Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.52 KB, 25 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THPT

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên:

Phan Thị Hồng

Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung,
chất lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung,
mảng kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển
nhân cách, rèn giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc
biệt, trong điều kiện phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng


với trình độ phát triển cao của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì
việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực (trong đó có phương pháp dạy
học tình huống) là việc làm cần thiết đối với giáo viên dạy môn Giáo dục công
dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà
trường phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến
phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân
trong nhà trường phổ thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công.
Tuy nhiên, phương pháp dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo
lối truyền thống, dạy chay học chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng,
cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy
học tích cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu
quả cao, làm tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng
lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,…
Giáo dục công dân là môn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn

2


thiện nhân cách học sinh. Việc áp dụng phương pháp dạy học tình huống vào
giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương
pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông
qua dạy học môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu
tình huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên
cứu việc áp dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật
thuộc môn Giáo dục công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển

năng lực thực tiễn, thái độ, hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường
THPT Lê Quý Đôn huyện Thạch Hà Tĩnh Hà Tĩnh
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo
dục công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng
dạy học môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THPT Lê Quý
Đôn huyện Thạch Hà Tĩnh Hà Tĩnh

3


- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường THPT Lê Quý Đôn huyện Thạch Hà Tĩnh Hà Tĩnh

- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục
công dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường phổ thông THPT Lê Quý Đôn huyện Thạch Hà Tĩnh
Hà Tĩnh
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực
tiễn giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng

kết lý thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát
điều tra, đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác
như phỏng vấn sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.

4


7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo
viên GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học
sinh.
8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học (Gợi ý)
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định
nghĩa về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối

hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực,
tự lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích
của giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh
nhằm đảm bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò,
trong quá trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu,
mà kết quả là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương
pháp dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng
giữa dạy và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
5


Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học,
chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về
mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học.
Trong sự thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp
học có tính độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng
phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp
học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và
bằng lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và
kiểm tra, đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai
chức năng này gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong
thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo.
Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài
giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng
thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì vậy phương

pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các
giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải
tiếp thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng
của thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức,
tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết
nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó
theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và
tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như
hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy
với học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi
hoạt động truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói
6


cách khác, dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp,
bảo đảm được cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương
pháp học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và
sơ bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến
nó thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.

Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó
là vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo
trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ
đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu
thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các
phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn
với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức
hợp được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống
thực tế. Tình huống dạy học là những tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình
huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.

7


“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan
của bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có
thể giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học
tập là những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện
chứng giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu
thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi
anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi
chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này
kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có

vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định
sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu
ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của
con người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu
giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm
tòi sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức,
phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến
thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học
là: tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học
sinh ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả
năng của mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải
quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực
của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của
việc nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức
mới hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
8


Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng
túng về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những
tri thức và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải
quyết vấn đề không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.

* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong
đó giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu
thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ
chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi,
tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành
kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho
các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó
nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức
cần thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa
biết cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng,
phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo
nên nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh
chấp nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học
sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục
đích cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.

9


Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong
những phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng
cả về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên

không đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với
nội dung hoặc không sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng
được cách giải quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm
trung tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu
và dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo
luận, người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những
kiến thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người
học có thể rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên
rất mau quên thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được
vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao
khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền
thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và
học sinh, trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp
nhận tri thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường
học tích cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với
nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra
quyết định để giải quyết tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến
thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan điểm đó. Họ không bị phụ thuộc
vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà
có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình
10


huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học
được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú

hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên
kết, vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học
viên có thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng
một môn học hoặc của nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống
giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản
thân chưa đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên
không loại trừ khả năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí
cả người dạy chưa gặp bao giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định
hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được vận
dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được
những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho cả người học lẫn người
dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có
thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và
thuyết trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành
công trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra
những ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để
so sánh với các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ
có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những
học viên khác. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển
các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu;
phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh
hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan
điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý
kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong
phú hơn vốn kiến thức của mình.
11



Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến
thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp
dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có
khả năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng
trong học tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người
học”. Thông qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp
cận và giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm
thông tin và trở thành người có thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi
đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú
của phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình
huống, học sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào
cần được nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học
sinh đối với việc học vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm
hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa
học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu
tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời những câu hỏi được đặt ra trong
buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học
bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học
sinh, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải
pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của
mình, nhất là từ những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình
hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra
những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội
dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình

huống còn có một số điểm hạn chế nhất định.
12


Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy
bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm
khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội
và kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ
không hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình
huống mong muốn, nhất là trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ
và đến từ những vùng miền khác nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong
việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học,
thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động.
Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học
bằng tình huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không
hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của
người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian
nhất định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh,
hệ thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học
bằng tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin
nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương pháp học truyền thống.
Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực,
luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện
đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và pháp luật thay đổi một cách
nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới
xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần đã phải thay đổi cho
phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi”

vì trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là
một ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ
năng phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng,
đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo
13


luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo
viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử
dụng tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá
trình thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học.
Tùy thuộc vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức
tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới
dạng các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này
thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong
bài thuyết giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức
mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang
nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức
tạp hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên
lớp giờ thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc
một số vấn đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học
mới. Các tình huống này cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu
hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để
định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của
bài học”.

Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp
nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để
học sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các
vụ việc trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này
yêu cầu học sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải
thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn
đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học sinh là người làm việc chính
14


và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh. Về nội dung, tình huống này có
độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít nhất ba vấn đề xuyên suốt trong
một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo
viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo
độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể
xây dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ
việc mà trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình
huống này rất tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho
học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt
không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược
lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một kết quả cố định. Học sinh vẫn
có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ định hướng cho học sinh tới
kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm
cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn
đề nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình
xây dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với
quy trình giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được

mô tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền
đạt tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo
viên muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác
hay cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh
hiểu và áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên
15


xây dựng nên những vấn đề mà thông thường chính là những câu hỏi xuất phát
từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi
hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề
nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ
xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình huống hoàn chỉnh. Ở bước
cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ
nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết
một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức
mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của
vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình.
Thứ hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng
nên một tình huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình
huống tốt như phân tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá
trình dạy học bằng tình huống .
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU


2.1 Thực trạng chung về tình hình dạy học môn Giáo dục công dân ở
Trường phổ thông THPT Lê Quý Đôn huyện Thạch Hà Tĩnh Hà Tĩnh
Trường đã tổ chức thực hiện giảng dạy môn giáo dục công dân đầy đủ theo
đúng quy định của chương trình, có lồng ghép giáo dục pháp luật vào bộ môn.
Tuy nhiên thực tế việc dạy và học môn giáo dục công dân ở trường còn nhiều
khó khăn, bất cập nên hiệu quả giáo dục của môn học còn thấp, số học sinh dưới
trung bình còn cao. Môn giáo dục công dân từ trước đến nay chưa được coi
trọng, nhiều giáo viên, học sinh, Cha mẹ học sinh vẫn xem đây là môn học phụ.
Nguyên nhân: thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên
nhân chủ yếu sau:
- Giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ, vị trí vai trò của môn học, còn xem
nhẹ nên chưa chú trọng đầu tư công sức, thời gian để dạy tốt
- Trang thiết bị dạy học, các điều kiện khác phục vụ dạy học còn thiếu thốn, lạc
hậu gây khó khăn cho việc đổi mới phương pháp dạy học.

16


- Tâm lý chung của mọi người trong đó có cha mẹ học sinh cho rằng là môn học
phụ , kết quả học tập không quan trọng lắm nên chưa chú ý động viên con em
tích cực học tập
2.2 Thực trạng sử dụng Phương pháp dạy học nói chung, Phương pháp dạy
học tình huống (hay nghiên cứu tình huống) nói riêng trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở trường phổ thông THPT Lê Quý Đôn huyện
Thạch Hà Tĩnh Hà Tĩnh
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều phương
pháp khác nhau. Tuy nhiên vấn đề là dùng phương pháp nào đem lại hiệu quả
giảng dạy tối ưu, học sinh chiếm lĩnh tri thức nhanh nhất và khắc sâu kiến thức
nhất. Thông thường khi giảng bài này giáo viên thường đưa ra các tình huống
liên quan đến bài học, giáo viên phân tích tình huống và giảng giải sau đó yêu

cầu học sinh rút ra kiến thức cơ bản của bài học. Nhưng nếu các đơn vị kiến
thức trong bài đều sử dụng một phương pháp thì tiết học sẽ trở nên nhàm chán,
không kích thích được sự hứng thú của học sinh.Tuy nhiên cũng bằng phương
pháp tình huống được sử dụng một cách sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp
làm việc theo nhóm để phát huy tính chủ động, tự giác, sáng tạo từ phía học trò
bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp.

Mức độ vận dụng
Thường
Thỉnh
Không

17

xuyên

thoảng

bao giờ

(%)

(%)

(%)


1. PP thuyết trình
2. PP vấn đáp
3. PP trực quan

4. PP phân vai
5. PP hợp tác làm việc theo nhóm
6. PP dạy học tình huống (Nghiên
cứu tình huống)
7. PP project
8. Các phương pháp khác

TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài
nghiên cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và
Việt Nam, giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác
giả đã trình bày làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học
như khái niệm, cấu trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và
khả năng vận dụng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường
phổ thông hiện nay.

CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC THPT LÊ
QUẾ ĐÔN HUYỆN THẠCH HÀ
2.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
Trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ nêu lên thực tiễn áp
dụng ở Bài 2 và Bài 6 của chương trình GDCD lớp 12 - THPT.
Khi sử dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy nếu giáo viên chỉ cho học
sinh thảo luận các tình huống trong sách giáo khoa thôi thì bài học sẽ mang tính
18


kinh viện và chỉ đạt được một mục đích của bài là về kiến thức còn về thái độ,
kỹ năng là chưa có. Xuất phát từ thực tiễn trên khi sử dụng phương pháp này

giáo viên cần xây dựng các tình huống phải sát với thực tiễn cuộc sống và gần
gũi với nhận thức, tâm lý lứa tuổi học sinh.
Ví dụ: Khi giảng bài 2: Thực hiện pháp luật. Mục: “Vi phạm pháp luật và trách
nhiệm pháp lý” giáo vin yêu cầu học sinh giải quyết tình huống sau:
“ Nam (19 tuổi) đi xe mô tô đến một ngã tư, mặc dù có báo hiệu đèn đỏ
nhưng vẫn không dừng lại. Do không tuân theo chỉ dẫn của tín hiệu đèn nên
đã bị cảnh sát giao thông bắt dừng lại và yêu cầu xuất trình giấy tờ. Nam đã
xuất trình đầy đủ giáy tờ cần thiết nhưng cảnh sát giao thông vẫn lập biên
bản và yêu cầu nộp phạt. Nam cho rằng cảnh sát giao thông xử phạt không
có tình, có lý. Vì thực tế đường vắng, Nam không gây tai nạn cho ai và xuất
trình đầy đủ giấy tờ hợp pháp.
Hỏi: a. Hành vi của Nam có vi phạm pháp luật không? Vì sao?
b. Nếu là hành vi vi phạm pháp luật thì đó là vi phạm pháp luật gì?
Sau khi giáo viên đưa ra tình huống, học sinh nghiên cứu tình huống, thảo luận,
đưa ra ý kiến của mình và cuối cùng giáo viên kết luận. Như vậy việc tạo ra tình
huống để học sinh tự giải quyết, học sinh sẽ hứng thứ hơn, không lệ thuộc vào
sách vở sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh. Tiết học sẽ đạt hiệu quả cao
hơn.
Bên cạnh đó, cũng bằng phương pháp tình huống được sử dụng một cách
sáng tạo hơn, kết hợp với phương pháp làm việc theo nhóm tôi phát huy tính chủ
động, tự giác, sáng tạo từ phía học sinh bằng cách yêu cầu học sinh chuẩn bị bài
trước khi đến lớp.
Ví dụ: Khi dạy Bài: Công dân với các quyền tự do cơ bản. Giáo viên phân
công cho mỗi nhóm 1 tình huống được chuẩn bị sẵn ở nhà. Giáo viên chia lớp
thành 5 nhóm ứng với mỗi đơn vị kiến thức trong bài học
Nhóm 1: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?

19



Nhóm 2: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Giải thích
vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 3: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Nhóm 4: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền được bảo đảm
an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Giải thích vì sao em
cho là vi phạm ?
Nhóm 5: Chuẩn bị một tình huống về hành vi vi phạm quyền tự do ngôn
luận của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm ?
Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị trước ở
nhà. Tư liệu tham khảo có thể là sách báo, Iternet, hay có thể lấy những tình
huống mà các em đã bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ chủ động làm việc
theo nhóm. Kết quả chuẩn bị bài của mỗi nhóm sẽ được giáo viên phân tích,
đánh giá và cộng vào điểm miệng nhằm động viên khích lệ tinh thần học tập của
các em. Khi giảng tới mỗi phần kiến thức đó, học sinh đại diện cho nhóm mình
trình bày trước lớp kết quả chuẩn bị bài của nhóm mình. Sau đó giáo viên sẽ
phân tích, giảng giải và yêu cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học.
Bản thân tôi đã áp dụng phương pháp này khi giảng dạy ở một số lớp và kết quả
là các nhóm đều đưa ra được các tình huống phù hợp với nội dung, ví dụ khi giảng
dạy ở lớp 12K.
* Tình huống của nhóm 1: “Do nghi ngờ An lấy cắp xe máy của mình nên
Minh đã trình báo với công an xã yêu cầu giải quyết. Dựa vào lời khai của
Minh nên công an xã đã ngay lập tức bắt An”.
Trong tình huống trên công an xã đã vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân
thể của công dân. Cụ thể: Công an xã bắt người khi không có căn cứ chứng tỏ
An là người lấy cắp điện thoại.
Tình huống của nhóm 2: “Phong và Mai cưới nhau đã 2 năm. Nhưng
Phong vốn là người hay nhậu nhẹt. Nay tuy đã có con nhưng Phong hầu như

không làm gì để phụ vợ nuôi con mà vẫn thói nào tật ấy, say xỉn tối ngày. Đã
20


thế, rượu vào là Phong chửi vợ, có khi Phong còn đánh đập và đuổi vợ ra
khỏi nhà. Nhiều lần Phong còn đe dọa giết vợ”.
Như vậy, Phong đã xúc phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm của vợ mình.
Đây là những hành vi trái với quy định của pháp luật về quyền được pháp
luật bảo hộ và tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hiến
pháp năm 2013 đã ghi rõ và quy định thành nguyên tắc trong bộ luật hình sự
nước ta.Quyền này có nghĩa là: Công dân có quyền được pháp luật bảo đảm an
toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm mà không ai được xâm
phạm tới.
+ Không ai được đánh người, đặc biệt nghiêm cấm những hành vi hung hãn,
côn đồ, đánh người gây thương tích, làm tổn hại đến sức khỏe của người khác…
+ Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng của người khác như
giết người, đe dọa giết người, làm chết người.
+ Không ai ,dù ở bất cứ cương vị nào có quyền xâm phạm tới danh dự và
nhân phẩm của người khác.Trong xã hội ta, danh dự và nhân phẩm của cá
nhân được tôn trọng và bảo vệ.
Mọi hành vi xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng, danh dự, và nhân phẩm của
công dân đều vừa trái với đạo đức xã hội,vừa vi phạm pháp luật, phải bị xử lí
theo pháp luật.
Tình huống của nhóm 3: “Bị một tên trộm ăn cắp điện thoại, hai người
đàn ông đuổi theo, được một lúc rồi bỗng mất hút, không biết tên trôm chạy
đi đâu. Một người nói: Chắc nó chạy vào nhà ông Tài rồi, ta vào đó xem đi.
Đến trước nhà ông Tài, hai người yêu cầu ông Tài cho vào khám nhà để tìm
tên trộm. Ông Tài không thấy đứa nào chạy vào đây nên không đồng ý cho
hai người vào nhà. Nhưng hai người cứ xông vào nhà ông Tài khám xét

khắp nơi trong nhà.
Trong tình huống trên, hai người đàn ông đã vi phạm pháp luật. Vì pháp luật
quy định không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu như không được
người đó đồng ý. Chỉ trong những trường hợp được pháp luật cho phép và phải
21


có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được khám xét chỗ ở
của một người.
Như vậy, qua việc tự tạo ra các tình huống ta thấy rõ sự hứng thú của học
sinh trong việc vận dụng kiến thức vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn. Đây là
một phương pháp rất hiệu quả trong vấn đề giảng dạy. Qua đó, học sinh không
những tìm ra được mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn mà còn tăng thêm tính
chủ động, sự tìm tòi, khám phá nhằm lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh việc tự tạo ra tình huống và giải quyết tình huống của nhóm mình
thì mỗi nhóm có thể tham gia giải quyết tình huống với các nhóm còn lai bằng
việc bổ sung những vấn đề còn thiếu. Như vậy tất cả các nhóm có thể tham gia
được công việc một cách hiệu quả nhất.
2.2. Cách thức tổ chức thực hiện
Sự thành công của một tiết học phần lớn phụ thuộc vào phương pháp giảng
dạy của giáo viên và việc tích cực tiếp thu bài của học sinh, tuy nhiên không thể
không kể đến cách thức tổ chức lớp học của giáo viên.Vậy khi sử dụng phương
pháp tình huống ta phải tổ chức lớp học như thế nào để đem lại hiệu quả.
Quy định về các nguyên tắc thực hiện cho học sinh . Một lớp học không
phải tất cả học sinh đều có ý thức tự giác trong học tập nên nếu không quy định
nguyên tắc thực hiện thì những học sinh không tự giác sẽ không làm việc. Chính
vì vậy trong các giờ áp dụng phương pháp tình huống trong giảng dạy tôi luôn
phải đề ra các quy định cho các nhóm cụ thể là: Tất cả học sinh phải tham gia
cùng với nhóm. Nếu là tình huống được giao chuẩn bị tại nhà thì một bạn đọc
tình huống, bạn khác chỉ ra lý do chọn tình huống trên, các bạn khác giải quyết

tình huống. Giáo viên sẽ hỏi bất cứ lúc nào và hỏi bất kì học sinh nào, nếu học
sinh trong nhóm đó không trả lời được thì cho nhóm khác bổ sung và như vậy
nhóm đó sẽ mất điểm. Quy định như vậy để học sinh thấy được trách nhiệm của
mình đối với nhóm. Ngoài ra giáo viên phải quy định rõ về thời gian làm việc
cho từng nhóm để tránh tình trạng học sinh trình bày lan man, không đảm bảo
thời gian cho tiết học.

22


Ngoài ra đối với những tình huống giáo viên đưa ra, giáo viên nên để học
sinh nghiên cứu tình huống và giải quyết tình huống bằng hàng loạt các câu hỏi
do giáo viên đưa ra. Một tình huống có thể sử dụng xuyên suốt nội dung bài học
hoặc được triển khai ở các bước khác nhau tuỳ thuộc vào cách đặt câu hỏi của
giáo viên. Làm được điều đó chính là cách để giáo viên cung cấp tính liên kết
nội dung bài học.
2.3. Kết quả thực nghiệm.
- Trong quá trình giảng dạy tôi đã tiến hành thực nghiệm ở 12K và đối chứng ở
lớp 12N. Kết quả như sau:
Lớ



p

số

Điểm
0->


3.5- > 5

5- > 6.5

6.5 - >

8.0

8

->10

3.5

12

50

K

hs

S

T

S

T


S

T

S

T

S

T

L

L

L

L

L

L

L

L

L


L

0

0

0

0

1

2

2

5

1

2

1

2

5

0


4

8

%
12

50

N

hs

0

0

4

%

%

8

1

3

2


4

%

5

0

3

6

6

%

%

%

8

1

- Ở lớp 12K các em học sinh đều tỏ ra hứng thú khi học môn GDCD, các em
hăng hái thảo luận những tình huống giáo viên đưa ra và nghiêm túc chuẩn bị
những tình huống giáo viên giao một cách có hiệu quả. Phần lớn các em nắm
vững nội dung cơ bản của bài học.
2.4 MỘT VÀI KINH NGHIỆM KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH

HUỐNG CÓ VẤN ĐỀ.
Qua thực tiễn giảng dạy môn GDCD tôi nhận thấy sử dụng phương pháp
tình huống là một trong những tích hợp nhiều phương pháp khác nhau trong quá
trình giảng dạy của người giáo viên. Tuy nhiên đây là phương pháp có nhiều ưu
23


thế trong quá trình thực hiện đổi mới. Và bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm
sau:
Thứ nhất, để có những tình huống hay, mang tính thời sự người giáo viên
phải thường xuyên thu thập các thông tin trên báo chí, phương tiện thông tin đại
chúng hay ở ngay địa phương mình sinh sống nhưng cần điều chỉnh để phù hợp
với nội dung bài học.
Thứ hai, nguồn cung cấp tình huống đa dạng phong phú phải kể đến học
sinh. Học sinh có thể đưa ra được những tình huống sát thực với thực tế và giáo
viên cần điều chỉnh cho phù hợp. Nếu là tình huống hay, giáo viên nên cộng
điểm cho học sinh để khuyến khích, động viên kịp thời nhằm phát huy được tính
tích cực của học sinh.
Thứ ba, phải xây dựng được các tình huống gắn với thực tiễn để học sinh
thảo luận, từ đó học sinh nêu lên kiến thức một cách tự nhiên mà không lệ thuộc
vào sách giáo khoa
Thứ tư, cho học sinh thảo luận để tạo ra các tình huống liên quan đến nội
dung bài học nhằm rèn luyện kĩ năng vận dụng các kiến thức đã học vào giải
quyết các vấn đề thực tiễn.
Cuối cùng, sau khi học sinh đưa ra các tình huống, giáo viên yêu cầu học
sinh nghiêm túc thảo luận tình huống mình nêu, các nhóm khác theo dõi, bổ
sung. Kết quả trình bày tình huống phải được giáo viên nhận xét, đánh giá (có
thể cho điểm hoặc không). Đồng thời, phải rút kinh nghiệm về tinh thần, thái độ
làm việc của từng nhóm, từng thành viên.
KẾT LUẬN

Qua thực tiễn cùng với một số kinh nghiệm tích lũy được trong suốt quá trình
giảng dạy, bản thân tôi đã bước đầu thu nhận được những kết quả đáng mừng từ
việc vận dụng một cách linh hoạt phương pháp tình huống theo cách riêng của
mình khi giảng dạy một số bài trong chương trinh GDCD lớp 12
Bằng việc tự nghiên cứu chuẩn bị bài trước, học sinh phải tự tìm hiểu ,
thâm nhập thực tiễn đầy sinh động đang diễn ra hàng ngày, học sinh có thể tự
24


rèn luyện cho mình khả năng phân tích, đặc biệt là khả năng ứng dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống. Đây cũng là mục đích, yêu cầu sư phạm của môn
học này.
Tuy nhiên nếu người giáo viên không linh hoạt, nhạy bén khi sử dụng
phương pháp này phù hợp thì bài giảng sẽ trở nên khô khan, khó hiểu như vốn dĩ
người ta vẫn nhận xét về môn học này, các kiến thức sẽ mang tính hàn lâm,
.

25


×