Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Luận văn thạc sĩ Thực trạng và một số giải pháp phát triển trang trại ở tỉnh Bắc Cạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 61 trang )

ii

Đại học thái nguyên
TRNG I HC KINH T V QUN TR KINH DOANH
-------------------------------

LI CAM OAN
Tụi xin cam oan õy l cụng trỡnh nghiờn cu ca riờng tụi. Cỏc s
Nguyễn Đình Văn

liu v kt qu nờu trong lun ỏn l trung thc v cha tng c cụng b
trong bt k cụng trỡnh no khỏc. Cỏc s liu trớch dn trong quỏ trỡnh nghiờn
cu u c ch rừ ngun gc.

Thực trạng và một số giải pháp
phát triển kinh tế trang trại

TC GI LUN VN

ở tỉnh Bắc Kạn

Nguyn ỡnh Vn

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiệp
Mã số: 60 - 31 - 10

Luận văn thạc sĩ kinh tế

Ngi hng dn khoa hc: T.S Đỗ Quang Quý

Thái Nguyên - 2008



S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn




iii

iv

LỜI CẢM ƠN!

DANH MỤC TÀI LIỆU VIẾT TẮT

Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân. Tôi xin chân thành cảm ơn sâu
sắc và kính trọng tới tất cả các tập thể, các cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ

Chữ viết tắt

STT

Nguyên nghĩa

1

TBCN

Tư bản chủ nghĩa


2

PGS-TS

Phó Giáo sư - Tiến sỹ

3

TT

Trang trại

hoàn thành luận văn này.

4

KTTT

Kinh tế trang trại

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường đại học Kinh tế và
QTKD, Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Kinh tế và
QTKD Thái Nguyên đã tạo điều kiện cho tôi có cơ hội được tiếp cận và khẳng

5

CNH

Công nghiệp hoá


6

HĐH

Hiện đại hoá

7

CSDL

Cơ sở dữ liệu

8

SPSS

Statiscal Package for Social Sciences

9

GTSX

Giá trị sản xuất

10

SXKD

Sản xuất kinh doanh


quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.

11

UBND

Uỷ ban nhân dân

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu đã
để lại những tài liệu nghiên cứu có giá trị, liên quan đến lĩnh vực mà luận văn

12

KH &CN

Khoa học và công nghệ

13

PTNT

Phát triển nông thôn

của tôi đề cập và sử dụng làm tiền đề nghiên cứu luận văn này.

14

HTX

Hợp tác xã


Tôi xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của lãnh đạo, các chuyên gia của Sở
Nông nghiệp và PTNT Bắc Kạn, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Kạn, Cục
Thống kê tỉnh Bắc Kạn và các đồng nghiệp, lãnh đạo chính quyền các địa

15

DĐĐT

Dồn điền đổi thửa

tôi trong qúa trình học tập và nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sỹ Đỗ Quang Quý
là thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và

định bước đầu trong công việc nghiên cứu khoa học của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của các giáo sư, tiến sỹ và cán bộ
Khoa Sau đại học Trường Đại học Kinh tế và QTKD những người đã trang bị
cho tôi những kiến thức quý báu và tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong

phuơng và các chủ trang trại đã giúp đỡ nhiệt tình trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin cảm ơn những người thân trong gia định đã giúp tôi lúc khó khăn,
vất vả để hoàn thành luận văn. Tôi xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp gần xa
đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu để giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Nguyễn Đình Văn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




v

vi

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại Bắc Kạn những năm gần đây ...... 70

MỤC LỤC
Trang

2.2.1. Tình hình phát triển kinh tế trang trại thời gian qua ................... 70
2.3. Phân tích, đánh giá........................................................................... ... 73

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1

2.3.1. Đặc điểm và phương hướng sản xuất của các trang trại tỉnh Bắc Kạn....73

2. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................. . ..2

2.3.2. Tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh của các trang trại. ............ 74

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................... ......3

2.3.3. Vấn đề trong phát triển của các trang trại hiện có... .................... 85


4. Ý nghĩa khoa học của luận văn và đóng góp của luận văn.............. . ........4

2.3.4. Nguyên nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế trang trại ở Bắc Kạn .... 86

5. Bố cục của luận văn......................................................................... . ........4

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRANG TRẠI TỈNH BẮC KẠN THỜI GIAN TỚI. .............. 89

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................ 5
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu............................................................. .. 5

3.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại.............................................. .. 89
3.1.1. Quan điểm phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ Công nghiệp

1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại........................... ..................... .5

hóa - Hiện đại hoá ở Việt nam.................................... ..................89

1.1.2. Kinh nghiệm trên thế giới và Việt nam về phát triển KTTT. ....... 23

3.1.2. Quan điểm riêng đối với tỉnh Bắc Kạn..... ...................................94

1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt Nam và Bắc Kạn . 26

3.2. Những định hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn........... ...96

1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta từ khi đổi mới


3.2.1. Căn cứ để định hướng........ ........................................................96

theo nền kinh tế thị trường ...................................................... 31

3.2.2. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.. .......... 96

1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn ............ 37

3.3. Mục tiêu phát triển kinh tế trang trại............................................. .. .....99

1.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................... .......38

3.3.1. Mục tiêu tổng quát.......... ...........................................................99

1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết .................................38

3.3.2. Mục tiêu cụ thể................. .........................................................99

1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu .......................................................... 38

3.4. Giải pháp thực hiện......................................................................... ...100

1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu .............................................................42

3.4.1. Giải pháp chung cho toàn bộ các trang trại.. .............................100

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

3.4.2. Giải pháp cho nhóm trang trại......... .........................................109


TỈNH BẮC KẠN.. .... ................................. 43

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................111

2.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .......................................................... 43

Kết luận ...........................................................................................111

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên..... ................................................................43
2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Kạn giai đoạn
2001-2007 .............................................................................. 54

Kiến nghị.............................................................................................. .112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................113
PHỤ LỤC ..............................................................................................116

1.1.3. Phân tích SWOT về chiến lược phát triển của Bắc Kạn ............. 68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1


2

Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các cấp độ khác nhau về kinh tế

MỞ ĐẦU

trang trại ở khắp các vùng, miền trong cả nước. Nhìn chung, các công trình

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Trang trại là một loại hình sản xuất nông nghiệp được hình thành tương
đối sớm trên thế giới, tuỳ từng thời kỳ mà có những hình thức, tên gọi khác
nhau nhưng đều có đặc điểm chung là sản xuất hàng hoá tự chủ với quy mô
lớn. Phát triển kinh tế trang trại là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông
nghiệp, nông thôn hiện nay. Ngày nay, trang trại là loại hình tổ chức sản xuất
phổ biến trong nền nông nghiệp của hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ở nước ta, trang trại đã hình thành và trải qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau của sự phát triển. Tuy nhiên, trang trại gia đình chỉ phát triển từ đầu thập
niên 1990 sau khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Luật đất đai ra đời
năm 1993, giao quyền sử dụng đất sản xuất ổn định và lâu dài cho hộ gia đình
nông dân.

nghiên cứu đã nêu ra và đều mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của kinh tế trang trại để tìm ra hướng đi, đề xuất những giải pháp nhằm
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc để phát huy vai trò của kinh tế trang trại
trong nền nông nghiệp của nước ta hiện nay.
Tuy vậy, vì sản xuất nông nghiệp được diễn ra trên không gian rộng lớn,
mỗi vùng, thậm chí mỗi tiểu vùng cũng có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên
và kinh tế - xã hội, nên các trang trại ở mỗi vùng cũng có những đặc điểm
khác nhau. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc bộ, có

tiềm năng thế mạnh về đất đai đồi rừng, nhưng kinh tế trang trại Bắc Kạn còn
rất nhỏ bé cả về số lượng và chất lượng, chưa có đóng góp nhiều cho kinh tế
của tỉnh mà loại hình này có nhiều cơ hội phát triển.
Để xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế

Từ khi có chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng, kinh tế
hộ nông dân đã phát huy tác dụng to lớn, tạo sức mạnh mới trong sự nghiệp

trang trại là hướng đi đúng đắn, cần được quan tâm giúp đỡ bằng những chính
sách hợp lý, góp phần khai thác một cách có hiệu quả và bền vững tiềm năng

phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trên nền tảng kinh tế tự chủ của các hộ

về đất đai ở Bắc Kạn. Việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về kinh tế

nông dân đã hình thành các trang trại được đầu tư vốn, lao động với trình độ

trang trại trong tỉnh, từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế

chuyên môn cao đóng góp ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Mới

trang trại trên địa bàn tỉnh có một ý nghĩa rất quan trọng.

hình thành và phát triển nhưng kinh tế trang trại đã khơi dậy tiềm năng đất

Xuất phát từ thực tế địa phương, với kinh nghiệm công tác trong ngành

đai, lao động, vốn trong dân cư để đầu tư phát triển sản xuất, cải thiện bộ mặt

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của tác giả thời gian qua, đề tài: “Thực


nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

trạng và một số giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn” đã

Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế trang trại đã nảy sinh nhiều vấn

được chọn để nghiên cứu.

đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải giải quyết kịp thời liên quan đến nhận thức,

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

cơ chế chính sách của Nhà nước: về đất đai, lao động, vốn đầu tư, tư cách pháp

2.1. Mục tiêu chung

nhân, quyền lợi và nghĩa vụ của chủ trang trại trước pháp luật.v.v... nhằm củng

Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm

cố và phát triển loại hình này một cách tích cực, ổn định và bền vững.

giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển, góp phần xây dựng một nền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







3

4

sản xuất nông nghiệp sản xuất hàng hoá có khả năng cạnh tranh cao, hiệu quả

3.3.3. Phạm vi thời gian

và bền vững trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.

- Số liệu lịch sử: 7 năm từ 2001-2007.

2.2. Mục tiêu cụ thể

- Số liệu hiện trạng năm 2006 (tiến hành điều tra năm 2007).

- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế trang trại.
- Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế trang trại nhằm phát hiện ra các yếu
tố trở ngại và những tiềm năng để phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn.
- Phân tích hoạt động kinh tế trong trang trại ở tỉnh Bắc Kạn, từ đó tìm ra
được những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả sản

4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Tổng hợp và phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cho
phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn.

- Tìm ra và đánh giá tác động của những yếu tố nội hàm và ngoại hàm
ảnh hưởng đến kết qủa sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế các trang trại
ở vùng nghiên cứu.

xuất và hiệu quả kinh tế của trang trại.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại

- Đề xuất hệ thống quan điểm, phương hướng và mục tiêu để phát triển
kinh tế trang trại thời gian tới.

trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thời gian tới.

- Khuyến nghị những giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy kinh tế trang

3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

trại phát triển.

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Hoạt động kinh tế của các trang trại cũng như ảnh hưởng của nó đến sự
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
- Đối tượng khảo sát: 100% số lượng trang trại hiện có tại thời điểm điều

5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại tỉnh Bắc Kạn
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại thời gian tới

tra ở tỉnh Bắc Kạn.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nội dung cụ thể các chƣơng nhƣ sau:

3.3.1. Nội dung
- Số lượng, cơ cấu, loại hình, phương hướng sản xuất của các trang trại ở
tỉnh Bắc Kạn.
- Tình hình sử dụng đất đai, lao động, vốn, thu nhập, bố trí sản xuất, bố
trí cây trồng của các trang trại.
- Phân tích một số chỉ tiêu đánh gía kết quả, hiệu quả kinh tế của các
trang trại.
3.3.2. Phạm vi về không gian: Toàn bộ tỉnh Bắc Kạn

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5

6

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Qua đó “Trang trại” là thuật ngữ dùng để mô tả, chỉ và gắn liền với
hình thức sản xuất nông nghiệp tập trung trên một diện tích đủ lớn, với quy
mô hộ gia đình là chủ yếu, trong điều kiện sản xuất hàng hoá của nền kinh
tế thị trường.

1.1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

b) Phân loại trang trại

1.1.1. Cơ sở lý luận về kinh tế trang trại

* Phân loại theo nguồn gốc hình thành: Có 3 con đường chính hình

1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển trang trại

thành trang trại

a) Quan niệm về trang trại
Lịch sử phát triển của nền nông nghiệp thế giới luôn tồn tại hai hình thức
tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung và sản xuất phân tán [26].
Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tập trung trên quy mô diện tích
đất đủ lớn mang tính độc lập đã có từ rất lâu đời. Ngay từ thời đế quốc La mã
đã tồn tại hình thức sản xuất tập trung trên diện tích lớn, lực lượng của yếu là
tù binh và nô lệ. Thời phong kiến ở một số nước châu Âu có hình thức lãnh
địa phong kiến và các trang viên. Ở Trung quốc thời nhà Hán đã có các hoàng
trang, điền trang, đồn điền. Ở Việt nam hình thức sản xuất tập trung đã có từ
thời phong kiến phương Bắc đô hộ.
Về mặt sở hữu thì trang trại hội tụ đủ mọi hình thức sở hữu.
Để biểu đạt loại hình kinh tế này, các nước đều có ngôn từ dùng để chỉ
các hình thức tổ chức sản xuất tập trung (Farm, Farm stedd, Farm house

(Anh); Ferme (Pháp); Fepma (Nga)…) khi chuyển sang tiếng Việt dịch là
trang trại hay nông trại [25]; [19].
- Theo quan điểm của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp

trang trại hình thành từ các khu đất thuộc sở hữu tư nhân của tầng lớp quý tộc,
địa chủ.
- Trang trại phát triển từ kinh tế hộ gia đình: Quá trình sản xuất đã diễn
ra sự phân hoá giữa các hộ. Các hộ sản xuất thuận lợi sẽ phát triển cao hơn về
quy mô và kết quả sản xuất mà hình thành các trang trại [22].
- Trang trại hình thành theo kiểu xí nghiệp TBCN: Các nhà tư bản đầu tư
vốn vào sản xuất nông lâm nghiệp, họ bỏ tiền mua máy móc thiết bị, thuê đất
đai và thuê lao động kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa hình thành các
trang trại.
Hiện nay trang trại gia đình là loại hình trang trại phổ biến ở hầu hết các
nước trên thế giới. Trang trại theo kiểu xí nghiệp tư bản còn tồn tại nhưng
giới hạn trong một số ngành có giá trị cao như chăn nuôi gia súc, đại gia súc
theo huớng xuất khẩu.
* Phân loại trang trại theo hình thức quản lý:
- Trang trại gia đình: Là loại trang trại độc lập tự sản xuất kinh doanh. Mỗi

quốc (FAO) và Ngân hàng thế giới (WB):
“Nông trại (Farm) của các nước châu Á gió mùa dùng để chỉ một khu đất

gia đình có tư cách pháp nhân do một người trong gia đình làm chủ điều hành.
- Trang trại liên doanh: Do vài trang trại hợp nhất để tăng nguồn lực tạo

canh tác nông nghiệp”.
- Theo PGS -TS Lê Trọng: “Trang trại là cơ sở, là doanh nghiệp kinh
doanh nông nghiệp của một hoặc một số nhóm nhà kinh doanh” [17].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Trang trại được hình thành từ khu đất từ thời phong kiến: Đây là các



sức cạnh tranh và sự ưu đãi của nhà nước (ở Mỹ số lượng trang trại này chiếm
10% số lượng và 16% diện tích).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7

8

- Trang trại hợp doanh theo cổ phần: Trang trại loại này được tổ chức
theo nguyên tắc công ty cổ phần (ở Mỹ trang trại loại này chiếm 2,7% và

- Hộ nông dân nhỏ: Quy mô sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, sản xuất bằng
công cụ thô sơ, mục đích đảm bảo thức ăn cho cuộc sống gia đình.
- Trang trại truyền thống: Đất đai được khai khẩn thêm về diện tích, bắt

13,7% diện tích đất đai [7].
- Trang trại uỷ thác: Trang trại mà người chủ uỷ quyền cho người nhà, bạn
bè quản lý điều hành sản xuất (Đài loan thường có loại trang trại này) [15].

đầu có sự tích tụ đất đai, lao động chủ yếu là lao động của gia đình. Sản phẩm

sản xuất ra phần lớn dùng để tiêu dùng.
- Trang trại sản xuất trồng trọt hoặc chăn nuôi nhỏ: Quy mô diện tích

* Phân loại trang trại theo phương hướng sản xuất:
- Trang trại kinh doanh tổng hợp: Trang trại này thường kết hợp sản xuất
kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp ngành nghề và dịch vụ.
- Trang trại chuyên môn hoá: Phương hướng sản xuất chỉ phát triển một
ngành hoặc một sản phẩm như sản xuất ngũ cốc, chăn nuôi gia súc.

được tích tụ lớn hơn, sản xuất được phân định ra với vài loại cây trồng, vật
nuôi chủ yếu, sản xuất phần lớn là thủ công, một phần máy móc.
- Trang trại sản xuất đa dạng hoá: Sản xuất thâm canh có tưới nước, lao
động kết hợp thủ công và máy móc, sản phẩm đa dạng hoá nhằm đảm bảo thu
nhập bền vững, chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hóa.

* Phân loại theo nguồn thu nhập:
- Nguồn thu nhập chủ yếu từ nông nghiệp: Xu thế trang trại loại này đang
giảm dần (năm 1985 Nhật Bản có 15% số trang trại thuộc loại này).
- Trang trại có thu nhập thêm từ bên ngoài trang trại, loại này thường
kinh doanh tổng hợp và xu thế ngày càng tăng.

- Trang trại chuyên môn hoá: Sử dụng lao động gia đình và thuê ngoài,
sản xuất thâm canh đạt hiệu quả cao chủ yếu là sản xuất sản phẩm hàng hoá.
- Trang trại tự động hoá: Đang phát triển ở các nước phát triển trên thế
giới trong ngành chăn nuôi, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu.
1.1.1.2. Khái niệm về kinh tế trang trại

* Các phương thức điều hành sản xuất:
- Chủ trang trại vừa điều hành vừa trực tiếp tham gia sản xuất: Loại trang
trại này chủ hộ thường là nông dân, hiện nay hình thức này là phổ biến.

- Chủ trang trại và gia đình không ở trang trại nhưng vẫn điều hành sản
xuất: Hình thức này không nhiều nhưng đang có xu hướng phát triển ở các
nước công nghiệp phát triển.

Hệ thống lại lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại, nhiều nhà nghiên cứu
kinh tế Việt nam và thế giới đã đưa ra khái niệm về kinh tế trang trại như sau:
- Theo một số học giả phương Tây:
“Hình thức kinh tế trang trại ở các nước này dùng để chỉ một lĩnh vực tổ
chức sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá lớn ở nông nghiệp nông thôn để
phân biệt với hình thức tiểu nông tự túc, tự cấp”.

- Chủ trang trại nhỏ có ít ruộng đất, không điều hành sản xuất mà uỷ quyền
cho người thân quản lý trang trại của mình theo từng vụ hay nhiều năm.

- Theo PGS - TS Lê Trọng: “Kinh tế trang trại (hay kinh tế nông lâm
ngư trại…) là một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội,

* Phân loại theo tiến trình hình thành và phát triển:

dựa trên cơ sở hợp tác và phân công lao động xã hội. Bao gồm một số người

Sự phát triển của các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp đi từ bậc

lao động nhất định được chủ trang trại tổ chức, trang bị những tư liệu sản xuất

thấp lên bậc cao, từ nền sản xuất tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá

nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh, phù hợp với yêu cầu của nền kinh

mà hình thành các trang trại.


tế thị trường và được nhà nước bảo hộ” [17].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9

10

- Theo ông Trần Tác, Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Trung ương Đảng:

Trong phạm vi luận văn này tác giả có giới hạn việc nghiên cứu, chỉ tập

“Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn trong

trung vào loại hình trang trại gia đình trong hệ thống các loại hình trang trại

nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn. Có

đang hoạt động trong cơ chế thị trường ở nước ta. Để làm được điều đó, một

sức đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, có


trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là “nhận dạng” một cách đầy

phương pháp tạo ra tỷ suất sinh lời cao hơn bình thường trên đồng vốn bỏ ra,

đủ, rõ ràng về loại hình kinh doanh mới này để từ đó có những biện pháp

có trình độ đưa các thành tựu khoa học, công nghệ mới kết tinh trong hàng

quản lý phát triển phù hợp.

hoá, tạo ra sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế

1.1.1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế trang trại

xã hội cao”.

Quan điểm của các nhà kinh điển về tính tất yếu tồn tại kinh tế hộ gia

- Theo Phó Giáo sư Đào Công Tiên - trường Đại học Kinh tế thuộc Đại
học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh: “Kinh tế trang trại là một loại hình tổ
chức sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp, phổ biến được hình thành và phát
triển trên nền tảng kinh tế hộ và về cơ bản giữ bản chất kinh tế hộ. Quá trình
hình thành và phát triển kinh tế trang trại là quá trình nâng cao năng lực sản
xuất dựa trên cơ sở tích tụ tập trung vốn và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hoá với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao”.
Tóm lại: Theo Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về Kinh

đình nông dân và kinh tế trang trại.
* Tính tất yếu khách quan của tồn tại và phát triển kinh tế hộ nông dân
Không phải bây giờ các nhà kinh tế mới bàn đến vai trò của kinh tế hộ

nông dân đối với sự phát triển nông nghiệp mà ngay từ cuối thế kỷ XIX Mác,
Ăng-ghen đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế hộ nông dân. Lúc đầu
nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước Anh, Mác đã tiên
đoán với quá trình tách người nông dân khỏi ruộng đất một cách ồ ạt thì giai

tế trang trại của Chính phủ, kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất

cấp nông dân bị thủ tiêu và nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản

hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình nhằm

xuất như trong công nghiệp. Nghĩa là trong nông nghiệp sẽ hình thành các

mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt,

“Đại điền trang” Tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê. Quá trình đó

chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu

sẽ tách người nông dân ra khỏi tư liệu sản xuất, mà trước hết là ruộng đất.

thụ nông, lâm, thủy sản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư liên tịch số

Sau này kinh nghiệm lịch sử của những nước công nghiệp phát triển đã

69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23.6.2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát

làm chuyển biến nhận thức của Mác và ông phải công nhận là những tiên

triển nông thôn có hai nhóm đối tượng có thể tham gia đầu tư sản xuất theo


đoán khái quát ban đầu của mình trước kia về thực tiễn đã không được, không

mô hình trang trại, đó là hộ nông dân, hộ công nhân viên Nhà nước và lực

thiết lập ngay cả ở nước Anh siêu công nghiệp. Bất chấp xu hướng ban đầu

lượng vũ trang đã nghỉ hưu, các loại hộ thành thị (gọi chung là hộ gia đình) và

theo kiểu “dọn sạch mặt đất”. Ở nước Anh công nghiệp phát triển, song nông

cá nhân. Từ đó, hình thành nên hai loại hình kinh doanh là trang trại gia đình

trại gia đình trên thực tế không sử dụng lao động làm thuê vẫn ngày càng phát

và trang trại cá nhân.

triển và càng tỏ rõ sức sống cũng như hiệu quả của nó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11


12

Chính vì thế khi viết quyển III của bộ Tư bản chủ nghĩa, Mác đã kết

chuyên cần hơn và sự chăm chỉ cần mẫn hơn của người lao động khi anh làm

luận: “Ngay ở nước Anh với nền công nghiệp phát triển hình thức sản xuất

cho chính bản thân anh ta (đây là điểm khác căn bản với lao động làm thuê)

nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn

thấp hơn cả nhu cầu của chính bản thân công nhân nông nghiệp nữa”.

mà là các trang trại gia đình không có lao động làm thuê”.

A.V. Trai-a-nốp nhà nông học nổi tiếng của thế giới trong nhiều năm

Ở những nước còn giữ hình thức chia đất thành khoảnh nhỏ giá lúa mì rẻ

nghiên cứu phong trào hợp tác xã ở nhiều nước: Italia, Bỉ, Anh, Đức và cả ở

hơn ở những nước có phương thức sản xuất Tư bản” [2]. Mác đã khẳng định

Mỹ la-tinh) để tìm cách vận dụng vào nước Nga Xô-viết đã khẳng định “Hợp

do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nên “hệ thống Tư bản chủ nghĩa mâu

tác xã nông nghiệp là sự bổ sung cho kinh tế nông dân, sau đó phục vụ cho


thuẫn với nghề nông hợp lý hay là nghề nông hợp lý không phù hợp (trái

nó, và vì thế mà thiếu kinh tế hộ nông dân thì hợp tác xã sẽ không có ý nghĩa

ngược) với hệ thống Tư bản chủ nghĩa (mặc dù hệ thống này có hỗ trợ cho sự

gì cả? Ông còn cho rằng: HTX chỉ xã hội hoá một phần sản xuất và quá trình

phát triển kỹ thuật của nông nghiệp) và đòi hỏi phải có hoặc là bàn tay của

này có thể thực hiện không phá vỡ kinh tế hộ nông dân, nghĩa là các hộ nông

người tiểu nông sống bằng lao động của mình, hoặc là sự kiểm soát của

dân chỉ hợp tác với nhau phần sản phẩm sản xuất mà làm ăn tập thể có ưu thế

những người sản xuất có liên kết với nhau” [24].

hơn làm ăn của từng hộ riêng lẻ.

Sau Mác, Ăng-ghen, C. Cauxlay là người kế tục và có những cấu hiến

V.I. Lê-nin đã kế thừa và phát triển về kinh tế hộ nông dân của C. Mác,

lớn trong việc truyền bá và phát triển Chủ nghĩa Mác. Trong đó cống hiến

Ăng-ghen và tiếp thu những hạt nhân hợp lý của C. Cauxlay và A.V. Trai-a-nốp.

xuất sắc của C. Cauxlay là những công trình nghiên cứu của ông về vấn đề


Lê-nin cho rằng nhân vật chính trong sản xuất nông nghiệp phải là “một chủ

nông nghiệp. Theo C. Cauxlay nông nghiệp phát triển không cùng một kiểu

trại tự do trên mảnh đất tự do”, nghĩa là mảnh đất đã dọn sạch khỏi những tàn

với công nghiệp mà theo những đặc thù của nó. C. Cauxlay cho rằng sự khác

tích trung cổ. Đó là kiểu Mỹ” [13].

nhau quan trọng nhất giữa công nghiệp và nông nghiệp là ở chỗ, trong nông

* Quá trình chuyển từ kinh tế hộ nông dân thành kinh tế trang trại

nghiệp sản xuất thường gắn liền với kinh tế gia đình, lao động trong nông

Các trang trại gia đình được hình thành từ cơ sở của các hộ tiểu nông,

nghiệp khác với lao động trong công nghiệp. Sản xuất lớn trong nông nghiệp
không phải luôn luôn có ưu thế tuyệt đối so với sản xuất nhỏ trong mọi điều
kiện. Ông đã rất đúng khi cho rằng một doanh nghiệp lớn của nông dân nếu
đem so sánh với một doanh nghiệp nhỏ của nông dân khác trong cùng một khu
vực, cùng một loại cây trồng thì rõ ràng một doanh nghiệp lớn “ưu việt hơn,
nếu không phải về mặt kỹ thuật, thì ít ra cũng về mặt kinh tế”. Cauxlay đã đi
sâu vào nghiên cứu những nguyên nhân dẫn đến sức cạnh tranh đủ mạnh của
sản xuất nhỏ để chống lại ưu thế của sản xuất lớn trong nông nghiệp. Đó là “sự

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




sau khi phá vỡ cái vỏ bọc tự túc, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hoá. Về bản
chất kinh tế trang trại là kinh tế sản xuất hàng hoá khác với nền kinh tế tự cấp
tự túc, Mác đã phân biệt người chủ trang trại với người tiểu nông: “Người chủ
trang trại bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra, còn người t iểu nông thì
dùng đại bộ phận sản phẩm làm ra và mua bán càng ít càng tốt”.
Trong quá trình phát triển kinh tế hộ sẽ vận động theo quy luật là mở
rộng sản xuất hàng hoá, tất yếu sẽ diễn ra quá trình phân hoá giữa các hộ gia
đình. Các hộ sản xuất thành công sẽ trở lên giàu có, những hộ sản xuất không

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13

14

thành công hoặc rủi ro trong kinh doanh sẽ trở lên nghèo. Quá trình này

Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “ở nông thôn hiện nay đang phát triển mô

thường xuyên lặp đi lặp lại sẽ tạo nên sự ngăn cách ngày càng sâu về thu nhập

hình trang trại nông nghiệp, phổ biến là các trang trại gia đình, thực chất là

giữa các tầng lớp dân cư [20].

kinh tế hộ sản xuất hàng hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn


Trong nền kinh tế thị trường các hộ nông dân chịu sự chi phối của các

của gia đình là chủ yếu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả...”. Đảng và Nhà

quy luật của nền kinh tế thị trường. Những hộ nông dân làm ăn có lãi sẽ mở

nước cũng đã có những chủ trương, chính sách và bước đầu cũng đã tạo dựng

rộng quy mô sản xuất, mua thêm đất đai, máy móc, tư liệu sản xuất nên quy

được những cơ sở pháp lý cần thiết tạo điều kiện để các trang trại gia đình

mô càng lớn hơn và thành các hộ giàu trong nông thôn [20].

hình thành và phát triển. Tuy nhiên, khung pháp luật về loại hình này còn ở

Ngoài ra dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nên

mức độ rất ban đầu, cần phải được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Bên cạnh

lao động thủ công dần dần được thay thế bằng lao động cơ giới, hộ nông dân

đó, dưới góc độ pháp lý, còn có nhiều vấn đề lý luận đặt ra, cần được nghiên

thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ chuyển thành hộ sản xuất hàng hoá.

cứu, lý giải để tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các quyết tâm chính trị và

Sự điều tiết của nền kinh tế thị trường, sự tác động của khoa học kỹ

thuật, sự phát triển của lực lượng sản xuất làm quá trình phân hoá diễn ra
ngày càng nhanh hơn, các hộ giàu sẽ phát triển thành kinh tế trang trại.
Quá trình biến đổi từ hộ nông dân thành kinh tế trang trại là quá trình tự

pháp lý.
1.1.1.4. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Căn cứ vào các quy định tại Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02.02.2000
của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng như thực trạng hình
thành và phát triển của trang trại gia đình thời gian vừa qua, có thể thấy trang

phát hợp quy luật phát triển của xã hội.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế hộ và kinh tế trang trại
Ở Việt Nam, từ năm 1986 đến nay nhờ đường lối đổi mới của Đảng và
chính sách khuyến khích của Nhà nước, hộ nông dân được thừa nhận là đơn

trại gia đình ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau [16]:
Thứ nhất: Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế trong lĩnh vực nông,
lâm, ngư nghiệp.

vị kinh tế tự chủ đã tạo ra động lực mới khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động,

- Trang trại gia đình là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật

tiền vốn và kinh nghiệm sản xuất, quản lý của hàng chục triệu hộ nông dân.

chất cần thiết cho xã hội, bao gồm nông, lâm, thủy sản, đồng thời quá trình

Nhờ đó kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta đã có một bước chuyển biến

kinh tế trong trang trại gia đình là quá trình khép kín với các khâu của quá


tương đối toàn diện, mô hình trang trại ra đời và phát triển khá phổ biến ở tất

trình tái sản xuất luôn kế tiếp nhau, bao gồm: sản xuất, phân phối, trao đổi,

cả các vùng của đất nước.

tiêu dùng.

Từ kinh nghiệm của các nước và thực tế phát triển của mô hình trang trại

- Trang trại gia đình là một đơn vị kinh tế có một cơ cấu thống nhất, đó

trong thời gian qua cho thấy, ở nước ta hiện nay và trong tương lai loại hình

là dựa trên cơ sở hộ gia đình bao gồm chủ hộ và các thành viên khác trong gia

phổ biến và chủ yếu nhất vẫn là trang trại gia đình của hộ nông dân. Về vấn

đình. Chủ trang trại (thường là chủ hộ) là người đại diện cho trang trại gia

đề này, Nghị quyết 06 NQ/TƯ ngày 10.11.1998 của Bộ Chính trị Trung ương

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



đình trong các quan hệ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của trang

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





15

16

trại. Chủ trang trại là người có kiến thức, có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu

hộ kinh doanh cá thể. Vấn đề đăng ký kinh doanh cho trang trại gia đình hiện

thị trường và trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh tại trang trại. Đây là

vẫn chưa được đề cập đến trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, đây là một

những tố chất rất cần thiết cho một nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị

việc làm hết sức cần thiết để thể hiện sự chính thức thừa nhận và bảo hộ của

trường và về cơ bản chúng không có ở người chủ hộ nông dân sản xuất tự

Nhà nước đối với trang trại gia đình, đây còn là cơ sở để một hộ là trang trại

cung tự cấp.

gia đình được hưởng các chính sách ưu tiên và làm nghĩa vụ đối với Nhà

- Tài sản và vốn sản xuất kinh doanh của trang trại gia đình thuộc quyền


nước. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, ngày 02/02/2000 của Chính phủ về kinh tế

sở hữu hoặc sử dụng (đối với đất đai) chung của các thành viên trong hộ gia

trang trại đã xác định đây là một trong những vấn đề bất cập, cần phải được

đình. Bằng công sức, tài sản và vốn chung các thành viên của hộ gia đình tiến

giải quyết kịp thời.

hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp dưới hình
thức trang trại gia đình. Đồng thời chịu trách nhiệm về các hoạt động sản xuất
kinh doanh bằng những tài sản chung đó.

Thứ hai: Mục đích chủ yếu của trang trại gia đình là kinh doanh nông
sản phẩm hàng hoá theo nhu cầu thị trường.
Đây là đặc điểm quan trọng nhất của trang trại gia đình. Mục tiêu của

- Xuất phát từ bản chất kinh tế của trang trại, nên hoạt động sản xuất

trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thủy sản để bán, khác hẳn với kinh tế

kinh doanh của trang trại gia đình luôn gắn liền với một vị trí diện tích đất đai

hộ tự cấp tực túc là chính. Trang trại gia đình là một hình thức tổ chức sản

nhất định. Thực tế cho thấy, đây vừa là địa điểm sản xuất kinh doanh đồng

xuất nông lâm ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ tự chủ trong


thời cũng là trụ sở giao dịch của trang trại gia đình trong các quan hệ nhằm

cơ chế thị trường mang tính chất sản xuất hàng hoá rõ rệt. Vì vậy, đặc trưng

phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, để thuận lợi hơn trong

cơ bản của trang trại gia đình là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá. Kinh

việc tiếp cận thị trường, không ít trang trại gia đình đã mở thêm các địa điểm

nghiệm các nước trên thế giới cho thấy tiêu chí giá trị nông sản hàng hoá và

giao dịch gần các trung tâm thương mại lớn nhằm tiếp thị và tiêu thụ sản

tỷ suất hàng hoá bán ra trong năm luôn luôn được sử dụng làm thước đo chủ

phẩm hàng hoá của mình.

yếu của trang trại. Ở Việt Nam, thực tiễn sản xuất của các trang trại gia đình

- Theo pháp luật hiện nay, trang trại gia đình bước đầu cũng đã được quy

trong những năm vừa qua cho thấy, trang trại nào cũng lấy sản xuất hàng hoá

định cho một số quyền và nghĩa vụ trong sản xuất kinh doanh ở một số lĩnh

là hướng chính và tỷ suất hàng hoá của các trang trại trại phổ biến từ 70 -

vực như: đất đai, thuế, đầu tư, tín dụng, lao động, khoa học, công nghệ và môi


80% đối với những trang trại đã đi vào sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực

trường, bảo hộ, v.v... Trên cơ sở những quyền và nghĩa vụ này, trang trại gia

nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Theo một kết quả điều tra năm 2001

đình hoàn toàn tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn

cho thấy: ở nước ta trong năm 2000, giá trị hàng hoá của các trang trại trong

phương hướng sản xuất, quyết định kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức

cả nước đạt 4.965,9 tỷ đồng, bình quân một trang trại đạt 81,7 triệu đồng, tỷ

sản xuất, đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm,...

suất hàng hoá là 92,6%. Đặc trưng sản xuất hàng hoá cho phép phân biệt rõ

- Hiện nay, theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3.2.2000 về đăng ký

ràng ranh giới giữa trang trại gia đình với kinh tế hộ nông dân, sản xuất tự cấp

kinh doanh, trang trại gia đình đang phải đăng ký kinh doanh dưới danh nghĩa

tự túc và với hộ phi nông nghiệp ở khu vực nông thôn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







17

18

Thứ ba: Trong trang trại gia đình, các yếu tố sản xuất trước hết là ruộng

cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trang trại gia đình còn phải thuê mướn lao

đất và tiền vốn được tập trung tới quy mô nhất định theo yêu cầu phát triển

động bên ngoài nhất là vào thời vụ gieo trồng, thu hoạch. Quy mô thuê muớn

sản xuất hàng hoá.

lao động trong trang trại tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh của trang

Trong nông nghiệp cũng như trong các ngành sản xuất vật chất khác, sản

trại. Có hai hình thức thuê mướn lao động trong các trang trại gia đình, đó là :

xuất hàng hoá chỉ có thể được tiến hành khi các yếu tố sản xuất được tập

thuê lao động thường xuyên và thuê lao động theo thời vụ. Theo thống kê của

trung với quy mô nào đó. Do đó, ở các trang trại gia đình sản xuất hàng hoá


Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, bình quân 1 trang trại sử dụng 6 lao

chỉ có thể được thực hiện khi ruộng đất, tiền vốn, tư liệu sản xuất,... được tập

động (quy ra thường xuyên), lao động trong gia đình chiếm 45%; hầu hết

trung tới quy mô đủ lớn. Đặc điểm này được quy định bởi chính đặc điểm về

trang trại đều có sử dụng lao động thuê ngoài, số lượng lao động thuê ngoài

mục đích sản xuất của trang trại. Theo quy định tại Thông tư liên tịch số

trong các trang trại chiếm khoảng 55% tổng số lao động trong các trang trại,

69/2000/TTLT/BNN-TCTK, ngày 23/6/2000 của Bộ Nông nghiệp & Phát

trong đó chủ yếu là lao động thời vụ (khoảng 70%). Trang trại chăn nuôi,

triển Nông thôn và Tổng cục thống kê, sự tập trung các yếu tố sản xuất của

nuôi trồng thủy sản do tính chất sản xuất khá ổn định nên sử dụng lao động

trang trại gia đình được biểu thị về mặt lượng bằng những chỉ tiêu chủ yếu, đó

thời vụ ít hơn (từ 10 - 20%).

là: Quy mô diện tích ruộng đất của trang trại (nếu là trang trại chăn nuôi thì là
số lượng gia súc, gia cầm,...) và quy mô vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh
của trang trại.


Thứ năm: Cách thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh trong trang
trại gia đình ngày càng mang tính khoa học, chuyên nghiệp.
Trong kinh tế hộ gia đình nông dân do tính chất sản xuất đơn giản và

Thực tế cho thấy, các trang trại gia đình có quy mô lớn hơn rất nhiều so

quy mô sản xuất nhỏ với mục đích tự cung tự cấp là chính do vậy việc điều

với kinh tế hộ gia đình nông dân. Theo số liệu điều tra năm 1999 của Trường

hành sản xuất của chủ hộ vẫn còn mang nặng tính gia trưởng, người chủ hộ

Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội cho thấy: bình quân một trang trại gia đình

chỉ cần có kinh nghiệm sản xuất và cần cù lao động theo kinh nghiệm cha

có số vốn là 291,43 triệu đồng, trong đó 91,03% là vốn tự có, quy mô đất đai

truyền con nối. Nhưng đối với trang trại gia đình, với mục đích chính là sản

bình quân của một trang trại gia đình là 6,338 ha, trong khi đó bình quân đất

xuất hàng hoá và bị các yếu tố lợi nhuận, giá cả, cạnh tranh chi phối ngày

đai sản xuất nông nghiệp của một hộ gia đình chỉ là 0,68 ha.

càng nhiều thì cách quản lý theo kiểu gia trưởng không còn phù hợp nữa. Sản

Thứ tư: Lao động trong các trang trại gia đình chủ yếu là dựa trên các

thành viên trong hộ, ngoài ra có thuê mướn lao động.

xuất đòi hỏi phải có phương án hợp lý lựa chọn cây trồng, vật nuôi, quy hoạch
ruộng đất, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật sản xuất, áp dụng các công nghệ

Lực lượng lao động trong trang trại chủ yếu là chủ trang trại và các thành

và quy trình sản xuất thâm canh, kế hoạch tài chính, hạch toán giá thành, lợi

viên trong gia đình, đây là những người có quan hệ huyết thống, gần gũi như:

nhuận, phân tích kinh doanh... Do vậy việc quản lý, điều hành hoạt động sản

Cha mẹ, vợ chồng, anh em. Lao động được tổ chức gọn nhẹ, đơn giản, quản

xuất kinh doanh của trang trại đòi hỏi phải dựa trên cơ sở những kiến thức

lý điều hành linh hoạt, dễ dàng, hiệu quả lao động cao. Ngoài ra, để phục vụ

khoa học và ngày càng mang tính chuyên nghiệp, đi vào chiều sâu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên







19

20

Như vậy, mặc dù cũng dựa trên cơ sở hộ gia đình, nhưng trang trại gia
đình có sự khác biệt rất lớn so với hộ gia đình thể hiện ở mục đích, quy mô và

2. Qui mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ
tương ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế:

trình độ sản xuất. Trang trại gia đình đã và đang ngày càng thể hiện rõ tính

a. Đối với trang trại trồng trọt:

chất của một loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp

(1) Trang trại trồng cây hàng năm:

nông thôn ở nước ta. Từ những đặc điểm nêu trên, theo chúng tôi, dưới góc

- Từ 2 ha trở lên đối với phía Bắc và Duyên hải miền Trung;

độ pháp lý khái niệm về trang trại gia đình với tư cách là một chủ thể kinh

(2) Trang trại trồng cây lâu năm:

doanh độc lập trong nền kinh tế thị trường có thể hiểu như sau: “Trang trại

- Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung;


gia đình là một đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư

(3) Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.

nghiệp, dựa trên cơ sở hộ gia đình, có mục đích chủ yếu là kinh doanh nông
sản hàng hoá, trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung
đủ lớn với cách thức tổ chức quản lý tiến bộ, tự chủ trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh”.
Khái niệm này vừa thể hiện được bản chất về mặt kinh tế của trang trại
nhưng đồng thời cũng thể hiện được những đặc trưng của loại hình trang trại
gia đình, là cở sở để phân biệt trang trại gia đình với các loại hình kinh doanh
khác đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam hiện nay.
1.1.1.5. Tiêu chí nhận dạng
Một hộ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản được xác định là trang trại

b. Đối với trang trại chăn nuôi:
(1) Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò,v.v...
- Chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường xuyên từ 10 con trở lên;
- Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
(2) Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v...
- Chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với lợn từ 20 con trở lên, đối
với dê, cừu từ 100 con trở lên;
- Chăn nuôi lợn thịt có thường xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn
sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
(3) Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v... có thường xuyên từ
2000 con trở lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).

theo qui định tại Thông tư số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000

c. Trang trại nuôi trồng thuỷ sản:


liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê; Thông

- Diện tích nuôi trồng thuỷ sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi tôm

tư số 74/2003/TT - BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).

thôn (sửa đổi, bổ sung Mục III của Thông tư liên tịch số 69/2000/ TTLT/BNN-

d. Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp:

TCTK) phải đạt một trong hai tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ

Là những trang trại có từ hai hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và

bình quân 1 năm, hoặc về quy mô sản xuất của trang trại sau đây:
1. Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm:
- Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng

hoặc mức giá trị hàng hoá và dịch vụ như quy định cho trang trại.
Việc công nhận và cấp giấy chứng nhận trang trại gia đình là việc làm
cần thiết tạo điều kiện cho loại hình KTTT phát triển. Tuy nhiên để làm được

trở lên;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

nuôi trồng thuỷ sản khác nhau trở lên và mỗi hoạt động đều đạt về qui mô




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21

22

điều đó, một trong những việc quan trọng đầu tiên phải làm là xác định một

trong việc kiểm soát bất cứ hoạt động tiêu cực nào mà nó có thể gây ra tác

cách đầy đủ về phạm vi và số lượng của loại hình KTTT để từ đó có những

hại đối với cộng đồng.

biện pháp quản lý phù hợp.

- Bổn phận của gia đình: Trang trại gia đình có bổn phận nuôi dưỡng

1.1.1.6. Vai trò của kinh tế trang trại trong quá trình phát triển kinh tế

những đứa trẻ lớn lên và thu nhận những giá trị truyền thống. Những kỹ năng

nông nghiệp và nông thôn


canh tác đã trải qua từ thế hệ này đến thế hệ khác dưới cấu trúc sở hữu gia

* Theo “ủy ban Quốc gia về Trang trại nhỏ” (NCFS) của Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ (USDA) cũng đã công bố một bản báo cáo có tính bước ngoặt
vào năm 1998 với nhan đề “Thời gian hành động”. Trong đó USDA thừa
nhận “Những giá trị công cộng” của trang trại gia đình bao gồm [8]:

đình. Khi những đứa trẻ không tiếp tục làm nông, những kiến thức, kỹ năng
và kinh nghiệm canh tác có thể sẽ bị mất.
Một hình mẫu tương tự ở các nước đang phát triển, trong những cộng
đồng canh tác truyền thống, trang trại gia đình là trung tâm để duy trì cộng

- Tính đa dạng: Các trang trại nhỏ chứa đựng tính đa dạng của quan hệ

đồng và để tăng cường khả năng chịu đựng của nền sản xuất nông nghiệp.

sở hữu, của hệ thống canh tác, của cảnh quan môi trường, của sự đa dạng sinh

Trong các trang trại gia đình, hoạt động sản xuất, động viên lao động, hình

học, của văn hoá và các giá trị truyền thống. Sự phát triển của các trang trại

thức tiêu thụ, kiến thức về sinh thái và những mối quan tâm chung trong việc

nhỏ góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, làm tăng sự hấp dẫn của phong

duy trì sự tồn tại lâu dài của trang trại được xem như là một thứ tài nguyên,

cảnh nông thôn và làm mở rộng không gian sống.


nó đóng góp cho sự ổn định và phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế

- Những lợi ích về môi trường: Trang trại gia đình có vai trò rất quan
trọng trong việc tạo ra những lợi ích môi trường cho xã hội. Việc đầu tư vào
các trang trại này sẽ cung cấp cho chính phủ một sự chia sẻ trong cương vị
quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên của quốc gia.

cũng như với mỗi đơn vị kinh tế cơ sở là gia đình.
* Theo đánh giá của Chính phủ Việt nam tại Nghị quyết số 03/2000/NQCP ngày 02/02/2000 về Kinh tế trang trại:
Những năm gần đây, kinh tế trang trại đã đóng góp đáng kể vào sự tăng

- Trao quyền hợp pháp và chịu trách nhiệm cộng đồng: Các trang trại

trưởng kinh tế, đồng thời góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao

nhỏ đã mang lại cho người nông dân một ý nghĩa lớn hơn đối với trách nhiệm

động của các hộ nông nghiệp và nông thôn. Sự phát triển của kinh tế trang trại

cá nhân và cảm giác được kiểm soát cuộc sống của chính mình, đặc điểm này

là động lực mới cho phát triển kinh tế hộ nông dân, bên cạnh đó đã tạo ra các

không dễ có được đối với công nhân trong các nhà máy. Những chủ trang trại
hoạt động dựa vào những doanh nghiệp và các cơ sở cung cấp dịch vụ tại địa
phương để đáp ứng các nhu cầu của mình. Điều này có tác dụng rất lớn
trong việc tạo ra cơ hội để mang lại lợi ích lớn hơn đối với cộng đồng và
hạnh phúc của bản thân những người trong trang trại. Ngược lại, những chủ
trang trại nhỏ ở địa phương sẽ tự cảm thấy phải có trách nhiệm cao hơn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



vùng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng hoá tập trung, làm tăng khối lượng
và giá trị hàng hoá, tạo tiền đề cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
và thực phẩm phát triển, mở rộng các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn. Nói
cách khác: sự phát triển kinh tế trang trại góp phần thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng CNH, HĐH.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




23

24

1.1.2. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Theo các nhà nghiên cứu, kinh tế trang trại được hình thành từ rất sớm,
từ khi phương thức sản xuất tư bản thay thế phương thức sản xuất phong kiến,
từ khi bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất ở châu Âu, nghĩa là
kinh tế trang trại ra đời gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Kinh tế trang
trại được xem là xuất hiện sớm nhất ở Pháp. Sau cuộc đại cách mạng tư sản
Pháp năm 1789, ở Pháp xuất hiện những chủ trại (ferrmier) trong nông
nghiệp. Từ đó kinh tế trang trại phát triển và lan rộng khắp thế giới.
Có thể nói, đến nay trang trại gia đình trở thành mô hình phổ biến nhất
của nông nghiệp thế giới, nó chiếm tỷ trọng lớn tuyệt đối về đất đai canh tác

và số lượng nông sản làm ra. Ví dụ hiện nay ở Mỹ với 2,2 triệu trang trại đã
sản xuất ra hơn 50% sản lượng đậu tương và ngô của toàn thế giới. ở
Malayxia năm 1992 các trang trại đã xuất ra 40 nước trên 6 triệu tấn [11].
Quá trình phát triển kinh tế trang trại gia dình có sự biến đổi về số lượng
cũng như quy mô. Thực tiễn ở nhiều nước cho thấy trong thời kỳ đầu CNH do
lao động nông nghiệp còn đông, khả năng phân công lao động xã hội còn hạn
chế thì số lượng trang trại gia đình tăng lên. Đến thời kỳ công nghiệp hoá phát
triển, khả năng thu hút lao động của công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh
chóng thì số lượng trang trại nông nghiệp bắt đầu giảm đi. Cuối thế kỷ XX số
lượng ở các trang trại gia đình ở các nước đang phát triển ở châu Á tăng 2,5%
mỗi năm, trong khi dó ở các nước công nghiệp phát triển châu Âu giảm

lên tới hàng trăm ha như ở Mỹ trang trại bình quân 180 ha [4].
Biểu 1.1: Diện tích bình quân 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990
Nƣớc
Mỹ
Anh
Đan mạch
Pháp
Ấn Độ
Hà Lan

Diện tích (ha)
180
64
31,7
29,2
20
16,4


Nƣớc
Bỉ
Pakistan
Thái Lan
Italia
Inđônêxia
Nhật Bản

Diện tích (ha)
14
3,86
4,5
2
1,77
1,2

Nhìn chung các trang trại gia đình trên thế giới có những đặc trưng
chung là có trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày càng nhiều khoa học kỹ
thuật và công nghệ sinh học... các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao
động của hộ gia đình và một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ).
- Việc cơ giới hoá, hiện đại hoá nông nghiệp trong các trang trại không
chỉ diễn ra ở các nước phát triển mà ngay cả đối với các trang trại tại các nước
đang phát triển: “Năm 1985, cơ cấu động lực nông nghiệp của các trang trại ở
các nước công nghiệp phát triển có 7% sức người, 10% sức súc vật và 82%
sức máy, cơ điện còn các trang trại của các nước đang phát triển có 25 đến
30% sức người, 50% sức súc vật và 20% sức máy…”. Ngoài ra, các trang trại
còn ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật trong các lĩnh vực sinh học, tin học: “Ở
Mỹ, đến nay đã có 20% trang trại gia đình sử dụng máy tính phục vụ việc lập
trình sản xuất kinh doanh trên đồng ruộng và trong trang trại. Ở Đức 50% các


2,35% mỗi năm.
- Quy mô trang trại gia đình lại biến động theo chiều hướng ngược lại
với số lượng trang trại của mỗi quốc gia. Tuỳ điều kiện các nước mà quy mô
trang trại có thể rất khác nhau. Trang trại của các nước châu Á có diện tích
nhỏ, quy mô trang trại chỉ trên dưới một ha như Nhật bản (1,2 ha). Trang trại
của các nước châu Âu lớn hơn, quy mô bình quân trang trại hàng chục ha như

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Pháp (29,2 ha); Đan mạch 31,7 ha. Ở một số nước quy mô trang trại gia đình



trang trại quy mô 50 ha trở lên đã sử dụng máy vi tính vào quá trình điều hành
sản xuất…”[5].
- Lao động sử dụng trong trang trại ở Tây Âu và Mỹ đang có xu hướng
giảm dần. Hiện nay ở Mỹ chỉ có từ 1 - 2 lao động/ trang trại; Nhật bản khoảng
3 lao động/ trang trại (1990); Đài loan mỗi trang trại chỉ có 1,3 lao động [7].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




25

26

Biểu 1.2: Lao động sử dụng trong 1 TT ở một số nƣớc trên thế giới 1990
Đơn vị tính: Người

Tên nƣớc
Lao động/ Tr.Trại (người)

Thái Lan

Hàn Quốc

Pháp

Đức

3,7

2,1

2,1

1,2

- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là
trang trại gia đình, có nguồn gốc từ hộ gia đình vì thế nó phát huy thế mạnh
vốn có của hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp.
- Thực tế phát triển trang trại tại nhiều quốc gia trên thế giới lại cho
phép đi đến kết luận: chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là

Số lao động của một trang trại của các nước trên thế giới là từ 2 đến 4 lao
động/ trang trại. Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào
quy mô sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất.
Thực tiễn phát triển nông nghiệp của các nước trên Thế giới đã khẳng


chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.
- Trong các giai đoạn ban đầu kinh tế trang trại phát triển theo hướng
kinh doanh tổng hợp bằng cách đa dạng hoá sản phẩm, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường sẽ từng bước đi vào chuyên môn hoá.

định điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự

- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc

hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình

vào quy mô đất đai. ở các nước châu Á như Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan

công nghiệp hoá đất nước. Ngoài ra trang trại gia đình muốn hoạt động có

diện tích các trang trại nhỏ nhưng hiệu quả sản xuất lại rất lớn.

hiệu quả cần phải có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước thông

1.1.3. Lịch sử hình thành và tồn tại trang trại ở Việt nam và Bắc Kạn

qua các chính sách và các công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính

Nhìn lại lịch sử ta thấy trang trại ở nước ta đã hình thành từ thời nhà

sách tài chính, tín dụng, chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động...

Trần, thời đó gọi là điền trang - nhưng điền trang lúc này chủ yếu là trang trại

Kinh tế trang trại là những đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh, nhưng


của quý tộc phong kiến [9], [10].

các trang trại gia đình có thể tham gia kinh tế hợp tác với nội dung và hình

Trong sách “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” có ghi: “Năm 1266, triều

thức khác nhau. Các hợp tác xã để bảo đảm đầu vào và đầu ra của quá trình

đình nhà Trần cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi… triệu

sản xuất với chi phí thấp, lợi nhuận cao để bảo vệ lợi ích lâu dài của trang trại.

tập dân nghèo khổ không có đất làm nô tỳ đi khai hoang miền ven biển, đắp

* Những bài học kinh nghiệm rút ra từ quá trình phát triển kinh tế trang

đê ngăn mặn, khai phá đất bồi sông Hồng lập thành điền trang rộng lớn” [20].
Khác với thái ấp thời nhà Lý và điền trang thời nhà Lý, điền trang thời

trại của thế giới
- Trang trại có vai trò quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá của

nhà Trần thuộc sở hữu của quý tộc. Nô tỳ bị bóc lột như nông nô. Tức là như

các nước. Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước

những người nông dân bị phụ thuộc vào ruộng đất - điền trang rộng lớn của

từ thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát


bọn địa chủ quý tộc. Họ bị bóc lột bằng địa tô và lao dịch, có thể bị bán theo

triển trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát

ruộng đất dưới chế độ phong kiến.

triển. Trong qúa trình công nghiệp hoá kinh tế trang trại đều giữ vị trí xung

hoang lập đồn điền (đồn điền cũng đồng nghĩa với trang trại). Lượng lao động

kích cung cấp nông sản hàng hoá cho xuất khẩu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Đến thời nhà hậu Lê, nhà nước phong kiến chủ trương mở rộng khai



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




27

28

khai hoang lập đồn điền chủ yếu là phạm nhân, tù binh và một số binh lính


Kết quả lợi nhuận siêu gạch họ vơ vét ngày càng nhiều, họ càng thi nhau

đóng đồn ở các địa phương. Đến năm 1481, cả nước có 43 sở đồn điền để cấp

phát triển trang trại cả về số lượng và quy mô diện tích đất đai kinh doanh.

cho họ hàng nhà vua và quan lại từ tứ phẩm trở lên (gọi là cấp lộc điền). Lực

Tính đến năm 1930, thực dân Pháp đã chiếm đọat 1,2 triệu ha, bằng 1/7 trong

lượng sản xuất trong các đồn điền - trang trại - vừa áp dụng chế độ nô tỳ, vừa

tổng diện tích đất canh tác của nước ta lúc bấy giờ để lập trên dưới 4.000 đồn

chủ yếu là bóc lột trực tiếp bởi phong kiến và phụ thuộc trực tiếp bởi nhà

điền - trang trại với quy mô bình quân chừng 300 ha/cái.

nước vì luật pháp cấm nông dân bỏ làng ra đi để bắt nông dân không ruộng

Phương thức kinh doanh của các chủ đồn điền - trang trại như sau:

phải cày ruộng, nộp thuế, lao dịch và binh dịch.

- Từ đầu đến giữa những năm 1920 là phát canh thu tô theo lối phong kiến.

Đến đời nhà Nguyễn từ năm 1802 - 1855 triều đình đã ban hành 25 quyết
định về khai hoang với hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân phiêu tán để khai
hoang lập ấp trại hoặc xã. Đồng thời, nhà nước dùng binh lính và tù nhân bị
lưu đày để khai hoang, hoặc giao cho tư nhân chiêu mộ dân khai phá đất

hoang để lập đồn điền - trang trại - phát canh - thu tô.
Đặc biệt thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, họ đã thực hiện chính sách khai
thác thuộc địa làm giàu cho chính quốc. Họ thấy ngành nông nghiệp là ngành
đấu tư ít vốn mà dễ dàng thu được lợi nhuận cao vì vừa có thể bóc lột được độ
phì nhiêu của đất vừa bóc lột được sức lao động làm thuê đến cùng tận. Năm

- Từ sau những năm 1920 đến trước cách mạng tháng Tám 1945 họ
cưỡng mộ công nhân vào làm các đồn điền - trang trại và bóc lột người lao
động hết sức tàn nhẫn, vô nhân đạo, thậm chí họ còn dùng xác chết của công
nhân ở các đồn điền để bón cho cây cao su…
- Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975.
+ Ở miền Nam: các loại đồn điền tư bản, thực dân ở những vùng địch
tạm chiến vẫn tồn tại và phát triển.
+ Ở miền Bắc: Nhà nước tiến hành tịch thu các đồn điền của thực dân
Pháp và địa chủ phản động đem chia cho nông dân không ruộng và chuyển
một số thành cơ sở sản xuất nông nghiệp của nhà nước. Đến năm 1957, nhà

1888, Toàn quyền Đông dương ra các Nghị định cho địa chủ thực dân được

nước đã chính thức thành lập các nông, lâm trường quốc doanh. Từ những

quyền lập các đồn điền, Nghị định còn cho phép địa chủ thực dân được quyền

năm 1958 đến năm 1960 các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc thấp, quy

lập các đồn điền rộng lớn mà họ gọi là đất vô chủ. Chỉ sau 2 năm, năm 1890,

mô thôn đã được thành lập, rồi lên bậc cao, quy mô liên thôn, đến quy mô xã

số đồn điền trại ấp khắp ba miền Bắc - Trung - Nam được họ thành lập đã lên


có tính phổ biến trên toàn miền Bắc. Các hình thức đó đã có tác dụng lớn

tới 108 cái, với diện tích 10.898 ha, quy mô bình quân 100 ha/ 1 đồn điền.

trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng như xây dựng hệ thống

Đến giữa những năm 20, tổng diện tích mà họ chiếm đoạt dưới nhiều thủ đoạn

thủy lợi, cải tạo đồng ruộng… nên sau năm 1975 cũng được áp dụng ở miền

đã lên đến 270.000 ha (trong đó ở Nam kỳ 308.000; ở Trung kỳ 26.000 và ở

Nam đã được quốc hữu hóa như ở miền Bắc trước đây.

Bắc kỳ 136.000 ha). Tổng số trang trại (đồn điền) đã lên tới 2.350 cái chuyên

- Từ 1975 đến 1986:

trồng cao su, chè, hồ tiêu, dừa, lúa, mía, bông… quy mô vừa, lớn, nhở khác

Như trên đã nói, sau khi giải phóng miền nam những đồn điền - trang trại

nhau. Có cái ở Bắc kỳ lên đến 8.515ha. Nhưng bình quân chung ước chừng

kiểu Tư bản chủ nghĩa đã được Nhà nước tịch thu và chuyển thành những

200 ha/cái [11], [36].

nông trường quốc doanh.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




29

30

Nói chung, thời kì hòa bình, khôi phục và phát triển nền kinh tế cả nước

+ Các Thông tư Liên tịch số: 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 23/6/2000

theo hướng quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và vẫn áp dụng mô hình cũ - xây

và 62/TTLT/BNN-TCTK ngày 20/5/2003 của liên Bộ Nông nghiệp và PTNT,

dựng nền kinh tế nông nghiệp mang nặng tính kế hoạch, tập trung. Chỉ có 2

Tổng cục Thống kê và hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại [12];

hình thức kinh tế chủ yếu (trong thành phần kinh tế Xã hội chủ nghĩa) là nông

Các chính sách trên đã đi vào cuộc sống làm chuyển biến nền nông


trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp đã bộc lộ nhiều khuyết tật cần

nghiệp nước ta. Trong quá trình phát triển này, một loại hình tổ chức sản xuất

được đổi mới.

mới trong nông nghiệp ra đời: Một số hộ nông dân, cá nhân đã tích luỹ kinh

- Từ 1986 đến nay: Đảng và Chính phủ đã công nhận sự tồn tại tất yếu, vai
trò của kinh tế trang trại và đã ban hành một số chính sách hỗ trợ phát triển.
+ Nghị quyết 10 (tháng 4 năm 1987) của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế

nghiệm sản xuất, tích tụ đất đai, đầu tư thâm canh chuyển sang sản xuất hàng
hoá hình thành nên các trang trại đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát
triển kinh tế nước ta.

quản lý kinh tế nông nghiệp khẳng định: Hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ,

* Tóm lược lịch sử hình thành kinh tế trang trại ở Bắc Kạn

khuyến khích phát triển.

- Thời kỳ phong kiến, pháp thuộc Bắc Kạn là một tỉnh có chế độ “Thổ

+ Luật đất đai năm 1993 khẳng định ruộng đất là của Nhà nước, Nhà
nước giao cho hộ nông dân và các tổ chức kinh tế sử dụng ổn định, lâu dài.
+ Nghị định 02/CP (1994) quy định giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức
và cá nhân, hộ gia đình thời hạn 50 năm.
+ Nghị định 03/CP (1994) quy định giao khoán kinh doanh rừng và đất
rừng lâu dài cho các cá nhân, hộ gia đình.

+ Nghị định 64/CP (1999) quy định giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình
và các cá nhân ổn định lâu dài, thời hạn 20 năm.
+ Nghị quyết số: 03/2000/NQ-CP ngày 02 /02/2000 của Chính phủ về
kinh tế trang trại;
+ Thông tư số: 82/2000/TT-BTC ngày 14/8/2000 của Bộ Tài chính
hướng dẫn chính sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại;
+ Thông tư số: 23/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2000 của Bộ Lao
động thương binh và xã hội hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người
lao động làm việc trong các trang trại [1];

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ty” của người Tày là tộc người đa số ở địa phương. Việc một số quan lại được
vua chúa ban thưởng nhiều đất đai trong thời kỳ phong kiến là một thực tế,
tuy nhiên với đặc điểm của nền kinh tế tự cấp tự túc nên có thể nói trang trại
chưa hình thành vào thời gian này.
- Thời kỳ thuộc pháp: Thực dân pháp thực hiện việc khai thác thuộc địa
rất mạnh ở Bắc Kạn, tuy nhiên chỉ đơn thuần là khai thác khoáng sản. Việc
lập đồn điền trồng cây hàng hoá tập trung tại địa phương là không có, họ chỉ
du nhập một số giống cây để trồng thử nghiệm ở địa phương.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống pháp và xây dựng CNXH ở miền
Bắc: Các hợp tác xã nông nghiệp ra đời cũng là việc các hộ gia đình có nhiều
ruộng đất đã hiến hoặc góp hoa lợi vào hợp tác. Cùng với nó là việc vận động
định canh định cư đưa người Dao và Mông “hạ sơn” và vào hợp tác xã để
cùng có ruộng.
- Thời kỳ đổi mới kinh tế: Vấn đề đổ vỡ của các hợp tác xã nông nghiệp
cũng dẫn tới việc tự phát đòi lại ruộng đất ông cha. Rất nhiều hộ gia đình kinh
tế mới và định canh định cư vì không còn ruộng nước canh tác đã tiến hành




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




31

32

lập trại tại các vùng đầu nguồn sông, suối để làm kinh tế nông lâm kết hợp.

doanh phổ biến là trên dưới 5 ha đến 10 - 20 - 30, thậm chí đến hàng trăm ha

Chính sách hỗ trợ trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc theo chương

(như ngư trại khai hoang lấn biển nuôi trồng thủy sản nông thôn của ông

trình 327 đã được chính quyền địa phương triển khai và nhân dân tích cực

Nguyễn Văn Khanh ở huyện An Hải - Hải Phòng có diện tích kinh doanh từ

tham gia. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện chính sách hỗ trợ dãn dân

246 - 300 ha).

thực hiện chương trình 327 cho hàng nghìn hộ trên địa bàn tỉnh. Trong bối

Có trang trại rộng hàng nghìn hoặc hơn 200 ha đất canh tác hay làm trại


cảnh như vậy đã hình thành nên một loại hình kinh tế mới, đó là các trang trại

trồng rừng cũng có hơn 200 ha. Các chủ trang trại hầu hết đã sử dụng lực

tách biệt ra khỏi các khu dân cư làng bản lâu đời. Đại đa số các trang trại này

lượng cơ khí, nhất là máy kéo và lao động làm thuê. Giá trị tổng sản phẩm

là của những gia đình nông dân bị sức ép do mất đất canh tác sau thời kỳ đòi

của các trang trại loại nhỏ phổ biến là trên dưới 100 đến 200 triệu, loại vừa

lại “ruộng đất ông cha” ở Bắc Kạn cuối những năm 1980, còn lại một số ít là

200 triệu đến 1 tỷ, loại lớn 1 tỷ đến 5 tỷ, loại cực lớn là trên 5 tỷ.

của công nhân viên chức, bộ đội phục viên và tiểu thương có điều kiện về

Nhìn chung, các trang trại đã xuất hiện và phát triển ở nhiều nơi kể cả

kinh tế.

vùng đồng bằng sông Hồng là nơi đất hẹp người đông. Nhưng phát triển

1.1.4. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nƣớc ta từ khi đổi mới

nhanh nhất là ở các tỉnh huyện trung du, miền núi và nhiều tỉnh của Nam Bộ

theo nền kinh tế thị trƣờng


hoặc ở vùng đất mới khai hoang, lấn biển.

* Giai đoạn 1989-1999:

Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê, năm 1989 tổng số có

Để “đổi mới” về kinh tế, ở Đại hội VI (12/1986) Đảng đã chỉ ra, trong

5.125 trang trại, đến năm 1992 đã tăng lên đến 13.246 trang trại, nhiều hơn

thời kỳ quá độ ở nước ta là “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần” và tiếp

gấp 2,53 lần. Đến ngày 1/7/1999 cả nước có 90.167 trang trại, tăng gấp 6,8

đến (4/1989) trong nông nghiệp có Nghị Quyết VI năm 1989, Đảng chỉ ra

lần so với năm 1989. Diện tích đất trong kinh doanh nông nghiệp trong cùng

rằng “gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh doanh tự chủ” đồng thời,

thời gian từ năm 1989 đến năm 1992 đã tăng từ 22.946 ha lên 58.282 ha, gấp

luật doanh nghiệp tư nhân cũng được công bố ngày 3/1/1991. Đó chính là

2,54 lần, đến năm 1999 tăng lên 396.282 ha, gấp 6,81 lần so với năm 1992 và

những cơ sở để hệ thống trang trại phát triển với tốc độ và quy mô càng cao

gấp 17,29 lần so với năm 1989. Vốn đầu tư của các trang trại cả nước, nếu tính


lớn hơn.

từ khi mới thành lập ở năm 1989 của 5.125 trang trại có chừng 513.677 triệu

Trên thực tế từ năm 1989 đến 1999, từ Nam Bộ đến các tỉnh đồng bằng

đồng thì đến năm 1999 của 90.167 trang trại đã đầu từ đến 18.030.000 triệu

Sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên hoặc tới các tỉnh miền núi

đồng nhiều hơn gấp 35,1 lần. Điều đó phản ánh trình độ đầu tư thâm canh, áp

phía Bắc đã hình thành từng loại trang trại. Các loại trang trại này chuyên

dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của

môn hóa sản xuất lúa, mía, cà phê, cao su, cây ăn quả, chè,… và chăn nuôi

các trang trại trong 10 năm qua đã dần dần tăng lên. Tổng giá trị sản phẩm

các loại lợn, gia cầm, trâu bò. Hoặc chuyên môn hóa lúa kết hợp hợp lý các

bình quân của các trang trại trong những năm 1997-1999 được chừng 9.575 tỷ

ngành với quy mô từ nhỏ, vừa, lớn đến cực lớn. quy mô diện tích đất kinh

đồng/năm chiếm 7,89% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Đặc biệt là tỷ suất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




33

34

nông sản hàng hoá của các trang trại ở năm 1992 chiếm 78,6% thì năm 1999

Kinh tế trang trại phát triển nhanh về số lượng ở tất cả các vùng trong
cả nước, đến thời điểm 01/7/2006, cả nước có 113.730 trang trại, so với

đã tăng lên đến 86,74% [17].
Như vậy, trong 10 năm (1989-1999) kinh tế trang trại đã phát triển với

năm 2001 tăng 52.713 trang trại (-86,4%), so với năm 2004 tăng 2.898

tốc độ ở những năm sau tăng nhanh hơn những năm trước. Thêm vào đó cần

trang trại (-2,5%). Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây

lưu ý là ở những vùng có bình quân diện tích ruộng đất nông nghiệp cao và có

Nguyên là những vùng có nhiều đất đai, mặt nước thuận lợi để mở rộng qui

truyền thống sản xuất hàng hoá như đồng bằng sông Cửu Long và những


mô trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản là những vùng tập trung số

vùng trung du miền núi (có nhiều đất trống đồi trọc) hoặc ở các vùng khai

lượng trang trại nhiều nhất. Ba vùng này có 80.077 trang trại, chiếm 70,4%.

hoang lấn biển (như Cồn Ngạn, H. Giao Thuỷ, T. Nam Định) thì tốc độ và

Riêng Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 54.425 trang trại chiếm gần 50%

quy mô phát triển trang trại rất nhanh.

số trang trại cả nước. Loại hình sản xuất của trang trại ngày càng đa dạng và

* Giai đoạn 2000-2006:

có sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng các trang trại trồng

Sau khi có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP của Chính phủ về kinh tế trang

cây hàng năm và cây lâu năm và tăng tỷ trọng các loại trang trại chăn nuôi,

trại, kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan

nuôi trồng thuỷ sản và sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng trang trại

trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản [21].

trồng cây hàng năm giảm từ 35,6% (năm 2001), xuống còn 28,7% (năm


(1)

2006); trang trại trồng cây lâu năm từ 27,2% giảm xuống còn 20,2%; trang

- Số lượng trang trại

tăng nhanh, loại hình sản xuất đa dạng đã góp

trại chăn nuôi từ 2,9% tăng lên 14,7%; trang trại nuôi trồng thuỷ sản từ

phần tích cực vào quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp.
Biểu 1.3: Số lƣợng trang trại phân theo vùng ở Việt nam 2000 - 2006
Đơn vị tính: Trang trại
Danh mục

2000

2001

2002

2003

Cả nƣớc
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ

Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

57.069

61.017

61.787

1646
1834
2793
3201
282
135
4084
3013
3122
2904
3589
6035
9586 12705
31967 31190

1939
3210
163
3216
2943

6223
12126
31967

2004

2005

2006

86.141

110.832

114.362

113.730

5.031
4.859
367
4.842
6.509
6.650
14.938
42.945

8.131
4.984
400

5.882
6.936
9.450
18.921
56.128

9.637
5.473
395
6.706
7.138
9.623
18.808
56.582

13.863
4704
522
6.756
7.808
8.785
16.867
54.425

Nguồn: Tổng cục Thống kê
(1)

Cửu Long có 54.425 trang trại; trong đó 24.425 trang trại trồng cây hàng
năm, chiếm 44,9% số lượng trang trại của vùng, 25.147 trang trại nuôi
trồng thuỷ sản, chiếm 46,2%. Đông Nam Bộ có 16.867 trang trại chiếm

14,8% của cả nước; trong đó 9537 trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 56,5%
số lượng trang trại của vùng, 3.839 trang trại chăn nuôi, chiếm 22,8%. Tây
Nguyên có 8.785 trang trại, chiếm 7,7% của cả nước; trong đó 7.046 trang
trại trồng cây lâu năm, chiếm 80,2% số lượng trang trại của vùng. Đồng
bằng sông Hồng có 13.863 trang trại chiếm 12,2% của cả nước, trong đó
7.562 trang trại chăn nuôi, chiếm 54,5% của vùng.
- Trang trại sử dụng ngày càng nhiều ruộng đất, dấu hiệu tích tụ ruộng

Theo tiêu chí trang trại được qui định trong Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của

đất - điều kiện tiên quyết cho nền sản xuất lớn nông nghiệp.
Tại thời điểm 01/7/2006, diện tích đất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản do

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

27,9% tăng lên 30,1% trong thời gian tương ứng. Vùng Đồng bằng sông



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




35

36


các trang trại đang sử dụng là 663,5 nghìn ha, tăng 290,3 nghìn ha so năm

phẩm,... Điều đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách đào tạo nguồn nhân lực có

2001 (bình quân 1 trang trại sử dụng 5,8 ha). Trong cơ cấu đất nông, lâm

trình độ chuyên môn kỹ thuật cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.

nghiệp và thuỷ sản trang trại đang sử dụng năm 2006, đất trồng cây hàng
năm chiếm tỷ trọng lớn nhất với 286,4 nghìn ha (43,2%); đất trồng cây lâu

- Qui mô vốn sản xuất, kinh doanh của trang trại tăng nhanh do các chủ
trang trại tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất, thâm canh cây trồng vật nuôi.

năm 148 nghìn ha (22,3%); đất lâm nghiệp 94,7 nghìn ha (14,3%) và đất

Tại thời điểm 01/7/2006, tổng vốn sản xuất, kinh doanh của các trang trại là

nuôi trồng thuỷ sản 134,4 nghìn ha (20,2%). Diện tích đất nông, lâm nghiệp

29320,1 tỷ đồng, bình quân một trang trại 257,8 triệu đồng, tăng 122,7 triệu

và thuỷ sản bình quân 1 trang trại cao nhất là ở vùng Tây Bắc 9,82 ha, Đông

đồng so năm 2001 (-90,8%). Vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang

Bắc 8,87 ha, Bắc Trung Bộ 7 ha, chủ yếu là do các vùng này có nhiều trang

trại cao nhất là vùng Đông Nam Bộ 575,5 triệu đồng (tăng 341,6 triệu đồng


trại lâm nghiệp (tiêu chí qui định từ 10 ha trở lên). Đặc điểm đất đai của các

so năm 2001) do chủ yếu trang trại trồng cao su, cà phê, hồ tiêu, điều, tiếp

trang trại là đất sản xuất liền bờ, liền khoảnh, qui mô lớn nên rất thuận lợi cho

đến là Tây Nguyên 279,6 triệu đồng (-100,7 triệu đồng); Đồng bằng sông

việc tổ chức sản xuất, bảo vệ, vận chuyển sản phẩm và nhất là cơ giới hoá,

Cửu Long 206,6 triệu đồng (-135,2 triệu đồng); Đồng bằng sông Hồng 200,9

thủy lợi hoá, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật.

triệu đồng (-94,3 triệu đồng); Tây Bắc 200 triệu đồng (-90,5 triệu đồng);

- Kinh tế trang trại phát triển góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập
cho lao động nông thôn.
Tại thời điểm 01/7/2006, các trang trại đã sử dụng 395,9 nghìn lao động
làm việc thường xuyên, gấp 1,7 lần so năm 2001; trong đó lao động của hộ
chủ trang trại là 291,6 nghìn người, chiếm 73,6% tổng số lao động, còn lại
là lao động thuê mướn. Do tính chất thời vụ của sản xuất nông, lâm nghiệp
và thủy sản nên ngoài lao động thuê mướn thường xuyên, các trang trại còn
thuê mướn lao động thời vụ. Những trang trại trồng cây hàng năm, trồng cây
lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản sử dụng nhiều lao động thường xuyên nhất. Thu
nhập bình quân 1 lao động làm việc thường xuyên của trang trại là 17,5 triệu
đồng/năm cao gấp trên 2 lần so lao động khu vực nông thôn. Tuy nhiên, lao

Đông Bắc 192,1 triệu đồng (-107,2 triệu đồng); thấp nhất là Duyên hải
Nam Trung Bộ 144,4 triệu đồng do chủ yếu trang trại trồng cây hàng năm

cần ít vốn hơn. Những tỉnh có vốn sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại
từ 500 triệu đồng trở lên là: Lâm Đồng, Bình Phước, Tây Ninh, Bình Dương,
Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Kinh tế trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá ngày
càng lớn, gắn với thị trường.
Tổng thu sản xuất, kinh doanh của các trang trại năm 2006 đạt 19.826 tỷ
đồng, gấp 3,6 lần năm 2001, bình quân 174,9 triệu đồng 1 trang trại, gấp 1,9
lần so năm 2001. Tổng thu sản xuất, kinh doanh bình quân 1 trang trại cao

động làm việc trong trang trại chủ yếu vẫn là lao động phổ thông, chưa qua

nhất là vùng Đông Nam Bộ 221 triệu đồng; Đồng bằng sông Hồng 193 triệu

đào tạo chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc giản đơn như làm đất,

đồng; Đồng bằng sông Cửu Long 181 triệu đồng; Tây Nguyên 148,6 triệu

trồng cây, chăn dắt gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn,… có rất ít lao động

đồng; Đông Bắc 139 triệu đồng; Duyên hải Nam Trung Bộ 112 triệu đồng;

đảm nhiệm các khâu yêu cầu trình độ kỹ thuật như điều khiển máy móc,

Tây Bắc 100 triệu đồng và thấp nhất là Bắc Trung Bộ 105 triệu đồng.

chọn giống cây, con, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, mua vật tư, bán sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Giá trị sản phẩm và dịch vụ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản bán ra năm 2006

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




37

38

là 18031 tỷ đồng, gấp 3,6 lần so năm 2001, bình quân 1 trang trại 159 triệu

- Trang trại gia đình muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có sự tác

đồng gấp 1,9 lần, tỷ suất hàng hoá là 95,2%. Các vùng có tỷ suất hàng hoá cao

động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhà nước thông qua các chính sách và các

là: Đông Nam Bộ 98,2%, Duyên hải Nam Trung Bộ 98,1%, Tây Nguyên

công cụ quản lý vĩ mô như: Chính sách thuế, chính sách tài chính, tín dụng,

96,2%, Đồng bằng sông Hồng 95,6%, thấp nhất là Tây Bắc 89,8%.

chính sách bảo trợ nông nghiệp, bảo hộ lao động...

Thu nhập trước thuế của các trang trại năm 2006 đạt 6.979 tỷ
đồng gấp 3,5 lần so năm 2001, tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu là

35,2% (giảm 0,2% so năm 2001). Thu nhập trước thuế bình quân 1 trang trại
61,4 triệu đồng gấp 1,9 lần so năm 2001. Mức chênh lệch giữa các vùng, các
địa phương về thu nhập bình quân 1 trang trại còn lớn: cao nhất là Đông Nam
Bộ 85,2 triệu đồng gấp hơn 2 lần vùng thấp nhất là Duyên hải Nam Trung Bộ
38,3 triệu đồng,

- Hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại không hoàn toàn phụ thuộc
vào quy mô đất đai.
- Số lượng lao động trong các trang trại không phụ thuộc vào quy mô
sản xuất của trang trại mà phụ thuộc vào trình độ công nghệ sản xuất.
- Các trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao động của hộ gia đình và
một số ít lao động thuê ngoài (chủ yếu theo thời vụ).
- Trang trại ngày nay được trang bị kỹ thuật hiện đại, ứng dụng ngày

Đồng bằng sông Cửu Long 64 triệu đồng, Đông Bắc 52,3 triệu đồng,

càng nhiều khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học ...

Đồng bằng sông Hồng 47,6 triệu đồng. Tỷ lệ thu nhập trước thuế so tổng thu

1.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

sản xuất, kinh doanh của trang trại cũng có sự chênh lệch lớn giữa các vùng

1.2.1. Các câu hỏi đặt ra mà đề tài cần giải quyết

do chịu ảnh hưởng của loại hình sản xuất và hiệu quả của sản xuất, kinh
doanh: cao nhất là Tây Bắc 47,1%, Tây Nguyên 43,4%, Đông Nam Bộ
38,6%, thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng 24,6%.


thế nào?
- Yếu tố nào ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế trang trại của tỉnh

1.1.5. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn
- Kinh tế trang trại gắn liền quá trình công nghiệp hoá của các nước từ
thấp đến cao, chính công nghiệp hoá đặt ra yêu cầu khách quan để phát triển
trang trại, cơ chế thị trường tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
- Kinh tế trang trại có nhiều loại hình khác nhau, nhưng phổ biến nhất là
trang trại gia đình. Chính các trang trại gia đình quy mô nhỏ mới thực sự là
chìa khóa để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, lâu dài.
- Điều kiện cần và đủ cho việc phát triển kinh tế trang trại gia đình là sự
hình thành nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường và đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá đất nước.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Trong những năm qua, kinh tế trang trại của tỉnh Bắc Kạn đã phát triển

Bắc Kạn?
- Hiệu quả kinh tế của các trang trại tỉnh Bắc Kạn thế nào?
- Giải pháp nào thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Bắc Kạn?
1.2.2. Phuơng pháp nghiên cứu
1.2.2.1. Cơ sở phương pháp luận đề tài
* Phương pháp tiếp cận duy vật: Nghiên cứu trên quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Đây được coi là phương
pháp chung, định hướng cho cả quá trình nghiên cứu luận văn này.
* Phương pháp tiếp cận dựa trên quan điểm kinh tế: Tiếp cận kinh tế trang
trại theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội kết hợp phát triển bền vững.




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




39

40

- Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng kinh tế thị trường: Mối quan hệ

1.2.2.2. Các phương pháp nghiên cứu khoa học

giữa chủ trang trại với thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường đầu ra; xem

- Thu thập tài liệu thứ cấp: Những số liệu, thông tin liên quan trực tiếp và

xét, xác định thế mạnh là gì? Lợi thế so sánh cụ thể? So sánh về mức độ gắn

gián tiếp đến quá trình nghiên cứu đã được công bố chính thức của cơ quan

bó với thị trường, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu để từ đó có hướng khắc phục;

thống kê các cấp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các trường đại học,

định hướng đầu tư để phát triển kinh tế trang trại như thế nào, chọn hướng sản

các cơ quan nghiên cứu; thông tin trên internet, các báo cáo chuyên đề, các tài


xuất kinh doanh dịch vụ nào cho phù hợp với yêu cầu của thị trường; vấn đề

liệu, xuất bản phẩm của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.

liên kết liên doanh, cạnh tranh trong sản xuất trang trại…

- Thu thập các dữ liệu trực tiếp thông qua điều tra, khảo sát: Điều tra trực

- Tiếp cận kinh tế trang trại theo hướng kinh tế hộ: Đây là phương pháp

tiếp qua phỏng vấn các chủ trang trại để lấy thông tin theo nội dung phiếu

tiếp cận cơ bản và xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu kinh tế trang trại.

điều tra đã được chuẩn bị. Tác giả là người trực tiếp thực hiện công việc này,

Kinh tế trang trại chủ yếu được hình thành từ nền tảng kinh tế hộ. Do vậy tiếp

bởi số trang trại ở Bắc Kạn không lớn và hơn nữa là thông tin được đầy đủ và

cận để nghiên cứu, phân tích nó phải vận dụng các lý thuyết liên quan đến

tin cậy hơn. Bao gồm các công việc sau đây:

kinh tế hộ.

+ Xây dựng mục tiêu, lĩnh vực điều tra và đối tượng điều tra, từ đó lập

* Phương pháp tiếp cận hệ thống. Tiếp cận hệ thống có nghĩa là khi tiếp
cận một đối tượng nghiên cứu cụ thể phải xem xét, đặt nó trong một hệ thống

mối quan hệ nhất định.

phiếu điều tra để tiến hành điều tra;
+ Tiến hành điều tra tổng thể các trang trại hiện có trong tỉnh tại thời
điểm điều tra;

- Tiếp cận hệ thống dọc: Tiếp cận theo hệ thống dọc ở đây chủ yếu là
theo quản lý xã hội gồm: Trung ương - tỉnh - huyện - xã - làng, bản, thôn,

+ Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) thông tin sơ cấp bằng hệ thống bảng
tính Excel phục vụ cho việc phân tích, đánh giá.

xóm - hộ gia đình...; theo hệ thống chính sách có: hệ thống các chủ trương,

- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn - RRA (Rapid Rural Appraisal):

chính sách vĩ mô của nhà nước có liên quan đến phát triển nông nghiệp, nông

Dựa trên các thông tin được thu thập từ trước, quan sát trực tiếp và phỏng vấn

dân, trang trại; hệ thống các chính sách, quy định của các bộ ngành Trung

khi cần thiết các đối tượng khác ngoài chủ trang trại với câu hỏi không được

ương để triển khai các chủ trương chính sách vĩ mô nêu trên; hệ thống các chủ

chuẩn bị trước. Phương pháp này chủ yếu để kiểm chứng lại thông tin điều tra

trương, quy định của địa phương có liên quan...


chủ trang trại.

- Tiếp cận hệ thống ngang: Chủ yếu là hệ thống các trang trại có cùng

- Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn bán cấu trúc để lấy thông tin từ

một ngành nghề sản xuất; hệ thống các trang trại có trong cùng một thời điểm,

một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ chuyên gia đại diện các ngành, địa phương

một giới hạn địa lý nhất định như một xã, một huyện, hay trong toàn tỉnh...

trong lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá chung về

Trang trại là một bộ phận gắn bó hữu cơ trong hệ sinh thái miền núi, gắn với

vấn đề đang nghiên cứu, giúp cho quá trình phân tích được chính xác hơn,

môi trường, nguồn nước...

không mang tính chủ quan của người làm luận văn.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





41

42

- Phương pháp thống kê, mô tả: Lập danh sách và sắp xếp theo trình tự
riêng biệt các yếu tố kinh tế, xã hội môi trường; đặc tính giống nhau, tiêu

1.2.3. Các chỉ tiêu nghiên cứu
1.2.3.1. Chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất

biểu, chung, phổ biến của các trang trại tỉnh Bắc Kạn; cập nhật, hệ thống hoá

- Giá trị sản xuất: GO (Gross output) là giá trị bằng tiền của các sản phẩm

những thông tin, vấn đề phục vụ cho nội dung nghiên cứu của đề tài. Phương

được bán ra ở trang trại, bao gồm phần giá trị để lại để tiêu dùng và giá trị bán

pháp thống kê, mô tả được sử dụng chủ yếu trong phần phân tích tiềm năng

ra thị trường sau một chu kỳ sản xuất, thường là một năm. Được tính bằng sản

và đánh giá thực trạng.

lượng của từng loại sản phẩm nhân với đơn giá một đơn vị sản phẩm.

- Phương pháp phân tích, đánh giá theo cách so sánh chuỗi: Trên cơ sở

Cách tính: GO = ∑PiQi


Trong đó: GO: Giá trị sản xuất

chuỗi số liệu có được, tiến hành phân tích, rút ra các quy luật phát triển của

Pi: Giá của sản phẩm hàng hoá thứ i

vấn đề nghiên cứu và trực tiếp đưa ra các phán đoán định tính dựa trên các số

Qi: Lượng sản phẩm hàng hoá i

liệu đã có: tăng hay giảm; mức và tốc độ tăng, giảm diễn ra như thế nào, so
sánh với khả năng của địa phương là thấp hay cao...

- Chi phí trung gian: (IC: Intermediate cost) là toàn bộ các khoản chi phí
vật chất bao gồm các khoản chi phí nguyên vật liệu, giống, phân bón, chi phí

- Phương pháp phân tích, đánh giá thông qua so sánh chéo: So sánh chéo
với các địa phương khác để xác định một cách khách quan mục tiêu, kết quả

dịch vụ và lao động thuê.
Cách tính: IC = ∑Cij Trong đó: IC: là chi phí trung gian

của vấn đề nghiên cứu.

Cij: là chi phí nguyên vật liệu thứ i cho sản phẩm j

- Phương pháp phân tổ thống kê đối tượng nghiên cứu: Phân tổ các trang

- Giá trị gia tăng: VA (Value Added) là giá trị sản phẩm vật chất và dịch


trại thành những nhóm loại hình sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiêu chí trang

vụ cho các ngành sản xuất sáng tạo ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất

trại hiện hành và diễn tả bằng các biểu thống kê. Việc phân tổ theo tiêu chí

kinh doanh (ở đây tính là năm).

như vậy sẽ đảm bảo tính thống nhất từ quá trình nghiên cứu đến công tác

Cách tính: VA = GO - IC
1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất

quản lý nhà nước về kinh tế trang trại.
- Phương pháp phân tích, tính toán những chỉ số thống kê, những đại

- Hiệu quả sử dụng lao động: Giá trị gia tăng (VA)/ lao động;

lượng trung bình và hệ số tương đối... tính hiệu quả, đánh giá các nhân tố ảnh

- Hiệu quả sử dụng vốn: Giá trị gia tăng (VA)/ vốn;

hưởng đến kết quả sản xuất của trang trại (vốn, đất đai, lao động), so sánh kết

- Hiệu quả sử dụng đất: Giá trị gia tăng (VA)/ ha đất trang trại;

quả các loại hình trang trại, dự báo xu hướng phát triển của trang trại.

- Tỷ suất hàng hoá.


- Kiểm định thống kê bằng phương pháp so sánh cặp đôi sử dụng phần
mềm SPSS (Statiscal Package for Social Sciences).
- Phương pháp phân tích SWOT (Strength Weakness Opportunity
Threat) để phát hiện vấn đề cơ bản phát triển kinh tế trang trại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




43

44

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
TỈNH BẮC KẠN

xen lẫn núi đất dễ gây sạt lở.
- Phía Tây của tỉnh có độ cao thấp dần từ Đông Bắc xuống Đông Nam,
có nhiều đỉnh cao trên 1000 m, địa hình chia cắt mạnh, độ dốc bình quân 2630o, nhiều dãy núi đá đồ sộ nằm ở phía Bắc huyện Chợ Đồn và phía Nam

2.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

Tỉnh Bắc Kạn được tái lập từ ngày 01/01/1997, đến nay tỉnh có 8 đơn vị

hành chính, gồm 7 huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ với 122 xã, phường, thị trấn.
2

Tổng diện tích tự nhiên 4.857,21 km , dân số trung bình năm 2006 trên
30 vạn người, với 7 dân tộc anh em gồm Tày, Nùng, Dao, Kinh, Mông, Hoa,

huyện Ba Bể xen kẽ núi đất tạo thành những thung lũng hẹp.
- Phía Đông địa hình hiểm trở nằm trong phần cuối của cánh cung Ngân
Sơn - Yến Lạc, có dãy núi đá vôi Kim Hỉ là khối đá đồ sộ, dân cư thưa thớt.
- Phía Tây Bắc là hồ Ba Bể có diện tích tự nhiên khoảng 500 ha, độ sâu

Sán Chay, trong đó dân tộc thiểu số chiếm trên 80%.

khoảng 20 - 30 m, thiên nhiên đã tạo ra nơi đây một phong cảnh đẹp, một khu

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên

du lịch lý tưởng.

2.1.1.1. Vị trí địa lý

- Phía Nam của tỉnh là vùng đồi núi thấp như vùng chuyển tiếp từ trung

Bắc Kạn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Bắc Bộ, ở vị trí trung
o

o

tâm các tỉnh thuộc Việt Bắc cũ, có toạ độ địa lý 21 48’ đến 22 44’ độ vĩ Bắc,
o


o

du lên miền núi, độ cao bình quân từ 300 - 400 m so với mặt nước biển, đây
là phần cuối cùng của cánh cung Sông Gâm, Ngân Sơn - Yến Lạc. Tuy độ cao

105 26’ đến 106 15’ độ kinh Đông. Phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Tây

không lớn, độ dốc bình quân 26o nhưng địa hình bị chia cắt mạnh, tạo nên các

giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía Bắc giáp

thung lũng nhiều hơn và rộng hơn điển hình là các thung lũng ven sông Cầu.

tỉnh Cao Bằng.

2.1.1.3. Điều kiện thời tiết - khí hậu, thuỷ văn

Thị xã tỉnh lỵ Bắc Kạn cách thủ đô Hà Nội 170 km về phía Bắc. Quốc lộ

Thời tiết - khí hậu: Bắc Kạn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa

3 qua tỉnh dài 123,5 km là tuyến giao thông quan trọng để giao lưu kinh tế, xã

vùng Đông Bắc Việt Nam, một năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa đông lạnh và mùa

hội của Bắc Kạn với Hà Nội và các tỉnh khác trong vùng.

hè nóng ẩm. Nhiệt độ bình quân năm khoảng 22,50C, tháng 2 có nhiệt độ thấp


Vị trí địa lý của Bắc Kạn ở vào thế khó khăn so với nhiều tỉnh khác

nhất khoảng 15,70C, tháng nóng nhất là tháng 6 có nhiệt độ khoảng 280C. Do

trong vùng, xa trung tâm phát triển kinh tế của vùng, lại không có cửa khẩu

địa hình phức tạp nên đã hình thành các vùng tiểu khí hậu khác nhau, nhìn

biên giới nên việc giao lưu kinh tế, thu hút nguồn lực để đầu tư.

chung khí hậu của Bắc Kạn tương đối thuận lợi cho việc phát triển một hệ

2.1.1.2. Đặc điểm địa hình

sinh thái đa dạng.

Bắc Kạn là tỉnh miền núi là nơi hội tụ của một hệ thống nếp núi có dạng

Bắc Kạn chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam về mùa hè và gió mùa Đông

hình cánh cung như: cánh cung Sông Gâm; cánh cung Ngân Sơn - Yến Lạc

Bắc về mùa Đông. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1400-1900

nên có địa hình tương đối phức tạp, đa dạng, độ chia cắt mạnh gồm nhiều
dạng địa hình như: thung lũng, núi cao, núi trung bình và núi đá vôi... núi đá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




mm, cao nhất vào tháng 7 và thấp nhất vào tháng 2, mùa mưa từ tháng 2 đến
tháng 9 chiểm khoảng 75-80% tổng lượng mưa trong năm. Độ ẩm không khí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×