Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.08 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông trong dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THPT Lý Tự Trọng
Thạch Hà –Hà Tĩnh

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: TRẦN ĐỨC TÀI
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A

Hà Tĩnh, năm 2015

1


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất
lượng giáo dục đại học nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói chung, mảng
kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn
giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện
phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao
của hoạt động dạy học và giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy


học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối
với giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
1.3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà trường
phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung, đến phương pháp
cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục công dân trong nhà trường phổ
thông những năm gần dây gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy
học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học
chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng, cho ghi chép.
1.4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy học tích
cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm
tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các
vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh,… Giáo dục công dân là môn
học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp
dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn: “Sử dụng phương pháp dạy
học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh phổ thông qua dạy học
môn Giáo dục công dân” làm tiểu luận khoa học
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên cứu tình
huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu nghiên cứu việc áp
dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức pháp luật thuộc môn Giáo dục
công dân với mục đích góp phần hình thành và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ,
hành vi đúng đắn cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại trường THPT
Lý Tự Trọng
4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

2



Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn Giáo dục
công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học
môn Giáo dục công dân.
5. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THPT Lý Tự Trọng
Thạch Hà –Hà Tĩnh
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo dục công
dân ở trường THPT Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà Tĩnh
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo dục công
dân
5.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường phổ thông Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà Tĩnh
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào thực tiễn
giảng dạy môn GDCD hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và tổng kết lý
thuyết.
6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát điều tra,
đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp khác như phỏng vấn
sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan điểm về
PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của giáo viên
GDCD
7.3. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, sinh viên, học sinh.

8. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, phụ lục, Tiểu luận kết cấu thành 02 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương II: Tiến trình thực hiện nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu
NỘI DUNG

3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong
dạy học môn GDCD ở trường Trung học
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định nghĩa về
phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp
thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt
tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục đích của
giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học sinh nhằm đảm bảo
cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò, trong quá
trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên cứu, mà kết quả là trò
lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương pháp dạy
học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy rằng giữa dạy và học
có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp học, chúng là
hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với nhau về mục đích, tác
động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình dạy học. Trong sự thống nhất
này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn phương pháp học có tính độc lập tương
đối, chịu sự chi phối của phương pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở
lại đối với phương pháp dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương pháp học
cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra, đánh
giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này gắn bó
hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên
chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai
chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy
vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc

4


tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho phương
pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa phải
tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp thu nội
dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy mà tự lực
chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra đánh giá ). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của
bài giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong
phương pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của dạy với học,
và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của mỗi hoạt động truyền

đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong học. Nói cách khác, dạy học tối
ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc
ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học
ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó
thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận
dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ đạo trong
cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá trình học sẽ đạt kết quả
cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu thuẫn
xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các phương án giải
quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh gắn với câu chuyện có cốt

5


truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính phức hợp được viết ra để minh chứng

một vấn đề hay một số vấn đề của cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những
tình huống thực hoặc mô phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục
đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải quyết
được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những tình
huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái (kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải
quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện khi anh ta
chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế, khi chưa thể đạt tới
mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống này kích thích con người
tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt
động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động
tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo của con
người gặp chướng ngạy nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có nhu cầu giải quyết
mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước, mà bằng tìm tòi sáng tạo tích
cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội được kiến thức, phương pháp giành kiến
thức và cả niềm vui sướng của người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy học là:
tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó khăn, học sinh ý thức
được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm thấy với khả năng của mình thì
hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là
tình huống đó kích thích hoạt động nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và
giải quyết vấn đề đã đề xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên cứu
và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương thức

hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.

6


Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng về
cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức và kỹ
năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề không
đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà trong đó
giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp mâu thuẫn khách
quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải tìm, tự họ chấp nhận và có nhu
cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là
họ giành được kiến thức và cả phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó cho các
em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải quyết nó nhưng đồng
thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do thiếu kiến thức cần thiết nhưng
thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh chưa biết cần
tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo nên nhu
cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học sinh chấp nhận mâu
thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh.

Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới (mục đích cần đạt
được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một trong những phương
pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức rộng cả về
lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì giáo viên không đưa ra
được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng không đúng với nội dung hoặc không
sát thực tế. Từ đó làm cho người học không định hướng được cách giải quyết tình
huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học làm trung
tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ
nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người

7


học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một
cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học lý thuyết, người học có thể rơi vào tình
trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp
giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với
quá trình giải quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả
năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học truyền thống, quá
trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa giáo viên và học sinh, trong
đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì
phương pháp dạy học bằng tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương

tác giữa học sinh và giáo viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được
đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ
phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ quan
điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo viên khi giải quyết
một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải quyết sáng tạo. Bên cạnh
đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm
cho nhau; học được những ý kiến, quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm
phong phú hơn vốn tri thức của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận
dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải
vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của
nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp
người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ
kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả
năng phát sinh những tình huống mà người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao
giờ. Trong tình huống này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy
độc lập, sáng tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả
năng người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức cho
cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể
rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết
trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công trong
tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu điểm và hạn
chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác
trong quá trình giải quyết tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc
nhóm, tranh luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình

8



huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông một cách
khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic; hiểu biết thực tế sâu
rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các tình huống thực tế; biết phản
biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp
nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm
phong phú hơn vốn kiến thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức, kỹ
năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu được áp dụng tốt có thể
đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng
nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của
học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá nhân người học”. Thông qua việc
phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn
đề khác nảy sinh trong tương lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có
thể tự định hướng học tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của
phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên
cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học
vì nó kích thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu,
tìm ra giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình.
Sau khi thảo luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh, đồng thời
họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp mới từ học viên
để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất là từ những học
sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo. Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình
huống, giáo viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình

huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình huống
còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng dạy bằng
tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều quan điểm khác nhau
tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn kiến thức xã hội và kinh nghiệm
của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo luận về tình huống sẽ không hướng theo con

9


đường và dẫn đến một kết cục như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là
trong những lớp học mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác
nhau, và giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự học, thái
độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng động. Tuy nhiên,
hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương pháp học bằng tình huống, họ
không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu
quả của phương pháp dạy học bằng tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian của người
học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng thời gian nhất định,
giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối hoàn chỉnh, hệ thống, logic
cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong phương pháp học bằng tình huống, học
sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp
nhiều lần so với phương pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình
huống đòi hỏi giảng viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến
thức và kỹ năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình huống rất
ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng dạy được một lần

đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ ngơi” vì
trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để làm. Đây là một ý
kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi những kỹ năng phức tạp
hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học, bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức
và khuyến khích người học thảo luận, dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện…
Đây thật sự là những thách thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng
phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử dụng
tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong quá trình thuyết
giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài học. Tùy thuộc vào từng
bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức độ phức tạp của nó thành những
loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống dưới dạng
các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình huống này thường chỉ
khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể dùng ngay trong bài thuyết giảng của

10


giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và
(2) kích thích học sinh tư duy tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp hơn
Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước khi lên lớp giờ thuyết
giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao gồm một hoặc một số vấn đề nhằm
gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết giảng của một bài học mới. Các tình huống này
cần được giao trước cho học sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các
tình huống không cần quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu

và ghi nhớ những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức tạp nhất
và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này là để học sinh áp
dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải quyết các vụ việc trong thực
tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại tình huống này yêu cầu học sinh không
những phải nghiên cứu tài liệu được giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị
theo yêu cầu của giáo viên. Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình
huống, trong đó học sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho
học sinh. Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về sự chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống theo độ
mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên có thể xây dựng
các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở là các vụ việc mà trong đó
lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau. Loại tình huống này rất tốt trong
việc kích thích khả năng tư duy và rèn luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý
các tình huống thuộc loại này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là
cách thức để đi đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới
một kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo viên sẽ
định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống này rất tốt để giáo
viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một vấn đề
nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy, quy trình xây
dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều ngược lại với quy trình giải
quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình này có thể được mô tả bằng các bước
sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.


11


Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần truyền đạt
tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào đó giáo viên muốn
học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái niệm khác hay cũng có thể là
một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào
thực tiễn. Dựa trên những kiến thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà
thông thường chính là những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp
thu. Việc giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở các vấn
đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình thành một tình
huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có hai cách để xây dựng
tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên những vụ việc đã xảy ra và đã
được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có những vụ việc liên quan tới những nội dung
kiến thức mà giáo viên đang muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết
của vụ việc đó rồi điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ
hai, nếu không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt như phân
tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong quá trình
dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn
GDCD ở trường Trung học phổ thông Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà Tĩnh
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng các PPDH nhằm giáo dục pháp luật cho học
sinh trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học phổ thông Lý Tự Trọng Thạch
Hà –Hà Tĩnh

+Đã và đang thực hiện trong nhà trường 100% được dạy và phổ biến pháp luật
1.2.3 Những thành công và hạn chế
1.2.3.1 Những thành công
+Các em ngoan hơn
+Chấp hành luật giao thông hơn
+Ít vi phạm nội quy hơn
+Đặc biệt là ý thức ngày càng tiến bộ
1.2.3.2 Những hạn chế
+Các em còn mơ hồ
+Nói đến pháp luật các em còn chủ quan

12


+Một số nhỏ ý thức chưa cao
1.2.3.3 Nguyên nhân
+Có thể lồng ghêp chưa tốt
+Gia đình xã hội chưa quan tâm đúng mức
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
TIỂU KẾT CHƯƠNG I
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới và Việt Nam,
giải thích những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài. Đặc biệt, tác giả đã trình bày
làm nổi bật các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học như khái niệm, cấu
trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương pháp và khả năng vận dụng vào
giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các nhà trường phổ thông hiện nay.
Chương 2
THỰC NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH
HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN TỪ ĐÓ HÌNH
THÀNH Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT NHƯ LUẬT HÔN NHÂN GIA

ĐÌNH,LUẬT DÂN SỰ ... TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG LÝ TỰ
TRỌNG THẠCH HÀ –HÀ TĨNH
2.1. KẾ HOẠCH THỰC NGHIỆM
2.1.1. Mục đích thực nghiệm
Việc tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
trong dạy học phần công dân với pháp luật trong chương trình Giáo dục công dân tại
trường Trung học phổ thông Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà Tĩnh nhằm xác định sự đúng
đắn và hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống trong việc phát huy tính
tích cực của học sinh trong học tập phần công dân với pháp luật trong chương trình
Giáo dục công dân .
2.1.2. Phương pháp thực nghiệm
Trong quá trình thực nghiệm để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của
phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả sử dụng phương pháp điều tra số liệu
thông qua phát phiếu thăm dò để khảo sát trình độ lớp đối chứng và lớp thực nghiệm,
tiến hành giảng dạy các lớp đã lựa chọn, kiểm tra đánh giá kết quả lớp dạy, tác giả
phân tích, tổng hợp số liệu thu thập được sau khi giảng dạy. Trên cơ sở phân tích số
liệu đó tác giả rút ra kết luận về hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống.
2.1.3. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm
Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống tác giả lựa chọn học sinh của
các lớp 10A1 và lớp 10A2 trường Trung học phổ thông Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà

13


Tĩnh. Trong các lớp được lựa chọn thì lớp 10A1 là lớp thực nghiệm còn lớp 10A2 là
lớp đối chứng.
Ngoài ra còn thực nghiệm 12A1,12A2......
Thời gian tiến hành thực nghiệm là từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2015.
2.1.4. Nội dung thực nghiệm
Nội dung được lựa chọn để tiến hành thực nghiệm là phần công dân với đạo

đức thuộc chương trình Giáo dục công dân lớp 10và 12, Trong phần công dân với
pháp luật tác giả lựa chọn 3 bài để tiến hành thiết kế giáo án thực nghiệm bao gồm các
bài:
- Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình (tiết 1)
- Bài 4 lớp 12 Quyền bình đẳng công dân trong 1 số lĩnh vực đời sống
xã hội
- Bài 6 lớp 12 Công dân với các quyền tự do cơ bản
2.2. TIẾN TRÌNH THỰC NGHIỆM
2.2.1. Khảo sát khối lớp đối chứng với khối lớp thực nghiệm
Khối lớp dự kiến dạy đối chứng là lớp 10A2 và khối lớp dự kiến dạy thực
nghiệm là lớp 10A1 của trường THPT Lý Tự Trọng Thạch Hà –Hà Tĩnh.khối
12A1,12A2...
Lớp 10A1: sĩ số lớp là 41 có 33 nữ và 8 nam. Học lực giỏi 5, khá 16, trung bình
là 20. Hạnh kiểm tốt là 37, khá 4. Điểm trung bình môn Giáo dục công dân: từ 8.0 trở
lên là 28 em, 6.5 trở lên là 13 em.
Lớp 10 A2: sĩ số lớp là 42 có 25 nữ và 17 nam. Học lực loại giỏi 2, khá 15, trung
bình 25. Hạnh kiểm tốt là 38, khá 3 và trung bình là 1. Điểm trung bình môn Giáo dục
công dân: từ 8.0 trở lên là 33 em, 6.5 trở lên là 09em.
Lớp 12a1 sĩ số 44 có 30 nữ và 14 nam.12A2.........
Qua khảo sát lớp đối chứng và lớp thực nghiệm ta thấy sức học của hai lớp này tương
đối đồng đều, đây là điều kiện thuận lợi để thực nghiệm sư phạm.
2.2.2. Thiết kế giáo án vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống
Thiết kế giáo án có vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong phần
công dân với đạo đức chúng tôi lựa chọn có hai bài với hai tiết:
Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình ( tiết 1 phần tình yêu)
* Thiết kế giáo án lớp đối chứng.
Giáo án lớp đối chứng chúng tôi dạy theo phương pháp thuyết trình và đàm thoại trên
cơ sở giáo án đã thiết kế sẵn.
* Thiết kế giáo án lớp thực nghiệm.
Trên cơ sở các bài học lựa chọn, chúng tôi thiết kế giáo án theo hướng vận dụng

phương pháp dạy học bằng tình huống để thực hiện.

14


Cụ thể như sau:
Thiết kế giáo án thực nghiệm số 1
Bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình(tiết 1)
I. Mục tiêu bài học
1. Về kiến thức
Hiểu được thế nào là tình yêu và tình yêu chân chính, từ đó có những hiểu biết về
những điều cần tránh trong tình yêu.
2. Về kỹ năng
Học sinh có thể sử dụng các kiến thức đã học, nhận xét, lý giải, phê phán một số
quan điểm, thái độ, hành vi,…trong xã hội trong quan hệ tình yêu.
3. Về thái độ
Đồng tình và ủng hộ những quan niệm, những hành động đúng và tiến bộ đồng
thời phê phán những nhận thức và hành vi lệch lạc, sai trái trong tình yêu.
II. Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
Bài này vừa có tính lý luận và thực tiễn nên cần kết hợp nhiều phương pháp:
Phương pháp dạy học bằng tình huống, thuyết trình, diễn giảng, nêu vấn đề, vấn
đáp.
III. Tài liệu và phương tiện dạy học
Giấy khổ to để ghi các tình huống, một số tranh ảnh, hình vẽ dùng để giáo dục
sức khỏe sinh sản vị thành niên hoặc giáo dục dân số.
Máy vi tính, một số băng đĩa phục vụ cho nội dung bài học. Ca dao, tục ngữ nói
về tình yêu.
IV. Hoạt động dạy và học
1. Ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ

Câu hỏi:
Câu 1: Thế nào là nhân phẩm, danh dự? Vì sao người nghiện ma túy khó giữ nhân
phẩm, danh dự của mình?
Câu 2: Hãy phân biệt tự trọng và tự ái?
Câu 3 .Nếu nghiện và buôn bán ma túy có vi phạm pháp luật không ?
3. Vào bài:
Trong cuộc đời mỗi người chắc có lẽ ai cũng có một lần yêu, một lần nhớ nhung
một bóng hình ai đó. Tình yêu chân chính chắc chắn sẽ dẫn đến hôn nhân và xây dựng
gia đình hạnh phúc. Vậy để biết được thế nào là tình yêu, hôn nhân, gia đình ta vào bài
học hôm nay.
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung bài học
GV hỏi: Trong cuộc sống con người 1. Tình yêu

15

Ghi chú


thường có những loại tình cảm nào?
HS trả lời:
GV giảng giải thêm: Trong cuộc sống con
người có nhiều loại tình cảm như tình bạn,
tình cảm gia đình, tình đồng chí, tình yêu.
Trong bài này ta chỉ đề cập đến tình yêu
nam nữ.
GV hỏi tiếp: Theo các em tại sao tình yêu
lại được nhiều nhà thơ, nhà văn ca ngợi?
HS trả lời?
GV khẳng định thêm: Vì tình yêu là một

loại tình cảm đặc biệt, nó đẹp, thi vị, lãng
mạng và nó mang tính phổ biến.
Có rất nhiều định nghĩa về tình yêu của các
nhà văn nhà thơ như Xuân Diệu thì nói:
“Yêu là chết ở trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được người yêu”.
Đại văn hào Ban Giắc thì nói “Tình yêu bắt
đầu bằng ánh mắt, nảy nở bằng nụ cười,
trưởng thành bằng nụ hôn và kết thúc bằng
nước mắt”. Các nhà thơ thì nói vậy, còn
theo em tình yêu là gì?
HS trả lời:
GV: Kết luận bằng khái niệm tình yêu
trong sách giáo khoa.
GV gảng thêm: Tình yêu là chuyện riêng
của cá nhân song tình yêu chịu ảnh hưởng
của các quan điểm xã hội vì trước hết nó
phụ thuộc vào kinh nghiệm sống, quan
niệm của những người yêu nhau mà quan
niệm này lại phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể, xã hội cụ thể.
VD xã hội phong kiến quan niệm nam nữ
khi yêu nhau thì “nam, nữ thụ thụ bất
thân”.
GV hỏi: Theo em kết quả của tình yêu chân
chính là gì?

16

a. Tình yêu là gì?

10 phút
Tình yêu là sự rung cảm,
quyến luyến sâu sắc giữa
hai người khác giới, ở họ
có sự phù hợp về nhiều
mặt làm cho họ có nhu
cầu gần gũi gắn bó nhau,
tự nguyện sống vì nhau
và sẵn sàng hiến dâng
cho nhau cuộc sống của
mình.


HS trả lời:
GV giải thích thêm: Kết quả của tình yêu
chân chính là hôn nhân. Khi kết hôn phải
đăng ký kết hôn, sau khi kết hôn ta sinh
con, đẻ cái thì xã hội phải chăm lo giáo
dục, chăm sóc sức khỏe, tạo việc làm.
GV hỏi: Tình yêu mang tính xã hội, vậy
theo em xã hội có quyền can thiệp vào tình
yêu của cá nhân không? Tại sao?
HS trả lời:
GV giải thích thêm: Xã hội không có quyền
can thiệp vào tình yêu của cá nhân nhưng
có trách nhiệm hướng dẫn mội người có
quan niệm đúng đắn về tình yêu đặc biệt là
những người bắt đầu bước sang tuổi thanh
niên.
GV chuyển ý: Khi chúng ta yêu thì luôn

mong muốn tình yêu được lâu bền nhưng
làm thế nào để giữ được tình yêu lâu bền?
HS trả lời:
GV giảng giải thêm: Để tình yêu được lâu
bền thì tình yêu đó phải là tình yêu chân
chính. Vậy để biết tình yêu chân chính là
như thế nào ta vào phần tiếp theo của bài.
GV hỏi: Thế nào là tình yêu chân chính?
HS trả lời:
GV hỏi: Để có được tình yêu chân chính thì
biểu hiện đầu tiên ta cần có là gì?
HS trả lời:
GV giảng thêm: Biểu hiện đầu tiên là có
tình cảm chân thực, sự quyến luyến, cuốn
hút sự gắn bó của cả hai người. Khi xa
nhau ta sẽ thấy nhớ, luôn mong muốn gần
gũi không muốn xa nhau. Ca dao có câu
“Vắng cơm ba bữa còn no, vắng em một
khắc giở dò không lên”.
GV hỏi: Theo em có phải người đó đẹp mới

17

15 phút
b. Tình yêu chân chính
Tình yêu chân chính là
tình yêu trong sáng, lành
mạnh, phù hợp với các
quan niệm đạo đức tiến
bộ của xã hội.

Biểu hiện:
- Có tình cảm chân thực,
sự quyến luyến gắn bó từ
hai phía.
- Sự quân tâm sâu sắc
đến nhau không vụ lợi
- Sự chân thành, tin cậy,
tôn trọng lẫn nhau.
- Lòng vị tha, sự thông
cảm và giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ.


cuốn hút hay không hay vì đặc điểm khác?
HS trả lời:
GV bổ sung thêm: Điều quan trọng trong
tình yêu không phải chỉ là hình thể mà là sự
quan tâm sâu sắc đến nhau không vụ lợi.
Sự quan tâm được thể hiện ở sự chia sẻ khó
khăn, sự chia sẻ cảm xúc lúc buồn vui.
Tình yêu chân chính thì không có yếu tố
danh lợi trong đó.
GV hỏi: Trong tình yêu có hiện tượng ghen
tuông, theo em nguyên nhân là do đâu?
HS trả lời:
GV bổ sung thêm: Nguyên nhân chính là
do thiếu sự chân thành, tin cậy, tôn trọng từ
hai phía.
GV đăt ra một tình huống: Bạn Yến có
người yêu nhưng chẳng mai bạn trai Yến

do vi phạm pháp luật bị phạt tù 3 tháng nếu
em là Yến em sẽ làm gì? Vì sao?
HS trao đổi và giải quyết tình huống.
GV nhận xét và bổ sung thêm: Nếu là tình
yêu chân chính thì phải có lòng vị tha và sự
thông cảm, phải biết tha thứ và gúp đỡ
nhau vượt qua khó khăn.
Gv chuyển ý: Khi yêu ai cũng mong muốn
mình có tình yêu đẹp, chân chính, muốn
vậy cần phải tránh một số điều. Vậy đó là
những điều gì? Để biết được ta vào phần
tiếp theo.
GV chia lớp thành 3 nhóm với 3 tình huống
cho các em giải quyết:
Nhóm 1 với tình huống: Bạn Lan học lớp
10, nhóm bạn của Lan ai cũng có người yêu
và nói với Lan rằng “tuổi thanh niên đẹp và
ngắn ngủi không yêu sớm sẽ uổng phí”.
Nếu em là Lan em sẽ làm gì? Vì sao?
Nhóm 2 với tình huống: Bạn Thúy đang có

18

10 phút
C. Một số điều cần tránh
trong tình yêu nam nữ
thanh niên.
- Yêu đương quá sớm
- Yêu một lúc nhiều
người và vụ lợi trong

tình yêu.
- Có quan hệ tình dục
trước hôn nhân.


người yêu Nhưng các bạn của Thúy khuyên
Thúy nên quen thêm vài bạn trai nữa để dễ
có sự lựa chọn. Nếu em là Thúy em sẽ làm
gì? Vì sao?
Nhóm 3 với tình huống: Bạn Hồng có
người yêu và bạn trai Hồng trong lúc đi
chơi đã nói với Hồng là “yêu nhau thì phải
cho nhau tất cả từ thể xác đến tâm hồn”
Trong trường hợp là Hồng em sẽ làm gì?
Tại sao em lại làm như vậy?
HS các nhóm thảo luận và giải quyết tình
huống.
GV nhận xét về cách giải quyết tình huống
và bổ sung thêm băng các nội dung trong
sách giáo khoa.
4. Củng cố
Chúng ta đã tìm hiểu về tình yêu, tình yêu chân chính và những điều cần tránh
trong tình yêu nam nữ thanh niên. Với kiến thức của bài này sẽ là một hành trang rất
tốt để các em chưa yêu có thể xây dựng cho mình một tình yêu trong sáng, còn những
em nào đã yêu thì sẽ vung đắp cho tình yêu của mình tốt đẹp hơn.
5. Dặn dò
Các em về nhà học bài, làm bài tập số 1, tìm 5 câu ca dao, tục ngữ nói về tình
yêu và xem trước phần còn lại của bài 12.
Thiết kế giáo án thực nghiệm số 2
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số

lĩnh vực của đời sống xã hội ( tiết 1)

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong bài này, HS cần đạt được:
1. Về kiến thức
- Nêu được nội dung một số quyền bình đẳng của công dân trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội
- Nêu được trách nhiệm của Nhà nước đối với việc bảo đảm cho công dân thực
hiện quyền bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
2. Về thái độ

19


- Có ý thức thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong từng lĩnh vực
và đấu tranh với các hành vi vi phạm quyền bình đẳng của công dân
3. Về kĩ năng
- Biết thực hiện và nhận xét việc thực hiện quyền bình đẳng của công dân trong
các lĩnh vực hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN VÀ CÁC KỸ NĂNG SỐNG GIÁO DỤC CHO
HỌC SINH
1. Tài liệu
- SGK, SGV 12
- Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 12
- Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD 12
- Tình huống GDCD 12, Bài tập trắc nghiệm GDCD 12, Hiến pháp 1992.
- Những tài liệu khác liên quan đến pháp luật
2. Phương tiện
- Giấy khổ lớn, bút dạ
- Phiếu học tập, tranh ảnh, sơ đồ

- Bảng hoạt động nhóm, máy tính, máy chiếu
- Phương tiện khác liên quan
3. Các kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh: kỹ năng tự học; kỹ năng tư duy
phê phán, kỹ năng lắng nghe tích cực; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng giải quyết
mâu thuẫn; kỹ năng thuyết trình; kỹ năng tự nhận thức; kỹ năng hợp tác; kỹ năng thích
ứng; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng đặt mục tiêu, lập kế hoạch; kỹ năng ứng phó với căng
thẳng; kỹ năng xác định giá trị; kỹ năng thương lượng; kỹ năng đánh giá; kỹ năng từ
chối;...
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Kiểm tra bài cũ:
1, Thế nào là công dân bình đẳng về quyền và nghĩa vụ ? Cho ví dụ minh họa
2, Thế nào là công dân bình đẳng về trách nhiệm pháp lí ? Cho ví dụ minh họa
2. Giới thiệu bài mới
GV tiến hành giới thiệu bài 4: “Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh
vực của đời sống xã hội”
3. Dạy bài mới (tiết 1)
Họat động của GV và HS
Tình huống 1.
Anh Tuấn chị Thoa lấy nhau có đăng ký
kết hôn sinh được 1 cháu trai được 2 năm
do đời sống không hòa hợp nên xin ly hôn

20

Nội dung cơ bản
1. Bình đẳng trong hôn nhân và gia
đình
a) Thế nào là bình đẳng trong hôn
nhân và gia đình



khi ra tòa anh thắng nói con là do phụ nữ
nuôi vì con theo me?
- Hôn nhân
- Gia đình
- Mục đích của việc hôn nhân và và xây
Câu 1 .Anh thắng nói vậy đúng hay sai?
dựng gia đình
- Bình đẳng trong hôn nhân và gia đình
được hiểu là bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền giữa vợ, chồng và giữa các thành
Câu 2.Là chủ tọa phiên tòa em giải quyết viên trong gia đình trên cơ sở nguyên tắc
thế nào cho đúng luật hôn nhân gia đình?
dân chủ, công bằng, tôn trọng lẫn nhau,
không phân biệt, đối xử trong các quan
hệ ở phạm vi gia đình và xã hội.

b) Nội dung bình đẳng trong hôn nhân
và gia đình
Tình huống 2
Anh bình chi hoa lấy nhau được 3 năm anh
làm bác sỷ chi nội trợ gia đình sống với
nhau nhưng không hợp nển đòi ly hôn khỉ
ra tòa anh nói tài sãn trong nhà do anh làm
ra nên là của anh?

* Về bình đẳng giữa vợ và chồng
- Nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân
và gia đình nước ta là hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; vợ

chồng bình đẳng
- Bình đẳng giữa vợ và chồng được hiểu
là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong
gia đình
- Thể hiện:
Câu 1 .Anh Bình nói vậy đúng hay sai?
+ Vợ chồng tôn trọng và giữ gìn danh
dự, uy tín cho nhau, tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau
Câu 2 .nếu xữ án em nên xữ thế nào cho + Vợ chồng giúp đỡ, tạo điều kiện cho
đúng luật?
nhau phát triển về mọi mặt
+ Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung
+ Vợ chồng có quyền đại diện cho nhau,
thừa kế tài sản của nhau theo quy định

21


Tình huống 3 .
Anh Tình và chi Tú lấy nhau 10 năm
không có con sau đó xun con nuôi .Sau 1
năm lai sinh 1 cháu bé từ đó anh tình
thường hay đánh con nuôi hơn làng xóm
can ngăn anh bảo nó là con nuôi thì thích là
đánh?

Câu 1 Theo luật hôn nhân gia đình con

nuôi giống con đẻ không?

Câu 2 .Em cần làm gì để bảo vệ em bé
đúng luật?

Họat động của GV và HS

của pháp luật
- Bình đẳng giữa vợ và chồng mang tính
xã hội, nghĩa là người phụ nữ có quyền
vươn lên về tri thức, địa vị xã hội, việc
làm như nam giới
* Về bình đẳng giữa cha, mẹ và con
- Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự
phân biệt đối xử giữa các con, giữa con
trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con
trong giá thú và con ngoài giá thú.
- Thể hiên:
+ Cha mẹ (kể cả cha dượng, mẹ kế có
nghĩa vụ và quyền ngang nhau trong việc
trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con, tôn
trọng ý kiến của con.
+ Con có bổn phận yêu quý, kính trọng,
biết ơn và hiếu thảo với cha, mẹ. Con có
nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
cha, mẹ
+ Con có quyền có tài sản riêng. Con từ
đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lí
tài sản riêng.

+ Con trai và con gái đều được cha, mẹ
chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như
nhau để học tập, lao động vui chơi, giải
trí và phát triển
* Về bình đẳng giữa anh, chị, em và giữa
các thành viên khác trong gia đình
- Anh, chị, em có bổn phận yêu thương,
chăm sóc, giúp đỡ .
Nội dung cơ bản
2. Bình đẳng trong lao động

Tình huống 2:
b) Nội dung bình đẳng trong lao động
Anh Cường làm việc ở công ty X do ốm
đau nên anh nghỉ theo chế độ sau 1 tháng
thì đi làm đến nơi lai nhận được quyết định

22


nghĩ việc?
- Em có nhận xét gì về hành động của
Giám đốc công ti X ?
- Theo em, anh B có quyền thỏa thuận với
giám đốc về những nội dung khác được ghi
trong hợp đồng không ?
Nhóm 2,5: Thảo luận tình huống để làm rõ
nội dung công dân bình đẳng trong giao kết
hợp đồng lao động
- Các điều khoản được thỏa thuận giữa

anh Cường và Giám đốc Xí nghiệp trong
hợp đồng lao động trên có đúng pháp luật
không ?
- Quyết định của Giám đốc Xí nghiệp cho
anh Cường nghỉ việc như vậy có đúng
không ?
-Anh Cường có được bảo vệ quyền lợi của
mình không ?
GV? Từ những tình huống trên hãy cho
biết hợp đồng lao động là gì ? Hợp đồng
lao động có những nội dung cơ bản nào ?
Thế nào là bình đẳng trong giao kết hợp
đồng lao động ?
Nhóm 3, 6: Thảo luận tình huống để làm rõ
nội dung công dân bình đẳng trong lao
động nam và lao động nữ
- Vì sao Ban Giám đốc công ti nơi Chị
Thủy làm việc lại làm như vậy ?
- Bình đẳng trong lao động nam và lao
động nữ là gì ?
HS thảo luận, thống nhất ý kiến, trả lời
GV bổ sung, kết luận, ghi bảng
HS ghi ý chính
(GV giáo dục các kỹ năng sống: kỹ năng
thuyết trình; kỹ năng thảo luận; kỹ năng tư
duy phê phán; kỹ năng giải quyết mâu
thuẫn; kỹ năng ra quyết định; kỹ năng giao

23


* Công dân bình đẳng trong thực hiện
quyền lao động
- Quyền lao động là quyền của công dân
được tự do sử dụng sức lao động của
mình trong việc tìm kiếm, lựa chọn việc
làm, có quyền làm việc cho bất kì người
sử dụng lao động nào và bất cứ nơi nào
mà pháp luật không cấm nhằm mang lại
thu nhập cho bản thân và gia đình, mang
lại lợi ích cho xã hội
- Công dân bình đẳng trong thực hiện
quyền lao động có nghĩa là, mọi người
đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn
việc làm và nghề nghiệp phù hợp với khả
năng của mình, không bị phân biệt đối
xử về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo, nguồn gốc gia đình, thành phần
kinh tế.
* Công dân bình đẳng trong giao kết hợp
đồng lao động
- Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận
giữa người lao động và người sử dụng
lao động về việc làm có trả công, điều
kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên trong quan hệ lao động
- Tuân theo nguyên tắc: tự do, tự nguyện,
bình đẳng; không trái pháp luật và thỏa
ước lao động tập thể; giao kết trực tiếp
giữa người lao động và người sử dụng
lao động.

* Bình đẳng giữa lao động nam và lao
động nữ
- Bình đẳng về cơ hội tiếp cận việc làm
- Bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi
tuyển dụng


tiếp; kỹ năng lắng nghe tích cực)

- Được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc
về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo
hiểm xã hội, điều kiện lao động và các
điều kiện làm việc khác
- Một số quy định riêng cho lao động nữ

Họat động của GV và HS

Nội dung cơ bản
3. Bình đẳng trong kinh doanh

Tình huống 1.Chị hoa mở quán kinh doanh
hàng ăn được 1 tháng còn bán thêm động
vật quý hiếm quả lý đến khuyên giải bà chỉ
đăng ký bán hàng ăn vì vậy không được
bán động vật?

b) Nội dung bình đẳng trong kinh
doanh
* Quyền bình đẳng trong kinh doanh
bao gồm những nội dung cơ bản sau:


- Công dân có quyền chọn hình thức tổ
Câu 1.Theo em ở đây ai đúng ?
chức kinh doanh tùy theo sở thích và
năng lực của mình
- Doanh nghiệp có quyền đăng kí kinh
Câu 2.Căn cứ vào bộ luật dân sự em giải doanh trong khuôn khổ của pháp luật
quyết thế nào?
- Các doanh nghiệp bình đẳng trong việc
khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh
- Các doanh nghiệp bình đẳng về quyền
mở rộng quy mô ngành nghề kinh doanh,
tìm kiếm thị trường, liên doanh với các
tổ chức cá nhân khác
- Mọi doanh nghiệp đều có quyền bình
đẳng về nghĩa vụ trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh
Thiết kế giáo án thực nghiệm số 3
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản

I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
Học xong bài này, HS cần đạt được:

24


1. Về kiến thức
- Nêu được khái niệm, nội dung, ý nghĩa của một số quyền tự do cơ bản của công
dân

- Trình bày được trách nhiệm của nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và
thực hiện các quyền tự do cơ bản của công dân
2. Về thái độ
- Có ý thức bảo vệ quyền tự do cơ bản của mình và tôn trọng quyền tự do cơ bản
của người khác
- Phê phán những hành vi vi phạm quyền tự do cơ bản của công dân
3. Về kĩ năng
- Biết thực hiện các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân
II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG TIỆN VÀ CÁC KỸ NĂNG SỐNG GIÁO DỤC CHO
HỌC SINH
1. Tài liệu
- SGK, SGV 12
- Hướng dẫn thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 12
- Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD 12
- Tình huống GDCD 12, Bài tập trắc nghiệm GDCD 12, Hiến pháp 1992.
- Những tài liệu khác liên quan đến pháp luật
2. Phương tiện
- Giấy khổ lớn, bút dạ
- Phiếu học tập, tranh ảnh, sơ đồ
- Bảng hoạt động nhóm, máy tính, máy chiếu
- Phương tiện khác liên quan
3. Các kỹ năng sống cần giáo dục cho học sinh: kỹ năng tự học; kỹ năng tư duy
phê phán, kỹ năng lắng nghe tích cực; kỹ năng giải quyết vấn đề; kỹ năng giải quyết
mâu thuẫn; kỹ năng thuyết trình; kỹ năng tự nhận thức; kỹ năng hợp tác; kỹ năng thích
ứng; kỹ năng giao tiếp; kỹ năng đặt mục tiêu, lập kế hoạch; kỹ năng ứng phó với căng
thẳng; kỹ năng xác định giá trị; kỹ năng thương lượng; kỹ năng đánh giá; kỹ năng từ
chối;...
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Kiểm tra bài cũ:

2. Giới thiệu bài mới
GV tiến hành giới thiệu tiết 1, bài 6: “Công dân với các quyền tự do cơ bản”
3. Dạy bài mới (tiết 1)
Họat động của GV và HS

Nội dung cơ bản

25


×