Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Vai trò của hội nông dân và hội phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân huyện vĩnh lộc – tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.3 KB, 98 trang )

Lời cảm ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban
giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, các
thầy cô giáo đã dạy dỗ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và tu dưỡng tại
trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Ths. Mai Lan
Phương, giảng viên của bộ môn Phát triển nông thôn đã tận tình giúp đỡ và trực
tiếp hưỡng dẫn tôi trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Uỷ ban nhân dân huyện Vĩnh
Lộc, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn phòng Uỷ ban nhân dân,
Hội nông dân, Hội Phụ nữ huyện cùng bạn bè và người thân đã tận tình giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực tập và nghiên cứu.
Do trình độ và thời gian có hạn, nên luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô giáo và
các độc giả để khóa luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2010
Sinh viên

Phạm Khắc Lực

i


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Việt Nam có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn và gần 70% lao động
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Với chức năng cơ bản là tạo ra sản phẩm
lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, phát triển nông nghiệp có ý nghĩa
quan trọng đối với xã hội.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp


nói riêng có những bước phát triển đáng kể, hiệu quả sản xuất không ngừng
được nâng cao, đời sống của nông dân ngày càng được cải thiện. Đóng góp vào
những thành quả này, ngoài đúng đắn của những chủ trương chính sách đúng
đắn của Đảng, sự chung sức đồng lòng của toàn xã hội, các tổ chức chính trị - xã
hội đặc biệt là Hội Nông dân và Hội phụ nữ có một vai trò không nhỏ.
Vĩnh Lộc là huyện trung du của tỉnh Thanh Hóa, có quy mô diện tích, dân
số trung bình so với toàn tỉnh. Huyện có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi
để phát triển nông nghiệp, du lịch và công nghiệp – xây dựng. Tuy vậy, Vĩnh
Lộc vẫn là một huyện nghèo, với thu nhập bình quân đầu người chỉ vào khoảng
620USD năm 2009 ( bằng khoảng gần 1/2 của cả nước). Sản xuất nông nghiệp ở
trình độ thấp, mang tính tự cung tự cấp, thiếu kinh nghiệm, thiếu trình độ khoa
học kỹ thuật, thiếu thông tin về thị trường. Do vậy, trong hoạt động sản xuất
nông nghiệp rất cần có sự quan tâm của chính quyền và các tổ chức để nâng cao
đời sống cho các hộ nông dân, từ đó góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
Tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức xã hội thuộc hệ thống chính trị của
một quốc gia, không kể các đảng chính trị cầm quyền và các cơ quan nhà nước
hiện hành, nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Hội nông dân và Hội phụ nữ là hai
tổ chức chính trị xã hội nằm trong khối đoàn thể ở địa phương. Hội nông dân là
tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân Việt Nam, có nhiệm vụ đoàn kết

ii


tập hợp đông đảo nông dân vào tổ chức Hội, chăm lo, bảo vệ quyền lợi và lợi ích
chính đáng, hợp pháp của hội viên. Hội Phụ nữ là tổ chức chính trị - xã hội của
phụ nữ nước ta, là tổ chức đại diện cho lợi ích hợp pháp của phụ nữ, thực hiện
quyền bình đẳng, nâng cao năng lực, kiến thức về mọi mặt của phụ nữ, góp phần
khẳng định vị thế của vị thế trong gia đình và xã hội. Hội nông dân và Hội phụ
nữ là những tổ chức có lịch sử hình thành và quá trình phát triển lâu dài, có vai

trò trong sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp Đổi mới của đất nước.
Hội nông dân và Hội phụ nữ chịu sự quản lý của huyện ủy và chịu sự chỉ
đạo trực tiếp của Hội nông dân và Hội phụ nữ tỉnh. Tỷ lệ hội viên của các tổ
chức Hội sơ với dân số đạt cao, điều này chứng tỏ ở địa phương các tổ chức Hội
phát triển. Đội ngũ cán bộ của Hội có trình độ chuyên môn cao với tỷ lệ cao
đẳng, đại học là trên 60%, tỷ lệ Đảng viên đạt 100%. Trong hoạt động của mình,
các tổ chức Hội đã hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác Hội đặt ra trong nhiệm kỳ.
Trong các hoạt động của Hội, hoạt động hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế, tạo
việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội
địa phương là hoạt động chủ yếu của Hội và có ảnh hưởng tới hội viên hơn cả.
Trong hoạt động sản xuất nông ngiệp của các hộ nông dân vai trò của các tổ
chức Hội được thể hiện qua việc hỗ trợ các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất, vốn, hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo nghề phụ.
Vốn là yếu tố cơ bản, ban đầu trong sản xuất kinh doanh. Các yếu tố của
vốn là lãi suất, mức vay, thời gian đáo hạn; ngoài ra thủ tục vay, hình thức cho
vay cũng ảnh hưởng tới vốn. Nguồn vốn cho vay của Hội Nông dân và Hội phụ
nữ chủ yếu từ Ngân hàng Chính sách xã hội và Ngân hàng NN&PTNT, ngoài ra
còn có nguồn từ quỹ hội và các dự án được triển khai trên địa bàn. Hình thức
cho vay chủ yếu là tín chấp. Nguồn vốn này được sử dụng để đầu tư vào sản
xuất, giải quyết các khó khăn hiện tại. Qua nghiên cứu cho thấy, phần lớn nông

iii


dân hài lòng với hoạt động này do có lãi suất thấp, mức vay khá, thời gian vay
dài và thủ tục vay đơn giản.
Trong hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, Hội đã tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật
sản xuất, các lớp tham quan hội thảo, xây dựng các mô hình trình diễn. Các hoạt
động này thường là giới thiệu kỹ thuật khoa học mới, kỹ thuật sản xuất cho năng
suất cao như mô hình nuôi nhím, nuôi rắn, mô hình cánh đồng lúa năng suất,

chất lượng hiệu quả cao. Đây là hoạt động thiết thực, giải quyết những khó
khăn, bồi dưỡng kiến thức cho nông dân đặc biệt khi khoa học kỹ thuật ngày
càng phát triển và ảnh hưởng của thời tiết.
Lao động trong nông nghiệp mang tính mùa vụ cao, do vậy hỗ trợ đào tạo
nghề, giải quyết việc làm cho nông dân trong thời gian nhàn dỗi là hoạt động
cần được quan tâm của Hội. Hội nông dân và Hội phụ nữ đã mở nhiều lớp đào
tạo nghề cho nông dân, hỗ trợ việc làm, xuất khẩu lao động cho nông dân. Tuy
vậy, hoạt động này chưa mang lại hiệu quả thiết thực do ngành nghề mang lại
thu nhập không cao.
Các hộ nông dân ngày càng tham gia vào thị trường với mức độ cao hơn
và do vậy chịu ảnh hưởng của thị trường ngày càng lớn. Giá cả của các yếu tố
đầu vào và giá nông sản không ổn định ảnh hưởng lớn tới thu nhập của hộ. Các
tổ chức Hội chưa có hoạt động nào giúp đỡ nông dân trong vấn đề này, vì vậy
trong thời gian tới cần hỗ trợ cho nông dân.
Để phát huy tốt vai trò của các tổ chức tới Hội cần phối hợp với các cơ
quan, tổ chức thực hiện tốt các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, vốn, đào tạo nghề.
Nâng cao trình độ của cán bộ Hội và phát động các phong trào thi đua, phát huy
tiềm năng, đặc tính của người nông dân, người phụ nữ Việt Nam.

iv


MỤC LỤC
Lời cảm ơn……………………………………………………………..………...i
TÓM TẮT KHÓA LUẬN……………………………………...…………..........ii
MỤC LỤC…………………………………………..…………………………...v
DANH SÁCH CÁC BẢNG…………...……..………………………………...vii
DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ…………………..…………………………….vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT…………………..……………………….viii


v


DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 3.1 Tình hình sử dụng đất đai của huyện 2007 – 2009……………..……28
Bảng 3.2 Tình hình dân số và lao động của huyện 2007 – 2009 ………...….…31
Bảng 3.3 Tình hình cơ sở hạ tầng của huyện năm 2009 ................................... 33
Bảng 3.4 Kết quả sản xuất kinh doanh của huyện 2007 -2009 ………..………36
Bảng 4.1 Các hoạt động nổi bật của Hội nông dân huyện ……………..……...48
Bảng 4.2 Một số hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cho hội viên của hội nông dân…....51
Bảng 4.3 Các hoạt động nổi bật của Hội Phụ nữ huyện……………...………...56
Bảng 4.4 Kết quả hoạt động cho vay vốn của Hội phụ nữ huyên ………..…....57
Bảng 4.5 Tình hình cơ bản của các hộ điều tra…………………….…….…….61
Bảng 4.6 Kết quả sản xuất một số cây trồng chính của hộ điều tra (BQC/hộ)
……………………………………………………………………….65
Bảng 4.7 Kết quả chăn nuôi chăn nuôi một số vật nuôi chính của hộ điều tra
(BQC/hộ)……………..………………………………………………………..66
Bảng 4.8 Tình hình nguồn vốn sản xuất của các hộ điều tra (BQC/hộ)
……………………………………………………………………….69
Bảng 4.9 Nguồn vốn vay của các hộ điều tra qua Hội Nông dân và Hội phụ nữ
……..……………………………………………………………….…………..71
Bảng 4.10 Các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cho hội viên của các tổ chức Hội.…76
Bảng 4.11 Kết quả hoạt động dạy nghề tạo việc làm năm 2007 – 2009…….....79

DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1 Hệ thống tổ chức của Hội LHPN Việt Nam ………………...…..…21

vi



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH

: Ban chấp hành

BQC

: Bình quân chung

CSXH

: Chính sách xã hội

DTCT

: Diện tích cây trồng

ĐHPNTQ : Đại hội phụ nữ toàn quốc
GDP

: Tổng giá trị sản xuất

LHNP

: Liên hiệp phụ nữ

MTTQ

: Mặt trận tổ quốc


NN&PTNT: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NXB

: Nhà xuất bản

SX – KD : Sản xuất kinh doanh
THCS

: Trung học cơ sở

THPT

: Trung học phổ thông

TN

: Thu nhập



: Trung ương

VNPT

: Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam

UBND

: Uỷ ban nhân dân


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới

vii


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn và gần 70% lao động
làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Với chức năng cơ bản là tạo ra sản phẩm
lương thực, thực phẩm nuôi sống con người, phát triển sản xuất nông nghiệp rất
có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội.
Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam nói chung và nông nghiệp
Việt Nam nói riêng có những bước phát triển đáng kể, tạo động lực to lớn kích
thích nông dân phát huy tối đa khả năng của mình để phát triển sản xuất nông
nghiệp. Chính vì thế mà hiệu quả sản xuất nông nghiệp không ngừng được nâng
cao, đời sống của nông dân ngày càng được cải thiện.
Từ một nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, thường xuyên nhập khẩu
lương thực, đến nay nước ta là nước đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo và là
một trong những nước hàng đầu về sản xuất nông sản như chè, cà phê, tiêu…
Điều đó đã khẳng định sự phát triển nhanh chóng của nông nghiệp Việt Nam
trong những năm gần đây. Để đạt được những kết quả này là nhờ vào chủ
trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự chung sức đồng lòng
của toàn xã hội, các tổ chức trong và ngoài nước. Trong đó, các tổ chức chính trị
- xã hội ở nước ta đóng một vai trò không nhỏ.

Tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức xã hội thuộc hệ thống chính trị của
một quốc gia, nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo điều lệ của Đảng. Các tổ
chức chính trị - xã hội được tập hợp theo giai cấp (công nhân, nông dân), giới
(thanh niên, phụ nữ…), nghề nghiệp (làm báo, làm văn…), theo quá trình chiến
đấu hoặc theo hình thức tổ chức liên hiệp (Mặt trận tổ quốc, Liên hiệp các Hội
Văn học – Nghệ thuật…)Với nhiệm vụ đoàn kết các tầng lớp nhân dân, tổ chức

1


các hoạt động thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích, bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người dân, các tổ chức chính trị xã hội ở nước ta ngày càng phát huy
vai trò to lớn đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ở nông thôn nước ta, các tổ chức chính trị - xã hội nằm trong khối đoàn
thể địa phương, chịu sự quản lý của cơ sở Đảng cùng cấp. Với số lượng hội viên
tham gia lớn, hoạt động của các tổ chức Hội này có ảnh hưởng đến nhiều mặt
của đời sống xã hội ở địa phương đặc biệt là tổ chức Hội Nông dân và Hội phụ
nữ.
Vĩnh Lộc là huyện trung du của tỉnh Thanh Hóa, có quy mô diện tích, dân
số chiếm tỷ trọng không lớn so với toàn tỉnh (1,41% diện tích tự nhiên và 2,42%
dân số toàn tỉnh). Huyện có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát
triển nông nghiệp và gắn kết với các khu kinh tế động lực, các cơ sở kinh tế lớn
của tỉnh để cùng phối hợp phát triển. Tuy vậy, Vĩnh Lộc vẫn là một huyện
nghèo, với thu nhập bình quân đầu người chỉ vào khoảng 620 USD năm 2009
(bằng khoảng ½ so với cả nước). Sản xuất nông nghiệp ở trình độ thấp, phần lớn
là tự cung tự cấp, thiếu kinh nghiệm, thiếu trình độ khoa học kỹ thuật, thiếu
thông tin về thị trường. Do vậy, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp rất cần có
sự quan tâm của chính quyền và các tổ chức để nâng cao đời sống cho các hộ
nông dân, từ đó góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Nhằm tìm hiểu vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương đặc

biệt là Hội nông dân và Hội phụ nữ đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp của
các hộ nông dân, từ đó có thể đưa ra một vài khuyến nghị giúp nâng cao vai trò
của hai tổ chức này. Tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Vai trò của Hội nông
dân và Hội Phụ nữ trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân huyện Vĩnh
Lộc – tỉnh Thanh Hóa”

2


1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung
Tìm hiểu vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn đối với sản
xuất nông nghiệp của các hộ, từ đó có một vài kiến nghị nhằm nâng cao vai trò
của các tổ chức này.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trò Hội nông dân và Hội Phụ
nữ.
- Thực trạng vai trò của các Hội Nông dân và Hội phụ nữ trên địa bàn đối
với hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ
- Kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức trên địa bàn.
1.3 CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
- Hội Nông dân và Hội phụ nữ ở địa phương có vai trò gì đối với hoạt
động sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân? Tác động của các tổ chức này
đối với hoạt động sản xuất của các hộ?
- Làm thế nào để các tổ chức này nâng cao được vai trò của mình, thúc
đẩy hoạt động sản xuất nông nghiệp của các hộ phát triển?
1.4 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu đối tượng là các hộ nông dân, Hội nông dân,
Hội phụ nữ ở huyện Vĩnh Lộc – Thanh Hóa. Nghiên cứu hoạt động sản xuất
nông nghiệp của các hộ, hoạt động của Hội Nông dân và Hội phụ nữ, vai trò của

các tổ chức này đối với hoạt động sản xuất của hộ.
1.5 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.5.1 Phạm vi về nội dung
Trong khuôn khổ đề tài, do có giới hạn về thời gian và nguồn lực nghiên
cứu, đề tài chỉ tập chung nghiên cứu vai trò của hai tổ chức chính trị - xã hội ở

3


địa phương là Hội nông dân và Hội phụ nữ huyện Vĩnh Lộc đối với hoạt động
sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân địa phương. Đây cũng là hai tổ chức
có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân.
1.5.2 Phạm vi không gian
Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn huyện Vĩnh Lộc – tỉnh Thanh
Hóa.
1.5.3 Phạm vi về thời gian
Nghiên cứu, đánh giá, tìm hiểu số liệu, thông tin liên quan đến đề tài được
thu thập trong ba năm gần đây(2007-2009).
Thời gian thực hiện đề tài từ 23/12/2009 đến 26/05/2010.

4


PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM
2.1.1 Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội
Tổ chức chính trị là tổ chức được hình thành và hoạt động nhằm các mục
tiêu chủ yếu về chính trị như: các đảng chính trị, các cơ quan quyền lực nhà
nước… Tổ chức chính trị tập hợp, thu hút lực lượng của các gia cấp, tầng lớp xã
hội các tổ chức quần chúng, nhằm thực hiện mục tiêu chủ yếu về chính trị là

giành chính quyền và cầm quyền; điều hành, chi phối các hoạt động của đời
sống quốc gia và tác động, ảnh hưởng trên trường quốc tế; đồng thời thực hiện
các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội… đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của
nhân dân, củng cố và duy trì quyền lực về chính trị.
Tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức xã hội thuộc hệ thống chính trị của
một quốc gia dân tộc, không kể các đảng chính trị cẩm quyền và các cơ quan
nhà nước hiện hành. Các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta nằm dưới sự lãnh
đạo của Đảng, theo điều lệ của Đảng. Trong điều lệ Đảng đã quy định rõ
phương thức lãnh đạo của Đảng đó là: Đảng lãnh đạo Nhà nước và đoàn thể
chính trị - xã hội bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương;
bằng công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Ở Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức làm nhiệm vụ
“cứu quốc” được thành lập trước hoặc sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
và tồn tại đến ngày nay ( Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao
Động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) được tập hợp theo giai cấp( công
nhân, nông dân), giới ( thanh niên, phụ nữ, phụ lão), nghề nghiệp( làm báo, làm
văn…), theo quá trình chiến đấu( cựu chiến binh) và tập hợp theo hình thức tổ

5


chức liên hiệp( Mặt trận Tổ Quốc, Liên hiệp các Hội Văn học – Nghệ thuật,
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị với
các nước ngoài…
Các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta có nhiệm vụ quan trọng, ngày
càng phát huy vai trò to lớn đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo về tổ
quốc: Một là, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân
nâng cao giác ngộ chính trị và trình độ kiến thức các mặt; Hai là, tổ chức các
hoạt động thực tiễn, đáp ứng nguyện vọng, lợi ích, bảo vệ quyền lợi chính đáng

của người dân; Ba là, tổ chức và động viên nhân dân tham gia đấu tranh giành
chính quyền của nhân dân và khi đã có chính quyền của nhân dân thì vận động
nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền đó, tham gia các phong trào
cách mạng của nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội đã và đang là thành viên của hệ thống chính
trị; hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, có truyền thống vẻ vang trong các thời kỳ cách mạng đã qua và
ngày nay có vai trò to lớn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tổ chức xã hội là hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp,
lứa tuổi, giới tính, sở thích…, nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của các tầng lớp
nhân dân như học tập, rèn luyện nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ động viên
nhau trong cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hóa, thể thao, du lịch, xã hội, từ
thiện…
Các tổ chức xã hội có quy mô rất khác nhau: có tổ chức hình thành hệ
thống trong cả nước, ở tất cả các địa phương, hoặc tham gia tổ chức quốc tế
tương ứng; có tổ chức chỉ hoạt động ở địa phương hoặc ở cơ sở. Các tổ chức xã
hội phát triển và hoạt động có kết quả là sự phản ảnh mức độ tiến bộ về dân trí

6


và dân chủ trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm quản lý, giúp đỡ, tạo điều
kiện cho các tổ chức xã hội ra đời và hoạt động đúng pháp luật, đáp ứng yêu
cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
2.1.2 Hội nông dân
* Khái niệm Hội nông dân
Theo Điều lệ của Hội Nông dân Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam là tổ
chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; cơ sở chính trị của Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Tầm quan trọng của Hội Nông dân
Hội Nông dân Việt Nam ra đời thể hiện sự đánh giá đúng đắn của Đảng ta
và vị trí vai trò giai cấp nông dân Việt Nam đối với sự nghiệp ái quốc của dân
tộc; Là thể hiện sự thành công và đường lối tổ chức vận động nông dân thực
hiện nhiệm vụ của dân tộc do Đảng lãnh đạo.
Là tổ chức của giai cấp nông dân, Hội Nông dân có nhiệm vụ đoàn kết tập
hợp đông đảo nông dân vào tổ chức hội, xây dựng tổ chức hội vững mạnh, ngày
càng phát triển đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thời kì công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước.
Hội Nông dân đại diện giai cấp nông dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tham gia giám sát và phản biện xã hội
theo quy chế.
Hội Nông dân chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của
nông dân; vận động, tập hợp và làm nòng cốt tổ chức các phong trào nông dân
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của hội viên, nông dân.

7


2.1.3 Hội phụ nữ
* Khái niệm Hội phụ nữ
Theo điều lệ của Hội LHPN VN, Hội phụ nữ là tổ chức chính trị - xã hội,
tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ Việt Nam.
Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là thành viên của Liên
đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế và Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN(Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam á). Hội tham gia tích cực trong các hoạt động vì hòa
bình, đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
* Tầm quan trọng của Hội phụ nữ Việt Nam

Hội LHPN Việt Nam không chỉ hoạt động chính trị, Hội còn là đầu mối
quy tụ, tổ chức thực hiện những hoạt động xã hội sâu rộng trong mọi tầng lớp
phụ nữ tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Hội luôn luôn quan tâm thu hút các
tầng lớp phụ nữ tham gia thực hiện các hoạt động nhân đạo từ thiện, các hoạt
động xã hội phù hợp với yêu cầu xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Là tổ chức tập hợp, đoàn kết, đại diện cho lợi ích hợp pháp của phụ nữ,
hội được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp
thống nhất và hành động. Trong hoạt động phát triển hội viên: Hội quy tụ, tập
hợp rộng rãi các đối tượng phụ nữ, không phân biệt tầng lớp giàu nghèo, tôn
giáo, dân tộc… thu hút đa dạng đối tượng hội viên: ngoài đối tượng nữ nông
thôn lao động nông nghiệp, phụ nữ lực lượng vũ trang ( quân đội, công an, bồ
đội, biên phòng), phụ nữ công nhân viên chức và lao động, phụ nữ nội trợ, nay
còn thêm nhiều đối tượng mới như: nữ trí thức, nữ khoa học, nữ văn nghệ sỹ, nữ
doanh nhân, nữ sinh viên… Vận động phụ nữ trong các thành phần kinh tế tập
thể, cá nhân, tư nhân, liên doanh, hợp doanh…

8


Hội giúp phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng, Hội LHPN Việt Nam là
trường học nâng cao năng lực và kiến thức về mọi mặt của phụ nữ, giúp cho chị
em có cơ hội tiếp cận kiến thức thông tin, từ đó cơ quyền năng về chính trị, kinh
tế, khăng định vị thế của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Những hoạt
động này góp phần thay đổi và nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng của toàn
xã hội.
Hội các cấp thường xuyên tổ chức các lớp hoạt động tuyên truyền giáo
dục nâng cao nhận thức về bình đẳng giới không chỉ cho hội viên mà còn cho cả
nam giới và các nhà hoạch định chính sách ở địa phương. Thực hiện lồng ghép
giới vào các chương trình, dự án, nhằm giúp cho phụ nữ được tham gia vào quá

trình phát triển.
2.1.4 Khái niệm về hộ và kinh tế hộ nông dân
* Khái niệm về hộ nông dân
Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp
và phát triển nông thôn, vì tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp
ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của hộ nông dân.
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng
bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn.
Trong hoạt động phi nông nghiệp, khó phân biệt các hoạt động có liên quan tới
nông nghiệp và hoạt động không liên quan tới nông nghiệp. Cho đến gần đây có
một khái niệm rộng hơn đó là hộ nông thôn, tuy vậy giới hạn giữa thành thị và
nông thôn cũng là một vấn đề đang còn tranh luận.
Khái niệm hộ nông dân gần đây được định nghĩa như sau: “Hộ nông dân
là các hộ có phương tiện kiếm sống chủ yếu từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao
động gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn,

9


nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường với
mức độ hoàn hảo không cao” ( Ellis – 1988).
Qua khái niệm trên ta có thể hiểu hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở,
vừa là đơn vị sản xuất, đơn vị tiêu dùng. Vừa là một đơn vị kinh doanh vừa là
một đơn vị xã hội. Trình độ phát triển của hộ bắt đầu từ tự cung tự cấp hoàn toàn
đến sản xuất hàng hóa hoàn toàn đã thể hiện phần nào mối quan hệ giữa sản xuất
và tiêu dùng, nó quyết định mối quan hệ giữa nông hộ và thị trường. Các nông
hộ ngoài hoạt động sản xuất nông nghiệp còn tham gia vào các hoạt động phi
nông nghiệp với các mức độ khác nhau như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại dịch vụ trong nông thôn. Từ những lý do trên ta có thể khẳng định
rằng hộ nông dân là chủ thể kinh tế nông thôn.

* Khái niệm về kinh tế hộ
Kinh tế hộ nông dân đã tồn tại lâu đời, độc lập và tự chủ như các thành
phần kinh tế khác. Kinh tế nông hộ tương đối phức tạp theo nhiều góc độ nhìn
nhận khác nhau. Chẳng hạn, C.Mác – P.Anghen quan niêm: “ kinh tế nông hộ
vốn bị hạn chế, nên cần được cải tạo thì mới có thể phát triển nông nghiệp lên
trình độ xã hội hóa ngày càng cao”. Do đó, lúc đầu các ông dự đoán kinh tế
nông hộ sẽ bị xóa bỏ trong nền kinh tế thị trường, sau này thực tế phát triển kinh
tế ở Anh và các nước tư bản khác, C.Mác đã thấy rằng: phát triển nông nghiệp
không giống như phát triển công nghiệp, kinh tế hộ tỏ ra là hình thức tổ chức sản
xuất nông nghiệp có hiệu quả.( C.Mác,P.Anghen, Tuyển tập, tập 3, (1962) NXB
Sự Thật, HN trang 200-2008).
Theo Đỗ Văn Viện và Đặng Văn Tiến,(Đại học Nông nghiệp Hà Nội,
2000), Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất
xã hội, trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất
được coi là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một

10


nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy
thuộc vào chủ hộ, được Nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển.
Như vậy, kinh tế hộ nông dân được hiểu như là một cách cách thức tổ chức kinh
tế của hộ nông dân, do vậy nó cũng có những đặc điểm riêng đó là cùng ngân
quỹ, ăn chung ngủ chung một nhà, và quyết định sản xuất kinh doanh là do chủ
hộ quyết định. Hộ nông dân thường không thuê lao động nên không có khái
niệm tiền lương và không tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Nông hộ chỉ có
thu nhập chung của tất cả các hoạt động kinh tế, đó là sản lượng thu được hàng
năm của hộ trừ đi chi phí mà hộ đã bỏ ra phục vụ sản xuất.
Tuy có nhiều quan điểm về hộ nông dân và các quan điểm không giống
nhau, song kinh tế hộ vẫn tồn tại như một hình thức tổ chức sản xuất đặc thù

nhờ các đặc điểm:
- Khả năng của nông dân thỏa mãn nhu cầu của tái sản xuất đơn giản nhờ
sự kiểm soát tư liệu sản xuất, nhất là ruộng đất. Nhờ giá trị xá hội của nông dân
hướng vào quan hệ qua lại hơn là vào đạt lợi nhuận cao nhất.
- Nhờ việc chuyển giao ruộng đất từ thế hệ này sang thế hệ khác chống lại
sự tập trung ruộng đất vào tay một số ít nông dân.
- Khả năng của nông dân kết hợp được các hoạt động nông nghiệp và phi
nông nghiệp để sử dụng hết lao động và tăng thu nhập. Tuy vây, ở tất cả các
hình thái xã hội, hộ nông dân phải tìm cách để tồn tại trong các điều kiện hết sức
khó khăn.
- Việc huy động thặng dư của nông nghiệp để thực hiện các lợi ích của
toàn xã hội thông qua địa tô, thuế và sự lệch lạc về giá cả. Các tiến bộ khoa học
kỹ thuật làm giảm giá trị của lao động nông nghiệp thông qua việc làm giảm giá
thành và giá cả của sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy, nông dân chỉ còn có khả
năng tái sản xuất đơn giản nết không có sự hỗ trợ từ bên ngoài.

11


Tóm lại, phạm trù hộ và kinh tế hộ là phạm trù tương đối phức tạp, để
ngày một hoàn thiện hơn, cần có sự nỗ lực nghiên cứu của các nhà khoa học.
Kinh tế hộ gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế ở nông thôn. Nó là một đơn vị kinh tế cơ sở chứa đựng các nguồn
lực phát triển và có quyền sở hữu các tài sản, sản xuất và các nguồn thu nhập.
Kinh tế hộ hoạt động rất hiệu quả và là nhân tố chủ yếu trong kinh tế nông
nghiệp nông thôn ở mọi thời đại.
2.1.5 Sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân
Sản xuất nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu của hộ nông dân.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ là phải
nghiên cứu nhu cầu của thị trường và của bản thân nông hộ để lựa chọn và quyết

định sản xuất. Tiếp đến là chuẩn bị đầy đủ và đồng bộ các đầu vào để thực hiện
các quyết định vầ đầu tư, sử dụng lao động, các yếu tố vật chất… Đồng thời tổ
chức sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào để tạo ra nhiều sản phẩm. Là một
đơn vị kinh tế tự chủ, sản phẩm của hộ nhằm mục tiêu chủ yếu là đảm bảo nhu
cầu
2.2 VAI TRÒ CỦA HỘI NÔNG DÂN ĐỐI VỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA HỘ NÔNG DÂN
2.2.1 Sự hình thành và phát triển của Hội Nông dân Việt Nam
Là tổ chức đại diện của giai cấp nông dân Việt Nam, Hội Nông dân có
lịch sử hình thành lâu đời. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam luôn là tổ chức trung tâm, nòng cốt trong các
phong trào nông dân và xây dựng nông thôn mới.
* Sự ra đời của Hội Nông dân Việt Nam

12


Cuối năm 1926, đầu năm 1927, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc và
Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, một số địa phương hình thành “ Nông Hội
đỏ” với mục đích chỉ đạo cuộc nổi dậy của nông dân đấu tranh chống thực dân,
địa chủ phong kiến và tư sản, đòi quyền dân sinh dân chủ. Từ khi ra đời, “ Nông
Hội đỏ” đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình với các cuộc đấu tranh tiêu biểu
của nông dân: Cao Lãnh, Sa Đéc, Gia Định… và đi tới đỉnh cao là Xô Viết –
Nghệ Tĩnh.
Ngay từ khi thành lập Đảng ngày 3-2-1930, Đảng ta rất coi trọng việc
giáo dục, tổ chức, động viên quần chúng ra đấu tranh chính trị và xây dựng đội
quân quần chúng cách mạng. Ngày 14-10-1930, trong hội nghị lần thứ I Ban
chấp hành Trung ương Đảng, đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Tổng
Nông hội Đông Dương. Trong Điều lệ Tổng Nông Hội Đông Dương đã nêu rõ

mục đích nhằm “Thống nhất hết thảy Tổng Nông Hội Đông Dương để đấu
tranh, bênh vực quyền lợi hàng ngày của nông dân và để thực hiện cách mạng
thổ địa”. Nghị quyết đã đánh dấu sự trưởng thành về chất của giai cấp nông dân
Việt Nam. Lần đầu tiên có đoàn thể cách mạng của mình, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử
giai cấp nông dân Việt Nam và tổ chức Hội. Và vì vậy, nó đã trở thành ngày
thành lập của Hội Nông dân Việt Nam.
* Hội Nông dân Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng
+ Giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945: Trong thời kì đầu
khởi nghĩa giành chính quyền, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ II, tháng 3
năm 1931 đã nhấn mạnh: “ Cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông Hội làng,
tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, trong điều kiện khủng bố trăng,
nông dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đầu tranh, giương cao khẩu hiệu:
“ Chống sưu thuế, địa tô, thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống chiến tranh”.

13


Thực hiện Nghị quyết Trung ương II, các tổ chức Nông Hội được củng cố và
trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Dưới sự lãnh đạo của
Nông Hội, phong trào nông dân diễn ra mạnh mẽ trong những năm 1932 – 1935,
1936. Đến năm 1941, Hội đã thu nạp hết thảy nông dân đến cả hạng phú nông,
địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp – Nhật. Hội đã trở thành một thành viên chủ
lực của Mặt trận Việt Minh, là lực lượng nòng cốt và đông đảo nhất tham gia
khởi nghĩa Tháng Tám 1945.
+ Giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền
Nam, chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước ( 1945 – 1975): Sau khi
giành được độc lập, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân ta giành thắng lợi năm 1954 thì đế quốc Mỹ
nhảy vào xâm lược. Năm 1975, với chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh vĩ

đại, đất nước đã hoàn toàn thống nhất. Đóng góp vào chiến thắng lịch sử vĩ đại
trên, Hội nông dân đã đề ra những nhiệm vụ cho từng thời kì và hoàn thành mục
tiêu được ra. Năm 1949, với nhiệm vụ vận động nông dân: Tăng gia sản xuất, tự
cấp tự túc, nuôi dương bồ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, thực
hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ, Hội đã cùng cả nước
góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “ lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu”.
Tháng1-1969, ở miền Nam, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt
Nam đã tiến hành Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân
trong 8 năm, đồng thời thực hiện những nhiệm vụ mới đấu tranh chống các kế
hoạch của địch.
2.2.2 Vai trò của Hội Nông dân với kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân đã trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ, có quyền bình
đẳng như các thành phần kinh tế khác và ngày càng có vai trò quan trọng hơn

14


trong nền kinh tế quốc dân. Nó không những là “tế bào” của xã hội, là đơn vị
sản xuất và bảo đảm cuộc sống cho tất cả các thành viên trong gia đình, mà còn
là chủ thể tiêu dùng rất đa dạng của nền kinh tế. Nhưng trước xu thế quốc tế hóa
nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng hiện nay, kinh tế hộ nông dân đang gặp
phải những khó khăn và cần có sự hỗ trợ giúp đỡ nhằm tạo động lực mới cho
kinh tế hộ phát triển.
Trong nhiệm kỳ 2003 – 2008, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm
của các ban ngành, đoàn thể Hội nông dân Việt Nam đã hoàn thành tốt những
mục tiêu của nhiệm kì trước đặt ra, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Trong các hoạt động của Hội các hoạt động hỗ trợ hội viên phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng là hoạt động nổi
bật nhất và được thực hiện một cách có hiệu quả. Hội đã tăng cường phối hợp

với các bộ, ngành, các doanh nghiệp, các nhà khoa học tổ chức các hoạt động
dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản xuất, cải thiện đời sống.
Hội đã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân
hàng chính sách xã hội giúp hàng chục triệu lượt hộ vay vốn với số dư nợ hiện
nay là 27.820 tỷ đồng. Khai thác 3.281 tỷ đồng từ nguồn vốn của các chương
trình, dự án như chương trình 120, Chương trình 135, Chương trình 134, các
chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, dạy nghề,
nước sạch – vệ sinh môi trường, ứng dụng chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, các dự án quốc tế. Các cấp hội liên kết với các ngành, doanh nghiệp, cung
cấp vật tư, máy công cụ, hàng hóa, phục vụ sản xuất và cải thiện đời sống theo
phương thức trả chậm với hàng vạn tấn phân bón, hàng ngàn máy móc các loại.
Tích cực tổ chức công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công
mở 275.891 lớp tập huấn, cac điểm, mô hình trình diễn kỹ thuật, tổ chức các
cuộc hội thảo đầu bờ… giúp hội viên, nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học

15


kỹ thuật, đưa các loại cây trông, vật nuôi có sức cạnh tranh cao và hiệu quả đưa
vào sản xuất kinh doanh. Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,
khuyến công của hội đã quan tâm tới vùng nông thôn nghèo, vùng đặc biệt khó
khăn. Tổ chức triển khai thực hiện nhiều dự án khuyến nông, hỗ trợ việc làm,
phát triển ngành nghệ, các dự án “ hướng dẫn người nghèo cách làm ăn ở một số
xã đặc biệt khó khăn”, nhanh chóng đi vào tổ chức dạy nghề và giới thiệu việc
làm cho nông dân.
Phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau
xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng của Hội đề ra tiếp tục phát triển cả
chiều rộng và chiều sâu, có sức lan tỏa trên phạm vi cả nước, trong tất cả các
lĩnh vực sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp… trở thành một tâm điểm trong đời
sống kinh tế - xã hội nông thôn và dành được những kết quả to lớn và toàn diện,

tạo ra được những tiền đề cho nông dân tiếp cận với hội nhập kinh tế thế giới.
Phong trào đã khích lệ, động viên nông dân cả nước vươn lên xóa đói giảm
nghèo. Từ phong trào đã xuất hiện ngày càng nhiều hộ nông dân thuộc nhiều
thành phần dân tộc, tôn giáo sản xuất kinh doanh giỏi, những điển hình tiên tiến
đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng có mức thu nhập
hàng trăm triệu đồng, nhiều hộ có thu nhập hàng tỷ đồng/năm. Bình quân hàng
năm số hộ nông dân đăng ký phấn đấu danh hiệu “Nông dân sản xuất giỏi” tăng
16,7%, trong đó gần 65% số hộ ở các cấp. Số hộ đạt tiểu chuẩn hộ sản xuất giỏi
các cấp tăng 13,6% so với 5 năm trước.
Phong trào thi đua xây dựng gia đình văn hóa, tham gia xây dựng làng, xã
văn hóa ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Các cấp Hội đã năng
động, linh hoạt phối hợp với các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội vận động
hội viên, nông dân hăng hái tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục,
thể thao; thực hiện nếp sống trong việc cưới, việc tang và lễ hội; tham gia bảo

16


đảm an toàn giao thông; an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, vệ sinh
an toàn thực phẩm; bảo vệ môi trường nông thôn. Trong công cuộc xây dựng
nông thôn mới, các cấp Hội đã vận động cán bộ, hội viên, nông dân tích cực
tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Nông dân cả nước đã đóng góp
2.840 ngàn tỉ đồng và trên 60 triệu ngày công làm mới và sửa chữa 462 nghìn
km đường giao thông nông thôn; 271 nghìn km kênh mương, 40.600 cầu, cống;
27.280 phòng học, trạm xã. Bình quân hàng năm có trên 8 triệu hộ nông dân
đăng ký phấn đấu, trong đó có trên 4 triệu hộ đạt danh hiệu “ Gia đình văn hóa”
Phong trào nông dân thi đua tham gia bảo đảm quốc phòng, an ninh tiếp
tục phát triển. Năm năm qua, các cấp Hội Nông dân Việt Nam đã đẩy mạnh
công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ, hội viên, nông dân về
nhiệm vụ quốc phòng an ninh trong tình hình mới. Nêu cao tinh thần cảnh giac

cách mạng trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là
âm mưu lợi dụng tôn giáo, dân chủ, dân tộc tể kích động chia rẽ khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.
2.3 VAI TRÒ CỦA HỘI PHỤ NỮ ĐỐI VỚI SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
CỦA HỘ NÔNG DÂN
2.3.1 Sự hình thành và phát triển của Hội phụ nữ
* Sự ra đời của Hội phụ nữ
Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông
nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lứa nước và thủ công nghiệp, nên phụ nữ
Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn bị
kẻ thù xâm lược, đời sống nghèo khổ. Từ thực tế đó mà người phụ nữ Việt Nam
có bản sắc phong cách riêng: là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường,
dũng cảm, là những người lao động trí óc và lao động chân tay cần cù, sáng tạo,
thông minh, người nghệ sỹ bảo vệ, giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn

17


hóa dân tộc, là người chủ gia đình: dịu hiền, đảm đang, trung hậu, người sản
sinh ra những thế hệ anh hùng của dân tộc anh hùng.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là những người bị áp bức, bóc
lột, chịu nhiều bất công nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi với
cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo
vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông du…
Vào những năm 1927 – 1930, những tổ chức quần chúng bắt đầu hình
thành và thu hút đông đảo các tầng lớp như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các
nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của giới nữ: Phụ nữ
phản đế, Đồng minh phụ nữ hiệp hội, Hội phụ nữ giải phóng… và hình thành
nhiều nhóm phụ nữ.
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, trong cương lĩnh

đầu tiên của Đảng đã ghi: “ Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là
lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng
phụ nữ, gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ
nữ. Đảng đặt ra: phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng ( công hội, nông
hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham
gia cách mạng. Chính vì vậy mà vào ngày 20/10/1930, Hội phụ nữ chính thức
được thành lập. Sự kiện lịch sử này nói lên quan điểm của Đảng ta đối với vai
trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải
phóng phụ nữ.
* Hội phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng XHCN ở nước ta
+ Trong sự nghiệp cách mạng, giải phóng đất nước
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, phụ nữ Việt Nam có
điều kiện phát huy khả năng trên các lĩnh vực, phong trào phụ nữ ngày càng phát
triển, góp phần quan trọng tạo nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

18


×