Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

LIEN MON SU DIA BAI NHẬT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.62 KB, 19 trang )

CHỦ ĐỀ THAM KHẢO
TẬP HUẤN
TỔ CHỨC DẠY HỌC CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
CHỦ ĐỀ
NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
I. GIỚI THIỆU CHUNG
1. Nội dung chương trình các môn học được tích hợp trong chủ đề
a. Cơ sở xây dựng chủ đề
- Nội dung về vị trí địa lí, khái quát lịch sử và sự phát triển thần kí của nền
kinh tế Nhật Bản trong chương trình SGK lịch sử lớp 12 ở trường THPT và các
đơn vị kiến thức của môn địa lí có liên quan
- Môn lịch sử, lớp 12 chương trình cơ bản: bài 8 Nhật Bản; gồm các nội
dung. vị trí địa lí, sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2,
nguyên nhân của sự phát triển.
- Môn địa lí: bài 9 Nhật Bản; kiến thức môn địa lí liên quan đến vị trí địa lí,
sự phát triển kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2.
- Như vậy, có thể tích hợp xây dựng thành chủ đề liên môn Nhật Bản sau
chiến tranh thế giới thư hai trên cơ sở kiến thức của môn lịch sử và địa lí.
- Phương án dạy học chủ đề Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2
- Thời lượng dạy học chủ đề này là 2 tiết được lấy từ quỹ thời gian của môn
lịch sử lớp 12: 1 tiết của bài 8, môn địa lí lớp 11: 1 tiết của bài 9.
- Thời điểm thực hiện chủ đề vào học kì 1 lớp 12
- Nội dung còn lại của bài 9 lớp 11. Nhật Bản của môn địa lí lớp 11 giáo
viên vẫn tổ chức dạy học bình thường.
b. Nội dung chủ đề:
Chủ đề liên môn Nhật Bản sau chiến tranh TG 2 được xây dựng bao gồm
những nội dung sau:
- Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của Nhật Bản
- Sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản sau CTTG 2
- Nguyên nhân sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản.
c. Ý nghĩa xây dựng chủ đề


Việc cấu trúc lại nội dung bài học Nhật Bản thành chủ đề "Nhật Bản sau
chiến tranh TG 2" bao gồm cả kiến thức về lịch sử và địa lí là cần thiết vì:
- Khắc phục được tình trạng trùng lặp nhau về nội dung, tránh việc cả hai
môn học đều tổ chức dạy học, giảm được thời gian học tập cho học sinh, qua đó
khắc phục được tình trạng thiếu sự liên hệ, tác động giữa kiến thức lịch sử và địa
lí của chủ đề. Học sinh ngoài việc sử dụng kiến thức của môn lịch sử còn vận
dụng kiến thức của môn địa lí trong việc xác định vị trí địa lí và điều kiện tự
nhiên của Nhật Bản, sự phát triển của các ngành kinh tế Nhât Bản.
- Tạo điều kiện để đổi mới phương pháp dạy học, đa dạng hóa các hình
thức tổ chức dạy học, học sinh được hoạt động, được tự học và tự nghiên cứu,
thông qua đó góp phần hướng tới hình thành các năng lực cho học sinh.
1


- Nội dung học tập của bài được sử dụng, xây dựng thành chủ đề với các
hoạt động học được xây dựng nối tiếp nhau thành một chuỗi các hoạt động liên
tục có gắn kết với nhau, học sinh được nghiên cứu truoc ở nhà, trên lớp; từ đó
góp phần giảm tải những đơn vị kiến thức trùng lập, góp phần nâng cao hiệu quả
dạy và học ở trường PT.
2. Mục tiêu của chủ đề
Sau khi học xong chủ đề:
a. Về kiến thức.
- Khái quát được vị trí địa lí của nhật Bản ở châu Á và khu vực Đông Bắc
Á.
- Trình bày được sự phát triển của nền kinh tế Nhật từ sau chiến tranh thế
giới thứ 2 đến năm 2000 và nguyên nhân của nó.
- Nhận xét và đánh giá được những nguyên nhân của sự phát triển của kinh
tế Nhật Bản, từ đó HS có thể rút ra bài học kinh nghiệm từ nền kinh tế Nhật để
phát triển kinh tế đất nước.
- Nét chính trong chính sách đối ngoại của nhật. Liên hệ được chính sách

của Nhật Bản với Việt Nam
b. Kỹ năng: Phân tích, so sánh, tổng hợp và kĩ năng khai thác và sử dụng
bản đồ, tranh ảnh.
c. Thái độ.
- Khả năng sáng tạo và ý thức tự cường của người Nhật, từ đó các em có ý thức
hơn trong học tập và sự vươn lên mọi khó khăn trong cuộc sống.
- Thấy được trách nhiệm của tuổi trẻ đối với công cuộc công nghiệp hóa - hiện
đại hoá đất nước.
d. Các năng lực chính hướng tới
- Năng lực chung: năng lực giao tiếp, làm việc theo nhóm, năng lực tự học...
- Năng lực chuyên biệt.
+ Năng lực thực hành:
• Sử dụng và khai thác lược đồ Nhật Bản về: địa lí, kinh tế và các tranh ảnh
có liên quan về sự phát triển của Nhật Bản.
• Phân tích, so sánh được mối liên hệ, tác động của nền kinh tế Nhật Bản với
Việt Nam.
• Nhận xét những ảnh hưởng của kinh tế Nhật với kinh tế khu vực và thế
giới.
3. Sản phẩm cuối cùng
- Trình bày được lược đồ, tranh ảnh những thành tựu của nền kinh tế Nhật Bản.
- Báo cáo lí giải được nguyên nhân sự phát triển thần kì của kinh tế Nhật Bản.
- Học hỏi được những kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và phát triển đất
nước của Nhật Bản.
4. Phương pháp dạy học
- Dạy học nêu vấn đề, trao đổi đàm thoại...
- Sử dụng tranh ảnh, lược đồ
II. BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ NHẬN THỨC VÀ ĐỊNH HƯỚNG
NĂNG LỰC CHÍNH ĐƯỢC HÌNH THÀNH
1. Bảng mô tả
2



Nội dung
1. Vị trí địa lí

2. Sự phát triển
“thần kì” của
nền kinh tế
Nhật Bản và
những nguyên
nhân của nó

Nhận biết
Biết được vị
trí địa lí, phạm
vi lãnh thổ của
Nhật Bản.

Thông hiểu
Hiểu
được
những
khó
khăn về địa lí
của Nhật Bản

Trình bày
Được Sự Phát
Triển
Của

Nền Kinh Tế
Nhật Bản từ
sau
chiến
tranh TG 2 và
nguyên nhân
của nó

Giải
thích
được những
nguyên nhân
dẫn đến sự
phát triển thần
kì của nền
kinh tế Nhật
Bản.

vận dụng thấp Vận dung cao
So sánh được
với vị trí địa lí
và điều kiện
tự nhiên của
Việt Nam
Rút ra được
những bài học
kinh nghiệm
từ nền kinh tế
Nhật Bản để
phát triển kinh

tế đất nước.

3. Chính sách Trình
đối ngoại của được
Nhật Bản

bày Hiểu được sự
chính nhạy
bén
sách đối ngoại trong
chính
của Nhật từ sách đối ngoại
sau
chiến của Nhật
tranh TG 2
Định hướng - Năng lực chung: giải quyết vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, sáng tạo.
năng lực cần
- Năng lực chuyên biệt: tái tạo kiến thức , xác định mối quan hệ
hình thành
giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử, so sánh, nhận xét, đánh giá.
2. Câu hỏi và bài tập
1. Em hãy cho biết về vị trí địa lí của Nhật Bản? Với vị trí đó Nhật Bản có
những khó khăn gì?
2. Trình bày những thành tựu kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh thế giới
thứ 2? Những nhân tố nào thúc đẩy sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật
Bản?
3. Theo em, trong những nguyên nhân trên, nguyên nhân nào là quan trọng
nhất? tại sao?
4. Việt Nam có thể học tập được gì từ Nhật Bản để phát triển kinh tế đất
nước?

5. Khái quát chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới
thứ 2? Nêu nhận xét của em về chính sách đối ngoại của Nhật Bản?

3


III. KẾ HOẠCH DẠY HỌC
1. Kế hoạch chung
Thời Tiến trình dạy
gian
học

Tiết
1

Hoạt động của học sinh

Hỗ trợ của
giáo viên

Hoạt động 1:
Khởi động và
giao nhiệm vụ

Tiếp nhận nhiệm vụ của GV
giao về tìm hiểu những vấn
đề của dự án:
-Em hãy cho biết về vị trí
địa lí của Nhật Bản? Với vị
trí đó Nhật Bản có những

khó khăn gì?
-Trình bày những thành tựu
kinh tế của Nhật Bản sau
chiến tranh thế giới thứ 2?
Những nhân tố nào thúc đẩy
sự phát triển thần kì của nền
kinh tế Nhật Bản?
-Theo em, trong những
nguyên nhân trên, nguyên
nhân nào là quan trọng
nhất? tại sao?
-Việt Nam có thể học tập
được gì từ Nhật Bản để phát
triển kinh tế đất nước?
-Khái quát chính sách đối
ngoại của Nhật Bản từ sau
chiến tranh thế giới thứ 2?
Nêu nhận xét của em về
chính sách đối ngoại của
Nhật Bản?

GV nêu tính
cáo thiết của
chủ đề, chuyển
giao nhiệm vụ
cho HS bằng
các câu hỏi;
Cung cấp tư
liệu, hình ảnh,
lược đồ, biểu

đồ về vị trí địa
lý, kinh tế,
chính sách đối
ngoại của Nhật
Bản để định
hướng hỗ trợ
học sinh.

Hoạt động 2:
Thực hiện dự
án

Thực hiện chủ đề về Nhật
Bản theo kế hoạch và những
định hướng của GV đã nêu
ra

Chuẩn bị kế
hoạch thực hiện
dự án, phiếu
đánh giá sản
phẩm và những
hỗ trợ khác cho
việc thực hiện
dự án của HS
Hỗ trợ học sinh

Kết quả - sản
phẩm dự kiến
(tên và yêu cầu

của sản phẩm;
tiêu chí đánh
giá)
HS nêu được
những hiểu biết
ban đầu có thể
chưa đầy đủ về:
Vị trí địa lý,
thành tựu kinh
tế, nguyên nhân
phát triển kinh tế
và chính sách
đối ngoại của
Nhật Bản.

Kế hoạch thực
hiện dự án của
nhóm: Phân
công nhiệm vụ,
thống nhất địa
điểm và cách
thức tiến hành

4


Tiết
2

Hoạt động 3:

Báo cáo và
đánh giá nhiệm
vụ thực hiện

Báo cáo kết quả làm việc
của nhóm; Lắng nghe và
đánh giá sản phẩm của nhóm
khác; Thảo luận tổng kết vấn
đề nghiên cứu

Lắng nghe các
nhóm trình bày;
Nêu câu hỏi;
Tiến hành đánh
giá sản phẩm
nhóm;
Nhận xét và
tổng kết hoạt
động nhóm

Bản thuyết
trình báo cáo,
clip và kết quả
tìm hiểu.
Bảng đánh giá
hoạt độngcủa cá
nhân trong
nhóm;
Kết quả đánh
giá sản phẩm

của nhóm

2. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh
a. Giáo viên:
- Máy tính, máy chiếu,
- Tranh ảnh, phim tư liệu; Bản đồ, lược đồ, biểu đồ.
- Các tư liệu có liên quan về Nhật Bản
- Bài giảng điện tử, bản kế hoạch phân công tổ chức nhiệm vụ cho học sinh
b.Học sinh:
- Soạn bài và tìm hiểu bài trước ở nhà.
- Sưu tầm tranh ảnh, tư liệu theo yêu cầu cuả giáo viên.
3. Các hoạt động học tập
Hoạt động 1: giới thiệu về vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên của Nhật Bản
a. Cùng chia sẻ
Mỗi bạn lần lượt chia sẻ một điều mình biết về Nhật Bản
b. Trả lời các câu hỏi sau:
Đọc tư liệu và trả lời câu hỏi

5


- Em hãy cho biết về vị trí địa lí của Nhật Bản? Với vị trí đó Nhật Bản có
những thuận lợi và khó khăn gì?
- Từ vị trí địa lí đó của Nhật Bản, theo em Việt Nam chúng ta có những nét
tương đồng nào, và Việt Nam đã làm gì để phát huy thế mạnh đó?
Nhật Bản (thường gọi tắt là Nhật), là một quốc gia hải đảo hình vòng cung có
diện tích tổng cộng 379.954km², nằm xoải theo bên sườn lục địa châu Á, phía
đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc, và trải từ biển Okhotskở phía bắc
đến biển Hoa Đông ở phía nam.
Nhật Bản thuộc vùng khí hậu ôn đới, có 4 mùa trong năm và sự chuyển biến mùa

màng hết sức rõ rệt (với mùa xuân đại diện bởi sắc hoa anh đào, mùa hè là màu
xanh cây cối tốt tươi, mùa thu với lá phong đỏ và mùa đông mang sắc trắng
của tuyết). Quốc đảo này có 4 hòn đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam
là Hokkaido, Honshu, Shikoku vàKyushu, cùng hàng ngàn đảo nhỏ xung quanh.
Phần lớn đảo ở Nhật Bản có nhiều núi và núi lửa, tiêu biểu như ngọnnúi Phú
Sĩ 3.776m cao nhất ở Nhật Bản, hay ngọn Hotaka cao 3.190m. Nhật Bản có dân
số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128 triệu người. Vùng thủ đô
Tōkyō, bao gồm Tokyo và một vài tỉnh xung quanh là vùng đô thị lớn nhất thế
giới với khoảng 40 triệu người sinh sống.
Hoạt động 2: Tìm hiểu sự phát triển thần kì của nền kinh tế Nhật Bản và
nguyên nhân của nó.
a. Hình thức: Hoạt động nhóm
b. Tiến trình dạy học
* Đọc thông tin kết hợp quan sát các hình ảnh để thảo luận và trả lời các
câu hỏi:

6


Nhật Bản là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới về phát triển khoa
học và công nghệ. Được đánh giá là mộtcường quốc kinh tế, Nhật Bản có nền
kinh tế lớn thứ 3 toàn cầu tính theo tổng sản phẩm nội địa; thứ 3 theo sức mua
tương đương (chỉ sau Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa); là đất nước
đứng thứ 5 trên thế giới trong lĩnh vực đầu tư cho quốc phòng; xếp thứ 3 thế giới
về xuất khẩu và đứng thứ 6 thế giới về nhập khẩu. Năng động trong các quan hệ
7


quốc tế, quốc gia này hiện là thành viên của tổ chức Liên Hiệp
Quốc, G8, G4 và APEC.


- Nêu những thành tựu tiêu biểu của nền kinh tế Nhật Bản từ 1950 - 1973?
Vì sao nền kinh tế Nhật Bản phát triển được như vậy?
- Em có nhận xét gì về những thành tựu khoa học - kĩ thuật của Nhật Bản
trong giai đoạn này?
- Tại sao kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn này được thế giới đánh giá là
thần kì?
* Hoàn thành phiếu học tập sau:
PHIẾU HỌC TẬP
NỘI DUNG
- Sự phát triển “thần kì”
của nền kinh tế Nhật Bản
- Những nguyên nhân của

8


* Học sinh trao đổi và thống nhất kết quả thảo luận và báo cáo với giáo
viên.
* Giáo viên nhận xét và chốt ý
Hoạt động 3: Chính sách đối ngoại của Nhật Bản
Giáo viên cung cấp thông tin bằng hình ảnh sau đó yêu cầu học sinh thảo
luận để trả lời câu hỏi

chính sách đối ngoại của Nhật

9


Quan hệ Việt - Nhật

- Nét nổi bật trong chính sách đối ngoại của Nhật từ sau chiến tranh thế giới
thứ hai đến nay?
- Trình bày những hiểu biết của em về mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật
Bản từ cuối thập niên 70 của thế kỉ XX đến nay?
* Học sinh thảo luận theo nhóm sau đó cử đại diện trình bày ngăn gọn
phần thảo luận.
* Giáo viên nhận xét phần trình bày rồi chốt ý.
THÔNG TIN HỖ TRỢ.
1. Vị trí địa lí.
a. Thông tin 1
Nhật Bản là quốc gia thuộc khu vực Đông Bắc Á; là một quốc gia hải
đảo hình vòng cung có diện tích tổng cộng 379.954km², nằm xoải theo bên sườn
lục địa châu Á, phía đông của Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc, và trải từ biển
Okhotskở phía bắc đến biển Hoa Đông ở phía nam.
Vì là một đảo quốc, nên xung quanh Nhật Bản toàn là biển. Nhật Bản không
tiếp giáp quốc gia hay lãnh thổ nào trên đất liền. Tuy nhiên, bán đảo Triều Tiên
và bán đảo Sakhalin (Nhật Bản gọi là Karafuto) chỉ cách các đảo chính của Nhật
Bản vài chục km.
Xét theo kinh độ và vĩ độ, các điểm cực của Nhật Bản như sau:


Điểm cực Đông:

24°16′59″B 153°59′11″Đ.



Điểm cực Tây:

24°26′58″B 122°56′1″Đ.




Điểm cực Bắc:

45°33′21″B 148°45′14″Đ.



Điểm cực Nam:

20°25′31″B 136°04′11″Đ.
10


Trên biển, Nhật Bản có vùng đặc quyền kinh tế với đường viền danh nghĩa
cách bờ biển 200 hải lý, song trên thực tế ở các vùng biển Nhật Bản và biển Đông
Hải thì phạm vi hẹp hơn nhiều do đây là các biển chung. Tương tự, vùng lãnh hải
của Nhật Bản không phải hoàn toàn có đường viền cách bờ biển 12 hải lý. Đường
bờ biển của Nhật Bản có tổng chiều dài là 33.889 km.
Nhật Bản thuộc vùng khí hậu ôn đới, có 4 mùa trong năm và sự chuyển biến
mùa màng hết sức rõ rệt. Quốc đảo này có 4 hòn đảo lớn theo thứ tự từ Bắc
xuống Nam là Hokkaido, Honshu,Shikoku và Kyushu, cùng hàng ngàn đảo nhỏ
xung quanh. Phần lớn đảo ở Nhật Bản có nhiều núi và núi lửa, tiêu biểu như
ngọn núi Phú Sĩ 3.776m cao nhất ở Nhật Bản, hay ngọn Hotaka cao 3.190m.
Nhật Bản có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128 triệu người.
2. Sự phát triển “thần kì” của nền kinh tế Nhật Bản và những nguyên nhân
của nó.
a. Thông tin 1.
Từ cuối năm 1951 trở đi, cùng với hoàn thành khôi phục kinh tế và ký với

các nước phương Tây hiệp ước hoà bình ở San Fran-Sisco vào tháng 9/1951, có
hiệu lực từ tháng 4/1952, đã chấm dứt chiếm đóng của Mỹ ở Nhật Bản, tiếp sau
đó giữa Nhật và Mỹ ký với nhau hiệp ước "an ninh Nhật Mỹ" vào tháng 5/1952,
hiệp ước về thương mại và đầu tư vào 1953. Tuy giữa Mỹ và Nhật đều có sự
tính toán nhất định, nhưng với sự bảo trợ của Mỹ, nhờ đó nền kinh tế Nhật đã có
sự phát triển nhanh chóng, được ca ngợi "thần kỳ về kinh tế" giai đoạn (1952 1973). Trong giai đoạn này nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả thế giới tư bản
chủ nghĩa tăng hơn 5%, của Nhật Bản trung bình gần 10%.Tốc độ tăng trưởng
được thể hiện trong bảng sau:
Tốc độ tăng sản phẩm quốc dân của Nhật Bản
Đơn vị: %
1953 - 1955 1956- 1960 1961 - 1965
1966- 1970 1971 1973
7.7
9.75
9.65
12.5
4.5
9.3
Nguồn: táiCùng với sự tăng trưởng nhanh về kinh tế, người Nhật được đánh giá
thành công trên nhiều lĩnh v sản xuất xã hội ở Nhật Bản - PAVZNERJa. A Chủ
biên trích theo: KT Nhật Bản giai đoạn "thần kỳ" - Lê Văn Sang - Viện KTTG.
Vào đầu những năm 50 tổng sản phẩm quốc dân GNP của Nhật chỉ bằng
hơn 1/3 của Pháp hay Anh nhưng đến cuối những năm 70 đã bằng nửa của Anh,
Pháp cộng lại và hơn một nửa so với Mỹ. Vào năm 1978 ở Nhật chiếm 14 lò so
với 22 lò cao luyện thép hiện đại, lớn nhất thế giới.Với kỹ thuật hiện đại, phương
pháp tổ chức có hiệu quả, sản phẩm thép của Nhật đã cạnh tranh được với thép
của Mỹ ở thị trường Mỹ và nước ngoài.
Các sản phẩm Radio, máy ghi âm, máy ảnh, dụng cụ quang học... nếu vào
đầu những năm 50 không cạnh tranh được với Mỹ và Châu Âu thì vào giữa
những năm 70, người Nhật đã giữ được vị trí thống trị trên thị trường, ngành chế

tạo ô tô, xe máy người Nhật cũng trở thành đối thủ cạnh tranh của Mỹ, Anh,
Đức trên thị trường thế giới.
Vào những năm 70 ngành đóng tầu của Nhật cũng được đánh giá thành
11


công, nước Nhật chiếm 6 trong số 10 nhà máy đóng tầu lớn nhất, Nhật sản xuất
50% trọng tải tàu biển quốc tế, giá tàu biển đóng mới của Nhật rẻ hơn Châu Âu
từ 20 - 30%, nhờ đó mà Nhật có điều kiện cạnh tranh trên thị trường thế giới,
thậm chí một số nước Châu Âu phải dùng đến biện pháp hành chính, để hạn chế
mua tàu Nhật. Một số ngành công nghiệp mới xuất hiện vào những năm 50 như
công nghiệp hoá dầu, đồ điện gia đình, tạo thị trường cho nhiều ngành công
nghiệp phát triển và góp phần vào tăng trưởng kinh tế nhanh.
Cùng với sự phát triển của công nghiệp, hệ thống giao thông vận tải và
dịch vụ thông tin liên lạc của Nhật, đã nhanh chóng vượt lên trước các nước
phương Tây. Vì điều kiện tự nhiên ở nước Nhật với khoảng cách hẹp nên người
Nhật chú trọng đến đường sắt và đường thuỷ, hệ thống đường cao tốc được xây
dựng, dịch vụ đường sắt, điện thoại của Nhật với giá rẻ và ưu việt hơn so với
Châu Âu và Mỹ.
Đánh giá khả năng cạnh tranh của Nhật so với Mỹ và Tây Âu không chỉ ở
tốc độ tăng trưởng ở kim ngạch buôn bán mà là cán cân thương mại. Thâm hụt
mậu dịch của Mỹ vào cuối những năm 70 gần 10 tỷ USD, xu hướng tiếp tục tăng
trong những năm 80. Sự mất cân đối trong mậu dịch của Mỹ với Nhật một mặt
do chính sách bảo hộ mậu dịch của Nhật Bản, mặt khác do hàng hoá của Mỹ
kém sức cạnh tranh so với hàng hoá của Nhật và Chính phủ của Mỹ thiếu sự
khuyến khích đối với giới kinh doanh trong khi đó Chính phủ Nhật rất quan tâm
đến hỗ trợ cho giới kinh doanh cạnh tranh.
Trong nhiều lĩnh vực cạnh tranh của Nhật tới mức đe doạ nhiều ngành
công nghiệp lớn của Hoa Kỳ mà Chính phủ đã phải áp đặt cơ chế phi thị trường
để hạn chế sự đe doạ của Nhật như sản phẩm của ngành dệt, thép, ô tô và linh

kiện ô tô...
Cùng với những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, vào năm
1968, Nhật Bản được đánh giá là cường quốc kinh tế, đứng hàng thứ hai trong
hệ thống tư bản chủ nghĩa sau Mỹ và trở thành một trong ba trung tâm kinh tế
đó là Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, vị trí Nhật Bản trên trường quốc tế được nâng
cao dần.
b.Thông tin 2
*Thành tựu khoa học kỹ thuật.
Cầu Seto Ohashi dài 7016 mét nối liền đảo Hôn-xiu và Xi-cô-cư.
Seto Ohashi là cây cầu cực lớn được khai thông từ ngày 10/4/1988, chạy từ
khu trung tâm Bisan Seto – được công nhận là công viên quốc gia đầu tiên của
Nhật Bản, đâm thẳng ra vùng biển Seto Naikai, nơi có các hòn đảo tuyệt đẹp.
Seto Ohashi là tên gọi chung của 6 cây cầu nối Honshu với Shikoku, thành
phố Sakaide tỉnh Kagawa với thành phố Kurashiki tỉnh Okayama và 4 cây cầu
cạn. Đây là cây cầu có qui mô lớn nhất thế giới với nhiều dạng cầu như cầu treo,
cầu dây văng, cầu trụ… Dáng vẻ hiên ngang đâm thẳng ra biển như xé toạc
không gian giữa trời và biển trong thật ngoạn mục và kỳ vĩ. Vào thứ bảy và các
ngày nghỉ lễ, sau khi mặt trời khuất bóng, toàn bộ cây cầu sẽ được thắp sáng bởi
ánh đèn lightup, tạo nê n bầu không khí vô cùng nên thơ và lãng mạn.
Cầu Seto Ohashi có cấu trúc 2 tầng. Tầng trên là đường cao tốc Seto Chuo
Expressway với 4 làn đường; tầng bên dưới là tuyến đường sắt JR Shikoku
12


Honshi Bisan Line (Seto Ohashi Line). Với chiều dài 9368m, đảm nhiệm đồng
thời 2 chức năng đường bộ và đường sắt, cầu Seto Ohashi tự hào là cây cầu dài
nhất thế giới và có thể nhìn thấy từ vệ tinh nhân tạo.
Ở phía thành phố Sakaide có công viên kỷ niệm cầu Seto Ohashi; nơi đây có
tháp Seto Ohashi với đài quan sát xoay được rất nhiều người yêu thích.
Ngoài ra còn có chương trình tham quan cầu Seto Ohashi dành cho khách

tham quan thông thường và tour tham quan học tập dành cho học sinh cấp 1, 2, 3.
Đặc biệt có khóa tham quan bên trong gầm cầu, tại đây du khách sẽ được nhân
viên của công ty Honshu-Shikoku Bridge Expressway Company Limited – công
ty đang vận hành và quản lý đường cao tốc Seto Chuo Expressway, giải thích
khái quát về cây cầu Seto Ohashi này. Tuy nhiên, để tham gia chương trình tham
quan đặc biệt này, cần phải đăng ký trước.
Phương tiện di chuyển
Nếu đi bằng ô tô từ hướng Okayama thì Sakaide-kita IC là interchange gần
nhất; nếu đi từ hướng Shikoku thì Sakaide IC là interchange gần nhất. Nếu đi
bằng tàu điện, sử dụng tuyến Seto Ohashi Line nối ga JR Okayama và JR
Takamatsu. Nếu đi tuyến này, du khách có thể vượt qua cầu bằng tàu điện.
Đường hầm Seikan của Nhật Bản
Đây là hầm đường sắt dài nhất thế giới với tổng chiều dài 53,85 km, trong
đó phần chìm dưới biển có chiều dài 23,3 km. Nó nằm bên dưới eo biển Tsugaru
nối liền hai đảo Honshu và Hokkaido - một phần của tuyến Kaikyo thuộc công ty
đường sắt Hokkaido.
Hầm được xây dựng năm 1971 và hoàn thành năm 1988, thuộc sở hữu của
Cục Công nghệ, Vận tải và Kỹ thuật đường sắt Nhật Bản và chịu sự điều hành
của công ty đường sắt Hokkaido. Ban đầu, hầm chỉ có các rãnh đường ray hẹp.
Nhưng sau khi dự án Hokkaido Shinkansen được khởi công vào năm 2005, nó đã
được trang bị các rãnh kép và nối với hệ thống Shinkansen. Hầm có 52 km đường
ray liên tục với hai nhà ga đầu tiên trên thế giới được xây dựng dưới biển.
Hiện nay, mặc dù đây là tuyến đường hầm giao thông dài nhất thế giới,
nhưng sự phát triển của các phương tiện hàng không tốc độ cao và giá rẻ đã khiến
hoạt động của hầm chỉ ở mức tương đối. Đến năm 2018, khi tuyến đường hầm
Gotthard ở Thụy Sĩ hoàn thành, Seikan cũng sẽ không còn là hầm đường sắt dài
nhất thế giới nữa.
Tàu cao tốc Shinkansen là một hệ thống đường sắt cao tốc ở Nhật Bản do 4
tập đoàn đường sắt của Nhật Bản điều hành. Kể từ khi đoạn đường sắt cao tốc
đầu tiên mang tên Tōkaidō Shinkansen (Đông Hải đạo tân cán tuyến) khánh

thành năm 1964 có thể chạy với tốc độ 210 km/h (130 dặm/h), mạng lưới đường
sắt này (dài 2.459 km hay 1.528 dặm) được phát triển dần, nối liền cácthành
phố lớn của Nhật Bản trên các đảo Honshū và Kyūshū. Tốc độ tối đa sau này
tăng lên đến 300 km/h (186 dặm/h) mặc dù hoạt động trong một môi trường
thường hay bị động đất và bão lớn. Theo định nghĩa của Bộ luật xây dựng hệ
thống Shinkansen thì trên những tuyến đường sắt này, tàu có thể chạy với tốc độ
trên 200 km/h.
Hiện nay những chuyến tàu thương mại E5 có thể đạt tốc độ 320 km/h như
đoạn đường giữa thị trấn Utsunomiya và Morioka trên tuyến Tohoku Shinkansen.
13


Tốc độ thử nghiệm đạt 443 km/h (275 dặm/h) cho loại tàu thường vào năm 1996.
Còn đối với tàu maglev thì là 581 km/h (361 dặm/h), phá Kỷ lục thế giới vào
năm 2003. Hiện tại công ty JR Central đang chuẩn bị khởi công tuyến Chuo
Shinkansen nối thủ đôTokyo và thủ phủ Nagoya (286 km) với công nghệ đệm từ;
con đường này dự định hoàn thành vào năm 2027 nhằm rút ngắn thời gian đi lại
giữa hai thành phố xuống còn 40 phút.
3 Chính sách đối ngoại của Nhật Bản
a. Thông tin 1.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, chính sách đối ngoại của Nhật Bản được bắt
đầu với Học thuyết Yoshida theo đó Nhật Bản dựa hoàn toàn vào Hiệp ước an
ninh Nhật-Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung sức phát triển kinh tế.
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn thập kỷ 60 được đặc trưng bởi
chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu đuổi kịp và vượt các
nước phát triển khác. Mục tiêu này đã đạt được vào cuối những năm 60 khi Nhật
Bản trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Đầu thập kỷ 70, tình hình quốc tế có những thay đổi nhanh chóng và mạnh
mẽ vừa tạo điều kiện vừa thúc đẩy Nhật bản đóng một vai trò quốc tế quan trọng
hơn. Trong bối cảnh đó, học thuyết Fukuda ra đời năm 1977 đã đánh dấu một

bước chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật, trước hết là đối với
khu vực Đông Nam Á.
Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 80 tiếp tục mang tính chủ động
hơn, nhất là dưới thời kỳ Thủ tướng Nakasone nắm quyền. Từ năm 1985, với
việc nâng giá đồng yên, Nhật bản tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu vực
châu A’ với mô hình đàn sếu bay với ý đồ trở thành đầu tầu cho sự phát triển
kinh tế ở đây.
Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 90 được đặc trưng bởi việc
củng cố quan hệ với Mỹ qua việc ký Tuyên bố chung về “An ninh Nhật-Mỹ trong
thế kỷ 21” năm 1996 và đưa ra Phương châm phòng thủ mới Nhật-Mỹ vào năm
1997.
Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh
chống khủng bố và tình hình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Nhật Bản tiếp
tục chính sách ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình.
b. Thông tin 2.
QUAN HỆ NHẬT-MỸ
Sau khi bị Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki
vào tháng 8-1945, nước Nhật đã phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện và bị đặt
dưới sự chiếm đóng của quân đội Liên hiệp quốc mà thực chất là của quân đội
Mỹ. Ban đầu Mỹ bắt chính phủ Nhật Bản thực hiện các chính sách như giải tán
chế độ quân phiệt, phủ nhận việc thần thành hoá vai trò của Thiên Hoàng, ân xá
cho các tội phạm chính trị, tịch thu ruộng đất của địa chủ v.v… nhằm không để
Nhật Bản quay trở lại chủ nghĩa quân phiệt. Tuy nhiên, do phát sinh cuộc chiến
tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô(cũ), nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời
tuyên bố đi theo Chủ nghĩa Xã hội và đặc biệt do bùng nổ cuộc chiến tranh Triều
Tiên nên Mỹ đã thay đổi chính sách đối với Nhật Bản như chấp nhận cho Nhật
Bản có lực lượng phòng vệ và hỗ trợ về mặt kinh tế.
14



Năm 1951, việc Nhật Bản và Mỹ kí kết bản “Hiệp ước Sanfransisco” và tiếp
đó kí “Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ” đã đánh dấu sự quay trở lại xã hội quốc tế của
Nhật Bản đồng thời cũng biến Nhật Bản thành căn cứ “chống cộng” ở Châu Á, kể
từ đó trở đi Mỹ luôn là đồng minh số một của Nhật Bản và chính sách đối ngoại
của Nhật Bản luôn phù hợp với chiến lược toàn cầu của Mỹ. Điều này luôn được
thể hiện rõ trong sách xanh ngoại giao của Nhật Bản xuất bản hàng năm “ Mối
quan hệ hợp tác hữu nghị với Mỹ dựa trên Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ là trục
chính của ngoại giao Nhật Bản, sự hợp tác này được thực hiện trong các lĩnh vực
mà trước hết là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự. Mỹ là đối tác quan trọng
của Nhật Bản”.
Không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà quan hệ kinh tế Nhật-Mỹ cũng rất
lớn. Kể từ những năm 60 trở đi Mỹ luôn là bạn hàng số một của Nhật Bản với
lượng kim ngạch buôn bán tăng hết sức nhanh. Ví dụ, kim ngạch buôn bán hai
chiều giữa hai nước đã đạt 184,29 tỉ USD vào năm 2001, trong đó Nhật Bản xuất
siêu 58,11 tỉ USD.
Tuy nhiên quan hệ Nhật-Mỹ không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió,
chẳng hạn khi Mỹ bí mật đàm phán với Trung Quốc về bình thường hoá ngoại
giao đã làm cho giới lãnh đạo Nhật Bản cảm thấy bị đồng minh phản bội, hoặc
những va chạm về mậu dịch cũng không ít lần gây ảnh hưởng cho quan hệ giữa
hai nước. Mặc dù vậy có thể nói rằng hai nước vẫn sẽ duy trì là những đồng minh
bền vững của nhau vì lợi ích an ninh và kinh tế của hai nước trong thế kỉ 21.
QUAN HỆ NHẬT-TRUNG
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, quan hệ Nhật-Trung rơi vào tình trạng
đối đầu do chịu ảnh hưởng của cuộc chiến tranh lạnh, mặc dù không ít lần giới
lãnh đạo hai nước tìm cách bình thường hoá quan hệ ngoại giao song đều vấp
phải sự cản trở của Mỹ. Vì vậy cho đến khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao
vào năm 1972, quan hệ giữa hai nước chỉ được duy trì qua kênh mậu dịch. Song,
việc Mỹ bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc đã tạo điều kiện để hai nước
bình thường hoá quan hệ, tháng 9-1972, thủ tướng Nhật Bản Tanaka và Thủ
tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã kí vào bản tuyên bố chung đánh dấu sự chấm

dứt đối đầu giữa hai nước.
Sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, quan hệ giữa hai nước phát
triển nhanh chóng nhất là trên lĩnh vực kinh tế nhưng do vào thời điểm này Mỹ
vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc nên quan hệ Nhật-Trung
vẫn còn nhiều hạn chế và chỉ từ những năm cuối của thập kỉ 70 khi Mĩ và Trung
Quốc chính thức kí hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao thì quan hệ Nhật-Trung
mới phát triển một cách toàn diện hơn. Với quan điểm “ sự ổn định và phát triển
của Trung Quốc có ý nghĩa rất lớn đối với sự ổn định và phát triển của khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương”và “thị trường khổng lồ của Trung Quốc là rất cần
cho nền kinh tế dựa vào ngoại thương” của Nhật Bản và quan điểm “vốn và kĩ
thuật của Nhật Bản rất cần đối với phát triển kinh tế” của Trung Quốc chính là
nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển mạnh mẽ như vậy.
Trong lĩnh vực kinh tế hai nước nhanh chóng trở thành những đối tác quan
trọng của nhau, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc và
Trung Quốc cũng đã vươn lên thành bạn hàng lớn thứ hai của Nhật Bản sau Mỹ.
15


Chẳng hạn năm 2001 kim ngạch ngoại thương hai chiều giữa Nhật Bản và Trung
Quốc đạt 88,89 tỉ USD chiếm xấp xỉ khoảng 20% tổng kim ngạch ngoại thương
của Trung Quốc. Ngoài ra còn một điểm nổi bật trong quan hệ kinh tế giữa hai
nước là việc Nhật Bản tiến hành viện trợ ODA rất lớn cho Trung Quốc. Mặc dù
là nước nhận được viện trợ ODA tương đối muộn so với các nước, nhưng cho
đến nay Trung Quốc là nước nhận được nhiều viện trợ lớn thứ hai của Nhật Bản
sau Indonesia với điều kiện ưu đãi hơn các nước khác là được viện trợ theo từng
kế hoạch 5 năm của Trung Quốc, điều này đã góp phần rất lớn vào việc phát triển
kinh tế của Trung Quốc.
Mặc dù vậy quan hệ Nhật-Trung cũng còn tồn tại nhiều vấn đề đã và sẽ còn
tác động vào quan hệ giữa hai nước như vấn đề sách giáo khoa lịch sử, vấn đề
lãnh thổ, vấn đề Đài Loan và gần đây là va chạm kinh tế. Cho dù hiện nay chính

phủ hai nước cố gẵng làm dịu những vấn đề này bằng những nhượng bộ lẫn nhau,
nhưng trong thời gian tới khi Trung Quốc đã thực sự trở thành một cường quốc
kinh tế và quân sự thì liệu Trung Quốc còn nhượng bộ nữa hay không? cho nên
không phải ngẫu nhiên mà ở Nhật Bản đã xuất hiện thuyết “ sự đe doạ của Trung
Quốc”. Do đó, quan hệ giữa hai nước trong tương lai sẽ như thế nào phụ thuộc rất
lớn vào nhân tố Trung Quốc nhưng cũng có thể khẳng định rằng nước Mỹ vẫn sẽ
còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì quan hệ giữa hai nước
QUAN HỆ NHẬT BẢN-NGA
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã cố gắng bình thường hoá
quan hệ với các nước đặc biệt là các nước lớn nhằm quay trở lại xã hội quốc tế
cũng như xúc tiến buôn bán để khôi phục kinh tế. Song, khi xem xét quan hệ của
Nhật Bản với các nước lớn, ta dễ dàng nhận thấy quan hệ Nhật-Nga là một
trường hợp “ngoại lệ” mà phía Nhật Bản tỏ ra khá thờ ơ cho đến cả hiện nay cho
dù xét về phương diện chính trị hay kinh tế thì Liên Xô trước đây hoặc nước Nga
hiện nay đều có lợi đối với Nhật Bản.
Nếu nói đến nguyên nhân của nó, có lẽ không thể chỉ đơn thuần nêu ra ảnh
hưởng của cuộc chiến tranh lạnh mà còn phải chỉ ra những nguyên nhân sâu xa
hơn như: Thứ nhất, là vấn đề tranh chấp lãnh thổ tại 4 hòn đảo trên quần đảo
kuril mà cho đến nay hai bên cũng chưa giải quyết được và thứ hai là, có lẽ giới
lãnh đạo Nhật Bản nói riêng cũng như người dân Nhật Bản vẫn chưa tin tưởng
vào người Nga qua việc Nga đơn phương huỷ bỏ Hiệp ước không xâm phạm lẫn
nhau được kí trong chiến tranh thế giới lần thứ hai để mở cuộc tấn công quân đội
Nhật Bản ở vùng Đông bắc Trung Quốc. Trong đó vấn đề lãnh thổ mới là nguyên
nhân chính khiến cho quan hệ giữa hai nước không tiến triển mấy.
Về quan hệ chính trị, từ đầu thập kỉ 50 để giảm áp lực của Mỹ đối với Liên
Xô thông qua Nhật Bản, phía Liên Xô đã muốn kí Hiệp ước hoà bình, hữu nghị
với Nhật Bản trước khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, nhưng do Nhật Bản
chỉ đồng ý bình thường hoá quan hệ trước nên tháng 5-1956 hai bên đã kí hiệp
định tuyên bố bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Sau đó, đã nhiều lần Liên
Xô trước đây và nước Nga hiện nay yêu cầu Nhật Bản kí Hiệp ước hoà bình, hữu

nghị và thường đưa ra điều kiện là trả cho Nhật 2 trong số 4 hòn đảo nhưng Nhật
Bản lại yêu cầu phải trả lại cho Nhật Bản cả 4 hòn đảo thì mới kí Hiệp ước. Vì
vậy, cho đến nay dù đã có nhiều chuyến thăm nhau của lãnh đạo hai nước để bàn
16


về vấn đề này nhưng chưa có kết quả. Cũng giống như quan hệ chính trị, quan hệ
kinh tế giữa hai nước cũng không mấy khả quan cho dù Nga là thị trường lớn,
chẳng hạn năm 2002 kim ngạch ngoại thương hai chiều chỉ đạt 530 tỉ Yên, còn
đầu tư của Nhật Bản mới chỉ vẻn vẹn có 400 triệu Yên. Con số này cho thấy tốc
độ phát triển kinh tế giữa hai nước kém xa với các nước khác.
Trong thời gian tới, quan hệ hai nước sẽ vẫn tiến triển hơn song, tiến triển
đến mức độ nào còn phụ thuộc vào nỗ lực của hai bên, đặc biệt là Nga có trao trả
các hòn đảo cho Nhật Bản hay không.
QUAN HỆ NHẬT BẢN-ASEAN
Để xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh thế giới
lần thứ hai, từ những năm 50 Nhật Bản đã hầu như không tham dự vào vũ đài
chính trị quốc tế mà chỉ chú trọng vào phát triển kinh tế. Vào thời điểm đó, ngoài
Mĩ vừa là đồng minh quân sự vừa là bạn hàng chủ yếu ra, Nhật Bản đã xem các
nước Đông Nam Á là thị trường thay thế cho thị trường Trung Quốc bởi đây là
khu vực có dân số đông, tài nguyên thiên nhiên phong phú và nó án ngữ con
đường vận chuyển hàng hoá của Nhật Bản.
Để thâm nhập vào thị trường này Nhật Bản đã thi hành chính sách
“keiseibunri” tức là tách vấn đề chính trị khỏi vấn đề kinh tế do đó, Nhật Bản đã
lần lượt kí các hiệp định bồi thường chiến tranh cho các quốc gia này. Có thể nói,
cho đến khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nhật Bản hầu như chỉ chú trọng
đến chính sách dùng viện trợ kinh tế để duy trì sự ổn định tình hình chính trị của
các nước nhằm bảo vệ thị trường của mình mà không để ý đến việc nâng cao vai
trò chính trị tại khu vực. Tuy nhiên việc Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh Việt
Nam và buộc phải rút quân khỏi khu vực Đông Nam Á và sự phản ứng của nhân

dân các nước này trước chính sách kinh tế của Nhật Bản đã buộc Nhật Bản phải
thay đổi chính sách đối với khu vực. Cùng với việc tăng cường hỗ trợ về kinh tế,
Nhật Bản đã bắt đầu tìm kiếm vai trò chính trị trong việc làm chiếc cầu nối giữa
các nước ASEAN với các nước Đông Dương qua việc công bố học thuyết
Fukuda.
Sau chiến tranh lạnh tình hình trong khu vực có những thay đổi sâu sắc,
ASEAN đã trở thành tổ chức với đầy đủ các thành viên quốc gia trong khu vực
và ngày càng có uy tín trên thế giới nên quan hệ giữa Nhật Bản và các nước
ASEAN càng thắt chặt hơn. Trong các chuyến thăm các nước ASEAN, các vị
Thủ tướng Nhật Bản đều cam kết tăng cường quan hệ với tổ chức này trên mọi
lĩnh vực, điều này được thể hiện rõ nét trong các học thuyết do Nhật Bản đưa ra
và hiện nay Nhật Bản là một bên đối thoại quan trọng của Hội nghị cấp cao các
nước ASEAN.
Quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với các nước ASEAN cũng không ngừng
phát triển trên 3 lĩnh vực là viện trợ, buôn bán và đầu tư. Tính đến nay các nước
ASEAN nhận được nhiều viện trợ kinh tế nhất của Nhật Bản, chiếm khoảng trên
30% tổng kim ngạch viện trợ hàng năm của Nhật Bản cho các nước trên thế giới.
Điều này đã đóng góp không nhỏ trong việc phát triển kinh tế của các nước này
nhất là trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á ở cuối
thập kỉ 90. Ngoài ra, các nước ASEAN cũng là một trong những trọng điểm đầu
tư của Nhật Bản ở Châu Á song trong mấy năm gần đây do các xí nghiệp Nhật
17


Bản chuyển trọng điểm đầu tư vào Trung Quốc nên đầu tư của Nhật Bản vào khu
vực này có khuynh hướng giảm xuống.
Như vậy, có thể khẳng định rằng quan hệ Nhật Bản-ASEAN sẽ còn tiếp tục
phát triển mạnh mẽ hơn trong thời gian tới nhưng dù vậy, mối quan hệ này vẫn
còn những điểm đáng lưu tâm như: sự lo ngại về chính sách quốc phòng của Nhật
Bản hoặc Nhật Bản sẽ xử lí như thế nào trước tình hình Trung Quốc đang cố

gắng mở rộng ảnh hưởng xuống khu vực này thông qua kế hoạch thành lập khu
vực buôn bán chung ASEAN-Trung Quốc.
QUAN HỆ NHẬT BẢN-EU
Mặc dù Nhật Bản từng coi mình là một thành viên của Phương Tây nhưng
mối quan hệ giữa Nhật Bản với EU lại khác hẳn mối quan hệ giữa Nhật Bản-Mĩ
hoặc Nhật Bản-Trung Quốc, Nhật Bản-ASEAN v.v… Khi xem xét mối quan hệ
này người ta dễ dàng nhận ra nó có vẻ chỉ chú trọng về quan hệ kinh tế. Như mọi
người đều biết, sau chiến tranh thế giới lần thứ II, Nhật Bản và các nước EU đều
là đồng minh của Mĩ với vai trò ngăn cản sự bành trướng ảnh hưởng của Liên
Xô( cũ) ở Châu Âu và của Trung Quốc ở Châu Á, nhưng dường như do cả hai
bên đều được đặt dưới sự bảo vệ của Mĩ nên nhu cầu tăng cường quan hệ nhằm
bảo đảm an ninh cho nhau không chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối
ngoại của hai bên mà họ chỉ ủng hộ nhau trong những chính sách để chống lại các
nước xã hội chủ nghĩa khi đó. Trái lại, quan hệ kinh tế lại được cả hai bên chú
trọng nhiều hơn đặc biệt là phía Nhật Bản, Nhật Bản đã xác định EU là thị trường
quan trọng thứ 3 sau thị trường Mĩ và Đông Á để phục vụ cho chính sách phát
triển kinh tế dựa vào ngoại thương, cho nên đến những năm 1970 trong khi các
nước EU còn đang lúng túng tìm cách giải quyết vấn đề kinh tế trì trệ thì Nhật
Bản đã thành công trong việc thâm nhập vào thị trường này qua buôn bán và đầu
tư. Sự lấn át của hàng hoá của Nhật Bản lớn đến mức khiến cho Uỷ ban của EU
phải ép buộc Nhật Bản tiến hành đàm phán thương mại để mở của thị trường
Nhật Bản cho hàng hoá của EU nhằm cải thiện tình trạng mất cân đối mậu dịch.
Khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc quan hệ Nhật Bản-EU nói chung vẫn
được duy trì theo hướng trong thời kì chiến tranh lạnh song người ta thấy đã có
sự hợp tác chặt chẽ hơn bao gồm cả ở trong lĩnh vực bảo đảm an ninh. Nhật Bản
và EU đã có những cuộc gặp để bàn về vấn đề bảo đảm an ninh của mình sau
chiến tranh lạnh hoặc vấn đề chống khủng bố sau sự kiện 11-9 xảy ra ở nước Mĩ,
nhưng điểm nổi bật vẫn là quan hệ kinh tế. Tất nhiên hiện nay hàng hoá của Nhật
Bản không còn xâm nhập ồ ạt vào thị trường EU như trước nữa nhưng cán cân
thương mại vẫn luôn nghiêng về phía Nhật Bản bởi chiến lược khôn ngoan của

các công ty Nhật Bản dưới sự hỗ trợ của chính phủ hoặc qua việc đầu tư xây
dựng các xí nghiệp tại các nước EU để xuất khẩu tại chỗ.
Hiện tại, để nâng cao vai trò chính trị và sức mạnh kinh tế, EU đã liên minh
thành một khối thống nhất về cả chính trị, kinh tế nhằm trở thành một cực cân
bằng với Mĩ và Nhật Bản. Tuy nhiên, việc kết nạp ồ ạt các nước thành viên mới,
nhất là các nước Đông Âu cũ có lẽ sẽ gây ra không ít khó khăn để EU thực hiện
được mục đích của mình. Mặt khác phía Nhật Bản lại có vẻ như chỉ đang chú
trọng đến việc xây dựng khu vực kinh tế Đông Á nên trong tương lai gần quan hệ
Nhật Bản-EU sẽ không có những thay đổi hoặc xung đột kinh tế lớn.
18


Quan hệ Nhật Bản–Việt Nam hay Việt - Nhật quan hệ bắt đầu từ cuối thế
kỷ 16 khi các nhà buôn Nhật đến Việt Nam buôn bán. Việt Nam chính thức lập
quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào ngày 21 tháng 9 năm 1973. Năm1992, Nhật
Bản quyết định mở lại viện trợ cho Việt Nam. Quan hệ giữa Việt Nam-Nhật Bản
phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực và đã bước sang giai đoạn mới về chất
và đi vào chiều sâu. Các mối quan hệ kinh tế chính trị, giao lưu văn hóa không
ngừng được mở rộng; đã hình thành khuôn khổ quan hệ ở tầm vĩ mô; sự hiểu biết
giữa hai nước không ngừng được tăng lên.

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×