Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân bài 4 GDCD lớp 12: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.94 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân bài 4- GDCD lớp 12: Quyền
bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống
xã hội.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Nguyễn Thị Thuỳ Trang
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, đổi mới và nâng cao chất
lượng hiệu quả GD&ĐT là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đào
tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Nội dung quan trọng của nó chính
là đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực tự giác của học
sinh, lấy người học làm trung tâm như NQ hội nghị lần thứ 2 BCHTW Đảng khóa VIII
đã chỉ rõ con đường đổi mới giáo dục đào tạo phải bằng: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy


sáng tạo của người học ”.
Đặc biệt trong môn GDCD thì việc đổi mới phương pháp dạy học là một điều
hết sức cần thiết. Bởi đây là bộ môn mang tính khái quát và trừu tượng cao nhưng lại
gắn bó chặt chẽ với thực tiễn cuộc sống. Đối với cấp THPT học sinh có trình độ nhận
thức tư duy còn hạn chế, khả năng am hiểu thực tế còn ít và sự quan tâm đến bộ môn
chưa cao. Do đó để tạo nên sự hứng thú, say mê và lôi cuốn cho học sinh thì giáo viên
dạy môn GDCD phải có sự lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với từng bài.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề không chỉ riêng ngành giáo dục mà
là vấn đề đang được cả xã hội quan tâm. Không có một phương pháp dạy học nào
mang tính vạn năng, tuy nhiên dựa vào đặc thù bộ môn cũng như thực tiễn dạy học và
trình độ tiếp thu của học sinh mà giáo viên có thể lựa chọn những phương pháp tối ưu
nhất. Môn GDCD là môn học luôn được học sinh, phụ huynh, thậm chí một bộ phận
lớn trong xã hội đánh giá là môn phụ, không cần thiết phải đầu tư thời gian, chỉ học
cho có… Chính vì thế hơn ai hết chính những giáo viên tham gia giảng dạy môn học
này phải tự mình đổi mới, đặc biệt là đổi mới phương pháp nhằm tạo ra sự hứng thú
đối với học sinh, kích thích các em tham gia nhiệt tình vào bài giảng, chủ động lĩnh
hội kiến thức.
Nội dung chương trình GDCD lớp 12 chủ yếu là kiến thức pháp luật rất khô
khan và thường được các em cảm nhận theo kiểu “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”. Do vậy
để các em chủ động lĩnh hội kiến thức và quan trọng hơn để các em hình thành kĩ năng
sống, biến kiến thức thành hành động cụ thể trong cuộc sống rất cần sự đổi mới một
cách tâm huyết của giáo viên.
Quá trình dạy học môn GDCD là quá trình học sinh được cuốn hút vào các hoạt
động do giáo viên thiết kế, tổ chức và chỉ đạo, để thông qua đó học sinh có thể tự
khám phá và chiếm lĩnh tri thức. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải huy động
khai thác tối đa năng lực tư duy cho học sinh, tạo cơ hội và động viên khuyến khích
học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về vấn đề đang học. Do vậy trong quá
trình dạy học bản thân tôi đã tích cực sử dụng các phương pháp dạy học mang tính
2



tích cực trong đó phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp thường xuyên
được sử dụng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Khắc phục tình trạng đọc chép do lượng kiến thức của bài học quá nhiều
- Tạo không khí thoải mái trong giờ học, phát huy được tính sáng tạo của học sinh,
kích thích học sinh suy nghĩ tích cực hơn, tăng khả năng tư duy và rèn luyện kĩ năng
trình bày kiến thức theo một hệ thống logic.
- Giúp học sinh ghi nhớ bài nhanh hơn, tiết kiệm thời gian.
- Rèn luyện kĩ năng sống, phát triển các năng lực cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Dạy học bằng phương pháp tình huống bài 4 chương
trình GDCD lớp 12: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội.
4. Giả thiết nghiên cứu
Theo Soul.Robinsohn dạy học theo tình huống dựa trên quan điểm giáo dục:
“ Giáo dục là chuẩn bị cho người học hướng vào giải quyết các tình huống của cuộc
sống”.
Trong các phương pháp dạy học hiện nay thì phương pháp dạy học theo tình
huống là một phương pháp khá phổ biến trong thực hiện các mục tiêu giáo dục. Tạo
cho người học khả năng trình bày những điều đã học và suy nghĩ về điều đó. Tạo điều
kiện để người học trao đổi lẫn nhau và trao đổi với giáo viên.
Như vậy dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, theo đó việc dạy
học được tổ chức theo những chủ đề phức hợp, gắn với tình huống trong thực tiễn
cuộc sống thông qua đó người học có thể vận dụng các tình huống của cuộc sống để
hình thành các kĩ năng, năng lực của mình.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Hướng dẫn học sinh học bài bằng phương pháp tình huống
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu:

- Logic lịch sử;
- Thực nghiệm;
- Khảo sát, thống kê;
- So sánh;
- Đối chiếu….
7. Dự báo những đóng góp mới của đề tài

3


Mặc dù phạm vi đề tài chỉ đi sâu trình bày về sử dụng phương pháp tình huống
trong một bài học GDCD lớp 12, song với hệ thống cơ sở lí luận và thực tiễn tác giả đã
nêu ra trong đề tài, hy vọng nó sẽ làm nền tảng để có thể áp dụng cho các bài học
GDCD khác có sử dụng phương pháp này.
Nếu biết khai thác tốt phương pháp tình huống sẽ hỗ trợ đắc lực cho giáo viên
trong quá trình giảng dạy. Cùng với sự kết hợp các phương pháp, phương tiện trực
quan và kỹ thuật dạy học sẽ góp phần đẩy lùi hiện tượng “đọc chép” một cách có hiệu
quả.
8. Kết cấu
Đề tài gồm:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: Gồm 2 chương
- Phần kết luận
- Danh mục tài liệu tham khảo.
PHẦN II: NỘ DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học phổ thông

1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.

4


Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác
động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở
lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh

giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc
tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong
phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.

5


Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ

nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình
huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt

động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích

6


cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến
thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu
và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức
hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống

Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách
quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu
cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là
họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.

7


Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về
lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra
được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không
sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.

1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
8


vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của

nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm
phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có

thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
9


tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình
huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con
đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái

độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.

10


Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết

giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của
giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.

11


Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ

mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp
thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã

được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
12


Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống.
1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
* Thuận lợi:
Chương trình GDCD lớp 12 trang bị cho học sinh toàn bộ kiến thức pháp luật
cơ bản, có giá trị ứng dụng thực tiễn cao, vì vậy nhiều nội dung không những phù hợp
với dạy học theo tình huống mà còn phát huy hiệu quả rất tốt khi giáo viên tổ chức cho
học sinh làm bài tập tình huống.
- Giáo viên được đào tạo, tập huấn thường xuyên về đổi mới phương pháp dạy học.
- Giáo viên có nhiều kênh thông tin khác nhau để khai thác tình huống phục vụ công
tác dạy học của mình.
- Kích thích tư duy giải quyết vấn đề, phù hợp với tâm lí lứa tuổi của học sinh, các em
hứng thú học tập.
- Đây là phương pháp phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh khối 12, kích thích lôi cuốn
học sinh, là cơ hội để các em khẳng định cái tôi của mình trong giải quyết tình huống.
* Khó khăn:
- Nội dung kiến thức pháp luật thường khô, khó, dài….học sinh khó tiếp thu
- Tài liệu tham khảo mang tính chính thống rất ít, chủ yếu giáo viên khai thác từ các
trang mạng xã hội.
- Đòi hỏi rất nhiều thời gian, giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng lên
lớp.

- Quan niệm của học sinh, phụ huynh và xã hội vẫn xem GDCD là môn phụ, không
cần thiết phải đầu tư học tập, điều này ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình học tập, tiếp
nhận tri thức của học sinh. Các em hoàn toàn không chủ động tiếp nhận tri thức, ít
hứng thú say mê vì nghĩ mất thời gian mà lại không phục vụ thi cử…..
Chương 2: Sử dụng tình huống một cách có hiệu quả khi dạy học bài 4 : Quyền
bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội - Chương trình
GDCD lớp 12
2.1. Nguyên lí ứng dụng phương pháp tình huống
Phương pháp tình huống là một phương pháp dạy học, trong đó học sinh tự lực nghiên
cứu một tình huống thực tiễn và giải quyết các vấn đề do tình huống đặt ra.
2.1.1.Ưu điểm và hạn chế của phương pháp tình huống
Tính tích cực của phương pháp tình huống là không thể phủ nhận. Tuy nhiên trong quá
trình ứng dụng cũng gặp một số khó khăn nhất định. Cụ thể:
*Ưu điểm
- Nâng cao tính thực tiễn của môn học;
13


- Nâng cao tính chủ động, sáng tạo và hứng thú cho học sinh;
- Nâng cao kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng phân tích, kĩ năng giải quyết vấn đề, trình
bày và phản biện ý kiến trước đám đông cho học sinh;
- Giáo viên tiếp thu được những kinh nghiệm, những cách giải quyết mới từ học sinh
để làm phong phú thêm bài giảng và có thể điều chỉnh nội dung tình huống nghiên cứu
cho phù hợp;
- Nếu tình huống tốt có tính chất liên kết lí thuyết rất cao.
*Hạn chế
- Giáo viên:
+ Tăng khối lượng làm việc;
+ Luôn luôn cập nhật thông tin, kiến thức và kĩ năng mới. Đây là một quá trình liên tục
đòi hỏi thời gian và sức lực;

+ Phải chọn lọc tình huống kĩ càng trước khi sử dụng nếu không sẽ phản tác dụng,
điều này xẩy ra sẽ rất nguy hiểm;
+ Giáo viên phải biết phối hợp các phương pháp khác, nếu không học sinh chỉ chú tâm
đến tình huống và cho rằng thực tế sẽ diễn ra như thế.
- Học sinh:
Đặt ra thách thức với học sinh về tính năng động, yêu thích kiến thức và khả
năng tư duy độc lập. Phương pháp này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nhận được sự
tham gia chủ động và yêu thích của học sinh.
2.1.2. Những lưu ý khi sử dụng tình huống
- Tình huống có thể dài hay ngắn tuỳ từng nội dung vấn đề.
- Để có những tình huống thu hút được sự chú ý của học sinh giáo viên cần đầu tư một
cách nghiêm túc, phải thường xuyên thu thập thông tin trên báo chí, các trang thông tin
chính thống, các thông tin ở địa phương các em sinh sống….như vậy mới hy vọng tạo
ra tình huống hay và mang tính thời sự.
- Tình huống không nhất thiết phải do giáo viên cung cấp mà có thể sử dụng các tình
huống do học sinh nêu ra. Giáo viên có thể chỉnh sửa cho phù hợp với ý đồ truyền dẫn
kiến thức của mình.
- Tình huống phải được kết thúc bằng các câu hỏi hoặc các vấn đề khác như: theo em
vấn đề này nên giải quyết như thế nào? Em nghĩ điều gì sẽ xẩy ra tiếp theo ? Em sẽ
làm gì nếu là nhân vật A, nhân vật B….
*Các bước tiến hành:
+ Học sinh đọc, nghe hoặc xem tình huống và suy nghĩ
+ Giáo viên đưa ra các câu hỏi (số lượng câu hỏi nhiều hay ít tuỳ nội dung kiến thức
cần tìm hiểu) liên quan đến tình huống.
+ Thảo luận tình huống thực tế
14


+Thảo luận các vấn đề chung hay các vấn đề được minh chứng bằng thực tế.
+ Kết luận vấn đề

- Sau khi học sinh giải quyết xong yêu cầu bắt buộc đối với giáo viên là phải nhận xét,
đánh giá, động viên bằng nhiều hình thức( có thể cho điểm) để khuyến khích các em.
- Từ tình huống học sinh vừa giải quyết xong, giáo viên liên hệ với lí thuyết bài học, từ
đó giúp các em nắm vững và ghi nhớ nội dung cần thiết.
2.2. Hướng dẫn học sinh học bài 4 - GDCD 12: Quyền bình đẳng của công dân
trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội bằng phương pháp tình huống
Như chúng ta biết tình huống để sử dụng trong dạy học có thể yêu cầu học sinh
chuẩn bị. Nhưng để chủ động giáo viên nên chuẩn bị những tình huống phục vụ cho
bài dạy của mình một cách chu đáo và có chọn lọc.
Sau khi có tình huống giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị các phương tiện vật
chất cần thiết để phục vụ cho việc giải quyết tình huống.
Giáo viên cần phải nhận thức rõ việc đưa ra tình huống để các em giải quyết
với mục đích là tiếp cận kiến thức cơ bản của bài học. Do vậy trong quá trình hướng
dẫn học sinh làm việc giáo viên cần định hướng tránh việc sa đà vào giải quyết theo
quan điểm cá nhân, làm loãng vấn đề, thậm chí đi chệch ý tưởng thiết kế ban đầu. Đây
là điều hết sức cấm kị, giáo viên tuyệt đối phải tuân thủ.
Tương ứng với tâm thế đó giáo viên cũng cần hình thành ở học sinh tâm thế
chủ động tiếp nhận tình huống, các em hiểu đây là những tình huống giả định, phải
vận dụng kiến thức môn học để giải quyết.
2.3. Phương pháp áp dụng dạy học theo tình huống vào bài 4 – GDCD 12: Quyền
bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
Để thực hiện thành công phương pháp này giáo viên cần phải biết kết hợp một
cách nhuần nhuyễn với các phương pháp và kĩ thuật dạy học khác.
Bản thân tôi với kinh nghiệm dạy học đã từng có, tôi đã kết hợp cùng với
phương pháp thảo luận nhóm, kĩ thuật khăn trải bàn và kĩ thuật phòng tranh.
Khi thực hiện bài dạy tôi phân lớp thành 3 nhóm. Mỗi nhóm thực hiện một nội
dung của bài học. Trong quá trình thực hiện thảo luận nhóm tôi sẽ thực hiện kĩ thuật
khăn trải bàn. Sau khi giáo viên nêu tình huống xong HS làm việc cá nhân ghi ý kiến
vào phần phiếu của mình. Sau khi cá nhân làm việc xong nhóm sẽ thảo luận dưới sự
điều hành của nhóm trưởng, thống nhất ý kiến, thư kí sẽ ghi ý kiến của nhóm mình vào

vị trí trung tâm. Khi nhận được yêu cầu từ giáo viên đại diện nhóm sẽ trình bày. Trình
bày xong phiếu học tập của các nhóm sẽ được treo ở phòng học ở những vị trí dễ quan
sát.
Tóm lại, để bài giảng lôi cuốn, có sức hấp dẫn với học sinh giáo viên cần có
một kĩ năng sư phạm vững vàng, kết hợp một cách nhuần nhuyễn các phương pháp và
15


kĩ thuật dạy học tích cực nhằm nâng cao tính chủ động, tích cực và sáng tạo của học
sinh.
2.4 . Các tình huống có thể dùng để dạy học bài 4 - GDCD 12: Quyền bình đẳng
của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
Như trên đã nói các tình huống dùng cho dạy học phải là những tình huống điển
hình, có tính cập nhật, gần gũi với đời sống thường nhật của các em. Do vậy khi chọn
tình huống cho quá trình dạy học giáo viên cần đầu tư thời gian thành lập cho mình
một “ngân hàng tình huống” để sử dụng cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Nội dung 1: Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình
- Bình đẳng giữa vợ và chồng:
Tình huống: Chồng chị An ngoại tình. Chị An biết chuyện liền đi rêu rao cho cả cơ
quan chồng biết chuyện với ý định để chồng chị xấu hổ không dám làm thế nữa, ân
hận và sẽ quay về với vợ con.
Câu hỏi: Theo em cách cư xử của chị An như vậy có đúng không? Vì sao?
- Trong quan hệ nhân thân:
Tình huống: Một người chồng do quan niệm vợ mình không đi làm, chỉ ở nhà làm
công việc nội trợ không thể quyết định được việc lớn nên khi bán xe ( tài sản chung
của hai vợ chồng đang sử dụng vào công việc kinh doanh của gia đình) đã không bàn
bạc với vợ. Người vợ đã phản đối không đồng ý bán.
Câu hỏi: Theo em người vợ có quyền đó không? Vì sao?
- Trong quan hệ tài sản:
Tình huống: Trước khi kết hôn với chị Mai anh Nam được thừa kế một căn nhà do

người chú để lại. anh Nam đã đăng kí sở hửu tài sản riêng. Sau khi kết hôn anh Nam
đem bán căn nhà đó mà không cần hỏi ý kiến vợ.
Câu hỏi: Anh Nam có quyền đó không? Vì sao?
- Quan hệ bố mẹ và con cái:
Tình huống: Gia đình anh Thắng và chị Nga có 2 đứa con. Anh Thắng đi làm và giao
toàn quyền quản lí và nuôi dạy con cái cho vợ. Anh Thắng cho rằng mình đi làm kiếm
tiền, vợ ở nhà nuôi dạy con cái, trông nom nhà cữa, mỗi người mỗi việc nên anh không
quan tâm tới việc dạy dỗ con cái.
Câu hỏi: Hãy trình bày quan điểm của em về tình huống trên?
- Bình đẳng giữa lao động:
Tình huống: Công ty may X cần tuyển 100 lao động vào làm công nhân. Yêu cầu là
tuổi từ 18 đến 35, có sức khoẻ tốt. Sau khi thông báo tuyển dụng có rất nhiều người
đến xin việc ( Số người xin việc gấp hai lần người tuyển) cuối cùng công ty X củng
tuyển đủ người. Trong những lao động vừa được tuyển có 90 người nam, 10 người nữ
mặc dù điều kiện của nam và nữ khi đến tuyển dụng là như nhau.
16


Câu hỏi: Hãy trình bày quan điểm của mình trước tình huống trên?
Tình huống: Trong xí nghiệp sản xuất đồ mĩ nghệ A, anh Minh có tay nghề rất cao.
Anh thiết kế và tạo ra niều mẫu sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng. Công ty đã
trả lương cho anh cao gấp đôi so với những lao động khác.
Câu hỏi: Việc công ty trả lương cao như thế có bị coi là phân biệt đối xử trong thực
hiện quyền lao động không?
2.5. Thiết kế giáo án thử nghiệm
I. Mục tiêu bài học
1. Về kiến thức
- Nêu được một số quyền bình đẳng của công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
- Nêu được trách nhiệm của Nhà nước đối với việc đảm bảo cho công dân thực hiện

quyền bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Về kĩ năng
Biết thực hiện và nhận xét việc thực hiện quyền bình đẳng của công dân trong các lĩnh
vực hôn nhân gia đình, lao động, kinh doanh.
3. Về thái độ
Có ý thức thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong từng lĩnh vực của
đời sống xã hội, đấu tranh với các hành vi vi phạm.
II.Tài liệu và phương tiện dạy học
- SGK, SGV GDCD 12
- Chuẩn kiến thức, kĩ năng GDCD 12
- Bài tập tình huống GDCD 12
- Một số thông tin liên quan
III. Tiến trình dạy học
1. Kiểm tra bài cũ
2. Giới thiệu bài
3. Bìa mới
Tiết 1.
<Đơn vị kiến thức 1:
B́nh đẳng trong hôn nhân và gia đ́nh
1. B́ình đẳng trong hôn nhân và gia đ́nh
a Mức độ kiến thức:
HS hiểu:
a) Thế nào là b́ình đẳng trong hôn nhân và gia
- B́ình đẳng trong hôn nhân và gia đ́nh là ǵ?
đ́ình
- Một trong những nguyên tắc của chế độ hôn
B́ình đẳng trong hôn nhân và gia đ́nh được
17



nhân và gia đ́nh ở nước ta là: b́nh đẳng giữa vợ
và chồng, b́nh đẳng giữa các thành viên trong
gia đ́nh.
- B́ình đẳng trong hôn nhân được thể hiện trong
quan hệ giữa vợ và chồng: vợ, chồng có nghĩa
vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia
đ́nh.
- Quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đ́nh được pháp luật quy định và được Nhà
nước đảm bảo thực hiện.
a Cách thực hiện:
- Bình đẳng giữa vợ và chồng:
Tình huống: Chồng chị An ngoại tình. Chị An
biết chuyện liền đi rêu rao cho cả cơ quan
chồng biết chuyện với ý định để chồng chị xấu
hổ không dám làm thế nữa, ân hận và sẽ quay
về với vợ con.
Câu hỏi: Theo em cách cư xử của chị An như
vậy có đúng không? Vì sao?
- Trong quan hệ nhân thân:
Tình huống: Một người chồng do quan niệm vợ
mình không đi làm, chỉ ở nhà làm công việc nội
trợ không thể quyết định được việc lớn nên khi
bán xe ( tài sản chung của hai vợ chồng đang sử
dụng vào công việc kinh doanh của gia đình) đã
không bàn bạc với vợ. Người vợ đã phản đối
không đồng ý bán.
Câu hỏi: Theo em người vợ có quyền đó
không? Vì sao?
- Trong quan hệ tài sản:

Tình huống: Trước khi kết hôn với chị Mai anh
Nam được thừa kế một căn nhà do người chú
để lại. anh Nam đã đăng kí sở hửu tài sản riêng.
Sau khi kết hôn anh Nam đem bán căn nhà đó
mà không cần hỏi ý kiến vợ.
Câu hỏi: Anh Nam có quyền đó không? Vì sao?
- Quan hệ bố mẹ và con cái:
18

hiểu là b́ình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa
vợ, chồng và giữa các thành viên trong gia
đ́nh trên cơ sở nguyên tắc dân chủ, công bằng,
tôn trọng lẫn nhau, không phân biệt đối xử
trong các mối quan hệ ở phạm vi gia đ́nh và
xă hội.

b) Nội dung b́ình đẳng trong hôn nhân và gia
đ́nh
B́ình đẳng giữa vợ và chồng
Trong quan hệ thân nhân: Vợ, chồng có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc lựa
chọn nơi cư trú; tôn trọng và giữ ǵn danh dự,
nhân phẩm, uy tín của nhau; tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; ….
Trong quan hệ tài sản: Vợ, chồng có quyền
và nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản
chung, thể hiện ở các quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt…



Tình huống: Gia đình anh Thắng và chị Nga có
2 đứa con. Anh Thắng đi làm và giao toàn
quyền quản lí và nuôi dạy con cái cho vợ. Anh
Thắng cho rằng mình đi làm kiếm tiền, vợ ở
nhà nuôi dạy con cái, trông nom nhà cữa, mỗi
người mỗi việc nên anh không quan tâm tới
việc dạy dỗ con cái.
Câu hỏi: Hãy trình bày quan điểm của em về
tình huống trên?
* Thế nào là b́nh đẳng trong hôn nhân và gia
đ́nh?
GV giải thích cho HS thấy được hôn nhân là
quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đă kết hôn.
Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đ́nh
hạnh phúc, thực hiện các chức năng sinh con,
nuôi dạy con và tổ chức đời sống vật chất, tinh
thần của gia đ́nh.
GV giúp HS hiểu khái quát sự b́nh đẳng trong
hôn nhân và gia đ́nh:
Trong hôn nhân và gia đ́nh có các mối quan hệ
chủ yếu như: quan hệ giữa vợ và chồng, quan
hệ giữa cha, mẹ và các con, quan hệ giữa các
anh, chị, em, và quan hệ giữa các thành viên
khác trong gia đ́nh.
B́nh đẳng trong hôn nhân và gia đ́nh được hiểu
là b́nh đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các
thành viên trong các mối quan hệ đó, ở phạm vi
gia đ́nh trên nguyên tắc công bằng, dân chủ, tôn
trọng lẫn nhau và không phân biệt đối xử.
* Nội dung b́ình đẳng trong hôn nhân và gia

đ́nh.
Bình đẳng giữa vợ và chồng
GV đặt vấn đề:
Điều 63 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt
chính trị, kinh tế, văn hoá, xă hội và gia đ́nh”.
19


Trong gia đ́nh “vợ chồng b́nh đẳng” (Điều 64
Hiến pháp 1992).
B́nh đẳng giữa vợ và chồng được hiểu là b́nh
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong gia đ́nh. Theo
Điều 19 Luật hôn nhân và gia đ́nh : “Vợ, chồng
b́nh đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang
nhau về mọi mặt trong gia đ́nh”.
Điều này được thể hiện trong quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản.
GV hỏi:
Thế nào là quanhệ nhân thân giữa vợ và
chồng?
Thế nào là quan hệ tài sản giữa vợ và chồng?
HS trả lời.
GV nhận xét, chốt ư:
+ Quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ và
chồng là những quyền và nghĩa vụ mang yếu tố
t́nh cảm gắn liền với bản thân vợ, chồng, không
thể chuyển giao cho người khác được, như vợ ,
chồng có nghĩa vụ chung thuỷ, yêu thương, quư
trọng nhau, b́nh đẳng về nghĩa vụ nuôi dạy con,

có quyền lựa chọn nghề nghiệp chính đáng, nơi
cư trú, tín ngưỡng, tôn giáo,…
+ Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và
chồng bao gồm: quyền sở hữu tài sản chung
(chiếm hữu,sử dụng, định đoạt), có quyền có tài
sản riêng (có trước khi kết hôn hoặc được thừa
kế riêng, được tặng, cho riêng), quyền thừa kế,
quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng,..
GV sử dụng phương pháp thảo luận nhóm:
GV chia nhóm và giao câu hỏi:
T́nh trạng bạo lực trong gia đ́nh mà nạn nhân
thường là phụ nữ và trẻ em là vấn đề đang được
quan tâm ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt
Nam. Theo em, đây có phải là biểu hiện của bất
b́nh đẳng không?
Một người chồng do quan niệm vợ ḿnh không
20

Bình đẳng giữa cha mẹ và con
Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau
đối với con; cùng nhau thương yêu, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của con,…
Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa
các con, ngược đăi, hành hạ, xúc phạm con
(kể cả con nuôi); không được lạm dụng sức
lao động của con chưa thành niên; không xúi
giục, ép buộc con làm những việc trái pháp
luật, trái đạo đức xă hội.
Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, chăm

sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Con không được có
hành vi ngược đăi, hành hạ, xúc phạm cha
mẹ.
Bình đẳng giữa ông bà và cháu
ông bà có nghĩa vụ và quyền trông nom,
chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và
nêu gương tốt cho các cháu; cháu có bổn phận
kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà.
Bình đẳng giữa anh, chị, em
Anh, chị, em có bổn phận thương yêu,
chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền
đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp
không c̣n cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều
kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con.


đi làm, chỉ ở nhà làm công việc nội trợ, không
thể quyết định được việc lớn, nên khi bán xe ô
tô (tài sản chung của vợ chồng đang sử dụng
vào việc kinh doanh của gia đ́nh) đă không bàn
bạc với vợ. Người vợ phản đối, không đồng ý
bán. Theo em, người vợ có quyền đó không? V́
sao?
Đại diện các nhóm tŕnh bày.
GV nhận xét, giảng giải:
+ Bạo lực trong gia đ́nh là biểu hiện tư tưởng
đặc quyền của nam giới. Người chồng, người
cha tự cho ḿnh có quyền đối xử tàn bạo, bất
công với vợ, con, làm cho họ phải chiu những

những tổn thương nặng nề về thân thể, bị khủng
bố về tinh thần, lo sợ, hoang mang.
Bạo lực trong trong gia đ́nh thể hiện cách ứng
xử không b́nh đẳng, thiếu dân chủ khiến phụ nữ
và trẻ em phải chịu thiệt tḥi. Đó là hành vi vi
phạm các quy định của Luật Hôn nhân và Gia
đ́nh và Luật B́nh đẳng giới . Do đó, bạo lực
trong gia đ́nh cần phải bị lên án và xử lí thật
nghiêm khắc.
+ Người vợ có quyền phản đối, không đồng ý
bán xe ô tô bởi đó là tài sản chung của vợ và
chồng đang sử dụng vào việc kinh doanh của
gia đ́nh. Theo quy định của Luật Hôn nhân và
Gia đ́nh, việc mua, bán liên quan đến tài sản
chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy
nhất của gia đ́nh phải được bàn bạc, thoả thuận
của cả vợ và chồng.
GV kết luận: Vợ, chồng b́nh đẳng với nhau, có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt
trong gia đ́nh.
ù B́nh đẳng giữa các thành viên của gia đ́nh
GV giảng:
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đ́nh:
quan hệ giữa cha, mẹ và con; giữa ông, bà và
21


cháu; giữa anh, chị, em với nhau được thực
hiện trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, đối xử với
nhau công bằng, dân chủ, cùng nhau chăm lo

đời sống chung của gia đ́nh.
Hiện nay, do thực hiện kế hoạch hoá gia đ́nh,
quy mô gia đ́nh từ 1 đến 2 con tạo điều kiện
cho cha mẹ quan tâm đến con cái. Tuy nhiên,
việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ, lợi ích
giữa các thành viên trong gia đ́nh (giữa vợ,
chồng, cha mẹ và con, ông bà và cháu) là một
vấn đề lớn. Có gia đ́nh do hoàn cảnh khó khăn
đă lạm dụng sức lao động của con chưa thành
niên hoặc xúi duc, ép buộc con con làm điều
trái đạo đức, trái pháp luật. V́ vậy, chỉ có trên
cơ sở t́nh thương và ư thức trách nhiệm của mọi
người, với sự thông cảm lẫn nhau, có cách ứng
xử dân chủ và công bằng mới giải quyết tốt
những vấn đề va vấp, nảy sinh không thể tránh
khỏi trong cuộc sống thường ngày. ở đây,
những người chủ gia đ́nh, chồng và vợ, cha và
mẹ có vai tṛ quyết định trong việc củng cố, xây
dựng sự đoàn kết của gia đ́nh.
GV yêu cầu HS giải quyết t́nh huống:
Trong thực tế, em đă nghe kể hoặc thấy trường
hợp nào cha mẹ ngược đăi hoặc xúi giục, ép
buộc con làm việc trái đạo đức, trái pháp luật
chưa? Nếu rơi vào hoàn cảnh đó, theo em phải
làm ǵ?
HS trao đổi t́m hướng giải quyết vấn đề.
GV giảng:
Trong thực tế đă có những trường hợp cha mẹ
ngược đăi hoặc xúi giục, ép buộc con làm việc
trái đạo đức, trái pháp luật. Nếu rơi vào hoàn

cảnh đó, cần tới sự giúp đỡ của những người
thân trong gia đ́nh như ông, bà, cô, chú; của
thầy, cô, bạn bè; của chính quyền địa phương,
các tổ chức đoàn thể;…
22


GV kết luận: Các thành viên trong gia đ́nh có
quyền được hưởng sự chăm sóc, giúp đỡ nhau
và có nghĩa vụ quan tâm, chăm lo đời sống
chung của gia đ́ình.
* Trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo
đảm quyền b́ình đẳng trong hôn nhân và gia
đ́nh
GV cho học sinh đọc thêm
IV.Củng cố và luyên tập
Cho hoc sinh làm bài tập t́ình huống sau:
Ngôi nhà gia đ́ình chị H sống là do bố mẹ chị
mua cho khi chị đi lấy chồng do đó cả hai vợ
cḥồng chị đứng tên sở hữu. Nay mẹ chị mắc
bệnh tim nặng cần số tiền lớn để mổ.Chị muốn
bán ngôi nhà đang ở đẻ cho mẹ chữa bệnh
.chồng chị không đồng ý cho rằng nhà bây giờ
là của vợ và chồng chị không có quyền bán.
Hỏi: Chị H có quyền bán nhà của ḿnh không?
nếu khong ly hôn nhưng muốn chia tài sản
chung có được không?
Giáo viên đọc to bài 8 sgk sau đó gọi học sinh
đứng dậy trả lời
Đơn vị kiến thức 2:

B́nh đẳng trong lao động
cách thực hiện
GV: Kể lại truyện sướng và khổlàm việc con ngườichẳng khác sống ở địa
ngục>
Qua đó học sinh thấy được vai tṛ quan tṛ quan
trọng của lao động.
Nhà nước ta đă ban hành luật lao động 2007
Pháp luật thừa nhận quyền b́nh đăng trong lao
động.
Tình huống: Công ty may X cần tuyển 100 lao
23


động vào làm công nhân. Yêu cầu là tuổi từ 18
đến 35, có sức khoẻ tốt. Sau khi thông báo
tuyển dụng có rất nhiều người đến xin việc ( Số
người xin việc gấp hai lần người tuyển) cuối
cùng công ty X củng tuyển đủ người. Trong
những lao động vừa được tuyển có 90 người
nam, 10 người nữ mặc dù điều kiện của nam và
nữ khi đến tuyển dụng là như nhau.
Câu hỏi: Hãy trình bày quan điểm của mình
trước tình huống trên?
Tình huống: Trong xí nghiệp sản xuất đồ mĩ
nghệ A, anh Minh có tay nghề rất cao. Anh
thiết kế và tạo ra niều mẫu sản phẩm được
người tiêu dùng ưa chuộng. Công ty đã trả
lương cho anh cao gấp đôi so với những lao
động khác.

Câu hỏi: Việc công ty trả lương cao như thế có
bị coi là phân biệt đối xử trong thực hiện quyền
lao động không?
* Thế nào là b́nh đẳng trong lao động?
GV cho HS trao đổi trả lời câu hỏi:
\
Hiện nay, một số doanh nghiệp ngại nhận lao
động nữ vào làm việc, v́ vậy, cơ hội t́m việc
làm của lao động nữ khó khăn hơn lao động
nam. Em có suy nghĩ ǵ trước hiện tượng trên?
GV hỏi tiếp:
Nếu là chủ doanh nghiệp, em có yêu cầu ǵ khi
tuyển dụng lao động? V́ sao?
HS trả lời.
GV giảng:
Việc làm là vấn đề mấu chốt đầu tiên để người
lao động thực hiện quyền lao động của ḿnh.
Pháp luật quy định mọi công dân đều có quyền
làm việc, tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm
phù hợp với khả năng của ḿnh, không bị phân
biệt đối xử về giới tính, dân tộc, tôn giáo…, đó
24


là cơ sở để công dân b́nh đẳng trong thực hiện
quyền lao động.
Tuy công dân thực hiện quyền lao động trên cơ
sở b́nh đẳng, nhưng để có việc làm, công dân,
dù nam hay nữ cần có ư thức trong việc học
nghề và nâng cao tŕnh độ chuyên môn, bởi

người sử dụng lao động rất quan tâm đến năng
suất, chất lượng, hiệu quả công việc nên rất cần
người lao động có tay nghề giỏi, tŕnh độ chuyên
môn kĩ thuật cao.
Những ưu đăi đối với người lao động có tŕnh
độ chuyên môn kĩ thuật cao không bị coi là
phân biệt đối xử trong sử dụng lao động.
Công dân b́nh đẳng trong giao kết hợp đồng
lao động
GV minh hoạ một trường hợp cụ thể về giao
kết hợp đồng lao động cho HS hiểu:
Chị H. đến công ti D kí hợp đồng lao động với
giám đốc công ti. Qua trao đổi từng điều khoản,
hai bên đă thoả thuận kí hợp đồng dài hạn (việc
kí hợp đồng được thực hiện trên cơ sở tự
nguyện, không bên nào ép buộc bên nào). Các
nội dung thoả thuận như sau:
+ Công việc chị H. phải làm là thiết kế các mẫu
dày.
+ Thời gian làm việc: Mỗi ngày 8 giờ, mỗi tuần
40 giờ.
+ Thời gian nghỉ ngơi: Được nghỉ các thời gian
trong ngày ngoài giờ làm việc theo hợp đồng;
đươc nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ ốm…theo quy định
của pháp luật.
+ Tiền lương được trả mỗi tháng 1.500.000
đồng tiền Việt Nam trên cơ sở chấp hành tốt kỉ
luật lao động theo quy định.
+ Địa điểm làm việc…
+ Thời gian hợp đồng…

+ Điều kiện an toàn, vệ sinh lao động…
25

2. B́ình đẳng trong lao động
a) Thế nào là b́ình đẳng trong lao động?
B́ình đẳng trong lao động được hiểu là b́ình
đẳng giữa mọi công dân trong thực hiện
quyền lao động thông qua việc t́m việc làm,
b́ình đẳng giữa người sử dụng lao động và
người lao động thông qua hợp đồng lao động,
b́ình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ
trong từng cơ quan, doanh nghiệp và trong
phạm vi cả nước.

B́ình đẳng
- Thực hiện quyền lao động.
- hợp đống lao động.
- lao động nam và lao động nữ

b) Nội dung cơ bản của b́ình đẳng trong lao
động
Công dân b́ình đẳng trong thực hiện quyền
lao động
Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa
chọn việc làm và nghề nghiệp phù hợp với
khả năng của ḿnh, không bị phân biệt đối xử
về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo,
nguồn gốc gia đ́nh, thành phần kinh tế.
Người lao động có tŕnh độ chuyên môn, kĩ



×