Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THCS Liên Hương Vũ Quang – Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.5 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THCS
Liên Hương -Vũ Quang – Hà Tĩnh
Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Nguyễn Thị Thu Hiền
Sinh ngày 06-11-1978
Nơi công tác: Trường THCS Liên Hương- Vũ Quang- Hà Tĩnh
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

HàTĩnh tháng 4 năm 2015

1


MỞ ĐẦU:
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói
chung, chất lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp
CNH- HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của bộ mơn giáo dục cơng dân nói
chung, mảng kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát
triển nhân cách, rèn giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh.
Đặc biệt, trong điều kiện phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức,


cộng với trình độ phát riển cao của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới
thì việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực ( trong đó có phương pháp
dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối với giáo viên dạy học môn Giáo
dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong
nhà trường phổ thơng hiện nay cịn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung,
đén phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy mơn Giáo dục công
dân trong nhà trường phổ thông những năm gần đây gặt hái được nhiều thành
công. Tuy nhiên, phương pháp dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn
ra theo lối truyền thống, dạy chay, học chay, truyền thụ thụ động, một chiều,thầy
giảng, cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống ( PPNCTH) là một phương
pháp dạy học tích cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang
lại hiệu quả cao, làm tăng tính thực tiễn của mơn học, giúp học sinh dần hình
thành năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của
học sinh,.....
Giáo dục cơng dân là mơn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và
hồn thiện nhân cách học sinh. Việc áp dụng phương pháp dạy học tình huống
vào giảng dạy môn GDCD là cần thiết.

2


Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “ Sử dụng phương
pháp dạy học tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua
dạy học môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu
tình huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên
cứu việc áp dụng phương pháp nay trong dạy học mảng kiến thức pháp luật

thuộc mơn giáo dục cơng dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển
năng lực thực tiễn, thái độ, hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG.
Phương pháp dạy học tình huống trong mơn Giáo dục cơng dân tại trường
THCS Liên Hương – Vũ Quang – Hà Tĩnh.
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU.
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn
Giáo dục công dân theo quy trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất
lượng dạy học môn giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Liên
Hương – Vũ Quang – Hà Tĩnh.
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường THCS Liên Hương – Vũ Quang – Hà Tĩnh
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học mơn Giáo
dục công dân.
5.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: những năm gần đây
- Không gian: Tại trường phổ thông THCS Liên Hương – Vũ Quang – Hà
Tĩnh

3


- Nội dung: Nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào
thực tiễn giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và

tổng kết lý thuyết.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp thực nghiệm, khảo
sát điều tra, đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp
khác như phỏng vấn sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan
điểm về PPNCTH trong dạy học.
7.2 Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của
giáo viên GDCD.
7.3 Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh
viên, học sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tiểu luận kết cấu thành 02 chương.
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình Thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học mơn GDCD ở trường Trung học cơ sở.
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định
nghĩa về phương pháp dạy học như:
4


Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối
hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực,

tự lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích
của giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh
nhằm đảm bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học địi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trị,
trong q trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu,
mà kết quả là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương
pháp dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng
giữa dạy và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học,
chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về
mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học.
Trong sự thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp
học có tính độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng
phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp
học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lơgic hợp lý, và
bằng lơgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và
kiểm tra, đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai
chức năng này gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong
thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo.
Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lơgic của bài
giảng, với lơgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng
thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trị. Vì vậy phương
pháp dạy chính là mẫu, là mơ hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các
giai đoạn của sự học tập.
5



Cịn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển q trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải
tiếp thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên tồn bộ lơgic bài giảng
của thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức,
tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết
nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó
theo lơgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và
tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như
hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy
với học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi
hoạt động truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói
cách khác, dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp,
bảo đảm được cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương
pháp học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trị nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và
sơ bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thơng tin, biến
nó thành học vấn riêng. Ở đây trị phải sử dụng tồn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó
là vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.


6


Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trị chỉ đạo
trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ
đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hồn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu
thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các
phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hồn cảnh gắn
với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức
hợp được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống
thực tế. Tình huống dạy học là những tình huống thực hoặc mơ phỏng theo tình
huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan
của bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có
thể giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học
tập là những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện
chứng giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu
thuẫn này địi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi
anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi
chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này
kích thích con người tìm tịi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có
vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định
sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong q trình nêu
ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của

con người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, khơng phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm
tịi sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức,
7


phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến
thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học
là: tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học
sinh ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả
năng của mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải
quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực
của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề ln chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của
việc nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức
mới hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng
túng về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những
tri thức và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải
quyết vấn đề khơng địi hỏi q cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong
đó giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu
thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ

chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tịi,
tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành
kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho
các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó

8


nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức
cần thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa
biết cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng,
phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo
nên nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh
chấp nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học
sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục
đích cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong
những phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này địi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng
cả về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên
khơng đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng khơng đúng với
nội dung hoặc khơng sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng
được cách giải quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống

1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm
trung tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu
và dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thơng qua các tình huống được phân tích, thảo
luận, người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những
kiến thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người
học có thể rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên

9


rất mau quên thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được
vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với q trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền
thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và
học sinh, trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp
nhận tri thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một mơi trường
học tích cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với
nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra
quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến
thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ khơng bị phụ thuộc
vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà
có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình
huống cịn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học
được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú
hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên
kết, vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học

viên có thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng
một môn học hoặc của nhiều mơn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thơng qua việc giải quyết tình huống
giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản
thân chưa đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên
không loại trừ khả năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí
cả người dạy chưa gặp bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định
hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận
dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được
những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho cả người học lẫn người
dạy.

10


Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có
thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và
thuyết trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành
cơng trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra
những ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ ln có mơi trường thuận lợi để
so sánh với các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ
có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những
học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển
các kỹ năng phát biểu trước đám đơng một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu;
phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh
hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan
điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý
kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong
phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến

thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp
dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có
khả năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng
trong học tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người
học”. Thơng qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp
cận và giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm
thơng tin và trở thành người có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi
đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú
của phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình
huống, học sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào
cần được nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học
sinh đối với việc học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm
hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa
11


học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu
tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong
buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học
bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học
sinh, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thơng tin, giải
pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của
mình, nhất là từ những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình
hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra
những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội
dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống

Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình
huống cịn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy
bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm
khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội
và kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đơi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ
khơng hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình
huống mong muốn, nhất là trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ
và đến từ những vùng miền khác nhau, và giáo viên khơng có kinh nghiệp trong
việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống địi hỏi tinh thần tự học,
thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động.
Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh khơng quen với phương pháp học
bằng tình huống, họ khơng có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, khơng
hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của
người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian
nhất định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh,
12


hệ thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học
bằng tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin
nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống.
Phương pháp dạy học bằng tình huống địi hỏi giảng viên phải là người tích cực,
ln đổi mới, cập nhật thơng tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện
đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một cách
nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới
xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho
phù hợp.

Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi”
vì trong khi người học phải làm việc, người dạy khơng có việc gì để làm. Đây là
một ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ
năng phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng,
đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo
luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo
viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử
dụng tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá
trình thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học.
Tùy thuộc vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức
tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới
dạng các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này
thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong
bài thuyết giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức
mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang
nội dung kiến thức tiếp theo”.

13


Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức
tạp hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên
lớp giờ thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc
một số vấn đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học
mới. Các tình huống này cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu
hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình huống khơng cần quá khó mà chỉ cần đủ để

định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của
bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để
học sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các
vụ việc trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này
u cầu học sinh khơng những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải
thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn
đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học sinh là người làm việc chính
và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình huống này có
độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt trong
một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo
viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo
độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể
xây dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ
việc mà trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình
huống này rất tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho
học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt
không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược
lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Học sinh vẫn
có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho học sinh tới
kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm
cho học sinh kiến thức nội dung.
14


1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn
đề nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình

xây dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với
quy trình giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được
mơ tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống ln bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền
đạt tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo
viên muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác
hay cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh
hiểu và áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên
xây dựng nên những vấn đề mà thơng thường chính là những câu hỏi xuất phát
từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể địi
hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề
nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ
xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống hồn chỉnh. Ở bước
cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ
nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết
một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức
mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của
vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình.
Thứ hai, nếu khơng tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng
nên một tình huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình
huống tốt như phân tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một cơng đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .
15



1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học cơ sở Liên Hương – Vũ Quang – Hà Tĩnh
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát.
Trường học đóng trên địa bàn 2 xã miền núi Đức Hương và Đức Liên, đường xá
đi lại cịn gặp rất nhiều khó khăn , một số em phải đến trường bằng phương
tiện xe đạp, đi bộ, qua sơng bằng đị thuyền, khí hậu nơi đây khắc nghiệt hạn
hán, lũ lụt hàng năm. Nhiều học sinh có hồn cảnh, điều kiện gia đình khó khăn
như kinh tế nghèo nàn, bố mẹ mất sớm, bố mẹ ly dị, mất bố hoặc mất mẹ, gia
đình đơng con .... phải ở với ơng bà, chú bác.
Chính vì đặc điểm của môi trường miền núi ở trường chúng tôi như vậy, cho nên
đã tác động không nhỏ tới tâm sinh lý lứa tuổi ; quan điểm, tình cảm, thái độ,
hành vi, tư tưởng của học sinh ở nơi đây. Về phong tục tập quán cũng như về
văn hóa địa phương nơi đây đã ảnh hưởng rất lớn đến công tác giảng giạy giáo
dục pháp luật cho học sinh trường THCS Liên Hương- Vũ Quang- Hà Tĩnh.
1.2.2. Thực trạng của việc sử dụng các phương pháp dạy học giáo dục
pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD ở trường THCS Liên
Hương- Vũ Quang- Hà Tĩnh.
Các phương pháp dạy học cụ thể ở mức độ vận dụng thường xuyên để giáo
dục pháp luật cho học sinh trong dạy học mơn GDCD như:
- Phương pháp thuyết trình
- Phương pháp vấn đáp
- Phương pháp hợp tác làm việc theo nhóm
- Phương pháp dạy học tình huống( nghiên cứu tìn huống)
* Các phương pháp dạy học cụ thể vận dụng ở mức độ thỉnh thoảng như;
+ Phương pháp trực quan; các phương pháp khác
*

Các phương pháp dạy học cụ thể vận dụng ở mức độ không bao giờ như:

phương pháp phân vai (do điều kiện mơi trường điều kiện hồn cảnh, tâm sinh

lý học sinh)
16


1.2.3. Những thành công và hạn chế.
1.2.3.1. Những thành công:
Phương pháp dạy học bằng tình huống giáo dục pháp luật cho học sinh phổ
thơng THCS:
- Hình thành làm sâu sắc và từng bước mở rộng hẹ thống tri thức pháp luật
cho học sinh( mục đích nhận thức)
- Hình thành lịng tin vào pháp luật cho học sinh ( mục đích cảm xúc)
Hình thành động cơ và hành vi tích cực sống và làm việc theo pháp luật cho
mỗi học sinh.
Những hạn chế :
* Về phía giáo viên:
- Trong q trình dạy học môn GDCD nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh
trường THCS việc sử dụng phương pháp tình huống rất quan trọng nhưng giáo
viên chưa linh hoạt, chưa có sự chọn lọc để xây dựng các tình huống pháp luật
phù hợp.
- Giáo viên chưa chịu khó tìm tịi,cập nhật thông tin số liệu mới về các nội dung
pháp luật để cung cấp cho học sinh qua mỗi kiến thức của bài học.
* Về phía học sinh:
- Do mơi trường điều kiện miền núi, vùng sâu học sinh ở đây ít được tiếp xúc
tiếp cận với việc sử dụng khoa học công nghệ, các tài liệu tham khảo về pháp
luật còn nhiều hạn chế.
- Phần lớn ý thức học sinh không coi trọng môn giáo dục công dân.
1.2.3.3. Nguyên nhân:
* Do yếu tố khách quan:
Do gia đình xã hội ở địa phương chưa quan tâm đến nhiêù công tác giáo
dục pháp luật cho học sinh; ví dụ như cơng tác tuyên truyền phổ biến giáo dục

pháp luật chưa kịp thời, chưa rộng rãi, sâu rộng đến từng đối tượng học sinh, do
phong tục tập qn, văn hóa giáo dục mơi trường ở đây còn nhiều hạn chế.
* Do yếu tố chủ quan:

17


- Phần lớn nhận thức của học sinh về các quy định pháp luật chưa tốt.
- Ý thức thực hiện pháp luật của học sinh chưa cao.
- Đa số học sinh chưa trải nghiệm.
- Hầu hết học sinh chưa ý thức được hậu quả của vi phạm pháp luật.
- Bên cạnh đó do trình độ nhận thức một số giáo viên chưa đầy đủ về kiến thức
pháp luật.
Chương 2: Xây dựng tình huống trong dạy học mơn giáo dục cơng
dân nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh Trung học cơ sở.
Cho tình huống sau:
Tình huống 1.
Chị Hịa mở qn bán hàng ăn uống, giải khát tại huyện V, quán của chị
rất đơng khách, khơng chỉ có người lớn mà cịn có cả một số trẻ em 13- 15 tuổi.
Những trẻ em này thường xuyên đến quán của chị uống rượu hút thuốc. Nếu em
nào hết tiền để uống rượu, hút thuốc thì chị Hịa sẵn sàng cho nợ đến lần sau trả.
Tối thứ 7 vừa rồi trong lúc bọn trẻ đang uống rượu ở qn chị Hịa thì cơng an
huyện đến lập biên bản phạt chị 200 ngàn đồng.
Hỏi:
Theo em cơng an huyện V đến phạt tiền chị Hịa đúng hay sai? tại sao?
Tình huống trên được vận dụng vào giảng bài 13. “ Quyền được bảo vệ, chăm
sóc giáo dục trẻ em Việt Nam” lớp 7 môn giáo dục cơng dân.
Mục tiêu của tình huống trên :
Học sinh biết phân tích, đánh giá những tình huống liên quan đến quyền được
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục của trẻ em Việt Nam.

Rèn luyện cho học sinh những kỷ năng tư duy phê phán, kỷ năng ra quyết định
và giải quyết vấn đề.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên nêu tình huống và giao cho cả lớp xử lý tình huống trên.
Mỗi học sinh tự suy nghĩ để đưa ra kết quả của mình.
- Giáo viên: Cho mỗi học sinh đọc lên cách giải quyết tình huống của mình.
- Học sinh: Cả lớp nhận xét cách giải quyết ứng xử phù hợp trong tình huống.
18


- Giáo viên : định hướng cho học sinh về cách giả quyết đúng đắn, tối ưu trong
tình huống trên.
Trẻ em do còn non nớt về thể chất và tinh thần nên việc các em uống rượu
không chỉ làm tổn hại đến sức khỏe, đến phát triển bình thường mà cịn ảnh
hưởng lớn đến sự hình thành nhân cách của trẻ em.
- Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đã ban
hành những quy định pháp lật ngăn cấm việc lôi kéo, dụ dỗ trẻ em uống rượu,
hút thuốc và trừng trị nghiêm khắc các hành vi này.
Trong trường hợp trên ; chị Hịa đã có hành vi bán rượu, thuốc lá cho trẻ, xúi
dục tạo điều kiện cho trẻ em uống rượu, hút thuốc chỉ nghỉ đến lợi ích của mình
mà khơng nghĩ đến tác hại của hành vi này .
Chị Hòa đã vi phạm khoản 2- điều 14 luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em “
Nghiêm cấm việc trẻ em đánh bạc, cho trẻ em uống rượu, hút thuốc, dùng chất
kích thích có hại cho sức khỏe” đồng thời vi phạm điểm C- khoản 1- điều 25,
Nghị định 49/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự.
Hành vi của chị Hòa cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật, trong trường
hợp này chị phải chịu hình thức phạt tiền là đúng.
Tình huống 2:
Anh Nguyễn Văn A 20 tuổi, chị Nguyễn Thị B 16 tuổi đã tự nguyện yêu nhau và
quyết định lấy nhau. Được sự cho phép của của 2 bên gia đình, anh A và chị B

đã tổ chức đám cưới và về sống chung với nhau mặc dù chưa đăng ký kết hôn.
Hỏi:
- Theo em quan hệ vợ chồng giữa anh A và chị B có được pháp luật thừa nhận
và bảo vệ hay khơng? Tại sao?
- Trường hợp có vi phạm các quyết định của pháp luật hay khơng? Nếu có thì đó
là các quy định nào?
Tình huống trên được vận dụng giảng dạy bài 12” Quyền và nghĩa vụ của
công dân trong hôn nhân” lớp 9 mơn GDCD.
Mục tiêu của tình huống nêu trên.

19


Hoc sinh biết phân tích, đánh giá những tình huống liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của công dân trong gia đình.
Thơng qua tình huống rèn luyện cho học sinh kỷ năng tư duy phê phán đối với
những thái độ, hành vi, việc làm vi phạm quyền và nghĩa vụ công dân trong hôn
nhân như: Kết hon sớm, bạo lực gia đình... kỷ năng thu thập và xử lý thơng tin
về tình hình thực hiện luật hơn nhân gia đình ở đình ở địa phương.
Cách tiến hành:
Giáo viên nêu tình huống và giao cho nhóm 1,2 xử lý trả lời câu hỏi 1;
nhóm 3,4 xử lý trả lời câu hỏi số 2.
Học sinh nhóm thảo luận đánh giá tình huống.
Giáo viên cho đại diện nhóm 1,2 trình bày cách giải quyết tình huống.
Trao đổi chung cả lớp về từng tình huống.
Giáo viên định hướng cho hoc sinh cả lớp về cách giải quyết đúng đắn, tối ưu
tình huống trên để giáodục pháp luật cho các em.
Quan hệ vợ chồng giữa anh A và chị B sẽ không được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ, vì anh A và chị B tự ý về sống chung với nhau mà chưa đăng ký kết hôn
, chị B mới 16 tuổi ( đang ở tuổi chưa thành niên) nên chưa đủ tuổi để được

phép kết hôn.
Trường hợp trên vi phạm quy định của luật hơn nhân và gia đình về độ
tuổi kết hơn ( Nam đủ từ 20 trở lên, gái đủ từ 18 tuổi trở lên) tại điều 9 khoản 1,
đồng thời vi phạm quy định của bộ luật hình sự về tội cố ý duy trì quan hệ vợ
chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn ( tội tảo hôn- điều 148
khoản b).
Qua 2 câu chuyện pháp luật trên nhằm cung cấp cho học sinh những câu
chuyện pháp luật có thật diễn ra trong cuộc sống thực tiễn thơng qua câu chuyện
để học sinh có thái độ, ý kiến riêng của mình về câu chuyện đó, tạo điều kiện
cho các em được cũng cố hành vi của bản thân phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
* Bài học kinh nghiệm:

20


Khi thực hiện xây dựng tình huống trong dạy học môn giáo dục công dân
nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh THCS tôi rút ra một số bài học kinh
nghiệm sau:
Tạo cho các em có sự u thích hứng thú sau giờ học pháp luật môn
GDCD.
Giúp các em nắm vững kiến thức của từng bài để vận dụng vào thực tế.
Giúp cho các em nhận thức rõ hơn về vai trị của mơn học.
Góp phần tun truyền pháp luật của nhà nước cho bạn bè và gia đình.
Giúp học sinh hiểu những quy định của pháp luật, biết vận dụng vào đời sống, từ
đó các em sẽ hạn chế vi phạm pháp luật đặc biệt là các tệ nạn xã hội hiện nay.
KẾT LUẬN:
Đa dạng hóa các tình huống pháp luật trong tiết dạy sẽ làm cho giờ học
môn GDCD đỡ nhàm chán hơn. Điều này không những gây hứng thú với học
sinh mà làm cho các em tự giác tham gia tích cực vào bải giảng, xây dựng các
tình huống phù hợp sẽ mang lại cho học sinh cảm giác thoải mái tinh thần khi

học môn GDCD cũng như giúp các em nắm vững kiến thức hơn để khơng cịn
phải than phiền về mơn học này. Thơng qua mỗi tiết học, chúng ta hãy để cho
các em thấy sự gần gũi, thân thiện giữa thầy và trò để cho các em có cảm nhận
và suy nghĩ “
Mỗi ngày đến trường là một niềm vui” tuy nhiên khi xây dựng tình huống
giáo viên cần quan tâm đến tâm lý, lứa tuổi, năng lực, phong tục tập quán của
địa phương để có cách xây dựng tình huống thích hợp có hiệu quả giáo dục cao.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu tìm hiểu tiểu luận “ Xây dựng
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp
luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường
THCS Liên Hương Vũ Quang – Hà Tĩnh” bản thân tơi cịn rất nhiều hạn chế,
mong được sự trao đổi và nhiệt tình đống góp của quý thầy cô để tôi rút kinh
nghiệm và giảng dạy được tốt hơn.

21


22



×