
Ví dụ, Điều 19 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành

Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp
luật có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp
hơn tội phạm, xâm phạm các quy tắc quản lí
nhà nước .
Người vi phạm phải chịu trách nhiệm hành
chính theo quy định của pháp luật . Người từ
14 đến 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý ; người từ đủ 16 tuổi
trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm
hành
chính do mình gây ra.

Vi phạm dân sự là hanh vi vi phạm pháp
luật , xâm phạm tới các quan hệ tài sản (quan
hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng…) và quan hệ
nhân thân (liên quan đến các quyền nhân thân,

không thể chuyển giao cho người khác, ví dụ :
quyền đối với họ, tên, quyền được khai sinh,
bí mật đời tư, quyền xác định lại giới tính…)
Người có hành vi vi phạm dân sự phải chịu
trách nhiệm dân sự. Người từ đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi khi tham gia các giao dịch
dân sự phải được người đai diện theo pháp
24


chính quy định : “Cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính phải đình chỉ ngay các hành vi vi
phạm gây ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc
phục ; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự
nguyện thưc hiện thì bị áp dụng các biện pháp
cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu
mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp
cưỡng chế”.
+ Vi phạm dân sự
Vi phạm dân sự là hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm tới các quan hệ tài sản, quan hệ nhân
thân (bao gồm quan hệ nhân thân phi tài sản và
quan hệ nhân thân có liên quan tới tài sản). Vi
phạm này thường thể hiện ở việc chủ thể không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các hợp
đong dân sự.
Ví dụ : Người thuê cửa hàng đã tự ý sửa chữa
cửa hàng không đúng với thoả thuận trong hợp
đồng ; người thuê xe ô tô không trả cho chủ xe

đúng thời hạn thoả thuân hoặc làm hư hỏng xe.
Chủ thể vi phạm dân sự có thể là cá nhân hoặc
tổ chức.
=> Trách nhiệm dân sự
Là loại trách nhiệm pháp lý do Toà án áp dụng
đối với cá nhân, tổ chức vi phạm dân sự. Chế
tài trách nhiệm dân sự chủ yếu là bồi thường
thiệt hại hoặc thực hiện các nghĩa vụ dân sự mà
các bên đã thoả thuận. Bên có nghĩa vụ mà thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì
phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có
quyền. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chủ
yếu bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
về vật chất và đôi khi còn có trách nhiệm bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là
trách nhiệm bù đắp tỏn thất vật chất thực tế,
tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao
gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Ví dụ : Bên B nhận gia công cho bên A một số
sản phẩm là quần áo. Khi nhận hàng, bên A
kiểm tra thấy hàng gia công không bảo đảm
chất lượng như thoả thuận đã ghi trong hợp
đồng, bên A có quyền yêu cầu bên B sửa chữa
nhưng bên B không thể sửa chữa trong thời hạn
đã thoả thuận. Khi đó, bên A có quyền huỷ bỏ
hợp đồng và yêu cầu bên B bồi thường thiệt


luật (ví dụ : bố mẹ đối với con) đồng ý, có các
quyền , nghĩa vụ , trách nhiệm dân sự phát
sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác
lập và thực hiện.

Vi phạm kỉ luật la vi phạm pháp luật xâm
phạm các quan hệ lao động, công vụ nhà nước
… do pháp luật lao động, pháp luật hành
chính bảo vệ.
Cán bộ, công chức, viên chức vi phạm kỉ
luật phải chịu trách nhiệm kỉ luật với các hình
thức cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển công tác
khác, buộc thôi việc…

25


×