Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.03 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Phạm Thị Thanh Loan.
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây, với đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, đã làm cho diện mạo đất nước thay đổi trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Để đáp ứng nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới, hệ thống giáo dục các cấp đã
và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Một trong những mục tiêu giáo
dục ở nhà trường là giáo dục toàndiện. Ở trường THCS học sinh được học rất nhiều bộ
môn khác nhau. Tất cả các môn học đó đều góp phần giáo dục tư tưởng, đạo đức cho
học sinh. Bên cạnh đó còn có sự tác động của hoạt động Đoàn, Đội. Nhưng môn Giáo


dục công dân là môn học trực tiếp giáo dụcđạo đức, tư tưởng cho học sinh trong đó có
việc giáo dục ý thức pháp luật. Giáo dục pháp luật cho công dân nói chung và cho học
sinh phổ thông nói riêng là một vấn đề quan trọng của mọi quốc gia vì được coi là một
phương thức để xây dựng, phát triển nền văn hoá pháp lí, đảm bảo sự ổn định và bền
vững của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, ngày nay trên thế giới, chúng ta dễ dàng nhận
thấy rằng, một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Nghiên
cứu nền giáo dục của một số nước như: Anh, Mĩ, Hung-ga-ri, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Sin-ga-po ... tôi thấy rằng nền giáo dục được họ đặc biệt quan tâm. Có
thể nói rằng sự quan tâm đó là khá toàn diện: Giáo viên, hệ thống nhà trường, phương
tiện giảng dạy .... Nội dung chương trình thường xuyên được cập nhật, bổ sung, đổi
mới theo tiến độ phát triển của xã hội. Phương pháp nghiên cứu, giảng dạy cũng
thường xuyên được đổi mới ngay từ các tiết học ở các cấp học theo đặc thù riêng của
từng bộ môn và nội dung chương trình. Tính tích cực, chủ động của người học không
ngừng được phát huy. Nhờ có sự đổi mới và tiến độ nêu trên mà học sinh các quốc gia
đó có mặt bằng kiến thức rất cao, sát với thực tiễn, họ tự tin, làm chủ và phát huy tốt
chính chất xám của họ, nhờ vậy mà đất nước của họ rất phát triển. Ở nước ta, cùng với
sự gia tăng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, thì vấn đề trật tự pháp luật trong xã
hội càng trở nên bức xúc. Theo thống kê tội phạm học vừa qua cho thấy cả nước có
2.617 học sinh, sinh viên nghiện ma tuý. Địa bàn Hương Sơn có tới hơn 5% trẻ em
nghiện ngập, theo bạn bè hút thuốc lá, uống bia rược từ khi mới lên 10-11 tuổi. Theo
thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hiện được 1002 trường hợp sử dụng ma tuý
trong đó có 695 học sinh phổ thông và 307 sinh viên. 70-80% số học sinh phạm pháplà
những học sinh chậm tiến, học lực kém, do lười học hoặc do hoàn cảnh gia đình.
Nguyên nhân của những con số trên là do ý thức của các em về vấn đề pháp luật rất
thấp. Có nhiều giải pháp đưa ra để làm giảm các tệ nạn xã hội nhưng những giải pháp
đó chỉđược coi là giải pháp tình thế. Do đó cần phải hình thành cho mọi người có ý
thức chấp hành nghiêm chỉnh "pháp luật" đặc biệt là đối tượng học sinh, ngay từ khi
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

3

các em chưa phải là người tham gia pháp luật thường xuyên. Vì thế, xây dựng chương
trình giáo dục pháp luật trong nhà trường là giải pháp mang tính lâu dài. Cũng lí do đó
bản thân chọn “Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp
luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung
học Cơ sở.”
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD, tạo sự hấp dẫn, hứng thú,
cho học sinh trong quá trình học tập và làm cho môn GDCD thật sự xứng đáng với vị
trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của bộ môn trong nhà trường THCS.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng học sinh lớp 6, 7 trường THCS Nguyễn Tuấn Thiện.
4. Giả thuyết nghiên cứu:
Nếu áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho
học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở
vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục công dân theo qui trình hợp
lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Nguyễn Tuấn
Thiện
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THCS Nguyễn Tuấn Thiện.
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân

5.2 Phạm vi nghiên cứu:
Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh chính là giúp các em có thêm những
hiểu biết về những "chuẩn mực pháp luật" biết xử lý các tình huống bắt gặp trong cuộc
sống. Trong khuôn khổ của tiểu luận, tôi không thể nêu cụ thể nội dung kiến thức và
phương pháp dạy học ở từng tiết, từng chủ đề, ở từng khối lớp mà tôi chỉ đưa ra bằng
một bài học cụ thể với phương pháp dạy học bằng các tình huống pháp luật tạo nên sự
tương tác hoạt động giữa thầy và trò. Đó chỉ là một số giải pháp của tôi đã rút ra được
trong suốt những năm giảng dạy giáo dục công nhân ở trường THCS.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở các chương trình bồi dưỡng thường xuyên hàng năm Sách giáo khoa
giáo dục công dân để đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học giáo
dục pháp luật ở trường THCS theo chương trình đổi mới. Dạy một tiết học pháp luật
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

4

có thể sử dụng rất nhiều đồ dùng + kết hợp với đa dạng các phương pháp dạy học như:
Máy chiếu, tranh ảnh, bảng biểu, phiếu học tập tình huống, câu hỏi và phương pháp
đàm thoại, đóng vai, thảo luận nhóm, trò chơi.... Tuỳ nội dung từng bài mà sử dụng
cho phù hợp. Như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao trong công tác giảng dạy. Đề tài được
viết dựa trên các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp thống kê toán học.
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
7. Đóng góp mới của đề tài:

Vận dụng sáng tạo, khai thác được tính năng động của học sinh, gây hứng thú
trong giờ học môn GDCD sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo
dục pháp luật bằng giúp nâng cao chất lượng học tập môn GDCD nói chung và giáo
dục pháp luật nói riêng đáp ứng yêu cầu mới của đất nước.
8. Kết cấu của đề tài: Gồm 3 phần
- Phần Mở đầu.
- Phần Nội dung.
- Phần Kết luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học (Gợi ý)
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

5

Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác
động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở
lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc
tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong

phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền
đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

6

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.

Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt
truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng
một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình
huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

7

Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích
cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến
thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu
và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức
hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách

quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu
cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là
họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

8

Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.
Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về
lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra

được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không
sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người
học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương
tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

9

cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình
huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm

phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có
thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

10

Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên

để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình
huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con
đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

11

thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần
đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của
giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm

gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu
và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

12

học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ

định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp
thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

13

hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học ...(Gợi ý)
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Thực trạng vấn đề đạo đức ý thức chấp hành pháp luật của học sinh phổ thông hiện
nay đang xuống cấp nghiêm trọng. Những biểu hiện cơ bản thường thấy như: 1. Xưng
hô, giao tiếp với thầy cô, người lớn tuổi và bạn bè bằng những lời lẽ trống không,
thiếu văn hóa thậm chí hỗn láo; 2. Có những hành vi và thái độ khiếm nhã với bạn bè
(khác giới) và thầy cô giáo như: Sử dụng điện thoại bừa bãi, nhắn tin cho bạn bè và
thầy cô vào những thời gian nhạy cảm và bằng những lời lẽ thiếu lịch sự, học sinh
khác giới ôm nhau ngay trong trường; 3. Quay cóp trong thi cử một cách công khai và
liên tục; 4. Ra ngoài đường đi hàng năm hàng bảy ngang nhiên làm cho người tham
gia giao thông rất khó chịu và đã nhiều vụ gây ra tai nạn giao thông; 5. Đánh nhau
(dùng cả vũ khí “nóng” với bạn bè và cả thầy cô giáo); 6. Chơi điện tử, bi-a, game,
trộm cắp xảy ra nhiều; 7. Bỏ học, trốn học, lừa tiền cha mẹ để tiêu pha hoang phí, ăn
tiêu đua đòi…
Những biểu hiện trên làm cho các nhà trường, các bậc phụ huynh, giới nghiên cứu và
quản lý giáo dục cũng như toàn xã hội hết sức quan tâm. Nguyên nhân căn bản của nó
của nó gồm hai mặt chủ quan và khách quan. Về chủ quan, có thể thấy, các nhà trường
hiện nay chưa thật sự coi trọng công tác giáo dục đạo đức pháp luật cho học sinh.
Công tác này ở các nhà trường thường dựa chủ yếu vào Đoàn, Đội, giáo viên chủ
nhiệm. Các trường chỉ tập trung vào dạy văn hóa (dạy chữ) chứ chưa quan tâm đến

dạy đạo đức (dạy người - dạy làm người). Các trường ít tổ chức các buổi ngoại khóa,
các chủ đề về giáo dục đạo đức và pháp luật hoặc có tổ chức thì chỉ nặng về cung cấp
kiến thức sách vở, ít cung cấp kỹ năng và kiến thức thực tiễn. Bên cạnh đó, vẫn còn
nhiều lúng túng trong việc xử lí những sai phạm của học sinh. Việc phối kết hợp giáo
dục giữa nhà trường với gia đình và các lực lượng, tổ chức xã hội chưa đồng bộ, hiệu
quả.
Về nguyên nhân khách quan: Nội dung, cấu trúc chương trình phổ thông chưa dành
thời lượng thích đáng cho giáo dục đạo dức và pháp luật. Vẫn chỉ giáo dục chủ yếu
qua môn GDCD. Ít có thời gian tổ chức các chuyên đề, hoạt động ngoại khóa về đạo
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

14

đức và pháp luật. Quy định thầy, cô giáo không được xúc phạm đến thân thể , nhân
cách của học sinh, trường học thân thiện…, ngoài những ưu điểm không thể phủ nhận
thì cũng có những trở ngoại cho các nhà trường trong việc giáo dục những học sinh
hư.
Cơ chế thị trường và những đổi thay của xã hội làm cho ranh giới giữa thầy và trò
ngày càng mờ nhạt, hình ảnh người thầy ngày càng phai mờ trong học sinh và phụ
huynh. Ở đâu đó, giáo dục đã bị thương mại hóa khiến giáo dục nhiều khi bị mang ra
trao đổi. Môi trường sống, môi trường xã hội hiện nay có nhiều cám dỗ, lôi kéo, các
kênh thông tin quá đa dạng và sự tiến bộ của những trang thiết bị hiện đại mà chúng ta
không kiểm soát được cũng tác động xấu đến đạo đức và ý thức pháp luật của học
sinh. Nhiều gia đình học sinh có quan điểm lệch lạc, thiếu sự quan tâm đến con em
mình, thiếu sự hợp tác với các nhà trường. Sự sẵn sàng vào cuộc của gia đình, xã hội
với nhà trường trong việc giáo dục đạo đức pháp luật cho học sinh chưa cao. Những

chuẩn mực về đạo đức, thẩm mỹ chưa được hình thành và giáo dục một cách bài bản
và hệ thống.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học ...
Xuất phát từ thực trạng ý thức của học sinh học môn Giáo dục Công dân dẫn đên thực
trạng giảng dạy Giáo dục Công dân nói riêng và pương pháp dạy học nhằm giáo dục
pháp luật cho học sinh trong trương THCS còn nhiều hạn chề. Trong thời gian gần
đây, phương pháp dạy dọc môn GDCD đã có nhiều đổi mới song phần lớn giáo viên
vẫn còn nặng về truyền đạt kiến thức một chiều. Đặc biệt đối với các tiết có nội dung
pháp luật, do việc giáo viên hiểu còn hạn chế về nội dung luât nên phương pháp dạy
học chưa có nhiều đổi mới. Dạy học bằng tình huống còn đơn giản, giáo vên chưa sử
dụng hết các loại tình huống trong quá trình dạy học.
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công
Tuy nhiên trong những năm gần đây, ý thức của học sinh trong việc tuân thủ các nội
dung ở trường THCS Nguyễn Tuấn Thiện – Hương Sơn- Hà tĩnh đã gặt hái được
những thành công đáng kể: Khonng có hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật như học
sinh tham gia giao thộng có văn hóa, học sinh đã nhận thức sâu sắc các nội dung của
các tiết học về pháp luât. Không xẩy ra hiện tượng bạo lực học đường. Kết quả phân
loại hạnh kiểm của học sinh trong các năm học đạt loại ttots khá cao.
1.2.3.2 Những hạn chế

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

15


Ý thức học môn GDCD nói chung vá các tiết có nội dung pháp luật ở một bộ
phận học sinh chưa cao .
1.2.3.3 Nguyên nhân
Do xu thế của xã hội trong việc nhìn nhận vị trí của từng môn học, đặc biệt là
môn GDCD.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
NGUYỄN TUẤN THIỆN.
2.1. Xây dựng tình huống đơn giản:
Giáo viên có thể xây dựng tình huống đơn giản cho các tiết học:
Lớp 6: Bài 12: CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN TRẺ EM.
Lớp 7: QUYẾN ĐƯỢC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM VIỆT
NAM.
Với các tình huống như sau:
2.1.1. Có ý kiến cho rằng: chỉ có những trẻ em da trắng và da vàng mới có
những quyền trẻ em được quy định trong công ước quốc tế về quyền trẻ em, còn trẻ
em da đen ở những nước châu Phi thì không có những quyền này. Xin hỏi nhận
định như thế có đúng không?
Trả lời:
Công ước Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em là một công ước quốc tế quy định
các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của trẻ em. Công ước có hiệu
lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều đã tham
gia công ước (193 quốc gia, trừ Hoa Kỳ và Somalia). Các quốc gia phê chuẩn công
ước này chịu ràng buộc của các quy định công ước này theo luật quốc tế. Điều 2 của
công ước khẳng định rằng các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm những
quyền trẻ em được nêu ra trong công ước mà không có sự phân biệt, đối xử nào về
chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc….
Như vậy, trẻ em ở bất cứ quốc gia nào đã tham gia công ước đều được hưởng
những quyền trẻ em được ghi nhận trong công ước, không phụ thuộc vào màu da của
các em. Trẻ em da đen cũng như trẻ em da trắng, đều có các quyền bình đẳng như

nhau.
Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới tham gia Công ước liên hợp quốc về quyền
trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990. Ngay sau đó, Quốc hội Việt Nam đã ban hành
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào năm 1991 để ghi nhận các quyền trẻ em
trong công ước này.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

16

2.1.2 Chú Khang là hàng xóm nhà Tuyết. Bé Bi, con trai của chú Khang vừa
mới tròn 2 tuổi. Tuyết thường hay sang chơi với bé Bi. Có một lần Tuyết nghe thấy
bố mình hỏi chú Khang: “Em đã đăng ký khai sinh cho cháu Bi chưa?” Chú
Khang cười rồi trả lời: “ Em chưa anh ạ. Đợi đến lúc bé Bi đi học tiểu học thì đăng
ký cũng được. Vội gì!”
Hỏi: Trẻ em có quyền được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời không?
Pháp luật Việt Nam quy định về trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em như thế
nào?
Trả lời:
Được đăng ký khai sinh ngay sau khi ra đời là một quyền cơ bản của trẻ em.
Khoản 1, Điều 7 Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em ghi nhận rằng: "Trẻ em
phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc
tịch ngay từ khi chào đời…"
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 của Việt Nam đã khẳng định
rằng: Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc tịch. Cha mẹ, người giám hộ có
trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn; UBND cấp xã có trách nhiệm thực

hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em, vận động cha mẹ, người giám hộ khai sinh cho trẻ
em đúng thời hạn. Trẻ em của hộ nghèo không phải nộp lệ phí đăng ký khai sinh.
Điều 14 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2005 của Chính
phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch cũng quy định rõ : “Trong thời hạn 60 ngày, kể từ
ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha, mẹ không thể đi
khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em”.
Bé Bi đã tròn 2 tuổi mà chú Khang chưa đi đăng ký khai sinh cho bé là không
đúng. Việc này có thể làm ảnh hưởng đến các quyền lợi khác trong tương lai của bé
Bi.
3. Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em được pháp luật quy định như thế
nào?
Trả lời:
Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh
thần và đạo đức.
Trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em được Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục năm 2004 (Điều 24) quy định như sau:
- Cha mẹ, người giám hộ là người trước tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của trẻ em; khi gặp khó
khăn tự mình không giải quyết được, có thể yêu cầu và được cơ quan, tổ chức hữu
quan giúp đỡ để thực hiện trách nhiệm của mình trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ
em.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

17

- Cha mẹ, người giám hộ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình phải gương

mẫu về mọi mặt cho trẻ em noi theo; có trách nhiệm xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, tạo môi trường lành mạnh cho sự phát triên toàn diện của trẻ
em.
- Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm chăm lo chế độ dinh dưỡng phù hợp với
sự phát triển về thể chất, tinh thần của trẻ em theo từng lứa tuổi.
- Trong trường hợp ly hôn hoặc các trường hợp khác, người cha hoặc người mẹ
không trực tiếp nuôi dưỡng con chưa thành niên phải có nghĩa vụ đóng góp để nuôi
dưỡng con đến tuổi thành niên, có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục con theo quy định
của pháp luật.
2.1.3 "Sáng ngày 25/5, trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi của quận H thấy một
cháu bé khoảng 3 tuần tuổi bị bỏ rơi trước cửa trung tâm. Khắp người cháu bé bị
bầm tím và sưng tấy do bị kiến cắn. Manh mối duy nhất để lại là một mảnh giấy ghi
tên và ngày sinh của cháu. Công an đã nhanh chóng điều tra và tìm ra bố mẹ của
cháu. Được biết, vì khi sinh ra, cháu đã bị teo não, bố mẹ không muốn nuôi nên
đành bỏ cháu vào trung tâm".
Đọc xong tin trên, Minh (13 tuổi) thắc mắc, muốn biết những quyền trẻ em
nào đã bị vi phạm và hành vi bỏ rơi trẻ em như trên có bị pháp luật trừng trị
không?
Trả lời:
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, hành vi bố mẹ bỏ mặc
trẻ em vì lý do trẻ em bị bệnh nói trên đã vi phạm đến nhiều quyền cơ bản của trẻ em
bao gồm:
- Quyền được sống chung với cha mẹ: Trẻ em có quyền sống chung với cha mẹ.
Cha mẹ có trách nhiệm bảo đảm điều kiện để trẻ em được sống chung với mình.
- Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi
dưỡng để phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Cha mẹ là người trước
tiên chịu trách nhiệm về việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho
sự phát triển của trẻ em.
- Quyền được chăm sóc sức khoẻ: Trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức
khoẻ. Cha mẹ có trách nhiệm thực hiện việc chữa bệnh cho trẻ em.

Theo Điều 9, Nghị định 91/2011/NĐ-CP của Chính Phủ ban hành ngày 17 tháng
10 năm 2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em thì cha mẹ, người giám hộ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng
đối với một trong các hành vi sau đây:
- Sau khi sinh con, cha hoặc mẹ bỏ con, không chăm sóc, nuôi dưỡng;
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

18

- Cha, mẹ bỏ mặc con, người giám hộ cố ý bỏ rơi trẻ em ở nơi công cộng hoặc ép
buộc trẻ em không sống cùng gia đình, bỏ mặc trẻ em tự sinh sống, không quan tâm
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em, để trẻ em này rơi vào hoàn cảnh đặc biệt
theo quy định tại Điều 40 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;
- Cha, mẹ, người giám hộ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cắt đứt quan hệ
tình cảm và vật chất với trẻ em, trừ trường hợp cho trẻ em làm con nuôi hoặc bị buộc
phải cách ly trẻ em theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, để khắc phục hậu quả, pháp luật buộc cha, mẹ, người giám hộ thực
hiện nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em theo quy định của pháp luật do
thực hiện hành vi nói trên.
2.1.4. Khi Mai học hết tiểu học thì bố quyết định cho Mai nghỉ học để phụ giúp
mẹ bán hàng. Khi các cô bác ở hội phụ nữ phường đến động viên cho Mai được đi
học thì bố Mai cho rằng: bố mẹ có quyền quyết định việc học của con cái.
Xin hỏi; Bố mẹ có quyền quyết định việc học của con cái hay không? Trách
nhiệm bảo đảm quyền học tập của trẻ em được pháp luật Việt Nam quy định như
thế nào?
Trả lời:

Đối với trẻ em, học tập có ý nghĩa quan trọng. Trẻ em cần được học tập để trở
thành con ngoan, trò giỏi, người hữu ích cho gia đình, xã hội và tương lai sẽ trở thành
công dân tốt, người lao động tốt góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Vì vậy, Điều
16, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 đã khẳng định rằng: "Trẻ em
có quyền được học tập."
Gia đình, nhà trường và xã hội có trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập của
trẻ em. Trách nhiệm này được Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định tại
Điều 28 như sau:
- Gia đình, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em được thực hiện quyền
học tập; học hết chương trình giáo dục phổ cập; tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở
trình độ cao hơn.
- Nhà trường và các cơ sở giáo dục khác có trách nhiệm thực hiện giáo dục toàn
diện về đạo đức, tri thức, thẩm mỹ, thể chất, giáo dục lao động hướng nghiệp cho trẻ
em; chủ động phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em.
- Cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo dục phổ thông phải có điều kiện cần
thiết về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học để đảm bảo chất lượng giáo
dục.

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

19

- Người phụ trách Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong nhà trường phải
được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe, phẩm chất đạo đức
tốt, yêu nghề, yêu trẻ, được tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ.

Như vậy, theo các quy định của pháp luật, cha mẹ không có quyền bắt con cái bỏ
học mà phải tạo điều kiện để con cái thực hiện quyền được học tập của mình. Suy nghĩ
và hành động của bố Mai như thế là không đúng. Gia đình, nhà trường và xã hội có
trách nhiệm bảo đảm quyền được học tập của trẻ em.
2.1.5 “Ngày 23 tháng 10, trước cửa bệnh viện X, có một bé gái 5 tuổi nhăn
nhó vì đau ruột thừa. Em đã ngồi đây từ sáng nhưng vẫn chưa được vào khám vì
em không mang theo thẻ bảo hiểm y tế và mẹ em thì không có tiền để đóng phí
khám bệnh. Thật may mắn là sau khi được thông báo, Giám đốc bệnh viện đã ra
giải quyết vụ việc và tạo điều kiện cho em được khám bệnh. Em gái được phẫu
thuật và cứu sống ngay sau đó. Những nhân viên bệnh viện cản trở việc khám bệnh
của em cũng đã bị xử phạt theo pháp luật.”
Cường rất bức xúc khi đọc được tin tức trên và biết rằng hành vi đó đã vi
phạm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em. Em muốn biết hành vi cản trở,
không khám chữa bệnh cho trẻ em sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Quyền được chăm sóc sức khỏe là một quyền cơ bản của trẻ em được ghi nhận
trong Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004 cũng khẳng định : trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ sức khỏe; trẻ
em dưới sáu tuổi được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không
phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập.
Theo quy định tại Điều 8, Nghị định 91/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
ngày 17 tháng 10 năm 2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em thì hành vi cản trở, không khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em bị xử
lý như sau:
- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với
người đang chăm sóc, nuôi dưỡng, trông nom, dạy học cho trẻ em phát hiện ra trẻ em
bị bệnh hoặc có dấu hiệu bị bệnh mà không thông báo kịp thời cho gia đình hoặc
không đưa ngay trẻ em đến khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế gần nhất dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ em.
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi

sau đây:
+ Từ chối khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em theo quy định hoặc trong trường hợp
cấp cứu;
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

20

+ Thu tiền khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em dưới sáu tuổi trái với quy định của
pháp luật;
+ Không sử dụng trang thiết bị, phương tiện khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em
trong khi có điều kiện và được phép sử dụng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với trẻ
em.
- Tổ chức, cá nhân có các hành vi cản trở không khám chữa bệnh cho trẻ em sẽ bị
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ ba tháng đến sáu tháng đối với
cá nhân, tổ chức.
- Tổ chức, cá nhân có những hành vi nói trên sẽ phải chịu mọi chi phí khám, chữa
bệnh cho trẻ em.
- Tổ chức, cá nhân đã thu tiền khám, chữa bênh cho trẻ em dưới sáu tuổi trái với
quy định của pháp luật thì phải trả lại số tiền đã thu.
2.1. 6. Thư (13 tuổi) là một cô bé xinh xắn, hát rất hay và múa rất khéo. Vì
vậy, Thư thường được thầy cô và bạn bè cử đi tham gia các hoạt động văn nghệ của
trường, của huyện. Tuy nhiên, bố mẹ của Thư không cho phép bạn tham gia những
hoạt động văn nghệ đó vì cho rằng những hoạt động văn nghệ đó là vô bổ, sẽ làm
ảnh hưởng đến việc học của Thư.
Xin hỏi: Việc ngăn cấm đó có xâm phạm đến quyền trẻ em của Thư không?
Trả lời:

Trẻ em là những mầm non đang lớn, cần phải được tạo điều kiện phát triển toàn
diện. Hoạt động vui chơi, giải trí, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ sẽ giúp
các em thoải mái, thư giãn và khiến cho trẻ phát triển toàn diện hơn.
Theo nội dung của Điều 32, Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em thì trẻ em
có quyền được nghỉ ngơi, thư giãn, tham gia vui chơi, được giải trí và tự do tham gia
sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi.
Pháp luật Việt Nam ghi nhận rằng trẻ em có quyền được vui chơi, giải trí lành
mạnh, được hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với lứa
tuổi. (Điều 17, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004)
Đồng thời pháp luật cũng quy định gia đình phải có trách nhiệm tạo điều kiện để
trẻ em được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch
phù hợp với lứa tuổi.
Hành động của bố mẹ Thư như trên là chưa tôn trọng quyền được vui chơi, giải
trí, tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật của trẻ em. Bố mẹ cần tạo điều kiện để
Thư tham gia các hoạt động này.
2..2 : Xây dựng tình huống phức tạp:
Với các tình huống như sau:
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

21

2. 2. 1. Em H bị lây nhiễm HIV từ mẹ ngay lúc mới chào đời. Khi em lên 2
tuổi, gia đình đưa em đi học ở mẫu giáo. Tuy nhiên, Ban Giám hiệu trường mẫu
giáo đã từ chối tiếp nhận em H vì lý do em có thể làm lây nhiễm HIV cho người
khác.
Xin hỏi: Hành vi nói trên có xâm phạm đến quyền trẻ em của em H không?

Pháp luật quy định như thế nào về hành vi cản trở quyền học tập của trẻ em bị
nhiễm HIV/AIDS?
Trả lời:
Trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS phải chịu nhiều thiệt thòi hơn so với những trẻ em
bình thường khác khi mang trên người căn bệnh thế kỷ. Các em cần được xã hội quan
tâm nhiều hơn để vượt qua những khó khăn và mất mát của bản thân. Các em cũng có
đầy đủ các quyền trẻ em mà pháp luật ghi nhận.
Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm hành vi phân biệt, kỳ thị đối với trẻ em bị nhiễm
HIV. Điều 53, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em
nhiễm HIV không bị phân biệt đối xử; được nhà nước và xã hội tạo điều kiện để chữa
bệnh, nuôi dưỡng tại gia đình hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em.”
Việc từ chối tiếp nhận trẻ em bị nhiễm HIV đã xâm phạm đến quyền được học
tập của các em. Theo quy định tại Điều 22, Nghị định 69/2001/NĐ-CP của Chính phủ
ban hành ngày 8/8/2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về y tế dự phòng, môi
trường y tế và phòng chống HIV/AIDS, thì hành vi cản trở quyền được học tập của trẻ
em bị nhiễm HIV sẽ bị xử phạt như sau:
- Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi cản trở hoặc
từ chối tiếp nhận trẻ em, học sinh, sinh viên, học viên vào học trong các cơ sở giáo dục
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân vì lý do người đó nhiễm HIV hoặc là thành viên
trong gia đình có người nhiễm HIV;
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi kỷ luật, đuổi
học sinh, sinh viên, học viên vì lý do người đó nhiễm HIV hoặc là thành viên trong gia
đình có người nhiễm HIV;
Người thực hiện các hành vi nói trên bị buộc phải tiếp người bị nhiễm HIV vào
cơ sở giáo dục.
2.2.2. Pháp luật Việt Nam quy định về quyền được tiếp cận thông tin, được bày
tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội của trẻ em như thế nào? Người lớn có trách
nhiệm bảo đảm quyền này của trẻ em không?
Trả lời:
Trẻ em cũng là con người, là thành viên trong gia đình và xã hội. Các em cũng có

những tình cảm và suy nghĩ riêng và có quyền được bày tỏ ý kiến về những vấn đề có
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

22

liên quan đến các em. Quyền được bày tỏ ý kiến, được tham gia các hoạt động xã hội
thuộc nhóm quyền cơ bản của Công ước liên hợp quốc về quyền trẻ em. Thực hiện
quyền tham gia của trẻ em giúp cho mối quan hệ giữa người lớn và trẻ em được dân
chủ và bình đẳng. “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Hôm nay, trẻ em được tiếp
cận thông tin, được bày tỏ ý kiến về những vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em, được
tham gia vào các hoạt động xã hội thì ngày mai khi trưởng thành các em sẽ là những
con người nặng động, thích ứng được với những đòi hỏi của cuộc sống.
Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội của trẻ
em được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004:
“ Điều 20. Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã
hội
1. Trẻ em có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát triển của trẻ em,
được bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề mình quan tâm.
2. Trẻ em được tham gia hoạt động xã hội phù hợp với nhu cầu và năng lực của
mình.”
Đồng thời, luật cũng quy định trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền này của trẻ
em như sau:
- Gia đình, Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện, giúp đỡ trẻ em được
tiếp cận thông tin phù hợp, được phát triển tư duy sáng tạo và bày tỏ nguyện vọng; có
trách nhiệm lắng nghe và giải quyết nguyện vọng chính đáng của trẻ em.

- Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhà trường có trách nhiệm tổ chức
cho trẻ em tham gia các hoạt động xã hội và sinh hoạt tập thể phù hợp với nhu cầu và
lứa tuổi. (Điều 32, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004).
2.2.3 . Những hành vi nào là hành vi lạm dụng sức lao động trẻ em, sử dụng
trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại; làm
những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động theo pháp luật
việt Nam?
Trả lời:
Theo Điều 9, Nghị định 71/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 22 tháng
08 năm 2011 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, quy định hành vi lạm dụng lao động trẻ em, sử
dụng trẻ em làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm
những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động bao gồm những
hành vi sau:

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

23

- Cha, mẹ, người giám hộ, người nhận nuôi dưỡng trẻ em bắt trẻ em làm công
việc gia đình quá sức, quá thời gian, ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, giải trí, ảnh
hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em hoặc bắt trẻ em làm những công việc mà pháp
luật không cho phép.
- Người nhận dạy nghề cho trẻ em bắt trẻ em làm công việc quá sức, nặng nhọc,
quá thời gian, trong môi trường độc hại, nguy hiểm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
của trẻ em.

- Sử dụng lao động trẻ em không trả công hoặc trả công không tương xứng,
không có cam kết của cha, mẹ, người giám hộ, không có hợp đồng lao động theo quy
định của pháp luật; bắt trẻ em lao động quá sức, quá thời gian, nặng nhọc, trong môi
trường độc hại, nguy hiểm; sử dụng trẻ em làm những công việc trái với quy định của
pháp luật về lao động.
- Sử dụng trẻ em làm những công việc trong vũ trường, cơ sở xoa bóp, vật lý trị
liệu, sòng bạc, nhà hàng ka-ra-ô-kê, quán rượu, quán bia hoặc những nơi có nguy cơ
ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em.
- Sử dụng trẻ em để mua, bán, vận chuyển hàng giả, hàng cấm, hàng trốn thuế.
- Để trẻ em tham gia, sử dụng trẻ em trong sản xuất, kinh doanh, phổ biến sản
phẩm văn hóa, thông tin, truyền thông, đồ chơi, trò chơi, đồ dùng có nội dung bạo lực,
đồi trụy, nguy hiểm, không phù hợp hoặc có hại cho sự phát triển của trẻ em.
2.2 4.. Xin cho biết các hình thức và mức xử phạt đối với những hành vi lạm
dụng sức lao động sức lao động của trẻ em, sử dụng trẻ em vào những công việc
nặng nhọc nguy hiểm hoặc tiếp xúc với chất độc hại, làm những công việc khác trái
với quy định của pháp luật?
Trả lời:
Hành vi lạm dụng sức lao động sức lao động của trẻ, sử dụng trẻ em vào những
công việc nặng nhọc nguy hiểm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, tâm lý và sự phát
triển của trẻ em. Các hành vi nói trên bị xử lý theo Điều 15, Nghị định 91/2011/NĐCP của Chính phủ ban hành ngày ngày 17 tháng 10 năm 2011 quy định xử phạt vi
phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, như sau:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với
một trong các hành vi sau đây:
a) Cha, mẹ bắt con, người giám hộ bắt trẻ em mà mình giám hộ, người nhận nuôi
dưỡng trẻ em bắt trẻ em mà mình nuôi dưỡng làm công việc gia đình quá sức, quá thời
gian, ảnh hưởng đến việc học tập, vui chơi, giải trí, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
của trẻ em hoặc bắt trẻ em làm những công việc mà pháp luật không cho phép;

Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.



Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

24

b) Người nhận dạy nghề cho trẻ em bắt trẻ em làm công việc quá sức, nặng nhọc,
quá thời gian, trong môi trường độc hại, nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển
của trẻ em.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi sau đây:
a) Sử dụng trẻ em làm những công việc trong cơ sở xoa bóp, vật lý trị liệu, sòng
bạc, quán rượu, quán bia hoặc những nơi có nguy cơ ảnh hưởng xấu tới sự phát triển
nhân cách của trẻ em;
b) Để trẻ em tham gia, sử dụng trẻ em trong sản xuất, kinh doanh, phổ biến sản
phẩm văn hóa, thông tin, truyền thông, đồ chơi, trò chơi, đồ dùng có nội dung bạo lực,
đồi trụy, kinh dị, nguy hiểm, không phù hợp hoặc có hại cho sự phát triển của trẻ em.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trẻ
em để mua, bán, vận chuyển hàng giả, hàng trốn thuế, hàng hóa, tiền tệ trái phép qua
biên giới.
4. Hình thức xử phạt bổ sung:
Tịch thu hàng trốn thuế, hàng hóa, tiền tệ do thực hiện hành vi quy định tại khoản
3 Điều này.
5. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc cá nhân, tổ chức nộp lại số tiền có được do thực hiện hành vi quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều này;
b) Buộc cá nhân, tổ chức chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh cho trẻ em
do thực hiện hành vi quy định tại khoản 2 Điều này;
c) Buộc tiêu hủy sản phẩm văn hóa, thông tin, truyền thông, đồ chơi, trò chơi, đồ
dùng có nội dung bạo lực, đồi trụy, kinh dị, nguy hiểm không phù hợp hoặc có hại cho

sự phát triển của trẻ em do thực hiện hành vi quy định tại điểm b khoản 2 Điều này.”
2.3 Xây dựng tình huống đầy dủ:
2.3.1. Mạnh là học sinh lớp 7. Thời gian gần đây, Mạnh thường xuyên tiếp xúc
với những thanh niên có tiền án, tiền sự. Theo lời rủ rê của họ, Mạnh bỏ nhà đi
lang thang. Thậm chí, các thanh niên đó còn xúi giục Mạnh đi trộm cắp, móc túi để
lấy tiền cho họ chơi game và ăn uống.
Xin hỏi: hành vi dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em lang
thang để trục lợi; dụ dỗ trẻ em vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị như thế
nào?
Trả lời:
Trẻ em là những người còn non nớt về nhận thức nên thường là dễ bị lôi kéo, dụ
dỗ đi lang thang và làm những việc trái pháp luật. Hành vi lôi kéo trẻ em đi lang thang,
lợi dụng trẻ em lang thang để trục lợi, để xâm hại đến quyền được chăm sóc, bảo vệ
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


Tiểu luật kết thúc lớp BDKTPL

25

và được học tập của trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004
nghiêm cấm hành vi dụ dỗ, lôi kéo trẻ em đi lang thang; lợi dụng trẻ em đi lang thang
để trục lợi. Tùy tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà người vi phạm sẽ bị xử lý
hành chính hoặc xử lý hình sự, cụ thể:


Xử lý hành chính:

Theo Điều 10, Nghị định 91/2011/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày ngày 17

tháng 10 năm 2011 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em, hành vi hành vi dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, khống chế trẻ em đi lang thang; lợi
dụng trẻ em lang thang để trục lợi sẽ bị xử lý hành chính như sau:
- Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với cha, mẹ, người giám hộ
có hành vi bắt trẻ em đi lang thang kiếm sống.
- Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
sau đây:
+ Nói chuyện, viết, dịch, nhân bản, ghi âm, ghi hình sách, báo, tài liệu, tranh,
ảnh, băng, đĩa hoặc hành vi khác nhằm dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, khống chế trẻ em bỏ
nhà đi lang thang. Đồng thời buộc tiêu hủy sách, báo, tài liệu, tranh, ảnh, băng, đĩa
nhằm dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, khống chế trẻ em bỏ nhà đi lang thang
+ Dùng tiền, vật chất, uy tín hoặc lợi ích khác để dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, khống
chế trẻ em đang sinh sống cùng với gia đình bỏ nhà đi lang thang.
- Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành
vi tập hợp, chứa chấp trẻ em lang thang để bán vé số, sách, báo, tranh, ảnh, bán hàng
rong hoặc các hoạt động khác nhằm mục đích trục lợi. Cá nhân, tổ chức phải nộp lại số
tiền có được do thực hiện hành vi này.
• Xử lý hình sự
Điều 252 Bộ Luật Hình Sự quy định về tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người
chưa thành niên phạm pháp như sau:
- Người nào dụ dỗ, ép buộc người chưa thành niên hoạt động phạm tội, sống sa
đoạ hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp, thì bị phạt tù từ một năm đến
năm năm.
- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười hai năm:
+ Có tổ chức;
+ Dụ dỗ, ép buộc, chứa chấp, lôi kéo nhiều người;
+ Đối với trẻ em dưới 13 tuổi;
+ Gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;
+ Tái phạm nguy hiểm.

- Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh
phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở Trường Trung học Cơ sở.


×